J.K. Rowling
Bản dịch: Lý Lan
Harry Potter và Hoàng tử lai
Chương 1
Ông Thủ Tướng kia
Đã gần nửa đêm và ông Thủ tướng đang ở một mình trong văn phòng, đọc một cái biên bản dài lòng thòng cứ trôi tuồn tuột khỏi đầu óc ông mà không để
lại đằng sau một tíxíu vết tích ý nghĩa. Ông đang đợi cú điện thoại của ông Tổng thống ở một nước rất xa, và vừa tự hỏi chừng nào thìcái ông chết tiệ ấy
sẽ gọi, vừa cố gắng đàn áp cái ký ức khó chịu về những chuyện đã xảy ra trong một tuần lễ khó khăn, mệt mỏi và dài lê thê vừa qua, nên chẳng còn chỗ
đâu trong đầu để chứa thêm cái gìkhác nữa. Ông Thủ tướng càng cố gắng tập trung vào cái điều in trên trang giấy trước mặt, thìông càng thấy rõ hơn
bộ mặt lãng đãng của một tay trong đám đối thủ chính trị của ông. Cái tay đối thủ cá biệt này đã xuất hiện trên báo chímỗi ngày, không những điểm qua
tất cả những chuyện khủng khiếp đã xảy ra trong tuần vừa qua (làm như thể người ta cần nhắc nhở vậy) mà hắn còn giải thích nguyên nhân của mỗi
chuyện và mọi chuyện hóa ra đều là sai lầm của chính quyền.
Cứ nghĩvề mấy vụ buộc tội này là nhịp tim của ông Thủ tướng lại tăng nhanh, bởi vìđó toàn là những cáo buộc tầm bậy và oan ức.Chứ làm cách nào mà
chính phủ có thể ngăn cây cầu sập xuống? Người nào cho rằng chính quyền đã không chi đủ tiền bảo quản cây cầu thìđúng là muốn sỉ nhục. Cây cầu ấy
chưa đầy mười tuổi, và những chuyên gia giỏi nhất cứ ú ớ khi phải giải thích tại sao mà nó lại đứt đôi gọn gàng, tống hàng tá xe hơi xuống đáy nước của
con sông chảy dưới gầm cầu. Và làm sao có kẻ lại dám cho rằng vìthiếu cảnh sát nên mới có cái hậu quả là có hai vụ sát nhân ghê tởm nổi đình nổi đám
ấy? Hoặc cho rằng chính quyền đáng lẽ ra phải làm cách nào đó nhìn thấy trước trận cuồng phong quái đản ở Miền Tây đã gây ra vô số thiệt hại cho
người lẫn của cải? Và chẳng lẽ đó cũng là lỗi của ông Thủ tướng nốt khi một trong mấy ông Phó Thủ tướng, ông Herbert Chorley, lại chọn đúng cái tuần
lễ này để có hành vi khác thường là bỏ ra khối thìgiờ ở nhà hủ hỉ với vợ con?
“Đất nước ta đang mắc kẹt trong một tình thế ngặt nghèo.” Gã đối thủ đã kết luận như vậy, chả cần giấu giếm nụ cười toe toét nham nhở của mình.
Mà rủi thay, điều nay lại hoàn toàn đúng. Chính ông Thủ tướng cũng cảm thấy như vậy; người ta quả thật có vẻ sầu thảm hơn mọi khi. Đến cả thời tiết
cũng trở nên ảm đạm; cả cái trận sương mù lạnh cóng giữa tròi tháng bảy này nữa… Thật chẳng đúng gìcả, thật chẳng bình thường…
Ông lật qua trang hai của biên bản, thấy nó còn tiếp tục lê thê hơn nữa, đành dẹp nó đi như một công việc nuốt không trôi. Vươn tay qua khỏi đầu để duỗi
thân, ông Thủ tướng rầu rĩnhìn quanh văn phòng của mình. Đó là một căn phòng đẹp, có một cái lò sưởi bằng đá hoa cương đối diện với những cửa sổ
dài có khung kính trượt đã được đóng kín gài kỹ để ngăn cơn sương giá trái mùa. Khẽ rùng mình, ông Thủ tướng đứng dậy đi tới bên cửa sổ, nhìn ra
ngoài màn sương mỏng đang cố ép vào lớp kính cửa sổ. Chính lúc đó, ông đang đứng quay lưng về phía căn phòng, ông nghe một tiếng ho nhẹ sau lưng
mình.
Ông đứng chết trân, giáp mặt với chính cái bóng khiếp sợ của gương mặt mình trong kính cửa sổ tối om. Ông đã biết rành tiếng ho đó. Ông đã từng nghe
nó trước đây. Ông từ từ xoay người lại đối diện với căn phòng vắng hoe.
“Chào?” Ông nói, với giọng cố gắng tỏ ra có can đảm.
Trong một thoáng ngắn ngủi, ông tự cho phép mình có một niềm hy vọng không thể xảy ra là sẽ chẳng có ai đáp lời cả. Thế nhưng ngay lập tức, một
giọng nói đáp lại liền, một giọng đanh thép cả quyết nghe như thể đang đọc một tuyên bố đã được soạn sẵn. Theo như ông Thủ tướng từng biết qua lần
ho đầu tiên, thìgiọng nói đó xuất phát từ một gã đàn ông nhỏ thó trông như con ếch đội một đầu tóc giả óng ánh bạc, được vẽ trong một bức tranh sơn
dầu nhỏ nhắn đặt ở mút trong góc phòng.
“Kính gửi ông Thủ tướng dân Muggle. Chúng ta cần gặp mặt khẩn cấp. Vui lòng hồi âm tức thì. Thành kính, Fudge.”
Gã đàn ông trong bức tranh nhìn ông Thủ tướng dò hỏi.
“Ờ,” ông Thủ tướng nói, “Thế này nhé… lúc này không thuận tiện cho tôi lắm… Anh biết đấy, tôi đang chờ một cú điện thoại… của ông Tổng Thống
nước…”
“Cái đó có thể dàn xếp lại.” Người trong tranh nói chặn ngay.
Trái tim ông Thủ tướng chùng xuống. Ông đã lo ngại chuyện đó.
“Nhưng thực tình tôi có phần mong muốn nói chuyện...”
“Chúng tôi có thể dàn xếp để cho ông Tổng Thống quên béng đi vụ gọi điện thoại. Bù lại ông sẽ gọi vào tối mai,” gã đàn ông nhỏ thó nói. “Hãy lịch sự hồi
âm ông Fudge ngay lập tức.”
“Tôi… ơ… thôi được.” Ông Thủ tướng yếu ớt đáp. “Vâng, tôi sẽ gặp ông Fudge vậy.”
Ông Thủ tướng vội vã trở lại bàn làm việc, vừa bước đi vừa chỉnh lại cái cà vạt. Ông chưa kịp ngồi xuống ghế và điều chỉnh gương mặt mình cho ra cái
vẻ mà ông hy vọng là đỉnh đạc thong dong, thìnhững ngọn lửa xanh biếc chợt bùng cháy lên bên dưới cái bệ lò sưởi bằng đá hoa cương. Ông Thủ
tướng nhìn, cố gắng không để lộ ra một títẹo ngạc nhiên hay sợ hãi nào, khi một người đàn ông bệ vệ xuất hiện từ trong ngọn lửa, xoay tít như con vụ.
Chỉ giây lát sau, ông ta trèo ra khỏi lò sưởi, bước lên tấm thảm thuộc loại đồ cổ xinh xắn, phủi bụi tro bám hai ống tay của chiếc áo khoác dài bằng vải
sọc nhuyễn, và cầm trong tay ông ta là một cái nón tròn như trái dưa màu xanh vỏ chanh.
“A… Chào ông Thủ tướng.” Ông Cornelius Fudge vừa sải dài bước chân tiến về phía trước vừa chìa bàn tay ra. “Hân hạnh gặp lại ông.”
Ông Thủ tướng không thể thành thật đáp lại lời chào mừng đó, nên chẳng nói năng gìcả. Ông ta chẳng có tíxíu hân hoan nào trong chuyện gặp gỡ ông
Fudge, người mà những lần xuất hiện đặc biệt thường có nghĩa là ông Thủ tướng sắp phải nghe toàn điều chẳng lành, không kể chính sự xuất hiện của
ông ta đã là sự rất chẳng lành rồi. Đã thế, ông Fudge lại tỏ ra lo lắng đến tiều tụy một cách rõ ràng. Trông ông ta gầy đi, đầu hói thêm, tóc bạc thêm, và bộ
mặt ông ta thìtrông thiệt là bèo nhèo thê thảm. Ông Thủ tướng đã từng nhìn thấy trước đây vẻ bèo nhèo tương tự nơi những chính khách, và vẻ mặt kiểu
đó chẳng khi nào báo trước điềm lành.
“Chẳng hay tôi có thể giúp gìđược cho ông?” Ông Thủ tướng nói, hờ hững bắt tay ông Fudge và ra dấu về phía cái ghế ít êm ái nhất trong đám ghế đặt
đằng trước bàn giấy của ông.
“Thật khó mà biết bắt đầu từ đâu.” Ông Fudge lẩm bẩm, vừa kéo cái ghế, ngồi xuống, và đặt cái nón hình trái dưa xanh lên đầu gối. “Cái tuần gìđâu, cái
tuần gìmà...”
“Ông cũng trải qua một tuần lễ nát bét sao?” Ông Thủ tướng hỏi giọng cứng cỏi, hy vọng thông qua đó truyền đạt cái ý là chưa có thêm ông Fudge thì
chính ông cũng đã có đủ chuyện để bù đầu rồi.
“Vâng, tất nhiên rồi.” Ông Fudge nói, mệt mỏi dụi hai con mắt của mình, rồi buồn bã ngó ông Thủ tướng. “Tôi cũng bị một tuần te tua như ông, ông Thủ
tướng à. Cây cầu Brockdale... rồi vụ ám sát Bones và Vance... ấy là chưa kể vụ um xùm ở Miền Tây...”
“Ông... Ơ... Dân ông... Ýtôi muốn nói là, một số thành viên trong giới của ông có... có dính líu tới mấy... mấy sự kiện đó, đúng không?”
Ông Fudge trân cho ông Thủ tướng một cái nhìn khá nghiêm khắc. Ông nói, “Dĩnhiên rồi. Chứ ông không nhận thấy chuyện gìđang diễm ra à?”
“Tôi...” Ông Thủ tướng ấp úng.
Đây đích thị là cái kiểu cư xử đã khiến cho ông Thủ tướng không mấy ưa những cuộc viếng thăm của ông Fudge cho lắm. Nói cho cũng, ông đường
đường là một vị Thủ tướng và chẳng thích thú gìkhi bị bẽ mặt như một đứa học trò dốt nát. Nhưng mà dĩnhiên, cái kiểu cư xử này vốn đã như vậy ngay
từ lần gặp đầu tiên giữa ông và ông Fudge, trong ngay cái đêm đầu tiên ông mới trở thành Thủ tướng. Ông nhớ vụ đó rõ như thể mới xảy ra ngày hôm
qua và biết rõ vụ đó sẽ ám ảnh ông mãi cho tới ngày chết mới thôi.
Lúc đó ông đang đứng một mình trong chính căn phòng này, thưởng thức hương vị chiến thắng mà ông đã tốn bao nhiêu năm mưu đồ, mơ ước mãi mới
đạt được, thìchợt nghe một tiếng ho đằng sau lưng, giống y như tối nsy, và khi quay lại thìông nhận ra bức chân dung xấu xíđang nói chuyện với ông,
thông báo là ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật sắp đến viếng thăm xã giao.
Đương nhiên lúc đó ông cứ tưởng là chiến dịch tranh cử căng thẳng và kéo dài đã khiến cho ông mụ mẫm. Ông đã cực kỳ kinh hoảng khi phát hiện ra
một bức chân dung đang nói chuyện với mình, mặc dù chuyện này chẳng thấm thía vào đâu so với cảm giác của ông sau đó, khi một kẻ tự xưng là pháp
sư vọt ra từ trong lò sưởi đến bắt tay ông. Ông đã cứ thế mà nín khe trong suốt buổi ông Fudge giải thích rằng hãy còn những phù thủy và pháp sư đang
sống bímật trên khắp thế giới, đồng thời cam đoan rằng ông Thủ tướng chẳng cần phải bận tâm rối trívề họ làm gìbởi vìđã có Bộ Pháp thuật chịu trách
nhiệm về toàn bộ cộng đồng Pháp thuật và ngăn cách không cho dân chúng phi-pháp-thuật dính dáng gìtới họ cả. Ông Fudge có nói đó là một công tác
khó khăn bao gồm mọi thứ, từ những qui định về việc sử dụng có trách nhiệm những cây chổi bay đến việc kiểm soát dân số rồng. (Ông Thủ tướng nhớ
là nghe tới điểm này ông đã bíu vô bàn mới ngồi vững được.) Ông Fudge lúc đó với cái giọng cha người ta đã vỗ vai ông Thủ tướng đang khiếp đảm
đến ngọng luôn.
“Đừng lo,” ông ta nói. “Rất có thể là ông sẽ chẳng bao giờ gặp lại tôi lần nào nữa. Tôi sẽ chỉ quấy rầy ông nếu bên phía chúng tôi xảy ra chuyện gìđó thực
sự nghiêm trọng, chuyện có thể ảnh hưởng dân Muggle- đúng ra tôi nên nói là dân chúng phi-pháp-thuật. Ngoài ra, mạnh ai nấy sống. Và tôi phải nói
thêm, ông đã tiếp thu khá hơn nhiều so với ông Thủ tướng trước. Cái ông đó đã tính quẳng tôi qua cửa sổ, tưởng tôi là đồ xỏ lá do phe đối lập dàn dựng
ra.”
Tới đây, ông Thủ tướng bỗng kiếm lại được cái lưỡi của mình, bèn hỏi:
“Vậy... ông... ông không phải là đồ xỏ lá hả?”
Thực tình đó là hy vọng tha thiết cuối cùng của ông Thủ tướng.
“Không.” Ông Fudge nhẹ nhàng đáp. “Không. Tôi e rằng không phải. Xem đây.”
Và ông đã biến xong cái tách trà của ông Thủ tướng thành ra một con chuột lóc chóc.
“Nhưng,” ông Thủ tướng thều thào nói, vừa ngó cái tách trà của ông gậm nhấm cái góc của bài diễn văn sắp tới của ông. “Nhưng tại sao... tại sao không
ai báo cho tôi biết...?”
“Bộ trưởng Pháp thuật chỉ tiết lộ bímật về mình cho đương kim Thủ tướng mà thôi.” Ông Fudge vừa nói vừa nhét cây đũa phép vô trong áo khoác.
“Chúng tôi nhận thấy đó là cách giữ bímật tốt nhất.”
“Nhưng vậy thì...” Ông Thủ tướng línhí, “Tại sao ông Thủ tướng tiền nhiệm không báo trước cho tôi...?”
Nghe câu này ông Fudge thực sự lăn ra cười.
“Thưa ông Thủ tướng yêu quícủa tôi, liệu chính ông có định nói cho bất cứ ai biết không?”
Vẫn còn cười khà khà, ông Fudge quăng một ít bột vô trong lò sưởi, bước vô ngọn lửa màu xanh biếc, và biến mất trong một tiếng vút. Ông Thủ tướng
vẫn đứng đó, hoàn toàn bất động, và hiểu rằng mình sẽ không đời nào, cho đến hết đời, dám kể với bất cứ sinh linh nào về cuộc gặp gỡ này, bởi vìai
trong cái thế gian rộng lớn này tin ông được chớ?
Mất một lúc lâu cơn sốc mới qua đi. Có lúc ông Thủ tướng đã cố tự thuyết phục mình rằng ông Fudge thực ra chỉ là một ảo giác, hậu quả của sự thiếu
ngủ trong suốt chiến dịch tranh cử khốc liệt. Trong một cố gắng vô ích nhằm gạt bỏ hết tất cả những gìgợi nhớ đến cuộc gặp mặt khó chịu này, ông đã
đem con chuột lóc chóc cho đứa cháu gái mừng húm và ra lệnh cho viên thư ký riêng gỡ xuống bức chân dung gã đàn ông nhỏ thó xấu xíđã thông báo về
cuộc viếng thăm của ông Fudge. Tuy nhiên, bức chân dung đã chứng tỏ là nó bất khả di dịch, khiến ông Thủ tướng sa sút tinh thần ghê gớm. Khi mấy
người thợ mộc, một hay hai thợ hồ, một sử gia nghệ thuật, và cả ngài Chưởng ấn kho tàng quốc gia đều đã không thành công trong cố gắng nạy bức
tranh ra khỏi bức tường, ông Thủ tướng đành phải bãi bỏ lệnh đó và giải quyết vấn đề một cách đơn giản là hy vọng cái đồ đó cứ ở yên một chỗ và lặng
thinh cho đến hết nhiệm kỳ của ông.
Ông Thủ tướng dám thề, rằng thỉnh thoảng, ông thoáng thấy bằng đuôi mắt, cái lão trong tranh có ngáp dài hoặc ngoáy mũi, thậm chímột hay hai lần lão
còn đi ra khỏi khung tranh, bỏ lại đằng sau vỏn vẹn tấm vải bố màu nâu bùn. Tuy nhiên, ông Thủ tướng đã tự rèn luyện mình không nhìn vô bức tranh
thường xuyên lắm, và nếu mà có lỡ nhìn thấy chuyện lạ diễn ra trong tranh thìông luôn luôn khẳng định với chình mình là chẳng qua con mắt mình đã đánh
lừa mình ấy thôi.
Thế rồi, cách đây ba năm, vào một đêm rất giống đêm nay, ông Thủ tướng đang ở trong văn phòng một mình thìcái chân dung lại một lần nữa thông báo
cuộc viếng thăm sắp sửa diễn ra của ông Fudge. Ông này lại vọt ra từ lò sưởi, ướt lem nhem và trong trạng thái hơi bị hoảng hốt. Trước khi ông Thủ
tướng kịp hỏi tại sao ông khách lại nhễu nước khắp Dinh Thủ tướng, thìông Fudge đã thao thao nói về một cái nhà tù mà ông Thủ tướng chẳng bao giờ
nghe nói tới, và một người đàn ông nào đó tên Black “Nghiêm trọng”, cùng một cái gìđó kêu là “Hogwarts”, với một thằng nhóc tên Harry Potter, mà
chẳng có cái nào gợi lên một títẹo ý nghĩa nào đối với ông Thủ tướng.
“...Tôi vừa từ Azkaban đến đây,” ông Fudgevừa thở hổn hển vừa giũ một đống nước trên vành cái nón hình trái dưa vô túi áo. “Ở giữa biển Bắc, ông biết
đấy, chuyến bay cực quá... Bọn giám ngục đang náo loạn,” – ông rùng mình - “trước đây chúng có bao giờ gặp cảnh tù vượt ngục đâu. Nhưng thôi, tôi
phải gặp ông, ông Thủ tướng à. Black là một tay giết dân Muggle nổi tiếng và có thể đang tái đầu quân cho Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy... Nhưng dĩ
nhiên, ông cũng đâu có biết Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy!”
Ông Fudge ngó chằm chằm ông Thủ tướng một cách tuyệt vọng một lúc, rồi nói:
“Thôi được, ngồi xuống, ngồi xuống, tôi nên giải thích cho ông thìtốt hơn... làm một ly rượu whisky nhé...”
Ông Thủ tướng bị biểu ngồi xuống trong chính văn phòng của ông đã đủ để nổi khùng rồi, huống chi còn bị mời bằng chính rượu whisky của mình nữa,
nhưng dù sao thìông cũng ngồi xuống. Ông Fudge rút ra cây đũa phép của ông, phù phép từ trong không khíra hai cái ly to đầy ắp một chất lỏng màu hổ
phách, ấn một ly vô tay ông Thủ tướng, rồi kéo một cái ghế lại gần để ngồi.
Ông Fudge nói một hơi hơn một tiếng đồng hồ. Có một chỗ ông không chịu nói to lên một cái tên mà chỉ viết nó ra một mảnh giấy da, rồi nhét nó vô bàn
tay không bị cầm ly rượu của ông Thủ tướng. Cuối cùng khi ông Fudge đứng dậy để ra đi, ông Thủ tướng cũng đứng dậy.
“Vậy là ông cho rằng...” Ông Thủ tướng liếc mắt xuống cái tên trong bàn tay trái của mình. ”Chúa tể Vol...”
“Kẻ-chớ-gọi-tên-ra!” Ông Fudge nạt ngay.
“Xin lỗi... Vậy là ông cho rằng, Kẻ-chớ-gọi-tên-ra vẫn còn sống?”
“Ừ, cụ Dumbledore nói kẻ ấy còn sống.” ÔNg Fudge vừa nói vừa gài chặt cái áo khoác bằng vải có sọc lên tới tận cằm. “Nhưng chúng tôi vẫn chưa tìm
ra kẻ ấy. Nếu ông muốn biết thìkẻ ấy hiện không nguy hiểm trừ khi có được sự hỗ trợ, cho nên chính gã Black mới là mối lo lắng cần quan tâm. Thế ông
sẽ cho phát ra thông báo cảnh giác chứ? Vậy tốt, tôi mong chúng ta sẽ không phải gặp nhau lần nữa, ông Thủ tướng à. Chúc ngủ ngon.”
Nhưng rồi hai ông lại phải gặp nhau nữa. Chưa đầy một năm sau, một ông Fudge trông thê thảm hết chỗ nói lại từ không khíhiện ra trong văn phòng Thủ
tướng để thông báo cho ông Thủ tướng biết là đã xảy ra một tình huống gây phiền phức trong giải Cúp thế giới Kwidditch (hay cái gìđó nghe na ná vậy)
và nhiều dân Muggle đã bị “dính líu” vô; nhưng chuyện đó ông Thủ tướng cũng khỏi cần lo , cái sự kiện mọi người nhìn thấy Dấu hiệu của Kẻ-mà-ai-cũng-
biết-là-ai-đấy thực ra không có nghĩa gìhết; ông Fudge tin chắc rằng đó chỉ là một sự cố riêng lẻ, và trong khi họ đang nói chuyện ở đây thìSở Bịp dân
Muggle đang thanh toán tất cả các vụ điều hòa trínhớ.
“À, suýt nữa tôi quên mất” Ông Fudge nói thêm. “Chúng tôi đang nhập khẩu ba con rồng ngoại quốc và một con Nhân sư cho kỳ thi đấu Tam Pháp thuật,
cũng thông thường thôi, nhưng Bộ Qui định và Kiểm soát Sinh vật huyền bíbáo cáo cho tôi biết là theo như sách hướng dẫn thìtôi cần lưu ý ông nếu
chúng tôi đem vào đất nước này những sinh vật cực kỳ nguy hiểm.”
“Tôi... cái gì... Rồng hả?” Ông Thủ tướng lắp ba lắp bắp.
“Ừ, ba con” Ông Fudge nói. “Và một con nhân sư. Thôi, chúc ông một ngày tốt lành.”
Ông Thủ tướng đã hy vọng hơn cả hy vọng rằng rồng và nhân sư là những thứ ghê gớm hết mức rồi, nhưng ai dè đâu. Chưa đầy hai năm sau, ông Fudge
lại vọt ra từ lửa một phen nữa, lần này với thông tin là đã xảy ra một cuộc vượt ngục tập thể ở nhà tùAzkaban.
“Một cuộc vượt ngục tập thể à?” Ông Thủ tướng lặp lại bằng giọng khàn khàn.
“Không phải lo! Không phải lo!” Ông Fudge quát, một chân đã thò vô ngọn lửa. “Chúng tôi sẽ gom chúng lại ngay thôi – chẳng qua tôi nghĩrằng ông cũng
nên biết!”
Và trước khi ông Thủ tướng kịp quát lại, “Khoan, chờ cho một phút!” Thìông Fudge đã biến mất trong một chùm tung tóe những tia sáng lóe xanh biếc.
Cho dù báo chíhay phe đối lập có nói gìđi nữa, thìông Thủ tướng vẫn không phải là một thằng ngu. Ông đâu có dễ bỏ qua mà không nhận thấy rằng, bất
chấp sự cam đoan của ông Fudge trong lầm gặp gỡ đầu tiên, giờ đây họ gặp gỡ hơi bị nhiều, và cứ mỗi lần gặp ông Fudge lại càng te tua rối rắm. Mặc
dù ông Thủ tướng không muốn suy nghĩnhiều về ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật (hay, theo như cách của ông luôn gọi ông Fudge trong trílà ông Thủ tướng
kia), ông Thủ tướng này không thể nào không lo sợ rằng lần sau ông Fudge mà tái xuất hiện thìlại sẽ có thêm tin xấu trầm trọng hơn nữa. Do vậy, cái
cảnh mà ông Fudge bước ra khỏi ngọn lửa một lần nữa, trông tả tơi, cáu gắt và ngạc nhiên một cách nghiêm khắc về cái sự ông Thủ tướng không biết
chính xác tại sao ông lại có mặt tại đây, báo hiệu điều này sẽ tồi tệ nhất trong những điều đã xảy ra trong diễn biến của tuần lễ cực kỳ tăm tối vừa qua.
“Làm sao tôi biết được chuyện gìđang xảy ra trong... ơ... cộng đồng phù thủy chứ?” Bây giờ thìông Thủ tướng nạt lại. “Tôi có cả một đất nước phải cai
trị với đủ mối bận tâm và không cần thêm...”
“Chúng ta có cùng mối bận tâm.” Ông Fudge ngắt lời ông Thủ tướng. “Cây cầu Brokdale không sập vìcũ quá. Vụ cuồng phong không thực sự là cuồng
phong. Những vụ giết người không phải tội ác của dân Muggle. Và gia đình ông Herbert Chorley sẽ được an toàn hơn nếu không có ông ta. Hiện giờ
chúng tôi đang dàn xếp để ông ta được chuyển đến bệnh viện Thánh Mungo chuyên Điều trị thương tích và Bệnh tật pháp thuật. Việc chuyển viện sẽ
được thực hiện tối nay.”
“Ông muốn... Tôi e là tôi... Cái gì?” Ông Thủ tướng lắp bắp.
Ông Fudge hít một hơi thở sâu, nói, “Ông Thủ tướng à, tôi rất tiếc là tôi phải báo cho ông biết kẻ ấy đã trở lại. Kẻ-chớ-gọi-tên-ra ấy.”
“Trở lại? Khi ông nói “trở lại”... có nghĩa là hắn còn sống à? Ýtôi nói...”
Ông Thủ tướng cố mò trong ký ức những chi tiết về cuộc đối thoại cách đây ba năm, khi ông Fudge báo cho ông biết về vị pháp sư đáng sợ hơn hết thảy,
vị pháp sư đã thực hiện một ngàn tội ác khủng khiếp trước khi biến mất một cách bímật mười lăm năm trước.
“Vâng, còn sống.” Ông Fudge nói. “Ấy là – tôi chẳng rõ – có thể nói một người là vẫn còn sống nếu không cách nào giết được hắn chăng? Tôi không
thực sự hiểu điều đó lắm, và cụ Dumbledore sẽ không giải thích một cách thỏa đáng – nhưng dù sao chăng nữa, kẻ ấy nhất định đã có được một hình
hài, và đang đi lại, đang nói năng, đang giết chóc; cho nên, để cho cuộc nói chuyện của chúng ta trôi chảy, tôi cho là, vâng; kẻ ấy còn sống.”
Ông Thủ tướng không biết nói sao về chuyện này, nhưng một thói quen bướng bỉnh mong muốn tỏ ra mình được thông báo đầy đủ về bất cứ đề tài nào
đã khiến cho ông cố lục lọi những chi tiết mà ông có thể nhớ được về những cuộc đối thoại trước đây.
“Có phải Serious Black là… ơ… Kẻ-chớ-gọi-tên-ra?”
“Black? Black hả?” Ông Fudge bối rối nói, vừa xoay tít cái nón trái dưa trong mấy ngón tay. “Ông muốn nói Sirius Black hả? Quỷ thần ơi, không phải.
Black đã chết rồi. Hóa ra chúng tôi đã… ơ… sai lầm về Black. Ông ta rốt cuộc vô tội. Và ông ta cũng không hề liên minh với Kẻ-chớ-gọi-tên-ra. Ýtôi nói
là,” ông nói thêm với vẻ phân trần, cái nón trong tay ông càng bị xoay nhanh hơn nữa, “tất cả chứng cớ đều cho thấy vậy – chúng tôi có hơn năm mươi
nhân chứng mà – nhưng dù sao đi nữa, như tôi đã nói, ông ta cũng đã chết rồi. Thực ra là đã bị ám sát rồi. Ngay trong cơ quan Bộ Pháp thuật. Đúng là
sẽ có một cuộc điều tra…”
Ở điểm này ông Thủ tướng ngạc nhiên nhận ra mình thoáng cảm thấy tội nghiệp cho ông Fudge. Tuy nhiên, cảm giác đó hầu như tức thìbị khuất lấp ngay
bằng một luồng hưng phấn ích kỷ khi nghĩrằng cho dù bản thân mình có kém cỏi trong lãnh vực hiện hình ra từ lò sưởi, nhưng ông chưa từng để xảy ra vụ
ám sát nào trong bất kỳ một cơ quan công quyền nào dưới trướng của mình... Dù sao thìcũng chưa...
Trong khi ông Thủ tướng bímật mân mê mặt gỗ của cái bàn giấy, ông Fudge tiếp tục nói, “Nhưng giờ đây Black đã là chuyện-cho-qua rồi. Vấn đề là
chúng ta đang lâm chiến, ông Thủ tướng à, và chúng ta phải hành động.”
“Lâm chiến?” Ông Thủ tướng lo lắng lặp lại. “Chắc là ông có hơi cường điệu một tíchứ?”
“Kẻ-chớ-gọi-tên-ra giờ đây đã được bọn vượt ngục Azkaban hồi tháng giêng theo phò tá.” Ông Fudge nói càng lúc càng nhanh, và quay mòng mòng cái
nón của ông nhanh đến nỗi trông nó như một cục màu xanh lờ mờ. “Từ khi chúng chuyển ra hoạt động công khai, chúng đã phá hoại tàn hại. Vụ cây cầu
Brokdale – chính kẻ ấy đã gây ra, ông Thủ tướng à. Kẻ ấy đe dọa một cuộc tàn sát tập thể dân Muggle trừ khi tôi bước ra một bên tránh đường hắn
và…”
“Hay dữ à. Vậy ra do lỗi của ông mà người ta bị giết và tôi thìđang phải trả lời chất vấn về thiết bị lắp đặt cùn gỉ và những khớp nối giãn nở hao mòn và
tôi không biết còn thêm gìnữa.” Ông Thủ tướng tức tối nói.
“Lỗi của tôi hả?” Ông Fudge nổi nóng lên, nói “Chẳng lẽ ông đang nói là đáng ra phải nhượng bộ một sự hăm dọa như thế sao?”
“Có thể không.” Ông Thủ tướng nói, vừa đứng dậy và sải bước quanh căn phòng, “nhưng nếu là tôi thìtôi sẽ đặt tất cả nỗ lực của mình vào việc bắt cho
được kẻ hăm dọa trước khi hắn thực hiện bất kỳ một hành động tàn bạo nào như thế!”
“Chẳng lẽ ông thực tình cho rằng tôi đã không thực hiện tất cả mọi nỗ lực sao?” Ông Fudge vặn hỏi trong cơn giận bừng bừng. “Mỗi Thần Sáng của Bộ
Pháp thuật đã và đang cố gắng truy lùng hắn, nhưng chúng ta chẳng may đang nói về một trong những pháp sư quyền lực nhất của mọi thời đại, một
pháp sư đã đào thoát trong gần ba thập niên!”
“Vậy thìtôi đồ rằng ông sắp nói cho tôi biết là cũng chính hắn đã gây ra vụ cuồng phong ở miền Tây?” Ông Thủ tướng nói, cơn bực tức của ông tăng theo
đà mỗi sải chân ông bước. Ông nổi điên lên khi mình thìđược biết nguyên nhân của tất cả những tai họa kinh hoàng này trong khi lại không thể công bố
cho dân chúng nghe, mà như vậy thìthậm chícòn tệ hơn là cứ coi phứt đi đó là lỗi của chính quyền.
“Đó không phải là cuồng phong. ” Ông Fudge rầu rĩnói.
“Xin lỗi à! ” Ông Thủ tướng quát lên, lúc này ông đã chuyển sang dậm lên đạp xuống từng bước chân chắc nịch. “Cây cối tróc gốc, nóc nhà bị tốc bay, cột
đèn đường cong vòng, thương vong khủng khiếp…”
“Đó là do bọn Tử thần thực tử gây ra. ” Ông Fudge nói. “Bọn tay chân của Kẻ-chớ-gọi-tên-ra ấy. Và… và chúng tôi nghi ngờ có sự tham gia của người
khổng lồ. ”
Ông Thủ tướng đứng khựng lại như đụng phải một bức tường vô hình.
“Sự tham gia của cái gì?”
“Lần trước hắn đã sử dụng người khổng lồ, khi hắn muốn đạt được hiệu quả lớn,” ông Fudge nhăn nhó. “Sở Tin Thất thiệt hiện đang làm việc ngày đêm,
chúng tôi đã phái những toán Cán sự Lú đi điều hòa trínhớ của tất cả những Muggle nào đã chứng kiến những gìđã thực sự xảy ra, chúng tôi đã cử hầu
hết nhân viên của Bộ Qui định và và Kiểm soát Sinh vật huyền bíchạy quanh khu vực Somerset, nhưng vẫn chưa thể tìm ra người khổng lồ, thật là một đại
nạn.”
“Ông đừng có than!” Ông Thủ tướng điên tiết nói.
“Tôi sẽ không chối cãi là tinh thần ở Bộ đang xuống thấp.” Ông Fudge nói “Được gìvới tất cả những chuyện đó, để rồi lại mấtAmelia Bones.”
“Mất ai?”
“Amelia Bones. Trưởng phòng Thi hành Luật Pháp thuật. Chúng tôi cho là rất có thể đích thân Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đã giết cô ấy, bởi vìcô ấy là một phù thủy
rất tài giỏi và tất cả bằng chứng cho thấy cô ấy đã trải qua một cuộc chiến đấu ác liệt.”
Ông Fudge tằng hắng, và có vẻ như bằng một nỗ lực lớn, đã ngừng được việc xoay tít cái nón trái dưa.
“Nhưng vụ giết người đó có đăng báo,” ông Thủ tướng nói, tạm thời xao nhãng cơn thịnh nộ của mình. “Báo của chúng tôi.Amelia Bones... Báo chỉ đăng
cô ta là một phụ nữ trung niên sống một mình. Vụ... vụ giết người đó thiệt bi thảm há? Vụ đó nổi tiếng lắm. Cảnh sát đang bó tay, ông biết đó.”
Ông Fudge thở dài.
“Vâng, dĩnhiên là họ bó tay.” Ông nói “Cô ta bị giết trong một căn phòng khóa trái từ bên trong, đúng không? Chúng tôi ngược lại biết chính xác ai đã ra
tay, nhưng điều đó cũng chẳng giúp chúng tôi tóm được thủ phạm. Và rồi đến Emmeline Vance, có lẽ ông chưa từng nghe nói đến tên người này...”
“Ồ, tôi có biết chứ!” Ông Thủ tướng kêu lên. “Đúng ra, vụ đó xảy ra ngay ở góc đường gần đây thôi, báo chíđược dịp đưa tin nóng: Suy đốn luật pháp và
kỷ cương ngay trong sân sau Dinh Thủ tướng...”
“Và làm như thế tất cả ngần ấy vẫn chưa đủ,” ông Fudgenói, hầu như chẳng buồn để tai đến lời ông Thủ tướng. “Chúng tôi gặp giám ngục tủa ra khắp
nơi, tấn công người cánh tả, cánh hữu, và cả trung lập...”
Vào cái thời xa xưa còn vui vẻ hơn bây giờ, câu nói này ắt hẳn là bất khả tri đối với ông Thủ tướng, nhưng giờ đây ông đã khôn ngoan hơn nhiều.
“Tôi tưởng là bọn giám ngục canh gác tù nhân ở Azkaban chứ?” Ông dè dặt nói.
“Trước đây.” Ông Fudge mệt mỏi nói. “Bây giờ thôi rồi. Chúng đã bỏ nhiệm sở ở nhà tù mà đi theo Kẻ-chớ-gọi-tên-ra. Tôi sẽ không giả bộ làm như
chuyện này không phải là một cú đấm vô mặt.”
“Nhưng,” ông Thủ tướng nói, với ý thức về một nỗi hải hùng đang ló dạng, “có phải ông từng nói với tôi chúng là những sinh vật rút cạn hy vọng và hạnh
phúc của người ta không?”
“Đúng vậy. Và chúng đang sinh sôi. Đó là nguyên nhân của tất cả mớ bòng bong này.”
Ông Thủ tướng rũ xuống, đầu gối bủn rủn, ngồi sụp xuống một cái ghế gần đó. Cái ý nghĩvề những sinh vật vô hình đột kích khắp thành thị và thôn quê,
làm lây lan nỗi cùng đường tuyệt vọng trong lòng đám cử tri, khiến ông Thủ tướng cảm thấy suýt ngất xỉu.
“Thế này nhé ông Fudge... Ông cần phải làm điều gìđó! Đó chính là trách nhiệm của ông với tư cách Bộ trưởng Bộ Pháp thuật!”
“Ông Thủ tướng thân mến của tôi ạ, thực lòng ông không thể nghĩ rằng tại sao tôi vẫn còn giữ chức Bộ trưởng Bộ Pháp thuật sau tất cả những vụ việc
này à? Tôi đã bị mất chức cách đây ba ngày rồi! Toàn thể cộng đồng Pháp thuật đã kêu gào tôi từ chức trong vòng nửa tháng. Tôi không hề biết họ đoàn
kết đến như vậy trong suốt thời tôi còn tại chức!” Ông Fudge nói, cố gắng nở một nụ cười.
Ông Thủ tướng tạm thời không kiếm ra từ để nói. Bất chấp cơn phẫn nộ về cái vị thế mà ông bị đặt vào, ông vẫn cảm thấy tội nghiệp người đàn ông bộ
dạng quắt queo ngồi đối diện mình.
“Tôi rất lấy làm áy náy.” Cuối cùng ông nói. “Tôi có thể giúp gìđược không?”
“Ông thiệt là tử tế, ông Thủ tướng à. Nhưng chẳng làm được gì đâu. Đêm nay tôi được phái đến đây để giúp ông cập nhật hóa kiến thức về những sự
kiện gần đây và để giới thiệu ông với người kế nhiệm tôi. Tôi cho rằng lẽ ra giờ này ông ta đã có mặt ở đây, nhưng dĩ nhiên lúc này ông ta rất bận, với
bao nhiêu là chuyện đang diễn ra.”
Ông Fudge ngoái đầu ngó bức chân dung người đàn ông nhỏ thó xấu xí đội một đầu tóc giả màu bạc dài thoòng xoăn tít, cái ông này đang ngoáy lỗ tai
bằng đầu nhọn của một cái lông ngỗng. Bắt được ánh mắt của ông Fudge, bức chân dung nói, “Chút xíu nữa là ông ấy tới. Ông ấy đang viết cho xong
một lá thư gửi cụ Dumbledore.”
“Tôi cầu chúc ông ta may mắn.” Ông Fudge nói, lần đầu tiên nghe ông tỏ vẻ cay đắng. “Trong vòng nửa tháng qua tôi đã viết thư cho cụ Dumbledore hai
lần mỗi ngày, nhưng cụ chẳng hề lay chuyển. Nếu ông ta chỉ chuẩn bị để thuyết phục cậu bé, thì tôi vẫn còn có thể... Mà thôi, biết đâu ông Scrimgeour lại
chẳng thành công hơn.”
Ông Fudge chìm vào một cõi rõ ràng là yên lặng phiền muôn, nhưng hầu như ngay tức thì bức chân dung phá tan cái cõi yên lặng đó bằng cách thình lình
cất lên cái giọng rành rọt trịnh trọng:
“Kính gửi ông Thủ tướng dân Muggle. Yêu cầu hội kiến. Khẩn cấp. Vui lòng hồi âm tức thì. Rufus Scrimgeour, Bộ trưởng Bộ Pháp thuật.”
“Vâng, vâng, được.” Ông Thủ tướng luống cuống nói, và ông ta không chút nao núng khi ngọn lửa trong lò sưởi bùng lên màu xanh biếc, bốc cao, hiện
hình ra vị pháp sư thứ hai đang quay mòng mòng ở giữa ngọn lửa, và trong tích tắc sau đó đã vọt ra đứng lên tấm thảm đồ cổ ngoạn. Ông Fudge đứng
lên, và sau một thoáng ngập ngừng, ông Thủ tướng cũng làm theo, quan sát người mới đến đang chỉnh đốn trang phục, phủi bụi bám trên tấm áo choàng
đen dài và nhìn quanh.
Ý nghĩ đầu tiên hơi ngốc nghếch của ông Thủ tướng là cái tay Rufus Scrimgeour này trông hơi giống một con sư tử già. Có mấy vệt tóc bạc trên mớ tóc
bờm hung hung và bộ lông mày rậm rạp. Ông ta có đôi mắt vàng vàng sắc sảo ẩn sau cặp kiếng viền kim loại và có một vẻ duyên dáng uyển chuyển uy
nghi nhất định, mặc dù bước đi hơi cà thọt. Ấn tượng ngay tức thì là sự khôn ngoan và kiên định; ông Thủ tướng nghĩ ông hiểu tại sao cộng đồng Pháp
thuật lại chọn ông Scrimgeour thay cho ông Fudge làm lãnh tụ trong thời kỳ nguy biến này.
“Chào ông.” Ông Thủ tướng lịch sự nói, giơ tay ra.
Ông Scrimgeour bắt tay ông Thủ tướng rất nhanh, mắt ông lướt qua khắp căn phòng, rồi ông rút ra một cây đũa phép từ dưới tấm áo chùng.
“Ông Fudge đã nói với ông tất cả rồi hử?” Ông ta sải chân bước tới cánh cửa, gõ cây đũa phép của ông lên cái lỗ khóa. Ông Thủ tướng nghe ổ khóa
đóng một cái kịch.
“Ờ... vâng,” ông Thủ tướng nói. “Và nếu ông không phiền, tôi thích để cánh cửa ấy không khóa hơn.”
“Tôi thìthích không bị chen ngang hay rình mò hơn.” Ông Scrimgeour nói ngắn gọn. Ông chỉa cây đũa phép về phía cửa sổ, khiến cho tấm màn kéo ngang
che kín mít, nói thêm: “Được, thế này, tôi là một người bận rộn, cho nên chúng ta hãy bàn ngay vào công việc. Trước tiên, chúng ta cần thảo luận về sự an
toàn của ông.”
Ông Thủ tướng rướn người lên hết mức chiều cao của mình, và đáp, “Tôi tuyệt đối hài lòng về sự an toàn mà tôi đã có, cám ơn ông rất...”
“Chà, chúng tôi thì không.” Ông Scrimgeour cắt ngang. “Dân Muggle sẽ không có được sự canh phòng tử tế nếu ông Thủ tướng của họ bị ếm phải Lời
nguyền độc đoán. Viên thư ký mới của ông ở phòng ngoài...”
“Tôi sẽ không gạt bỏ ông Kingsley Shacklebolt đâu, nếu ông tính đề nghị như vậy.” Ông Thủ tướng nóng nảy nói. “Ông ta rất năng nỗ, mẫn cán, làm việc
nhanh gấp hai lần tất cả đám còn lại...”
“Bởi vì ông ta là một pháp sư,” ông Scrimgeour nói mà không hề hé một cái mỉm cười. “Một Thần sáng được huấn luyện cao cấp, người được ủy thác
nhiệm vụ bảo vệ ông.”
“Khoan, chờ một tí!” Ông Thủ tướng tuyên bố, “Ông không thể ngang nhiên cài đặt người của ông vô văn phòng của tôi, tôi quyết định nhân sự làm việc
cho tôi...”
“Tôi tưởng ông hài lòng với ông Shacklebolt mà?” Ông Scrimgeour lạnh lùng nói.
“Tôi thì... Ấy là nói... Tôi đã...”
“Vậy thìkhông có vấn đề gìhết, phải không?” Ông Scrimgeour nói.
“Tôi... thôi được, miễn là công việc của ông Shacklebolt vẫn tiếp tục... ơ... xuất sắc.” Ông Thủ tướng nói lọng ngọng, nhưng ông Scrimgeour dường như
chẳng buồn nghe ông nữa.
“Bây giờ đến lượt ông Herbert Chorley, Phó Thủ tướng của ông,” ông Scrimgeour tiếp tục. “Cái ông lâu nay đang giải trí cho công chúng bằng cách thủ
vai một con vịt.”
“Ông ta làm sao?” Ông Thủ tướng hỏi.
“Ông ta rõ ràng là đang phản ứng lại một Lời nguyền độc đoán bị ếm vụng về.” Ông Scrimgeour nói. “Nó khiến ông ta quẫn trí, nhưng ông ta vẫn có thể
trở nên nguy hiểm.”
“Ông ta đâu có kêu cạp cạp!” Ông Thủ tướng nói một cách yếu ớt. “Chắc là chỉ một chút cả hơi... Có thể uống hơi nhiều...”
“Một đội chữa thương của bệnh viện Thánh Mungo chuyên Điều trị thương tích và Bệnh tật pháp thuật đang khám nghiệm cho ông ta trong lúc này. Cho
tới lúc này, ông ta đã tính vặn cổ ba người trong đội.” Ông Scrimgeour nói. “Tôi nghĩ tốt nhất là chúng ta nên đem ông ấy ra khỏi xã hội Muggle một thời
gian.”
“Tôi... Chà... ông ta sẽ không sao, phải không?” Ông Thủ tướng nói một cách lo lắng.
Ông Scrimgeour chỉ nhún vai, lúc đó ông ta đã đi về phía lò sưởi.
“Thôi, đó quả thật là tất cả những gì tôi phải nói. Tôi sẽ thông báo cho ông để nắm kịp tình hình tiến triển, ông Thủ tướng ạ. Hay ít nhất, nếu tôi quá bận
không thể đích thân tới được, thìtrong trường hợp đó tôi sẽ phái ông Fudge đến đây. Ông ấy đã đồng ý tiếp tục phục vụ với tư cách cố vấn.”
Ông Fudge cố gắng mỉm cười, nhưng không thành công lắm. Trông ông chỉ giống như đang nhức răng. Ông Scrimgeour đã lục lọi trong túi áo một thứ
bột bí mật khiến cho ngọn lửa trở nên xanh lè. Ông Thủ tướng ngó chằm chằm hai vị phù thủy một lát trong tuyệt vọng, thế rồi những lời lẽ mà ông đã cố
hết sức đè nén trong suốt cả buổi tối cuối cùng đã vọt ra.
“Nhưng trời đất quỉ thần ơi... Các ông là phù thủy! Các ông biết làm pháp thuật! Chắc chắn là các ông biết giải quyết... Chà... bất cứ vấn đề gì!”
Ông Scrimgeour chậm rãi xoay người lại tại chỗ và trao đổi một ánh mắt ngờ vực với ông Fudge, lần này ông Fudge đã cố bẹo ra được một nụ cười khi
tử tế nói:
“Rắc rối là ở chỗ, đối phương cũng có thể làm pháp thuật nữa, ông Thủ tướng à.”
Và sau mấy lời đó, cả hai phù thủy lần lượt bước vào ngọn lửa xanh lè chói lọi mà biến mất.
Chương 2
Đường Bàn xoay
Làn sương mù lạnh lẽo ép vô cửa sổ văn phòng ông Thủ tướng đã lãng đãng trôi xa cách đó vài dặm đến một dòng sông bẩn thỉu uốn éo chảy giữa đôi
bờ tràn ngập rác rưởi đổ bừa. Một cột ống khói khổng lồ, tàn tích của một nhà máy không còn hoạt động nữa, chọc lên trời, trông như một cía bóng lờ
mờ và xíu quẩy. Chẳng có âm thanh nào khác ngoại trừ tiếng rìrào của dòng nước đen, và chẳng có dấu hiệu nào của sự sống ngoại trừ một con cáo ốm
lòi xương đã lén lút mò xuống bờ sông để hít hửi trong hy vọng tràn trề tìm ra được mấy miếng bao bìgói cá và khoai tây chiên vứt lẫn trong đám cỏ cao.
Thế nhưng, đồng thời với một tiếng nổ bốp mơ hồ, một hình thù mảnh khảnh đội mũ trùm xuất hiện từ trong không khí ngay trên mép sông. Con cáo đứng
ngây ra, đôi mắt cảnh giác bám chặt vòa hiện tượng mới mẻ lạ lùng này. Cái hình thù ấy có vẻ mất vài phút để ổn định vóc dáng, rồi bắt đầu di chuyển với
những bước chân dài, nhẹ nhàng, nhanh chóng, với vạt áo khoác dài của nó loạt soạt trên cỏ.
Cùng lúc với một tiếng bốp thứ hai, nghe to hơn, một hình thù đội mũ trùm khác cũng hiện hình.
“Chờ với!”
Tiếng kêu khàn khàn làm con cáo giật mình, lúc đó gần như đang ép dẹp lép thân mình trên mặt đất. Nó nhảy vọt ra khỏi chỗ ẩn nấp và phóng ngược lên
phía bờ sông. Một tia sáng xanh lè lóe lên, một tiếng kêu ăng ẳng phát ra, và con cáo rớt lại xuống mặt đất, chết queo.
Cái hình thù thứ hai dùng đầu ngón chân lật ngược xác con thú.
“Chỉ là một con cáo.” Giọng của một người đàn bà vang lên một cách thô lỗ từ dưới cái mũ trùm. “Ta cứ tưởng có thể một Thần sáng… Cissy, chờ với.”
Nhưng cái hình thù mà mụ ta theo đuổi, lúc nãy dừng chân và ngoái đầu nhìn lại khi ánh sáng lóe lên, giờ lại đang trèo lên phía bờ sông mà con cáo rớt
xuống.
“Cissy… Narcissa… Nghe lời tôi này…”
Người đàn bà thứ hai bắt kịp người đàn bà thứ nhất và túm lấy cánh tay của bà ta, nhưng bà này giật mạnh tay ra.
“Về đi, Bella!”
“Cô phải nghe lời tôi!”
“Em đã nghe rồi. Em đã quyết định, giờ để em yên!”
Người đàn bà tên Narcissa đã lên tới chỗ cao nhất của bờ sông, chỗ có một đường rầy xe lửa cũ kỹ tách con sông ra khỏi con đường rải đá cuội. Người
đàn bà kia, Bella, bám sát theo tức thì. Họ đứng bên cạnh nhau cùng nhìn qua bên kia con đường, nơi hàng dãy tiếp hàng dãy những căn nhà gạch đổ
nát, cửa sổ âm u mịt mờ trong bóng tối.
“Nó sống ở đây à?” Bella hỏi bằng giọng khinh khỉnh. “Ở đây? Ngay trong đống cứt dân Muggle à? Chị em mình ắt hẳn là những người đầu tiên trong
giới chúng ta đặt chân tới...”
Nhưng Narcissa chẳng buồn lắng nghe; bà ta đã tuột qua một chỗ trống trên đường rầy rỉ sét và vội vã băng qua đường.
“Cissy, chờ với!”
Bella đuổi theo, tấm áo khoác phấp phới phía sau, và mụ ta thấy Narcissa xẹt qua một con hẻm nằm giữa những căn nhà để đến con đường thứ hai,
cũng giống hệt con đường thứ nhất. Một số đèn đường đã bể, hai người đàn bà chạy giữa mấy bệt ánh snags và bóng tối mịt mùng.
Người rượt theo đã bắt kịp người bị theo đuổi vừa khi người này định quẹo qua một góc đường. Lần này mụ ta tóm giữ được cánh tay của người kia và
xoay mạnh người đó lại để hai bên nhìn thẳng vào mặt nhau.
“Cissy, cô không được làm điều này, cô không thể tin tưởng thằng ấy...”
“Chúa tể Hắc ám tin tưởng ông ấy, đúng không?”
“Chúa tể Hắc ám bị... Chị tin là... bị lầm.”
Bella thở hổn hển, đôi mắt mụ long lên một thoáng dưới lớp mũ trùm khi nhìn quanh kiểm tra để chắc chắn là quả thực chỉ có mỗi mình họ mà thôi.
“Trong trường hợp nào đi nữa, chúng ta đã được dặn là không tiết lộ kế hoạch cho bất cứ ai. Làm vầy là phản bội lại lệnh của Chúa tể Hắc ám…”
“Thôi đi, Bella.”
Narcissa gầm gừ, và rút cây đũa phéphù thủyừ dưới lớp áo khoác ra, chĩa nó vô mặt người kia đầy đe dọa. Bella chỉ cười.
“Cissy, dọa chính chị của cô à? Cô chẳng…”
Narcissa thở gấp, có dấu hiệu của chứng cuồng loạn trong giọng nói, và khi bà ta hạ cây đũa phép xuống như chém một nhát dao, một tia snags nữa lóe
lên. Bella buông cánh tay em gái ra như thể bị phỏng.
“ Narcissa!”
Nhưng Narcissa đã chạy ù tới trước. Vừa xoa vuốt bàn tay của mình, người săn đuổi bà ta lại rượt theo, nhưng giờ đây giữ một khoảng cách an toàn,
khi cả hai đi sâu vào mê cung hoang vắng của những ngôi nhà gạch. Cuối cùng, Narcissa bước vội lên một con phố có tên Đường Bàn xoay, vươn cao
bên trên phố này là cột ống khói nhà máy sừng sững hăm he như một ngón tay khổng lồ giơ lên đe nẹt. Bước chân của Narcissa khua vang trên nền đá
cuội khi bà ta đi ngang qua mấy cái cửa sổ bị bể kiếng được đóng bít lại bằng giấy bồi, đến tận ngôi nhà cuối cùng, nơi có chút ánh sáng lờ mờ le lói
của một căn phòng tầng trệt.
Narcissa đã gõ cửa trước khi Bella bắt kịp, vừa thở vừa nguyền rủa. Hai người cùng đnưgs đợi với nhau, trống ngực khẽ đập, hít thở cái mùi bốc lên từ
dòng sông bẩn thỉu được làn gió đêm nhẹ thổi về phía họ. Sau vài giây, họ nghe có sự chuyển động đằng sau cánh cửa và rồi cửa mở ra một cái cạch.
Một người đàn ông ló chút thân mình ra nhìn họ; một người đàn ông với tóc đen dài rẽ ngôi giữa tém qua hai bên gương mặt vàng bủng có đôi mắt đen.
Narcissa trật cái mũ trùm ra sau. Bà ta xanh xao đến nỗi trông gần như sáng lên trong bóng tối; mái tóc vàng dài thả đổ xuống lưng tạo cho bà cái vẻ của
người chết trôi.
“Narcissa!” Người đàn ông kêu lên, mở cánh cửa rộng hơn một chút, để cho ánh sáng rọi tới soi tỏ Narcissa cùng bà chị. “Thật là một ngạc nhiên thú vị!”
“Severus.”
Narcissa nói bằng giọng thìthào căng thẳng.
“Tôi có thể nói chuyện với ông được không? Khẩn cấp!”
“Dĩnhiên là được.”
Người đàn ông đứng lùi lại để cho Narcissa bước vào trong nhà. Bà chị của bà ta vẫn đội mũ trùm cũng đi theo vào không cần mời.
“Snape,” mụ nói khi đi ngang.
“Bellatrix!” thầy Snape đáp lại, cái miệng mỏng dính cong lên thành một nụ cười mai mỉa khi thầy đóng cánh cửa lại một cái cạch sau lưng hai người đàn
bà.
Họ đi thẳng vào trong một căn phòng khách nhỏ, căn phòng này tạo cảm giác như thể đó là một cái xà lim kín mít. Những bức tường được bịt kín hoàn
toàn bằng sách, hầu hết những cuốn sách này đề được đóng bìa da nâu, da đen cũ kỹ. Có một cái ghế sofa đã mòn trơ chỉ, một cái ghế bành, và một cái
bàn ọp ẹp, cả đám đứng túm tụm với nhau thành đám trong một vũng sáng lờ mờ phát ra từ một cây đèn thắp bằng nến thòng từ trên trần xuống. Nơi này
có một vẻ bị bỏ bê, mặc dù không hẳn thường xuyên là không có người ở.
Thầy Snape ra dấu cho Narcissa ngồi xuống ghế sofa. Bà ta cởi áo khoác ra, quẳng nó qua một bên và ngồi xuống, đăm đăm nhìn hai bàn tay trắng bệch
và run lẩy bẩy của mình đang đặt trên đùi. Bellatrix hạ mụ trùm xuống một cách chậm rãi hơn. Bà em mụ tái nhợt bao nhiêu thì mụ đen đúa bấy nhiêu, với
đôi mắt có quầng có nọng nặng nề và một bộ xương hàm chắc khỏe, mụ chẳng hề rời mắt khỏi thầy Snape trong lúc di chuyển ra đứng đằng sau lưng
Narcissa.
“Vậy, tôi có thể làm gìđược cho bà?”
Thầy Snape hỏi, tự mình an tọa trong cái ghế bành đối diện hai chị em.
“Chúng ta… chúng ta không có ai khác nữa chứ?” Narcissa khẽ khàng hỏi.
“Dĩnhiên là có. Vâng, Đuôi Trùn đang ở đây, nhưng chúng ta đâu có tính đến sâu bọ, phải không?”
Thầy Snape chĩa cây đũa phép vô một bức tường đầy sách đằng sau lưng mình và một tiếng nổ vang lên, một cánh cửa bí mật bật mở ra, để lộ một cầu
thang hẹp và một gã đàn ông loắt choắt đang đứng sững như trời trồng trên cầu thang.
“Đuôi Trùn, chắc mi cũng thấy rõ là chúng ta đang có khách.” Thầy Snape nói bằng giọng uể oải.
Gã đàn ông loắt choắt khòm lưng rón rén bò xuống mấy bậc thang cuối cùng để di chuyển vô trong phòng. Gã có đôi mắt nhỏ hí ươn ướt, một cái mũi
nhọn và đeo một nụ cười màu mè chẳng thoải mái chút nào. Bàn tay trái của gã đang xoa xoa bàn tay phải, bàn tay này trông như thể bọc trong một cái
găng tay bằng bạc.
“Bà Narcissa!” Gã chào bằng một giọng rin rít như chuột kêu. “Và bà Bellatrix! Thật là quyến rũ biết bao…”
“ Đuôi Trùn sẽ bưng nước cho chúng ta, nếu các bà muốn uống,” Thầy Snape nói. “Và rồi hắn sẽ trở về phòng ngủ của hắn.”
Đuôi Trùn nhăn mặt như thể Thầy Snape vừa mới quăng cái gìđó vô mặt gã.
“Tôi không phải đầy tớ của ông!” Gã rít lên, lẩn tránh ánh mắt của Thầy Snape.
“Vậy sao? Ta lại có cảm tưởng là Chúa tể Hắc ám đặt mi ở đây để trợ giúp ta chứ?”
“Trợ giúp ông, ừ… nhưng không phải làm việc bưng nước cho ông và… lau nhà cho ông!”
“ Đuôi Trùn à, ta đâu biết mi ao ước những công tác hiểm nghèo hơn,” Thầy Snape nói giọng ngọt xớt. “Chuyện này cũng dễ dàn xếp thôi: ta sẽ nói với
Chúa tể Hắc ám…”
“Tôi cũng có thể tự nói chuyện với Chúa tể Hắc ám nếu tôi muốn!”
“Dĩ nhiên là mi có thể.” Thầy Snape cười nhếch mép, nói. “Nhưng tạm thời trong lúc này, mi hãy bưng nước cho chúng ta. Loại rượu gia tinh pha chế nào
đó cũng được.”
Đuôi Trùn dùng dằng một lát, trông như thể muốn cãi tiếp, nhưng rồi gã quay lưng đi về phía cánh cửa bí mật thứ hai. Mọi người nghe tiếng cửa đóng
một cái rầm và tiếng ly tách chạm nhau kêu tanh tách. Chỉ vài giây sau gã đã trở lại, bưng một cái mâm trên đó có một cái chai bám đầy bụi bặm và ba
cái ly. Gã liệng mấy thứ này xuống cái bàn ọp ẹp rồi mau mắn đi khuất mắt mọi người, đóng sập cánh cửa ngụy trang bằng kệ sách lại sau lưng.
Thầy Snape rót ra ba cái ly một thứ rượu đỏ như máu và đưa hai ly cho hai chị em. Narcissa lẩm bẩm mấy tiếng cám ơn, trong khi mụ Bellatrix chẳng thốt
một lời nào, nhưng vẫn tiếp tục nhìn Thầy Snape trừng trừng. Điều này xem ra chẳng làm Thầy Snape bối rối tínào ; ngược lại, ông còn tỏ ra khoái trá.
“Chúc sức khỏe Chúa tể Hắc ám.”
Thầy Snape nói, nâng ly lên uống cạn. Hai chị em làm theo ông ta. Thầy Snape lại rót đầy ly của họ. Khi Narcissa uống hết ly rượu thứ hai, bà ta hấp tấp
nói.
“Ông Severus, tôi xin lỗi đã đến đây như thế này, nhưng tôi phải gặp ông. Tôi nghĩông là người duy nhất có thể giúp tôi…”
Thầy Snape giơ một bàn tay ra để ngăn Narcissa, rồi chĩa cây đũa phép của ông về phía cửa cầu thang bí mật một lần nữa. Một tiếng nổ to vang lên và
một tiếng thét ré lên, tiếp theo là tiếng Đuôi Trùn lật đật bò trở lên lầu.
“Tôi xin lỗi,” Thầy Snape nói. “Dạo gần đây hắn đâm ra nhiễm cái trò rình nghe ở cửa, tôi chẳng biết hắn làm vậy để làm gì… Bà Narcissa, bà đang nói…”
Narcissa hít một hơi thở vĩđại đến rùng mình và bắt đầu lại một lần nữa.
“Ông Severus, tôi biết tôi không nên đến đây, tôi đã được căn dặn là không được nói với bất cứ ai, nhưng…”
“Vậy thìcô nên liệu mà giữ mồm giữ miệng!” Mụ Bellatrix nạt ngang. “Đặc biệt với người có mặt tại đây.”
“Người có mặt ở đây à?” Thầy Snape nhắc lại một cách nhạo báng. “Và tôi nên hiểu điều đó như thế nào đây, thưa bà Bellatrix?”
“Nghĩa là tôi không tin ông, Thầy Snape à, như ông đã biết quá rõ rồi!”
Narcissa bật ra một âm thanh có thể gọi là tiếng khóc than, và đưa hai tay bưng mặt. Thầy Snape đặt cái ly của mình lên mặt bàn rồi ngồi thẳng lại, hai
bắp tay ông đặt trên chỗ tựa tay của cái ghế bành, cười mỉm với gương mặt trâng tráo của Bellatrix.
“Bà Narcissa à, tôi nghĩ chúng ta nên nghe điều mà bà Bellatrix đang hăm hở nói; để tránh những sự chõ mỏ phát mệt. Nào, tiếp tục đi chứ, bà Bellatrix,”
Thầy Snape nói. “Tại sao mà bà không tin tôi?”
“Có hằng trăm lý do!” Bellatrix nói to, bước vòng qua cái ghế sofa để dằn mạnh cái ly của mụ ta lên bàn. “Bắt đầu từ đâu đây! Khi Chúa tể Hắc ám suy
sụp thì ông ở đâu hả? Tại sao ông không bao giờ ra sức tìm kiếm ngài khi biến mất hả? Suốt những năm tháng mà ông sống trong túi áo của lão
Dumbledore ông đã làm những gìhả? Tại sao ông cản trở Chúa tể Hắc ám thu phục Hòn đá Phù thủy hả? Tại sao ông không trở lại ngay tức thìkhi Chúa
tể Hắc ám phục sinh hả? Ông đã ở đâu cách đây mấy tuần lễ khi chúng tôi chiến đấu để phục hồi lời Tiên tri cho Chúa tể Hắc ám hả? Và tại sao hả, Thầy
Snape, tại sao mà Harry Potter vẫn sống nhăn trong khi nó nằm trong bàn tay sinh sát của ông suốt năm năm trời hả?”
Khi mụ tạm ngừng lấy hơi, ngực mụ phập phồng, hai má đỏ ửng. Sau lưng mụ, Narcissa ngồi bất động, mặt vẫn còn vùi trong hai bàn tay.
Thầy Snape mỉm cười.
“Trước khi tôi trả lời bà – À vâng, bà Bellatrix à, tôi sẽ trả lời bà chứ! Bà có thể nói lại lời của tôi cho những người khác, những người ngồi lê đôi mách
sau lưng tôi, rồi loan truyền những câu chuyện tầm bậy vè sự bội bạc của tôi đối với Chúa tể Hắc ám! Trước khi tôi trả lời bà, tôi có đề nghị, hãy để cho
tôi được hỏi bà một câu trước. Bà có thực sự nghĩlà Chúa tể Hắc ám đã chẳng hỏi tôi từng vấn đề một trong những vấn đề bà vừa nêu ra không? Bà có
thực sự nghĩrằng nếu tôi đã không thể nào đưa ra được câu trả lời thỏa đáng, thìliệu tôi còn có thể ngồi đây mà hầu chuyện cùng bà được chăng?”
Mụ Bellatrix lúng túng.
“Bà nghĩ là ngài lầm chăng? Hay là tôi bằng cách nào đó bưng tai bịt mắt ngài chăng? Chúa tể Hắc ám, pháp sư vĩ đại nhất, bậc quảng đại thần thông
xuất chúng nhất mà thế giới từng được chiêm ngưỡng lại bị lừa sao?”
Mụ Bellatrix không nói gì, nhưng lần đầu tiên trông có vẻ nối rối. Thầy Snape không bồi thêm vòa điểm chí tử ấy nữa. Ông lại cầm ly rượu của mình lên,
nhấm nháp, rồi nói tiếp.
“Bà hỏi tôi đã ở đâu khi Chúa tể Hắc ám suy sụp à. Tôi đã ở nơi mà ngài ra lệnh cho tôi phải có mặt, tại Hogwarts – trường đào tạo Phù thủy và Pháp
sư, bởi vì ngài muốn tôi do thám Albus Dumbledore. Tôi xin mạo muội nói rằng, bà cũng biết, tôi nhận lãnh công việc ở trường Hogwarts là do lệnh của
Chúa tể Hắc ám.”
Bellatrix gật đầu một cách khó nhận thấy và toan mở miệng, nhưng Thầy Snape đã cướp lời mụ trước.
“Bà hỏi tại sao tôi đã không cố gắng tìm kiếm ngài khi ngài biến mất. Lý do của tôi tương tự như lý do của Avery, Yaxley, gia đình Carrow, Greyback,
Lucius...” thầy nhẹ nghiêng đầu về phía bà Narcissa , “và nhiều người khác cũng đã không nỗ lực tìm kiếm ngài. Tôi tin là ngài đã yên nghỉ ngàn thu. Tôi
chẳng lấy làm hảnh diện gìvề chuyện này, tôi đã lầm, nhưng sự thể là vậy... Nếu ngài đã không tha thứ cho chúng ta, những kẻ đã đãnh mất lòng tin lúc ấy,
thìngài hẳn sẽ còn lại rất ít đồ đệ.”
“Ngài vẫn còn có tôi!” Mụ Bellatrix nói một cách say sưa. “Tôi, người đã nằm ngục Azkaban bao nhiêu năm trời vìngài!”
“Vâng, quả thực đáng khâm phục nhất,” Thầy Snape nói bằng giọng chán chường. “Dĩ nhiên, nằm ngục thì bà cũng chẳng được tích sự gì cho ngài cả,
nhưng làm điệu làm bộ thìchắc chắn là hay rồi...”
“Làm điệu làm bộ à!” Bellatrix ré lên; trong cơn cuồng nộ, trông mụ ta hơi giống một con mẹ điên. “Trong khi tôi chịu đựng lũ giám ngục, ông vẫn an nhiên
ở lại Hogwarts, thoải mái đóng vai con chó cưng của lão Dumbledore!”
“Đâu có được như vậy! bà biết đấy, lão đời nào chịu giao cho tôi bộ môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám. Dường như lão nghĩ rằng điều đó có thể, ừ,
đưa đến chuyện ngựa quen đường cũ… cám dỗ tôi trở lại cuộc sống trước đây.”
“Việc này mà tính là cả một sự hy sinh của ông cho Chúa tể Hắc ám. Sao, cái chuyện ông không được dạy bộ môn mà ông khoái nhất ấy?” Mụ Bellatrix
buông lời giễu cợt. “Tại sao ông cứ ở lỳ nơi đó suốt thời gian ấy hả Thầy Snape? Tiếp tục do thám lão Dumbledore cho ông chủ mà ông tin là đã chết rồi
à?”
“Không hẳn vậy,” Thầy Snape nói. “Mặc dù Chúa tể Hắc ám hào lòng là tôi đã không bao giờ rời bỏ nhiệm sở : tôi có mười sáu năm tình báo về
Dumbledore để giao cho ngài khi ngài trở lại, một món quà chào mừng ngài có ích hơn những hoài niệm vô tận về sự nằm ngục Azkaban khó chịu như
thế nào…”
“Nhưng ông đã ở lại…”
“Phải, bà Bellatrix à, tôi đã ở lại,” Thầy Snape nói, lần đầu tiên để lộ dấu hiệu thiếu kiên nhẫn. “Tôi có một công việc dễ chịu mà tôi thích hơn cái việc ở
Azkaban. Lúc đó họ đang lùng bắt các Tử thần thực tử, như bà biết. Sự bảo vệ của Dumbledore đã giúp tôi khỏi bị tống vô ngục; đó là một lợi thế hết
sức tốt, và tôi đã tận dụng. Tôi nhắc lại: Chúa tể Hắc ám không phàn nàn việc tôi ở lại Hogwarts, thì mắc gì bà lại càm ràm. Tôi nghĩ điều tiếp theo mà bà
muốn biết,” Thầy Snape hối hả nói tiếp, hơi lớn giọng, bởi vìBellatrix đã tỏ dấu hiệu muốn ngắt lời ông, “là tại sao tôi đứng chắn giữa Chúa tể Hắc ám và
Hòn đá phù thủy. Điều này dễ giải thích thôi. Lúc đó ngài chưa biết là ngài có tin được tôi hay không. Ngài nghĩ, giống như bà, rằng tôi đã biến từ một Tử
thần thực tử trung thành ra một con rối của Dumbledore. Ngài đang ở trong hoàn cảnh đáng thương, rất yếu ớt, và phải nương náu trong hình hài của một
tay phù thủy tầm thường. Ngài đã không dám để lộ thân phận mình cho một đồng minh trước đây nếu đồng minh đó có thể giao nộp ngài cho
Dumbledore hay cho Bộ. Tôi thực sự lấy làm tiếc là ngài đã không tin tưởng tôi lúc đó. Chứ nếu ngài có lòng tin thì ngài đã phục hồi quyền lực sớm hơn
ba năm. Trong tình thế lúc đó, tôi thấy chỉ có mỗi tay Quirell tham lam đê tiện đang timd cách đánh cắp hòn đá, và tôi thừa nhận, tôi đã làm hết sức mình
để cản trở hắn.”
Mồm Bellatrix méo xệch như thể mụ ta đã nuốt phải một liều thuốc đắng.
“Nhưng ông đã không trở về khi ngài trở lại, ông đã không bay về với ngài ngay lập tức khi ông cảm thấy Dấu hiệu Hắc ám cháy bỏng…”
“Đúng. Tôi đã trở về sau đó hai tiếng đồng hồ. Tôi đã trở về theo lệnh của Dumbledore.”
“Theo lệnh của Dumbledore…?” Bellatrix bắt đầu la lên, giọng điên tiết.
“Hãy suy nghĩ!” Thầy Snape nói, lại mất kiên nhẫn. “Hãy nghĩ cho kỹ đã! Bằng cách chờ hai tiếng đồng hồ sau, chỉ hai tiếng đồng hồ thôi, tôi đã đảm bảo
được việc tôi có thể lưu lại trường Hogwarts để do thám! Bằng việc để cho Dumbledore tưởng rằng việc tôi trở về với Chúa tể Hắc ám chỉ là làm theo
lệnh của ông ta, tôi đã có thể chuyển giao thông tin về Dumbledore và Hội Phượng hoàng từ ấy đến giờ! Hãy cân nhắc, bà Bellatrix à: Dấu hiệu Hắc ám
đã trở nên càng lúc càng mạnh trong nhiều tháng trời. Lúc ấy tôi đã biết ngài ắt hẳn sắp trở lại, tất cả mọi Tử thần thực tử đều biết. Tôi đã có rất nhiều thì
giờ để suy nghĩvề điều mà tôi muốn làm, để chuẩn bị cho hành động kế tiếp, để đào thoát như Karkaroff, đúng không?”
“Chúa tể Hắc ám lúc đầu cũng không vui vẻ về việc trì hoãn của tôi, nhưng tôi cam đoan với bà, sự không hài lòng đó biến mất hoàn toàn khi tôi giải thích
rằng tôi vẫn trung thành mặc dù Dumbledore tưởng rằng tôi đã là người của ông ta. Phải, Chúa tể Hắc ám đã tưởng đâu tôi rời bỏ ngài vĩnh viễn, nhưng
ngài đã lầm.”
“Nhưng ông được tích sự gìtừ ấy đến giờ hả?” Bellatrix cười chế nhạo. “Chúng tôi nhạn được thông tin hữu ích gìtừ ông hả?”
“Tin tình báo của tôi được chuyển giao trực tiếp cho Chúa tể Hắc ám,” Thầy Snape nói. “Nếu ngài chọn phương án không nói cho bà biết…”
“Ngài chia sẻ với tôi mọi thứ,” Bellatrix bùng lên cơn giận đùng đùng. “Ngài nói tôi là người trung thành nhất, thủy chung nhất…”
“Vậy sao?” Thầy Snape nói, giọng của thầy biến âm một cách tinh vi để bày tỏ sự nghi ngờ. “Liệu ngài có nói vậy nữa không sau trận thảm bại ở Bộ?”
“Đó đâu phải là lỗi của tôi!” Bellatrix đỏ ửng mặt lên. “Trong quá khứ Chúa tể Hắc ám đã giao phó cho tôi điều quí báu nhất… nếu như lão Lucius
đừng…”
“Chị đừng… chị liệu hồn đừng có đổ lỗi cho chồng tôi!” Narcissa nói, ngước lên nhìn bà chị, giọng nói nhỏ mà lạnh lùng sắc lẹm.
“Đổ lỗi qua lại chẳng đi tới đâu cả,” Thầy Snape nói, giọng êm ái. “Chuyện gìxong thìđã xong rồi.”
“Nhưng ông thì chưa xong!” Bellatrix tức điên lên. “Chưa đâu, ông lại vắng mặt một lần nữa trong khi tất cả chúng tôi xông pha vào nguy hiểm, có không
Thầy Snape?”
“Tôi được lệnh ở lại tuyến sau,” Thầy Snape nói. “Có lẽ bà bất đồng ý kiến với Chúa tể Hắc ám, có lẽ bà nghĩ rằng Dumbledore sẽ không chú ý nếu tôi
tham dự vào lực lượng các Tử thần thực tử để đánh nhau với Hội Phượng hoàng chăng? Và – sin lỗi – bà nói chuyện xông pha vào nguy hiểm… bà đã
đương đầu với sáu đứa tuổi choai choai, phải không nào?”
“Chỉ lát sau là chúng được hỗ trợ, như ông thừa biết, bởi một nửa Hội Phượng hoàng,” Bellatrix gầm gừ. “Và trong khi chúng ta nhắm vô cái Hội đó, ông
vẫn cứ khăng khăng tuyên bố ông không thể tiết lộ tổng hành dinh của chúng ở đâu, có không?”
“Tôi đâu phải Quản gia. Tôi không thể nói tên của nơi đó. Tôi nghĩ bà thừa biết bùa ngải hiệu lực ra sao. Chúa tể Hắc ám đã hài lòng với tin tình báo về
Hội mà tôi đã chuyển giao cho ngài. Có lẽ bà cũng đoán được, tin tức đó đã đưa đến việc bắt cóc và ám sát Emmeline Vance, và chắc chắn là giúp ích
cho việc khử trừ Sirius Black, mặc dù tôi xin nhường cho bà tất cả công trạng kết liễu đời hắn.”
Thầy Snape nhẹ nghiêng đầu và nâng cốc chúc mừng Bellatrix. Vẻ mặt của mụ ta vẫn không dịu đi chút nào.
“Ông đang né tránh câu hỏi cuối cùng của tôi, Thầy Snape à. Harry Potter. Lẽ ra ông đã có thể giết nó bất kỳ lúc nào trong suốt năm năm qua. Ông đã
không làm chuyện đó. Tại sao?”
“Thế bà đã thảo luận vấn đề này với Chúa tể Hắc ám lần nào chưa?” Thầy Snape hỏi lại.
“Ngài… gần đây, chúng tôi… tôi đang hỏi ông mà Thầy Snape!”
“Nếu tôi đã ám sát Harry Potter, thìChúa tể Hắc ám đã không thể sử dụng máu của nó để tái sinh năng lượng, giúp cho ngài bất khả chiến bại…”
“Ông cho là mình tiên đoán được việc ngài sẽ sử dụng thằng bé ấy à?” Bellatrix nhạo báng.
“Tôi không cho là gìcả. Tôi chẳng biết gìhết về âm mưu của ngài ; Tôi vừa thú nhận là tôi đã tưởng Chúa tể Hắc ám đã chết. Tôi chỉ cố gắng giải thích tại
sao Chúa tể Hắc ám không thấy tiếc cái việc mà Harry Potter vẫn sống sót, ít nhất thìcũng cho đến cách đây một năm...”
“Nhưng tại sao ông cứ để cho nó sống?”
“Bà vẫn chưa hiểu tôi ư? Chính vì sự bảo vệ của ông Dumbledore mà tôi không bị tống vô ngục Azkaban! Bà có đồng ý rằng việc ám sát đứa học trò
cưng của ông ta rất có thể khiến ông ta coi tôi là thù địch không? Nhưng có nhiều lý do hơn thế nữa. Tôi thấy nên nhắc bà nhớ rằng khi Potter mới đến
trường Hogwarts đã có nhiều câu chuyện đồn đãi về nó, người ta đồn rằng chính nó là một pháp sư Hắc ám vĩ đại, suy ra từ cái cách mà nó đã sống sót
qua cuộc tấn công của Chúa tể Hắc ám. Thực ra, nhiều đồ đệ cũ của Chúa tể Hắc ám đã tưởng Harry Potter là một ngọn cờ mà tất cả chúng ta có thể
tập hợp xung quanh môt lần nữa. Tôi nhìn nhận là tôi có tò mò và chẳng có chút ý đồ ám sát nó vòa cái thời điểm mà nó đặt chân vô tòa lâu đài.”
“Dĩ nhiên, chẳng bao lâu sau tôi đã thấy rất rõ ràng rằng nó chẳng có chút thiên tài xuất chúng nào cả. Nó đã xoay sở thoát được khỏi một số tình huống
ngặt nghèo chỉ nhờ sự kết hợp giữa may mắn thuần túy và đám bạn bè tài giỏi hơn. Nó là một thằng nhóc tầm thường hạng bét, mặc dù nó cũng độc địa
và tự mãn y chang thằng cha nó trước đây. Tôi đã làm hết sức mình để khiến nó bị đuổi khỏi trường Hogwarts, tôi cho là nó chẳng thuộc về chốn ấy chút
nào, nhưng giết nó, hay để nó bị giết trước mặt tôi ấy à? Tôi đâu có ngu đến nỗi chơi liều như vậy ngày trong tầm tay của Dumbledore.”
“Và qua tất cả những việc này, ông cho rằng chúng tôi vẫn tin rằng lão Dumbledore chẳng bao giờ nghi ngờ ông tới một tẹo sao?” Bellatrix hỏi. “Chẳng lẽ
lão không hề biết lòng trung thành thực sự của ông à? Lão vẫn còn tin tưởng ông tuyệt đối sao?”
“Tôi đã đóng vai của mình rất tốt,” Thầy Snape nói. “Và bà đã bỏ qua nhược điểm lớn nhất của Dumbledore: ông ta phải tin tưởng vào phần tốt nhất trong
con người ta. Tôi đã từng xạo một câu chuyện về sự ăn năn hối cải sâu sắc của tôi khi mới gia nhập giáo ban của ông ta, từ thời tôi mới là Tử thần thực
tử, và ông ta đã giang rộng cánh tay ôm lấy tôi… mặc dù, như tôi đã kể, ông ta vẫn không đời nào chịu cho tôi tới gần bộ môn Nghệ thuật hắc ám.
Dumbledore là pháp sư vĩđại nhất từ trước tới nay - Ừ, đúng vậy, chính ông ấy (bởi vìBellatrix khịt một tiếng đầy khinh miệt). Chính Chúa tể Hắc ám cũng
phải nhìn nhận điều đó. Tuy nhiên, tôi cũng vui mừng mà nói rằng Dumbledore đang già đi. Trận đấu tay đôi hồi tháng trước với Chúa tể Hắc ám đã chấn
động ông ta sâu sắc. Từ trận đó ông đã phải chống chỏi với một vết thương trầm trọng bởi vì phản ứng của ông giờ đây chậm chạp hơn trước kia.
Nhưng trải qua suốt những năm tháng này, ông ta chưa bao giờ thôi tin tưởng Severus Snape này, và do vậy tôi trở nên rất có giá đối với Chúa tể Hắc
ám.”
Bellatrix vẫn không được vui vẻ, mặc dù mụ ta tỏ ra không biết chắc cách nào tốt nhất để tấn công tiếp Thầy Snape. Tận dụng lúc bà chị đang im lặng,
Thầy Snape quay sang bà em :
“Sao… Bà đến nhờ tôi giúp đỡ à, bà Narcissa?”
Narcissa ngước nhìn Thầy Snape, gương mặt của bà hiện rõ nỗi tuyệt vọng.
“Vâng, thưa ông Severus. Tôi… tôi nghĩông là người duy nhất có thể giúp tôi, tôi không còn biết bám víu vào đâu nữa.Anh Lucius đang ở tù và...”
Bà nhắm mắt lại và hai giọt nước mắt to tướng ứa ra từ bên dưới mímắt của bà.
“Chúa tể Hắc ám đã cấm tôi nói về chuyện đó,” Narcissa vẫn nhắm mắt và tiếp tục nói. “Ngài không muốn cho ai biết về kế hoạch. Nó rất… rất bí mật.
Nhưng…”
“Nếu ngài đã cấm, thìbà không nên nói ra,” Thầy Snape nói ngay. “Lời của Chúa tể Hắc ám là luật.”
Narcissa há hốc sững sờ, như thể Thầy Snape vừa dội nước lạnh xuống đầu bà ta. Lần đầu tiên, Bellatrix trông có vẻ hài lòng, kể từ khi mụ bước vô căn
nhà này.
“Thấy chưa!” Mụ nói với bà em bằng giọng đắc thắng. “Ngay cả Thầy Snape cũng nói thế: em đã được lệnh không nói thìcứ ngậm miệng lại!”
Nhưng Thầy Snape đã đứng lên và sải dài bước chân đi tới khung cửa sổ nhỏ, chăm chú nhìn qua khe tấm màn quan sát con đường hoang vắng, rồi giật
thót mình khép tấm màn lại. Ông ta quay lại đối diện với Narcissa, vẻ mặt đăm chiêu.
“Chẳng qua ngẫu nhiên mà tôi có biết đến kế hoạch đó,” ông ta nói bằng giọng thìthào. “Tôi cũng là một trong vìa người mà Chúa tể Hắc ám nói cho biết.
Tuy nhiên nếu tôi mà không nằm trong kế hoạch bímật, thìbà ắt hẳn đã phạm tội lớn phản bội Chúa tể Hắc ám.”
“Tôi nghĩông cần phải biết về kế hoạch đó!” Narcissa nói, hít thở thong thả hơn. “Ngài tin tưởng ông biết bao, ông Severus…”
“Thế ông biết về kế hoạch à?” Bellatrix hỏi, vẻ hài lòng vừa thoáng hiện trên mặt mụ đã bị thay thế bằng cơn thịnh nộ. “Ông biết à?”
“Đương nhiên,” Thầy Snape nói. “Nhưng bà Narcissa à, bà cần giúp đỡ chuyện gì hở? Nếu bà tưởng tôi có thể thuyết phục Chúa tể Hắc ám thay đổi
quyết định thìtôi e rằng chẳng có hy vọng đâu, không ai làm được chuyện đó cả.”
“Ông Severus,” Narcissa thìthầm, nước mắt lăn dài xuống đôi gò má nhợt nhạt. “Con trai tôi… Đứa con trai duy nhất của tôi…”
“Thằng Draco nên tự hào,” Bellatrix dửng dưng nói. “Chúa tể Hắc ám đang ban cho nó một danh dự lớn. Và tôi sẽ nói điều này thay cho Draco: cháu nó
không hề lùi bước trước nhiệm vụ, cháu còn có vẻ vui mừng có được một cơ hội để tự khẳng định chính mình, rất háo hức trước viễn cảnh…”
Trong khi Bellatrix thao thao thìNarcissa đã bắt đầu khóc lóc van xin, tha thiết nài nỉ Thầy Snape.
“Là bởi vì con tôi mới mười sáu tuổi và chẳng biết cài gì nằm trong rọ! Tại sao vậy, ông Severus? Tại sao lại là con trai tôi? Chuyện đó nguy hiểm quá!
Đây là sự trả thù cho sai lầm của anh Lucius, tôi biết mà!”
Thầy Snape không nói gì cả. Ông ta trnahs nhìn cái cảnh nước mắt bà rơi như thể những giọt nước mắt rơi không đúng với khuôn phép lịch thiệp, nhưng
ông không thể nào giả vờ không nghe thấy tiếng khóc của bà ta.
“Đó chính là lý do chọn Draco, đúng không? Để trừng phạt anh Lucius phải không?” Narcissa đay nghiến.
“Nếu Draco thành công,” Thầy Snape nói, vẫn tránh nhìn Narcissa, “thìtrò ấy sẽ được vinh danh trên tất cả nhưng học sinh khác.”
“Nhưng nó sẽ không thành công,” Narcissa nức nở. “Làm sao nó thành công nổi trong khi chính Chúa tể Hắc ám còn…”
Bellatrix há hốc mồm sững sờ; Narcissa dường như mất trírồi.
“Tôi chỉ muốn nói… Chưa có ai thành công cả… Ông Severus … làm ơn làm phước… Ông là… ông luôn là người thầy Draco yêu quí nhất… Ông lại là
bạn cũ của anh Lucius… Tôi van lạy ông… Ông là cố vấn được tin cậy nhất của Chúa tể Hắc ám… Xin ông hãy nói với ngài, thuyết phục ngài…”
“Chúa tể Hắc ám sẽ không dễ bị thuyết phục, và tôi thì không ngu đến mức thử làm chuyện đó,” Thầy Snape nói thẳng thừng. “Tôi không thể nào giả bộ
nói là Chúa tể Hắc ám không giận ông Lucius. Ông Lucius được coi là lãnh chịu cái trách nhiệm đó. Ông để cho bản thân bị bắt cùng nhiều người khác,
trả cái giá đắt như vậy mà vẫn không phục hồi được lời tiên tri cho đáng. Ừ, quả thật Chúa tể Hắc ám đang giận, bà Narcissa à, rất giận.”
“Vậy ra tôi đúng, ngài đã chọn Draco để trả thù!” Narcissa nấc lên uất nghẹn. “Ngài đâu có cần nó thành công, ngài chỉ muốn nó bị giết khi đang cố
gắng!”
Khi Thầy Snape không nói gì thì Narcissa dường như đánh mất một chút xíu sự tự kiềm chế mà bà ta có được. Bà ta đứng lên, lảo đảo bước đến bên
Thầy Snape và nắm lấy vạt trược tấm áo chùng của ông. Mặt bà ta sát mặt Thầy Snape, nước mắt bà ta rơi thấm ngực áo ông, miệng bà ta há hốc
không thở được.
“Ông có thể làm được chuyện đó thay cho Draco, ông Severus à. Ông sẽ thành công, dĩ nhiên ông sẽ thành công, và ngài sẽ ban thưởng cho ông nhiều
hơn cho tất cả chúng tôi…”
Thầy Snape nắm lấy hai cổn tay của Narcissa và gỡ hai bàn tay bíu chặt của bà ta ra. Cúi xuống nhìn gương mặt lem luốc nước mắt của bà ta, ông chậm
rãi nói.
“Tôi nghĩ, ngài có ý định để tôi làm việc đó vòa phút cuối. Nhưng ngài quyết định là Draco nên thử trước. Bà hiểu chứ, trong tình huống ít xảy ra là Draco
thành công, tôi vẫn có thể tiếp tục ở lại trường Hogwarts lâu thêm một chút, hoàn tất vai trò do thám của tôi.”
“Nói cách khác là nếu Draco bị giết thìcũng chẳng thành vấn đề gì!”
“Chúa tể Hắc ám đang rất tức giận,” Thầy Snape lặng lẽ nhắc lại. “Ngài đã không nghe được lời tiên tri. Bà cũng biết rõ như tôi, bà Narcissa à, rằng ngài
không dễ dàng tha thứ.”
Narcissa ngã gục, té xuống chân Thầy Snape, thổn thức rên rỉ trên sàn nhà.
“Con trai duy nhất của tôi… con trai duy nhất của tôi…”
“Cô nên tự hào!” Bellatrix nói một cách tàn nhẫn. “Nếu tôi mà có con trai, tôi sẽ vui mừng cống hiến chúng để phục vụ Chúa tể Hắc ám!” Narcissa khẽ gào
lên tuyệt vọng và giật giật mái tóc dài vàng óng của mình. Thầy Snape cúi khom người xuống, nắm lấy hai cánh tay của Narcissa, nâng bà ta lên và dìu bà
ta ngồi trở lại trên ghế sofa. Rồi ông rót thêm rượu cho Narcissa và ấn cái ly vô tay bà ta.
“Bà Narcissa à, đủ rồi. Uống cái này đi. Nghe tôi nói.”
Narcissa nín lặng một chút ; bà run run hớp một ngụm, làm đổ rượu xuống chính người mình.
“Cũng có thể có khả năng… tôi giúp được Draco.”
Narcissa đứng dậy, mặt bà ta trắng như tờ giấy, hai mắt mở to ra.
“Ông Severus… Ôi, ông Severus… Ông sẽ giúp cháu nó? Ông sẽ canh chừng nó, sẽ lo cho nó không bị nguy hiểm?”
“Tôi có thể cố gắng.”
Narcissa quăng cái ly trong tay bà ta đi. Cái ly lăn ngang qua cái bàn khi bà ta tuột khỏi ghế sofa để quì gối dưới chân Thầy Snape, nắm lấy bàn tay ông
trong cả hai tay mình, rồi ép môi lên đó.
“Nếu ông ở đó để bảo vệ cháu nó… Ông Severus, ông có chịu thề không? Ông có chịu phép Thề Không Bội không?”
“Thề Không Bội?” Vẻ mặt của Thầy Snape ngây ra, khó hiểu. Tuy nhiên Bellatrix phát ra một tràng cười khùng khùng đắc thắng.
“Cô không nghe sao, Narcissa? Ôi, ông ấy sẽ cố gắng, tôi biết chắc mà… Những lời nói sáo rỗng thông thường, hành động phỉnh phờ cho qua chuyện…
Ôi, đương nhiên là theo lệnh của Chúa tể Hắc ám!”
Thầy Snape không nhìn Bellatrix. Đôi mắt đen của ông ta nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh đầy nước mắt của Narcissa trong khi bà ta tiếp tục níu chặt
lấy tay ông.
“Nhất định, bà Narcissa à, tôi sẽ chịu phép Thề Không Bội,” Thầy Snape nói khẽ. “Có lẽ bà chị của bà sẽ vui lòng làm Người Chứng giám cho chúng ta.”
Bellatrix há hốc mồm. Thầy Snape hạ thấp người xuống để có được tư thế quì gối đối diện Narcissa. Dưới cái nhìn trợn trừng đầy kinh ngạc của
Bellatrix, hai người nắm lấy tay mặt của nhau.
“Bà phải cần đến cây đũa phép của bà đấy, bà Bellatrix,” Thầy Snape lạnh lùng nhắc.
Bellatrix rút cây đũa phép ra, vẫn còn vẻ kinh ngạc.
“Và bà cần phải tiến đến gần hơn chút xíu nữa,” Thầy Snape nói.
Bellatrix bước tới trước để đứng ở vị trícao hơn hai người kia, và đặt đầu cây đũa phép lên hai bàn tay nối nhau của họ.
Narcissa nói.
“Ông Severus, ông thề sẽ trông chừng con trai tôi, Draco, khi nó cố gắng hoàn thành ước nguyện của Chúa tể Hắc ám?”
“Tôi thề,” Thầy Snape nói.
Một tia lửa mảnh sáng rực phóng ra từ đầu cây đũa phép uốn vòng quanh bàn tay của hai người giống như một sợi dây kim loại nóng đỏ.
“Và ông thề sẽ làm hết kahr năng của mình để bảo vệ con trai tôi khỏi hiểm nguy?”
“Tôi thề.”
Một tia lửa thứ hai bắn ra từ cây đũa phép quấn bện vào tia thứ nhất, tạo thành một sợi xích rực rỡ xinh đẹp.
“Và, nếu như cần thiết… nếu có vẻ như Draco sẽ thất bại…” Narcissa thì thào (bàn tay của Thầy Snape bị kẹp chặt trong bàn tay của Narcissa, nhưng
ông không rút tay ra) “ông thề sẽ thực hiện hành động mà Chúa tể Hắc ám ra lệnh cho Draco thực hiện?”
Có một thoáng im lặng. Bellatrix quan sát, cây đũa phép của mụ đặt trên hai bàn tay siết chặt của hai người, hai mắt mở banh.
Thầy Snape nói.
“Tôi thề.”
Bộ mặt sững sờ của Bellatrix đỏ ửng lên trong ánh sáng lóe lên từ tia lửa thứ ba bắn ra từ cây đũa phép, xoắn bện với hai tia kia, rồi tự kết dày đặc
quanh hai bàn tay siết chặt, giống như một sợi dây thừng, giống như một con rắn lửa.
Chương 3
Sẽ và không
Harry Potter đang ngáy như sấm. Nó đã ngồi lì suốt bốn tiếng đồng hồ trong một cái ghế đặt cạnh cửa sổ phòng ngủ, đăm đăm ngó ra đường phố đang
tối dần, và rốt cuộc lăn đùng ra ngủ, vẫn áp một bên mặt lên lớp kính cửa sổ lạnh, cặp mắt kính của nó bị lệch đi, và miệng thì há rộng. Hơi thở của nó để
lại một vết mờ mờ ẩm ẩm trên tấm kính cửa sổ sáng lóe màu vàng cam của ngọn đèn đường bên ngoài, và ánh sáng nhân tạo này đã làm tiêu hết màu
sắc trên gương mặt nó, khiến cho gương mặt bên dưới mái tóc đen bù xù ấy trông có vẻ ma quái.
Căn phòng vương vãi những của nả riêng đủ loại, lẫn lộn với không ít thứ cầm như là rác rưởi. Lông chim cú, lõi trái táo và giấy gói kẹo vứt bừa bãi trên
sàn, một số sách thần chú nằm lung tung lộn xộn trong đống áo chùng nhàu nát lọan xà ngầu trên giường, và một đống hổ lốn báo chínằm ườn trong vùng
chiếu sáng của ngọn đèn để trên bàn học của nó. Một số báo đó có cái tít lớn khá nổ:
HARRYPOTTER: KẺ ĐƯỢC CHỌN?
Tin đồn tiếp tục lan nhanh về vụ gây náo động mới đây ở Bộ Pháp thuật, và trong vụ này Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đã xuất hiện một lần nữa.
“Chúng tôi không được phép nói về chuyện này, đừng hỏi tôi bất cứ điều gì.” Một chuyên viên Lú không muốn nêu tên đã nói như vậy khi rời khỏi Bộ Pháp
thuật tối hôm qua.
Tuy nhiên, những nguồn tin rất đáng tin cậy từ bên trong Bộ Pháp thuật đã xác nhận rằng vụ gây náo động tập trung ở một địa điểm truyền thuyết là Sảnh
đường Tiên tri.
Mặc dù pháp sư phát ngôn của Bộ Pháp thuật cho đến giờ vẫn từ chối xác nhận thậm chícả sự tồn tại của một nơi như thế, một số ngày càng đông trong
cộng đồng Pháp thuật vẫn tin là những Tử thần thực tử hiện đang bị giam cầm trong nhà ngục Azkaban về tội xâm phạm và mưu toan trộm cắp đã ra sức
đánh cắp một lời tiên tri. Không ai biết được bản châts của lời Tiên tri, mặc dù sự suy đoán lan tràn khắp nơi cho là nó có liên quan đến Harry Potter,
người duy nhất từ trước đến nay được biết đến như kẻ sống sót qua Lời nguyền Giết chóc, và là người cũng đã có mặt ở Bộ Pháp thuật trong cái đêm
xảy ra vụ náo động. Một số người còn đoán già thêm, gọi Harry Potter là “Kẻ Được Chọn”, họ tin là lời tiên tri chỉ định cậu bé là người duy nhất sẽ có khả
năng trừ khử cho chúng ta Kẻ-chớ-gọi-tên-ra.
Lời tiên tri hiện giờ ở đâu, nếu quả là nó tồn tại, vẫn không ai biết, mặc dù (xem tiếp trang 2, cột 5)
Một tờ báo thứ hai nằm cạnh bên tờ thứ nhất. Tờ này mang cái tít:
SCRIMGEOUR KẾ NHIỆM FUDGE
Chiếm gần hết trang đầu là một bức ảnh trắng đen to tướng của một người đàn ông có bờm tóc dày giống như bờm sư tử và một gương mặt khá dạn
dày phong sương. Bức ảnh đó đang cử động – người đàn ông trong ảnh đang vẫy tay với cái trần nhà.
Rufus Scrimgeour, giám đốc Sở Thần Sáng trước đây, vừa nhận chức Bộ trưởng Pháp thuật thay cho ông Cornelius Fudge. Việc bổ nhiệm này đã được
cộng đồng Pháp thuật đón nhận nồng nhiệt, mặc dù chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi ông Scrimgeour nhậm chức đã nổi lên những lời đồn đại về sự bất
đồng chính kiến giữa ông Bộ trưởng mới và Albus Dumbledore, vị Tổng Tư lệnh mới được phục chức của Quân đoàn Pháp thuật.
Đại diện của ông Scrimgeour nhìn nhận rằng ông Bộ trưởng có gặp ông Dumbledore ngay sau khi nhận lãnh công việc tối cao, nhưng từ chối bình luận
về những đề tài đã được hai bên bàn thảo. Ông Dumbledore được coi là (xem tiếp trang 3, cột 2)
Bên trái tờ báo này là một tờ báo khác, được lật ra và gấp lại ở chỗ có thể thấy được một bài báo mang tựa đề BỘ PHÁP THUẬT BẢO ĐẢM AN NINH
CỦA HỌC SINH.
Vị Bộ trưởng Pháp thuật mới được bổ nhiệm, ông Rufus Scrimgeour, hôm nay đã nói về những biện pháp mới nghiêm ngặt được Bộ của ông thực hiện
để đảm bảo an toàn cho học sinh trở lại trường đào tạo pháp sư và phù thủy Hogwarts vào mùa thu này.
“Vì những lý do hiển nhiên, Bộ sẽ không đi sâu vào chi tiết của những kế hoạch an ninh mới rất chặt chẽ của Bộ,” ông Bộ trưởng nói vậy, mặc dù một
người trong Bộ xác nhận rằng những biện pháp đó bao gồm các bùa chú phòng vệ, một sự bố trí phức tạp các bùa phản nguyền, và một đội công tác
nhỏ thuộc lực lượng Thần Sáng chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ trường Hogwarts.
Lập trường dứt khoát của ông Bộ trưởng về vấn đề an ninh của học sinh đã đảm bảo cho hầu hết các biện pháp đó. Bà Augusta Longbottom nói “Cháu
nội của tôi, Neville - một người bạn tốt của Harry Potter, đã ngẫu nhiên cùng chiến đấu chống lại bọn Tử thần thực tử bên cạnh Potter ở Bộ Pháp thuật
hồi tháng 6 và...
Phần còn lại của câu chuyện không thể đọc được vì bị một cái lồng chim bự chảng ngồi chình ình ngay trên mặt bài báo. Bên trong lồng là một con cú
trằng như tuyết đẹp lộng lẫy. Đôi mắt màu hổ phách của con cú quan sát toàn bộ căn phòng một cách ta đây là chủ, đầu nó thỉnh thoảng xoay lại ngó
chằm chằm cậu chủ của mình đang nagys pho pho. Một hay hai lần nó mổ lách cách một cách sốt ruột, nhưng Harry ngủ say đến nỗi chẳng hề nghe thấy.
Nằm ngày giữa phòng là một cái rương to đùng. Nắp rương để mở, trông như thể chuẩn bị hành trang, thế nhưng cái rương hầu như vẫn còn trống rỗng,
ngoại trừ mấy thứ còn sót lại tận dưới đáy rương như đồ lót, kẹo, lọ mức rỗng, viết lông ngỗng đã gãy. Gần đó, nằm tênh hênh trên sàn, một tờ bướm
màu tím nổi bật những dòng chữ:
Được ban hành nhân danh Bộ Pháp thuật
BẢO VỆ NHÀ CỬA VÀ GIA ĐÌNH MÌNH
CHỐNG LẠILỰC LƯỢNG HẮC ÁM
Cộng đồng Pháp thuật hiện nay đang bị đe dọa bởi một tổ chức gọi là Tử thần thực tử. Tuân theo những hướng dẫn an ninh đươn giản sau đây sẽ giúp
quívị, gia đình quívị, và nhà cửa quívị khỏi bị tấn công.
1. Quívị không nên rời khỏi nhà một mình.
2. Đặc biệt cẩn thận vào những thời khắc tối trời. Nơi nào khả dĩthìnên tính toán sao cho những cuộc hành trình được hoàn tất trước khi trời tối.
3. Xem xét lại sự bố trí an ninh xung quanh ngôi nhà của quí vị, bảo đảm sao cho tất cả thành viên trong gia đình biết đến những biện pháp cao cấp như
Bùa Khiên và Bùa Giải hoang tưởng, và đối với những thành viên nhỏ tuổi trong gia đình, cần biết tới Bùa Độn thổ ké.
4. Thống nhất với gia đình và bạn bè thân thiết những câu hỏi an ninh để phát hiện Tử thần thực tử giả dạng trà trộn bằng cách sử dụng Đa Quả dược
(xem trang 2)
5. Nếu quí vị cảm thấy một thành viên của gia đình, hay đồng nghiệp, bạn bè, hay hàng xóm, có hành vi lạ lùng, hãy tiếp xúc ngay tức thì với Đội Đặc
nhiệm thi hành Luật Pháp thuật. Họ có thể đã bị khống chế bởi Lời nguyền Độc đoán (xem trang 4)
6. Nếu Dấu hiệu hắc ám xuất hiện bên trên nơi quícị cư trú hay tòa nhà khác, THÌĐỪNG VÀO, mà hãy liên lạc ngay tức thìvới Sở Thần Sáng.
7. Một số quan sát chưa được xác định cho rằng Tử thần thực tử hiện giờ có thể sử dụng Âm binh (xem trang 10). Bất cứ sự nhìn thấy Âm binh nào, hay
gặp phải việc tương tự, phải được báo cáo cho Bộ Pháp thuật NGAYLẬP TỨC.
Harry làu bàu mớ ngủ và cái mặt của nó trượt khỏi mặt kính cửa sổ chừng ba phân hay cỡ đó, khiến cho cặp kính cận của nó càng nằm lệch thêm, nhưng
nó vẫn không thức giấc. Một cái đồng hồ báo thức, được Harry sửa lại cách đây nhiều năm, kêu tích tắc om xòm trên ngưỡng cửa sổ, báo mười một giờ
kém năm phút. Bên cạnh cái đồng hồ là một đống giấy da đầy những chữ viết xiên xiên gầy gầy bị bàn tay thả lỏng của Harry đè lên tại chỗ. Từ khi lá thư
được gửi đến cách đây ba ngày, Harry đã đọc đi đọc lại thường xuyên đến nỗi lá thư bây giờ nằm phẳng lìmặc dù nó vốn được cuộn tròn rất chặt.
Harry mến,
Nếu thuận tiện cho con, thầy sẽ đến thăm con ở ngôi nhà số bốn đường Privet Drive vào thứ sáu tuần này lúc mười một giờ đêm để đưa con đến trang
trại Hang Sóc, nơi con được mời ở lại chơi đến hết kỳ nghỉ hè.
Nếu con đồng ý, thầy cũng sẽ vui mừng được con giúp đỡ về một vấn đề mà thầy hy vọng giải quyết trên đường đến Hang Sóc. Thầy sẽ giải thích đầy đủ
hơn về điều này khi gặp con.
Vui lòng gửi hồi âm theo bưu cú này. Hy vọng gặp con vào thứ sáu.
Thầy đây, thân yêu nhất của con,
Albus Dumbledore
Mặc dù đã thuộc nằm lòng lá thư, Harry vẫn cứ vài phút lại liếc chừng lá thư từ lúc mới bảy giờ chiều hôm đó, khi nó bắt đầu đóng đô ở cửa sổ phòng
ngủ, chỗ mà từ đó có thể nhìn ra hai đầu đường Privet Drive. Nó biết dù có đọc đi đọc lại những lời của cụ Dumbledore thì cũng chẳng được tích sự gì;
nó đã gởi ngay câu trả lời “vâng” cho con cú đưa thư theo như yêu cầu, và tất cả những gìmà nó có thể làm bây giờ là chờ đợi: cụ Dumbledore sắp đến,
hoặc là cụ sẽ không đến.
Nhưng Harry vẫn chưa chuẩn bị xong hành lý. Cái chuyện nó sắp được cứu vớt ra khỏi gia đình Dursley chỉ sau hai tuần lễ chung sống với họ sao mà có
vẻ hay ho tới mức khó tin. Nó không thể nào rũ bỏ được cái cảm giác là có chuyện gì đó bất ổn sắp diễn ra... Biết đâu hồi âm của nó cho lá thư của cụ
Dumbledore có thể thất lạc; cụ Dumbledore có thể bị trở ngại trong việc đi đón nó; lá thư biết đâu lại chẳng hóa ra là đồ bịp, một trò đùa, hay một cái bẫy,
chứ không phải do cụ Dumbledore gởi đi. Harry đã không thể nào để tâm trí vô chuyện sắp xếp hành lý, rồi nó bỗng chán nản thất vọng và lại giở hành lý
ra. Hành động duy nhất mà nó đã thực hiện để cho cuộc hành trình có thể xảy ra là nhốt con cú trằng như tuyết của nó, con Hedwig, vô trong lồng một cách
an toàn.
Cây kim phút của cái đồng hồ báo thức quay đến số mười hai, và đúng ngay boong lúc đó, ngọn đèn đường bên ngoài cửa sổ tắt phụt.
Harry thức giấc như thể cái bóng tối thình lình ấy là còi báo thức. Vội vàng chỉnh sửa lại cặp mắt kính và gỡ cái mặt mình ra khỏi mặt kính cửa sổ, nó lại in
mũi lên cửa sổ, liếc mắt xuống mặt đường. Một hình thù cao cao trong bộ áo khóac dài phất phới đang đi lên lối mòn trong vườn.
Harry nhảy cẫng lên như thể nó vừa bị điện giật, hất cái ghế ngã chổng kềnh, và bắt đầu quơ quào bất cứ thứ gì và tất cả mọi thứ trong tầm tay trên sàn
phòng rồi quăng hết vô cái rương. Đương khi nó đang với chụp một bộ áo chùng, hai cuốn sách Thần chú, và một gói bánh phồng ở đầu kia căn phòng, tì
chuông cửa reo. Dưới nhà, trong phòng khách, dượng Vernon quát:
“Ai cả gan kêu cửa vào đêm hôm như vầy hả?”
Harry đứng lặng trang với cái kính thiên văn bằng đồng đang cầm trong tay và một đôi giày thể thao trong tay kia. Nó đã hoàn toàn quên bén chuyện nên
báo trước cho gia đình Dursley về cuộc thăm viếng có thể xảy ra của cụ Dumbledore. Vừa cảm thấy hỏang hốt vừa tức cười, nó trèo qua cái rương và
vặn khóa mở cánh cửa phòng ngủ vừa vặn lúc nghe một giọng nói thầm trầm:
“Chào ông. Ắt hẳn ông là ông Dursley. Tôi đồ rằng Harry đã nói với ông rằng tôi sẽ đến đón trò ấy?”
Harry nhảy ào xuống cầu thang từng hai bặc một, nhưng còn cách chân cầu thang nhiều bậc thìnó chợt đứng khựng lại, bởi vìkinh nghiệm lâu dài đã dạy
nó là cứ nên ở ngoài tầm tay của của dượng nó khi nào có thể.
Kìa đứng ở ngưỡng cửa chính là một người đàn ông gầy gò cao cao với mái tóc và bộ râu bạc phơ dài tới tận eo. Cặp mắt kính nửa vầng trăng trễ trên
sóng mũi khoằm, và cụ mặc một cái áo khoác đi đường dài màu đen, đội một cái mũ chóp nhọn. Ông Vernon Dursley có một bộ ria cũng rậm rạp gần
giống với bộ râu của thầy Dumbledore, chỉ có điều màu đen, và ông đang mặc một cái áo ngủ màu cánh dán. Ông trợn mắt ngó chòng chọc vị khách như
thể không tin được đôi mắt ti hícủa mình.
“Đoán theo vẻ hoài nghi sửng sốt của ông, thì Harry đã không báo cho ông biết trước là tôi sẽ đến,” cụ Dumbledore dịu dàng nói. “Tuy nhiên, chúng ta cứ
coi như ông đã thân tình mời tôi vô ngôi nhà của ông. Giữa thời buổi lộn xộn này, cù cưa quá lâu ở bậc thềm thìkhông khôn ngoan lắm.”
Cụ nhanh nhẹn bước qua bậu cửa và đóng lại cánh cửa sau lưng.
“Kể cũng khá lâu tính từ lần cuối cùng tôi đến thăm ông,” cụ Dumbledore nói, chăm chú ngó xuống dượng Vernon qua cánh mũi khoằm. “Tôi phải nói,
tướng tá nghi phong của ông sung mãn thịnh vượng.”
Ông Vernon Dursley không nói năng gì cả. Harry không nghi ngờ chút nào rằng cái lưỡi của ông sẽ hoạt động lại, và sớm thôi – vì nhịp đập của mạch
máu nổi cộm trên thái dương của dượng đang gia tăng đến mức nguy hiểm – nhưng có một cái gì đó ở cụ Dumbledore nhất thời làm cho dượng ngạt
thở. Có thể là do ngoại hình mang vẻ pháp sư rành rành, nhưng cũng có thể do dượng Vernon cảm nhận được đây là một con người đừng có hòng ăn
hiếp.
“À, chào Harry,” cụ Dumbledore nói, ngước lên nhìn Harry qua cặp mắt kính nửa vầng trăng với một vẻ hài lòng. “Xuất sắc, xuất sắc.”
Những lời này dường như làm sôi máu dượng Vernon. ĐIều quá hiển nhiên đối với dượng là, bất cứ người nào có thể nhìn Harry mà nói “xuất sắc” thì
dượng không bao giờ nhìn vào mắt người đó được.
“Tôi không có ý thô lỗ...” Dượng bắt đầu nói, bằng một giọng hăm he sự thô bạo trong mỗi âm tiết.
“Nhưng, buồn thay, sự thô bạo cứ ngẫu nhiên xảy ra với mật độ thường xuyên tới mức báo động,” cụ Dumbledore nghiêm trang hoàn tất câu nói. “Tốt
nhất là đừng nói gìhết, thưa ông thân mến. À, đây ắt hẳn là bà Petunia.”
Cửa nhà bếp vừa mở ra, và dì của Harry đứng đó, mang một đôi găng tay bằng cao su và một tấm khoác trong nhà choàng bên ngoài bộ đồ ngủ, hẳn
nhiên là dì đang làm dở dang công việc dọn dẹp nhà bếp trước khi đi ngủ. Gương mặt dài ngoằng như mặt ngựa của dì không biểu hiện cái gì khác
ngoài vẻ sửng sốt.
“Tôi là Albus Dumbledore,” cụ Dumbledore nói, khi dượng Dursley không chủ động giới thiệu khách. “Dĩnhiên, chúng ta có thư từ với nhau trước đây.”
Harry nghĩ đây là một cách nhắc lại không hay lắm cho dì Petunia nhớ rằng đã có lần cụ đã gởi cho dì một thư sấm, nhưng dì Petunia không thừa nhận
thuật ngữ đó.
“Và đây ắt hẳn là con trai của bà, cậu Dursley?”
Lúc đó Dudley đã thò đầu qua cửa phòng khách dáo dác nhìn ngó: cái đầu bự đội mái tóc vàng óng của nó nhô bên trên cái cổ áo có sọc của bộ đồ ngủ
trông lặc lìa quái gở, mồm nó ngoác ra vìkinh ngạc và khiếp sợ. Cụ Dumbledore chờ cho một hay hai giây, rõ ràng là để xem có ai trong gia đình Dursley
muốn nói gìkhông, nhưng khi thấy ai cũng lặng như tờ, cụ mỉm cười.
“Tôi có nên cho rằng quívị sẽ mời tôi vô phòng khách không nhỉ?”
Dudley lật đật tránh đường cho cụ Dumbledore bước qua. Harry, tay vẫn cầm cái kính thiên văn và đôi giày thể thao, nhảy xuống mấy bậc thang cuối cùng
để đi theo cụ Dumbledore. Cụ đã tự mình an tọa trong cái ghế bành gần lò sưởi nhất và đang thưởng thức cảnh trí chung quanh với một vẻ mặt thích thú
nhân hậu. Trông cụ nổi bật trong quang cảnh ấy.
“Thưa thầy... chúng ta sắp đi chưa ạ?” Harry lo lắng hỏi.
“Ừ, thực ra chúng ta sắp đi rồi, nhưng có vài vấn đề cần bàn bạc trước,” cụ Dumbledore nói. “Và thầy muốn làm chuyện đó trong nhà hơn là ở nơi công
cộng. CHúng ta nên tận dụng lòng hiếu khách của dìvà dượng trò thêm một chút nữa.”
“Ông sẽ làm thế thật à?”
Dượng Vernon Dursley cũng đã trở vô phòng khách, dìPetunia bám sát sau vai chồng, và thập thò đằng sau cả hai là Dudley.
“Vâng, tôi sẽ làm thế.”
Cụ Dumbledore nói một cách đơn giản. Cụ rút cây đũa phép ra lẹ đến nỗi Harry hầu như không nhìn thấy; chỉ bằng một cái phẩy nhẹ bình thường, cái ghế
sofa vọt tới trước và tông vô đầu gối từ phía dưới chân ba người nhà Dursley khiến cho họ té nhào lên đó thành một đống. Một cái phẩy nhẹ kahcs của
cây đũa phép khiến cái ghế sofa bay trở lại vị tríban đầu.
“Chúng ta thế là đều được thoải mái,” cụ Dumbledore nói một cách vui vẻ.
Khi cụ cất cây đũa phép vô túi áo, Harry nhận thấy bàn tay của cụ bị nám đen và teo quắt lại; trông như thể cơ bắp của bàn tay đã bị thui cháy.
“Thưa thầy... chuyện gìđã xảy ra với...”
“Để sau đã, Harry,” cụ Dumbledore nói. “Con hãy ngồi xuống.”
Harry ngồi xuống cái ghế bành còn lại, chọn thế làm sao cho khỏi phải nhìn thấy gia đình Dursley, họ có vẻ choáng váng trong im lặng.
“Tôi cứ tưởng ông sẽ thết đãi tôi chút trà bánh,” cụ Dumbledore nói với dượng Vernon. “Dè đâu bằng chứng nãy giờ cho thấy cứ lạc quan quá đáng như
vậy thìthành ra ngu.”
Một cái phẩy thứ ba của cây đũa phép, và một cái chai bụi bặm cùng năm cái ly xuất hiện giữa cõi thinh không. Cái chai bật nút và rót vô mỗi ly một
lượng hào phóng chất lỏng màu mật, rồi mỗi cái ly tự trôi đến tay mỗi người trong căn phòng.
“Đây là món rượu mật ong rừng sồi ngon nhất của bà Rosemerta,” cụ Dumbledore nói, nâng ly với Harry. Nó đón lấy ly của mình và hớp một ngụm. Nó
chưa từng nếm qua cái gì tương tự như vậy trước đây, nhưng cũng khoái vô cùng. Gia đình Dursley, sau cái nhìn thật nhanh đày khiếp đảm, đã cố tình
phớt lờ hoàn toàn mấy cái ly phần họ, quả là một thành tích khó khăn, bởi vìmấy cái ly cứ huých huých nhè nhẹ bên đầu họ. Harry không thể nào nén được
nỗi nghi ngờ rằng cụ Dumbledore đang tự giải trícho mình.
“Này, Harry,” cụ Dumbledore quay sang phía Harry và nói, “có một chuyện khó khăn phát sinh mà thầy hy vọng con có thể giải quyết cho chúng ta. Khi nói
chúng ta, thầy muốn nói Hội Phượng hoàng. Nhưng trước tiên thầy phải nói với con rằng di chúc của Sirius đã được tìm thấy cách đây một tuần và chú ấy
để lại cho con tất cả những gìthuộc về chú ấy.”
Cái đầu của dượng Vernon xoay phía trên cái ghế sofa, nhưng Harry chẳng buồn nhìn ông ấy, cũng không thể nghĩ ra điều gì để nói ngoại trừ mấy tiếng
“Ô, được thôi.”
“Điều này về cơ bản, khá minh bạch,” cụ Dumbledore tiếp tục. “Con tăng thêm một số lượng vàng đáng kể vào tài khoản của con trong ngân hàng
Gringotts, và con thừa hưởng tất cả sở hữu cá nhân của chú Sirius. Phần hơi có vấn đề của di sản...”
“Cha đỡ đầu của nó chết rồi hả?”
Từ cái ghế sofa, dượng Vernon nói to. Cả cụ Dumbledore lẫn Harry đều quay đầu lại nhìn ông ta. Cái ly rượu mật ong lúc này cứ thế mà khỏ vô chẩm đầu
của dượng Vernon; ông ta thìcố gắng đánh đuổi nó đi.
“Ổng chết rồi hả? Cha đỡ đầu của nó ấy?”
“Ừ,” cụ Dumbledore nói. Cụ không hỏi tại sao Harry đã không tâm sự gìvề đời nó với gia đình Dursley.
“Vấn đề của chúng ta là,” cụ tiếp tục nói với Harry, như thể đã không hề óc sự gián đoạn nào. “Chú Sirius cũng để lại cho con cả căn nhà số mười hai
Quảng trường Grimmauld.”
“Ổng để lại một căn nhà hả?” Dượng Vernon nói với vẻ tham lam, hai con mắt nhỏ xíu của ông ta nheo lại ti hí, nhưng chẳng ai buồn trả lời ông ta cả.
“Thầy có thể tiếp tục sử dụng nó làm tổng hành dinh,” Harry nói. “Con không bận tâm. Thầy cứ lấy đi. Con thực sự không muốn lấy nó.”
Harry không bao giờ muốn đặt chân vào số mười hai Quảng trường Grimmauld một lần nữa nếu nó có thể tránh được. Nó nghĩ nó có thể bị ám ảnh mãi
mãi bởi ký ức về chú Sirius vơ vẩn trong những căn nhà mốc meo tăm tối một mình, bị cầm tù trong cái nơi mà chú đã khao khát rời bỏ.
“Thế là hòa phóng,” cụ Dumbledore nói. “Tuy nhiên, tạm thời chúng ta bỏ trống tòa nhà.”
“Tại sao?”
“Chà...” cụ Dumbledore nói, phớt lờ tiếng nói của dượng Vernon. Lúc này ông ta đang bị ly rượu mật kiên trì khỏ ngay đỉnh đầu để cưỡng ép một cách
quyết liệt.
“Truyền thống gia đình Black qui định rằng ngôi nhà phải được truyền lại theo trực hệ cho người nam tiếp theo trong dòng họ mang họ “Black’. Chú Sirius
là người nam cuối cùng trong dòng họ chính thống này, bởi vìem trai chú ấy, Regulus, đã chết trước chú ấy, và cả hai đều không có con. Trong khi di chúc
của chú Siriusnói một cách hoàn toàn rõ ràng rằng chú ấy muốn con thừa hưởng căn nhà, nhưng dù vậy có thể có một số thần chú hoặc bùa ểm đã được
ếm lên tòa nhà ấy để bảo đảm là nó không thể bị sở hữu bởi bất cứ ai không thuần huyết thống.”
Một hình ảnh sống động về bức chân dung treo trên tường của bà mẹ chú Sirius gào thét và nhổ nước miếng nháng lên trong đầu Harry. Nó nói.
“Con cá có bùa là cái chắc.”
“Khá nhiều,” cụ Dumbledore nói. “Và nếu có một thứ bùa ểm như thế thì quyền sở hữu rất có thể được truyền lại cho người bà con vai vế cao nhất còn
đang sông của chú Sirius, có nghĩa là cho người chị họ của chú ấy, bà Bellatrix Lestrange.”
Harry đứng bật dậy mà không nhận thức được điều mình đang làm; cái kính thiên văn và đôi giày thể thao văng từ trên đùi nó qua tuốt bên kia sàn. Mụ
Bellatrix Lestrange, kẻ đã giết chú Sirius, mà thừa kế căn nhà ư?
“Không,” nó kêu lên.
“Ừ, hiển nhiên là chúng ta cũng không muốn bà ấy thừa kế căn nhà. Tình huống đầy nguy hiểm và phức tạp. Chúng ta không biết liệu các thứ bùa ểm mà
chính chúng ta đã ếm lên căn nhà, thí dụ bùa Bất Khả định vị, có còn hiệu lực nữa không một khi quyền sở hữu căn nhà không còn thuộc về chú Sirius
nữa. Rất có thể Bellatrix sẽ về đến ngay ngưỡng cửa bất kỳ lúc nào. Đương nhiên chúng ta phải dời đi cho đến thời điểm mà chúng ta làm rõ được sở
hữu của địa điểm đó.”
“Nhưng làm sao mà thầy biết được là liệu con có được phép sở hữu nó hay không?”
“May mắn thay,” cụ Dumbledore nói, “có một phép kiểm tra đơn giản.”
Cụ đặt cái ly rỗng của mình lên cái bàn nhỏ bên cạnh cái ghế, nhưng trước khi cụ có thể làm bất cứ điều gì, dượng Vernon đã gào lên:
“Ông có dẹp dùm mấy cái thứ đồ chết tiệt này cho chúng tôi nhờ không?”
Harry quay lại nhìn: tất cả ba người nhà Dursley đang dùng tay che đỡ bên trên đầu của mình, bởi vì mấy cái ly cứ khỏ tưng tưng xuống mấy cái sọ dừa
của họ, khiến cái thứ đựng bên trong ly văng tung tóe khắp nơi.
“Ôi, tôi xin lỗi,” cụ Dumbledore nhã nhặn nói, rồi giơ cây đũa phép lên một lần nữa. Cả ba cái ly đều biến mất.
“Nhưng quívị cũng biết là có cách tốt hơn mà, ấy là cứ uống đi cho rồi.”
Có vẻ như dượng Vernon sắp nổ tung ra với vô số phản đối khó chịu, nhưng ông ta chỉ thụp trở xuống đám gối nệm cùng với dì Petunia và Dudley mà
không nói gìcả, hai con mắt heo ti hícứ ngó chừng cây đũa phép của cụ Dumbledore.
“Con thấy đó,” cụ Dumbledore nói, quay lại với Harry, và một lần nữa chuyện trò như thể dượng Vernon đã không hề chen ngang vô tiếng nào. “Nếu con
thực sự thừa kế căn nhà thìcon cũng được thừa kế...”
Cụ Dumbledore phẩy cây đũa phép lần thứ năm. Một tiếng “cách” lớn vang lên, và một gia tinh xuất hiện với một cái vòi thế chỗ cho cái mũi, hai cái tai
dơi khổng lồ, và đôi mắt ngầu đỏ to thô lố, đang phủ phục trên tấm thảm dày của nhà Dursley, mình mẩy phủ toàn giẻ rách bẩn thỉu. Dì Petunia thốt ra một
tiếng thét dựng tóc gáy, chưa bao giờ trong lịch sử từng có một vật bẩn thỉu như thế bước chân vô nhà dì. Dudley co đôi chân trần hồng hào béo tốt của
nó lên khỏi sàn và cứ ngồi với hai chân giơ lên gần quá đầu, như thể nó tưởng cái sinh vật đó có thể chạy lên theo ống quần ngủ của nó.
“Cái đồ quỉ gìvậy?” Dượng Vernon rống lên.
“Kreacher,” cụ Dumbledore nói dứt câu.
“Kreacher không, Kreacher không, Kreacher không.” Con gia tinh la ông ổng, tiếng gần to bằng tiếng của dượng Vernon, dẫm thình thình hai chân cáu
bẩn và kéo giật hai vành tai tổ chảng của nó.
“Kreacher thuộc về cô Bellatrix, ừ, đúng, Kreacher thuộc về dòng họ Black, Kreacher muốn cô chủ mới, Kreacher không muốn theo thằng ranh con hỗn
xược Potter, Kreacher không, không, không.”
“Như con có thể thấy đó, Harry,” cụ Dumbledore nói to, át mấy tiếng không, không, không. “Kreacher đang cho thấy có một sự miễn cưỡng nhất định
trong việc chuyển giao quyền sở hữu sang con.”
“Con không quan tâm,” Harry nói một lần nữa, ghê tởm nhìn con gia tinh đang lăn lộn gào thét. “Con không muốn nó.”
“Không, không, không, không…”
“Chẳng lẽ con lại muốn chuyển quyền sở hữu nó sang cho Bellatrix hơn à? Hãy nhớ rằng nó đã sống ở Tổng hành dinh của Hội Phượng hoàng trong suốt
năm qua.”
“Không, không, không, không…”
Harry nhìn chằm chằm cụ Dumbledore. Nó hiểu Kreacher không thể nào được phép ra đi và đến sống với Bellatrix Lestrange, nhưng cái ý nghĩ phải làm
chủ Kreacher, phải chịu trách nhiệm về một sinh vật đã từng phản bội chú Sirius khiến nó thấy tởm lợm.
“Hãy ra lệnh cho nó,” cụ Dumbledore nói. “Nếu nó đã được chuyển giao cho con làm chủ, thì nó sẽ phải vâng lời. Nếu không, lúc đó chúng ta sẽ phải nghĩ
đến những biện pháp khác để cách ly nó với bà chủ hợp pháp của nó.”
“Không, không, không, KHÔNG!”
Giọng của Kreacher cất cao lên thành một tiếng rú. Harry không thể nghĩra cái gìđể nói, ngoại trừ:
“Kreacher, im mồm!”
Trong một thoáng, có vẻ như Kreacher sắp tắt thở. Nó chụp lấy cổ họng, mồm nó vẫn còn láp váp một cách điên cuồng, hai con mắt nó lồi hẳn ra. Sau vài
giây hớp hơi một cách điên cuồng, nó tự quăng mình nằm sấp lên tấm thảm (dì Petunia khóc thút thít) và đấm đá cái sàn bằng cả hai tay và hai chân, tự
chuyển mình qua một cơn cuồng nộ dữ dội, nhưng hoàn toàn yên lặng.
“Tốt, điều đó đơn giản hóa nhiều vấn đề,” cụ Dumbledore phấn khởi nói. “Dường như chú Sirius hiểu điều mà chú ấy làm. Con là người thừa kế hợp
pháp của số mười hai Quảng trường Grimmauld và của Kreacher.”
“Con có phải... có phải giữ nó bên mình không?”
Harry thất kinh hồn vía hỏi lại trong khi Kreacher quẫy đập quanh chân nó.
“Không, nếu con không muốn,” cụ Dumbledore nói. “Nếu được, thầy đề nghị con nên gởi nó tới trường Hogwarts để làm việc trong nhà bếp của trường.
Bằng cách đó, những gia tinh khác có thể trông chừng nó.”
“Phải đó!” Harry reo lên nhẹ nhõm. “Phải đó, con sẽ làm như vậy. Ơ... Kreacher… ta muốn mi tới trường Hogwarts và làm việc trong nhà bếp của trường
với những gia tinh khác.”
Kreacher lúc này đã xoay ra nằm ngửa trên sàn, giơ cả hai chân hai tay lên không trung, ngó Harry ngược từ dưới lên trên bằng cái nhìn kinh tởm sâu
sắc nhất, rồi cùng với một tiếng “cạch” lớn, nó biến mất.
“Tốt,” cụ Dumbledore nói. “Cũng còn một vấn đề về con bằng mã Buckbeak bây giờ đã thuộc về con, cho nên nếu muốn thu xếp cách khác…”
“Không,” Harry nói ngay. “Nó có thể ở lại với bác Hagrid. Con nghĩBuckbeak thích như vậy hơn.”
“Hagrid sẽ vui mừng lắm,” cụ Dumbledore nói. “Bác ấy rất xúc động khi gặp lại con Buckbeak. Nhân tiện, chúng ta đã quyết định, vì sự an toàn của
Buckbeak, tạm thời sửa lại tên của nó là Witherwings, mặc dù thầy không tin rằng Bộ có thể đoán ra nó chính là con bằng mã mà họ đã từng kêu án tử
hình. Thôi, Harry, hòm xiểng của con xong chưa?”
“Dạ…”
“Con nghi ngờ là thầy không đến sao?” cụ Dumbledore nói một cách sắc xảo.
“Con sẽ đi… và ơ… làm xong ngay,“ Harry hấp tấp nói, vội vàng nhặt nhạnh lại cái kính thiên văn và đôi giày thể thao.
Nó mất chừng hơn mười phút một tí để tìm ra những thứ mà nó cần; cuối cùng nó cũng loay hoay rút ra được cái Áo khoác tàng hình từ dưới gầm
giường, vặn lại cái nút hũ mực đổi màu, và ấn được cái nắp rương đóng đè xuống cái vạc cố nhét bên trong. Xong, một tay cố kéo cái rương, tay kia
xách cái chuồng con Hedwig, nó đi trở xuống cầu thang.
Nó thất vọng thấy cụ Dumbledore không chờ nó ở trong hành lang, có nghĩa là nó phải trở lại phòng khách.
Chẳng ai nói năng gì cả. Cụ Dumbledore đang ngâm nga khe khẽ, hiển nhiên là thoải mái dễ chịu, nhưng không khí còn đặc hơn cả cái bánh trứng nguội
lạnh, và Harry không dám nhìn gia đình Dursley khi nó nói:
“Thưa giáo sư, con đã sẵn sàng rồi ạ.”
“Tốt,” cụ Dumbledore nói. “Vậy thì chỉ còn một chuyện nữa thôi.” Và cụ quay qua nói chuyện với gia đình Dursley một lần nữa. “Chắc chắn là ông bà biết,
Harry sẽ tới tuổi trưởng thành trong vòng một năm nữa.”
“Không,” dìPetunia nói, lần đầu tiên kể từ khi cụ Dumbledore bước vô nhà.
“Cho phép tôi hỏi lại?” cụ Dumbledore nói một cách lịch sự.
“Không, nó chưa đủ tuổi trưởng thành. Nó nhỏ hơn Dudley một tháng, và tới năm sau của năm sau nữa Dudley mới đủ mười tám tuổi.”
“A,” cụ Dumbledore vui vẻ nói. “Nhưng trong thế giới Pháp thuật, chúng tôi trưởng thành khi đủ mười bảy tuổi.”
Dượng Vernon lẩm bẩm, “Lố bịch,” nhưng cụ Dumbledore phớt lờ ông ta.
“Giờ đây, như ông bà biết, vị pháp sư tên là Voldermort đã trở lại đất nước này. Cộng đồng Pháp thuật hiện đang lâm vào tình trạng chiến tranh công
khai. Harry, người mà chúa tể Voldermort đã cố gắng giết đi trong nhiều dịp, giờ đây ở trong tình cảm còn nguy hiểm hơn cả cái ngày mà tôi bỏ nó trên
ngạc cửa nhà ông bà cách đây mười lăm năm, kèm một lá thư giải thích về việc cha mẹ nó bị ám sát và bày tỏ niềm hy vọng rằng ông bà sẽ chăm sóc nó
như thể con cái mình.”
Cụ Dumbledore ngừng lại, mặc dù giọng nói của cụ vẫn nhẹ nhàng bình tĩnh, và cụ chẳng tỏ dấu hiệu nào của sự giận dữ, Harry vẫn cảm thấy một cơn
lạnh thấu gìđó phát ra từ cụ và nó nhận thấy gia đình kia co cụm lại sát với nhau.
“Ông bà đã không làm đúng như tôi yêu cầu. Ông bà chưa bao giờ đối xử với Harry như con cái. Nó chẳng nhận được gì từ tay ông bà, ngoại trừ sự bỏ
bê và ác nghiệt. Điều tốt nhất còn kể ra được là ít ra thì nó cũng đã thoát được sự hư hỏng đáng sợ mà ông bà đã gây ra cho thằng bé bất hạnh đang
ngồi giữa ông bà kia.”
Cả dìPetunia và dượng Vernon đều ngoái đầu nhìn ra sau theo bản năng, như thể trông mong nhìn thấy một ai đó khác Dudley đang ngồi nép vô giữa hai
người.
“Chúng tôi... chúng tôi mà đối xử tệ bạc với Dudders à? Ông muốn nói...”
Dượng Vernon bắt đầu nói một cách giận dữ, nhưng cụ Dumbledore giơ ngón tay lên để giữ yên lặng, một sự yên lặng như thể cụ đã táng cho dượng
Vernon một cái khờ luôn.
“Pháp thuật mà tôi khơi lên cách đây mười lăm năm có ý nghĩa là Harry có được sự bảo vệ mạnh mẽ khi nó còn có thể gọi căn nhà này là ‘nhà’. Cho dù ở
đây nó đã khốn khổ thế nào đi nữa, cho dù nó bị ghẻ lạnh thế nào đi nữa, cho dù nó bị đối xử tàn tệ thế nào đi nữa, ông bà đã cho nó một mái nhà, dù
một cách bất đắc dĩ. Pháp thuật này sẽ hết hiệu lực khi Harry đủ mười bảy tuổi; hay nói cách khác, khi nó trở thành một người dàn ông. Tôi chỉ yêu cầu
điều này: rằng ông bà hãy cho phép Harry trở về căn nhà này một lần nữa, trước sinh nhật thứ mười bảy của nó, điều này sẽ bảo đảm rằng nó còn tiếp
tục có được sự bảo vệ cho tới lúc đó.
Chẳng người nào trong gia đình Dursley nói lời nào. Dudley hơi cau mày, mặc dù nó vẫn còn đang cố gắng suy ra xem nó từng bị đối xử tệ bạc hồi nào.
Dượng Vernon thìtrông như thể bị cái gìđó vướng mắc trong cổ họng; tuy nhiên, dìPetunia thìlại xúc động một cách kỳ cục.
“Thôi, Harry... đã tới lúc chúng ta lên đường.”
Cuối cùng cụ Dumbledore cũng lên tiếng. Cụ đứng lên và kéo cho ngay lại tấm áo khoác dài màu đen.
“Hẹn đến lúc chúng ta gặp lại,” cụ nói với gia đình Dursley, mấy người này tỏ vẻ như thể thời khắc đó có thể mãi mãi không bao giờ tới. Và sau khi đội
mũ, cụ lướt đi ra khỏi phòng.
“Chào,” Harry vội vã nói với gia đình Dursley, rồi bước theo cụ Dumbledore. Cụ đnưgs cạnh cái rương của Harry, bên trên rương đặt cái chuồng của con
Hedwig.
“Lúc này chúng ta không muốn bị vướng víu những thứ này,” cụ nói, lại rút cây đũa phép ra một lần nữa.
“Thầy sẽ gởi chúng tới Hang Sóc đợi chúng ta ở đó. Tuy nhiên, thầy muốn con mang theo bên mình Áo khoác tàng hình... phòng khi cần đến.”
Harry rút tấm áo khoác của nó ra khỏi cái rương một cách khó khăn, cố gắng không bày cho cụ Dumbledore thấy cái đống hầm bà lằng hổ lốn bên trong
cái rương. Khi nó đã nhét tấm áo vô một cái túi bên trong cái áo gió, cụ Dumbledore vẫy cây đũa phép, và cái rương, cái chuồng, cùng con Hedwig đều
biến mất. Cụ Dumbledore lại vẫy cây đũa phép một lần nữa, và cánh cửa trước mở ra một bóng tối mù sương mát lạnh.
“Và bây giờ, Harry à, chúng ta hãy ra đi, bước vào đêm và đuổi theo cô ả phù phiếm – cuộc phiêu lưu.”
Chương 4
Horace Slughorn
Bất chấp cái việc Harry đã giành hết từng giây phút không ngủ trong mấy ngày qua hy vọng một cách tha thiết rằng cụ Dumbledore sẽ đến đón mình đi
thực sự, nó vẫn cảm thấy lúng túng lộ liễu khi hai thầy trò ra tới đường Privet Drive. Trước giờ nó chưa từng trải qua một cuộc chuyện trò thực sự nào với
thầy hiệu trưởng ở bên ngoài khuôn viên trường Hogwarts; giữa hai người luôn có một cái bàn làm việc. Ký ức về cuộc gặp gỡ mặt-đối-mặt vừa qua
giữa hai người lại cứ hay trỗi dậy, và chuyện đó càng làm Harry bối rối thêm; nó đã la thét hơi nhiều trong dịp đó, ấy là không kể nó đã thi thố hết tài năng
để làm tan tành nhiều món đồ đạc được cụ Dumbledore tưng tiu nhất.
Tuy nhiên, cụ Dumbledore có vẻ hoàn toàn thư thái. Cụ rạng rỡ nói:
“Thủ sẵn cây đũa phép của trò nhé, Harry”
“Nhưng thưa thầy, con tưởng con không được phép sử dụng pháp thuật bên ngoài trường học chớ?”
“Nếu có một cuộc tấn công,” cụ Dumbledore nói, “thầy cho phép con sử dụng bất cứ phép kháng-bùa hay lời nguyền nào mà con biết xài. Tuy nhiên, thầy
không nghĩrằng con cần phải lo lắng về chuyện bị tấn công vào tối nay.”
“Thưa thầy, tại sao không ạ?”
“Con đang ở bên thầy,” cụ Dumbledore nói một cách đơn giản. “Điều này đủ đảm bảo an toàn, Harry à.”
Cụ đột ngột dừng chân giữa đường Privet Drive.
“Dĩnhiên là con chưa trải qua kỳ Sát hạch Độn thổ, đúng không?” cụ hỏi
“Dạ chưa,” Harry đáp. “Con tưởng phải đủ mười bảy tuổi mới được thi.”
“Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Vậy là con phải bám vô cánh tay thầy thật chặt. Tay trái, nếu không phiền… như con đã nhận thấy đó, tay cầm cây đũa
phép của thầy lúc này hơi yếu.”
Harry bám chặt cánh tay cụ Dumbledore đưa ra. Cụ bảo:
“Tốt lắm. Nào, chúng ta đi.”
Harry cảm thấy cánh tay cụ Dumbledore xoắn tuột khỏi bàn tay nó. Nó bèn bám chặt hơn nữa. Việc tiếp theo mà nó nhận ra là mọi thứ bỗng đen hù; nó bị
ép rất mạnh từ mọi hướng; nó không thể thở nổi, có những đai sắt chằng quanh ngực nó; tròng mắt nó bị đẩy ngược vô tuốt bên trong đầu, màng tai nó
bị đẩy sâu hơn vô trong hộp sọ và rồi…
Nó há họng đớp đầy phổi làn khí lạnh ban đêm và mở to đôi mắt đang trào nước. Nó cảm thấy như thể mới vừa bị nhét qua một cái ống cao su rất chặt.
Nó mất vài giây định thần mới nhận ra con đường Privet Drive đã biến mất. Nó và cụ Dumbledore lúc này đang đứng ở một nơi có vẻ như một sân làng
hoang phế, ở giữa sân có một tượng đài kỷ niệm chiến tranh và vài băng ghế dài. Khi đầu óc đã băts kịp cảm xúc, Harry hiểu ra nó vừa mới được độn
thổ lần đầu tiên trong đời.
“Con có sao không?” Cụ Dumbledore ngó xuống nó lo lắng hỏi. “Cảm giác đó rồi sẽ quen đi.”
“Con không sao.” Harry nói, chà xát hai lỗ tai, có vẻ như hai lỗ tai nó hơi bất đắc dĩ phải rời bỏ con đường Privet Drive. “Nhưng con thấy khoái chổi bay
hơn...”
Cụ Dumbledore mỉm cười, kéo tấm áo khoác lữ hành lên sát quanh cổ hơn một chút, và nói:
“Đi lối này.”
Cụ bước đi rất nhanh, băng qua một cái quán tọ trống không và vài căn nhà. Theo như cái đồng hồ trên tháp một nhà thờ kế đó thì đã gần nửa đêm. Cụ
Dumbledore nói:
“Nào Harry, nói cho thầy nghe, cái thẹo của con… dạo này còn đau không?”
Harry đưa bàn tay lên trán một cách vô thức và xoa xoa cái dấu hình tia chớp. Nó nói:
“Dạ không. Và con đang thắc mắc về việc đó. Con tưởng nó sẽ phải rát hơn bao giờ hết chớ, vìbây giờ Voldermort đã lại có quyền lực rồi.”
Nó ngước nhìn lên cụ Dumbledore và thấy vẻ hài lòng trên mặt cụ. Cụ Dumbledore nói:
“Nhưng thầy thì nghĩ ngược lại. Chúa tể Voldermort cuối cùng đã nhận ra rằng lâu nay con hơi khoái việc tiếp cận nguy hiểm vào suy nghĩ và tình cảm của
hắn. Có vẻ như bây giờ hắn đang xài bùa Bế quan chống lại con.”
“Thế cũng được. Con cũng chẳng phiền,” Harry nói. Nó chẳng tiếc nhớ gì cả những giấc chiêm bao đầy xáo trộn đến những phát nháng đến sững sờ rọi
vô bên trong đầu óc Voldermort.
Hai người quẹo qua một góc đường, đi ngang qua một trạm điện thoại công cộng và một trạm chờ xe buýt. Harry lại nhìn ngang cụ Dumbledore một lần
nữa.
“Thưa thầy…”
“Gìhở Harry?”
“Ơ… Chúng ta đang ở đâu đây?”
“Harry à, đây là làng Budleigh Babberton xinh đẹp.”
“Chúng ta sẽ làm gìở đây ạ?”
“À phải, đương nhiên rồi, thầy chưa nói với con,” cụ Dumbledore đáp. “Chà, thầy đã đếm hết nổi số lần thầy đã nói điều này trong những năm gần đây,
nhưng một lần nữa thầy lại phải nói rằng chúng ta thiếu một thành viên trong giáo ban. Chúng ta tới đây để thuyết phục một đồng nghiệp cũ của thầy đừng
nghỉ hưu nữa để trở về dạy ở trường Hogwarts.”
“Thưa thầy, con giúp gìđược trong chuyện này ạ?”
“À, thầy nghĩsẽ kiếm được chỗ để xài tới con,” cụ Dumbledore nói một cách mơ hồ. “Quẹo trái, Harry.”
Hai người đi lên một con đường hẹp rất dốc, hai bên nhà cửa san sát. Tất cả cửa sổ đều tối thui. Trận lạnh giá kỳ quái đã tan từ hai tuần trước ở đường
Privet Drive, nhưng vẫn còn dai dẳng ở đây. Nghĩđến bọn giám ngục, Harry ngoái lại sau liếc mắt nhìn, nắm chặt lấy cây đũa phép trong túi áo.
“Thưa thầy, tại sao chúng ta không độn thổ thẳng vô nhà đồng nghiệp của thầy cho gọn?”
“Bởi vì như vậy thì bất lịch sự không kém gì đá tông vô cửa nhà người ta,” cụ Dumbledore nói. “Phép lịch sự đòi hỏi chúng ta phải chừa lại cho các pháp
sư cơ hội từ chối đón tiếp chúng ta. Vả lại, hầu hết nhà cửa của dân pháp thuật đều được bảo vệ bằng bùa chống lại những cuộc đột nhập bằng độn thổ.
Chẳng hạn ở trường Hogwarts…”
“Không ai có thể độn thổ ở bất cứ đâu bên trong lâu đài hay ngoài sân vườn. Hermione Granger có nói với con như vậy,” Harry nhanh nhẩu nói.
“Và trò ấy hoàn toàn đúng. Chúng ta quẹo trái một lần nữa.”
Đằng sau hai thầy trò, chuông đồng hồ nhà thờ điểm nửa đêm. Harry thắc mắc tại sao cụ Dumbledore không coi việc đến thăm đồng nghiệp cũ vào đêm
hôm khuya khoắt như vầy cũng là bất lịch sự, nhưng giờ đây hai thầy trò đã trò chuyện thoải mái rồi, Harry có nhiều câu hỏi cấp bách hơn để mà hỏi.
“Thưa thầy, con coi trên Nhật báo Tiên Tri ông Fudge đã bị mất chức…”
“Đúng,” cụ Dumbledore đáp. Lúc này cụ đang đi ngược lên phía dốc đứng của con đường. “Thầy chắc là con cũng có đọc thấy rằng ông ấy đã bị ông
Rufus Scrimgeour thay thế. Ông này vốn là Giám đốc Sở Thần sáng.”
“Ông ấy… Thầy có nghĩlà ông ấy tốt không?” Harry hỏi.
“Một câu hỏi thú vị,” cụ Dumbledore nói. “Chắc chắn là ông ấy có khả năng. Một tính cách mạnh mẽ cả quyết hơn ông Cornelius.”
“Dạ, nhưng ý con…”
“Thầy hiểu ý con. Rufus là một người hành động, và vì đã từng chiến đấu chống các phù thủy Hắc ám gần như suốt cả đời công tác, nên không đánh giá
thấp Chúa tể Voldermort.”
Harry chờ đợi, nhưng cụ Dumbledore chẳng nói gì tới chuyện cụ bất đồng với ông Scrimgeour mà tờ Nhật báo Tiên Tri đã tường thuật, và nó cũng chẳng
dám theo đuổi chủ đề đó, cho nên nó đổi đề tài:
“Và… thưa thầy… Con có đọc tin về bà Bones.”
“Ừ,” cụ Dumbledore khẽ nói. “Một mất mát kinh khủng. Bà ấy là một phù thủy vĩđại. Thầy nghĩ, ngay ở đây thôi… Ối.”
Cụ đã chỉ hướng bằng bàn tay bị thương.
“Thưa thầy, chuyện gìđã xảy ra với bàn tay của…”
“Bây giờ thầy không có đủ thì giờ để giải thích cho con,” cuh Dumbledore nói. “Đó là cả một câu chuyện gay cấn mà thầy muốn dành cho nó lượng thời
gian xứng đáng hơn.”
Cụ mỉm cười với Harry. Nó hiểu rằng cụ không muốn làm cho nó cụt hứng, và rằng nó được phép tiếp tục hỏi.
“Thưa thầy… Con nhận được bằng bưu cú một tờ bướm của Bộ Pháp thuật, về những biện pháp an ninh mà tất cả chúng ta cần thực hiện để chống lại
bọn Tử thần thực tử…”
“Ừ, chính thầy cũng nhận được một bản,” cụ Dumbledore nói, vẫn mỉm cười. “Con có thấy tờ đó có ích gìkhông?”
“Không ích gìmấy ạ.”
“Thầy cũng nghĩlà không. Nãy giờ con đã không hỏi thầy, thídụ, mùi mứt nào thầy thích nhất, để kiểm tra coi thầy có đúng thật là giáo sư Dumbledore chứ
không phải một kẻ giả danh đội lốt không.”
“Con không…” Harry chỉ mới mở miệng, không hoàn toàn chắc là liệu có phải thầy đang rầy nó hay không.
“Để dùng trong tương lai, Harry à, con nên biết đó là mùi mứt dâu đỏ… Mặc dù, dĩ nhiên, nếu thầy là một Tử thần thực tử thì thầy ắt sẽ phải nghiên cứu
sở thích mùi mứt của chính thầy trước khi hóa thân thành chính thầy.”
“Ơ… Đúng vậy,” Harry nói. “À, trong tờ bướm có nói cái gìđó về Âm binh. Chính xác là gìvậy thầy? Tờ bướm nói không rõ lắm.”
“Chúng là những xác chết,” cụ Dumbledore bình tĩnh nói. “Những xác chết đó đã bị phù phép để làm theo lệnh của một phù thủy Hắc ám. Tuy nhiên, lâu lắm
rồi chẳng ai nhìn thấy Âm binh đâu cả, kể từ khi Voldermort đầy quyền lực lần cuối… Hắn đã giết đủ người để thành lập cả một đội quân xác chết, tất
nhiên. Chỗ này đây, Harry, ngay đây…”
Hai thầy trò đang ở gần một ngôi nhà nhỏ xây bằng đá xinh xắn giữa một khu vườn riêng. Harry còn đang bận tiêu hóa cái khái niệm khủng khiếp về bọn
Âm binh nên chẳng còn tâm trí đâu để ý đến cái gì khác, nhưng khi hai người đi tới gần cổng trước, cụ Dumbledore chợt đứng khựng lại khiến Harry
đâm sầm vào cụ.
“Ối, ôi thôi, ôi ôi…”
Harry nhướng mắt theo cái nhìn chăm chú của Dumbledore vào lối đi nhỏ được chăm chút kỹ lưỡng phía trước nhà và cảm thấy trái tim nó chùng xuống.
Cửa chính ngôi nhà đã bị bung khỏi bản lề.
Cụ Dumbledore liếc nhìn từ đầu đường đến cuối đường. Con đường hoàn toàn vắng ngắt. Cụ khẽ nói:
“Rút đũa phép ra và đi theo thầy, Harry.”
Cụ mở cánh cổng và bước vừa nhanh vừa lặng lẽ trên lối đi nhỏ băng qua khu vườn, Harry bám sát gót thầy. Rồi cụ Dumbledore chầm chậm đẩy cánh
cửa chính, cây đũa phép của cụ giơ cao và sẵn sàng.
“Tỏa sáng.”
Đầu cây đũa phép của cụ Dumbledore bùng lên ngọn lửa, soi ánh sáng của nó lên một hành lang hẹp. Một cánh cửa khác ở ngay bên trái để mở. Giơ
cao cây đũa phép có đốm lửa, cụ Dumbledore đi vô phòng khách với Harry bám sát sau lưng.
Mắt họ thấy một cảnh tan hoang hoàn toàn. Một cái đồng hồ cổ bể tanh banh nằm ngay dưới chân hai thầy trò, mặt đồng hồ rạn nứt, còn quả lắc bị văng
ra nơi xa giống như một thanh kiếm rớt. Bên cạnh đó là một cây đàn dương cầm, phím của nó cũng bị văng ra sàn nhà. Mảnh vở của cây đèn chùm bị rớt
nằm lấp lánh gần đó. Mấy cái gối nằm bẹp dí, lông nhồi gối phòi ra từ vết rạch; mảnh vụn của đồ sứ và thủy tinh bị nát như bột phủ lên mọi thứ. Cụ
Dumbledore giơ cây đũa phép cao hơn nữa, để ánh sáng của nó rọi lên những bức tường, nơi có cái gì đó màu đỏ sậm và nhơn nhớt được trét lên giấy
dán tường. Harry hít vô một hơi ngắn khiến cụ Dumbledore quay nhìn lại. Cụ nói một cách nặng nhọc:
“Không đẹp lắm, hả?”
Cụ di chuyển cẩn thận vô giữa phòng, chăm chú xem xét những mảnh vụn dưới chân. Harry đi theo, dáo dác nhìn quanh, có phần sợ sệt nhỡ đâu bắt gặp
cái gìđó ẩn náu đằng sau đống tan nát của cây đàn dương cầm hay cái ghế sofa bị lật úp, nhưng chẳng có dấu vết của ai cả.
“Thưa thầy, có lẽ đã có một trận quyết đấu và… và chúng đã lôi xác ông ấy đi.” Harry đưa ra giả thuyết, cố gắng không tưởng tượng rằng người đó ắt là
bị thương nặng lắm mới để lại những vết máu văng tung tóe lên lưng chừng những bức tường.
“Thầy không nghĩvậy,” cụ Dumbledore nói khẽ, chăm chú nhìn phía sau của một cái ghế bành nhồi quá căng nằm lăn một bên.
“Thầy muốn nói là ông ấy…”
“Vẫn còn ở đâu đây. Đúng vậy.”
Và không hề báo trước, cụ Dumbledore thụp xuống, thọc cây đũa phép vào chỗ ngồi của cái ghế bành nhồi quá căng ấy. Cái ghế bèn kêu ré lên:
“Ối!”
“Chào anh, Horace,” cụ Dumbledore nói. Cụ đứng thẳng trở lại.
Harry há hốc miệng. Ở chỗ trước đó nửa giây vốn là cái ghế bành thì giờ đây lại ngồi thu lu một ông già đầu hói cực kỳ mập mạp. Ông ta đang xoa xoa
bụng và liếc xéo lên cụ Dumbledore bằng đôi mắt buồn phiền ươn ướt.
“Đâu có cần phải thọc cây đũa phép mạnh dữ vậy. Đau chết đi.”
Ánh sáng của cây đũa phép soi lấp lánh cái sọ bóng lưỡng và đôi mắt lồi, bộ ria hải mã vĩ đại, và bộ nút được đánh bóng ngời ngời của tấm áo khoác
nhung mà ông ta mặc bên ngoài bộ đồ ngủ màu tím hồng. Đỉnh đầu ông chưa nhóng tới cằm cụ Dumbledore.
“Cái gì làm lộ vậy ta?” Ông càu nhàu khi lảo đảo đứng lên, vẫn xoa xoa cái bụng phệ. Bị phát hiện ra đang giả dạng một cái ghế bành như vậy mà ông
vẫn chẳng hề nao núng thìquả là đáng nể.
“Anh Horace thân mến của tôi ơi,” cụ Dumbledore nói, có vẻ vui thích. “Nếu bọn Tử thần thực tử thực sự đến tìm anh, thì phía trên mái nhà phải xuất hiện
Dấu hiệu Hắc ám chớ.”
Vị phù thủy vỗ một bàn tay múp míp lên cái trán rộng.
“Dấu hiệu Hắc ám,” ông lẩm bẩm. “Đã biết là có cái gì đó... ờ, đúng vậy. Đằng nào thì cũng không có thì giờ, tôi chỉ mới bày biện xong đám đồ đạc khi
anh bước vô phòng.”
Ông ta thở khìra một cái thiệt to khiến cho bộ ria run nhè nhẹ.
“Anh có cần tôi dọn dẹp giúp giúp một tay không?” cụ Dumbledore lịch thiệp đề nghị.
“Vâng, làm ơn,” ông ta đáp.
Hai người đứng đâu lưng lại với nhau, một pháp sư gầy cao lêu nghêu và một pháp sư tròn quay lùn xủn, và cả hai cũng vẫy cây đũa phép của mình trong
cùng một động tác quét y hệt nhau.
Bàn ghế bay vèo vèo trở lại vị trí ban đầu của chúng. Chùm đèn trang trí lại treo lơ lửng trên không, lông nhồi gối chui hết trở vô gối, sách rách te tua tự
lành lại khi bay lên kệ, đền dầu bay vút lên mặt bàn nhỏ và thắp sáng trở lại. Một đám khổng lồ những cái khung tranh bằng bạc bay vi vút ngang qua căn
phòng và đáp xuống trên cái bàn làm việc, nguyên vẹn và không chút tì vết. Khắp nơi, những vết xước, vết nứt, những lỗ hổng đều tự bít lại, và những bức
tường tự lau chùi sạch sẽ.
“Nhân tiện xin hỏi, đó là loại máu gìvậy?” cụ Dumbledore hỏi to để át tiếng gõ boong boong của cái đồng hồ cổ vừa mới hết bể.
“Trên tường hả? Rồng,” vị phù thủy tên là Horace hét lên, trong tiếng nghiến ken két và kêu leng keng của chùm đèn treo đang tự rút mình treo lên trần
phòng.
Một tiếng tưng cuối cùng vang ra từ cây đàn dương cầm, rồi im ắng.
“ Ừ, rồng,” vị phù thủy lặp lại trong cơn hứng chuyện trò. “Chai cuối cùng của tôi, và giá cả lúc này thìcao tận trời. Dù vậy, có thể dùng lại được.”
Ông chồm tới vớ một chai thủy tinh nhỏ để trên đầu tủ ly chén và giơ nó ra phía ánh sáng xem xét cái chất lỏng đậm đặc bên trong chai.
“Hừm, hơi dơ.”
Ông đặt cái chai trở lại đầu tủ và thở dài. Chính lúc đó cái nhìn chăm chú của ông rớt xuống Harry.
“Ố ồ,” ông nói, con mắt tròn to của ông lượn lờ trên vầng trán của Harry và cái thẹo hình tia chớp của nó.
“À há.”
“Đây,” cụ Dumbledore nói, di chuyển tới trước để giới thiệu. “Đây là Harry Potter. Harry, đây là một người bạn và đồng nghiệp cũ của thầy, thầy Horace
Slughorn.”
Slughorn quay sang cụ Dumbledore, mặt ông nhăn lại.
“Thế ra đây là cách anh tưởng sẽ thuyết phục được tôi à? Chà, câu trả lời là không, anhAlbus à.”
Ông đẩy Harry qua một bên, ngoảnh mặt đi một cách cương quyết với cái vẻ của một người dang cố gắng kháng cự lại một ham muốn.
“Thìít nhất chúng ta cũng có thể làm một ly. Để ôn kỷ niệm xa xưa,” cụ Dumbledore nói.
Ông Slughorn ngập ngừng.
“Thôi được, một ly vậy,” ông nói một cách miễn cưỡng.
Cụ Dumbledore mỉm cười với Harry và dẫn nó đến một cái ghế, không giống cái mà ông Slughorn đã giả dạng, đặt ngay bên cạnh cái lò sưởi vừa được
đốt lên và ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng rực rỡ. Harry ngồi xuống ghế với một cảm tưởng rõ rệt rằng cụ Dumbledore, vì lý do nào đó, muốn cho người ta
phải luôn thấy nó rõ. Rõ ràng là ông Slughorn, lúc ấy đang bận bịu với bình cổ cong và ly pha lê, khi quay mặt lại căn phòng một lần nữa, thì ngay lập tức
ánh mắt rớt trúng phải Harry.
“Hừm,” ông nói, nhìn thiệt lẹ sang hướng khác như thể sợ làm đau mắt mình.
“Đây...” ông đưa ly rượu cho cụ Dumbledore, cụ đã ngồi xuống mà không cần mời mọc, đoạn ông đẩy cái khay về phía Harry, rồi ngồi lọt thỏm vô đống
gối trên cái ghế sofa đã được sửa sang, và rồi một sự im lặng khó chịu lan ra. Chân của ông ngắn quá nên không chạm tới sàn.
“Sao, dạo này sức khỏe ra sao, anh Horace?”
“Không khá lắm,” ông Horace đáp ngay. “Phổi yếu. Khò khè. Thấp khớp nữa. Không thể đi đứng như trước đây. Ôi, tất phải vậy thôi. Già rồi. Mệt mỏi.”
“Thế nhưng mà anh ắt là di chuyển khá lẹ mới chuẩn bị được một cuộc đón tiếp chúng tôi ngoạn mục như vầy, với thời gian báo trước quá ngắn đó chớ,”
cụ Dumbledore nói. “Anh đâu có được báo trước nhiều hơn ba phút đâu nhỉ?”
Ông Slughorn nói, nửa quạo quọ nửa tự hào:
“Hai. Không nghe cái bùa Đột nhập của tôi báo động, tại đang tắm. Dù vậy,” ông nghiêm trang nói thêm, dường như đang cố gắng lấy lại thế tự chủ, “cái
sự thật vẫn sờ sờ ra đó, tôi là một ông già, anhAlbus à. Một ông già về hưu xứng đáng có được một đời sống yên tĩnh và chút ít rượu ngon.”
Ông chắc chắn là đang có những thứ đó, Harry vừa nghĩ, vừa nhìn chung quanh căn phòng. Căn phòng ngột ngạt và lộn xộn, nhưng đừng ai nói là nó
không tiện nghi thoải mái; có ghế nệm êm và ghế gác chân, có rượu và sách, mấy hộp sôcôla và mấy cái gối phồng xốp. Nếu Harry không biết ai sống ở
đây, nó sẽ tưởng chủ nhân là một bà già giàu có và kiểu cọ.
“Anh đâu đã già bằng tôi, anh Horace?” cụ Dumbledore nói.
“Ừ, có lẽ chính anh cũng nên nghĩđến chuyện về hưu đi,” ông Slughorn huỵch tẹt. Hai con mắt xanh nhạt màu trái chùm ruột của ông đã nhìn thấy bàn tay bị
thương của cụ Dumbledore. “Phản xạ không còn như xưa nữa, tôi hiểu.”
“Anh hoàn toàn đúng,” cụ Dumbledore nói một cách bình thản, hất ống tay áo ngược lên để lộ đầu những ngón tay bị phỏng và thâm đen; cảnh tượng này
làm Harry nổi gai ốc một cách khổ sở.
“Tôi chắc chắn chậm hơn xưa. Nhưng mặc khác...” Cụ nhún vai và xòe bàn tay rộng ra, như thể muốn nói rằng tuổi tác cũng có sự đền bù, và Harry nhận
thấy một chiếc nhẫn đeo trên bàn tay không bị thương của cụ mà nó chưa từng thấy cụ đeo trước đây: chiếc nhẫn đó to, hơi thô, làm bằng một thứ có lẽ
là vàng, và được nạm bằng một viên đá đen đã bị nứt xuống ở chính giữa. Đôi mắt của ông Slughorn cũng ve vãn chiếc nhẫn một lát, và Harry nhìn thấy
một tícau mày thoáng qua làm nhăn vầng trán rộng của ông.
“Vậy, tất cả những sự đề phòng chống đột nhập này, anh Horace à... chúng nhằm chống lại bọn Tử thần thực tử, hay là tôi?” cụ Dumbledore hỏi.
“Bọn Tử thần thực tử thìcần gìở một cái gối đệm cũ te tua tội nghiệp như tôi?” ông Slughorn hỏi vặn lại.
“Tôi cho rằng chúng muốn anh biến những tài năng đáng kể của mình thành áp bức, tra tấn, và ám sát.” Cụ Dumbledore nói. “Chẳng lẽ anh đang nói với
tôi rằng chúng chưa tìm đến anh để chiêu dụ sao?”
Ông Slughorn nhìn cụ Dumbledore một cách độc địa trong một lát, rồi làu bàu:
“Tôi chưa tạo cho chúng cơ hội nào. Tôi đã di chuyển liên tục trong suốt một năm qua. Không bao giờ ở một nơi nào lâu hơn một tuần lễ. Cứ dọn hết từ
nhà dân Muggle này sang nhà dân Muggle khác... Chủ nhân ngôi nhà này đang đi nghỉ ở quần đảo Canary – thiệt là thoải mái dễ chịu, thiệt là tiếc khi phải
ra đi. Một khi mình biết cách rồi thì cũng dễ thôi, chỉ cần một lá bùa Đông cứng dán lên mấy cái còi báo động chống trộm ngớ ngẩn mà họ dùng thay vì
mấy cái Kính Mách lẻo và liệu sao cho bà con lối xóm không dò ra chuyện mình khuân vô một cây đàn dương cầm.”
“Tài tình thật,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng tồn tại kiểu đó nghe cũng hơi mệt đối với một cái gối đệm cũ te tua muốn tìm một cuộc sống yên tĩnh. Này nhé,
nếu anh chịu trở về trường Hogwarts...”
“Nếu anh định nói với tôi là cuộc sống của tôi sẽ bình yên hơn ở cái trường thổ tả đó, thì anh nên để dành hơi, anhAlbus à! Rất có thể là tôi sống ẩn dật
lâu nay, nhưng mấy chuyện đồn đại khôi hài vẫn lọt vào tai tôi kể từ khi bà Dolores Umbridge ra đi! Nếu đó là cách anh đối xử với giáo viên vào những
ngày này...”
“Giáo sư Umbridge đã húc vô một đàn nhân mã,” cụ Dumbledore nói. “Tôi nghĩ anh, anh Horace à, anh chắc phải biết điều hơn khi rảo bước vô rừng và
gọi một đám nhân mã đang cơn giận là nhân mã đồ lai căng bẩn thỉu’.”
“Bà ta đã nói vậy hả?” Ông Slughorn nói. “Mụ này ngu thiệt. Chưa bao giờ ưa được.”
Harry chắt lưỡi và cả cụ Dumbledore lẫn ông Slughorn đều quay lại nhìn nó. Harry vội vã phân bua:
“Con xin lỗi. Chẳng qua… Con cũng chẳng ưa gìbà ấy.”
Cụ Dumbledore đột ngột đứng dậy.
“Anh đi hả?” ông Slughorn hỏi ngay tức thì, vẻ hớn hở đầy hy vọng.
“Không, tôi đang thắc mắc là tôi có thể dùng nhà vệ sinh của anh không?” cụ Dumbledore nói.
“Ồ,” ông Slughorn nói, rõ ràng là thất vọng. “Đi xuống hành lang, cửa thứ hai, bên trái.”
Cụ Dumbledore rảo bước ra khỏi phòng. Khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng, chỉ còn lại sự im lặng. Một lát sau, ông Slughorn đứng dậy nhưng dường
như không biết chắc là mình định làm gì. Ông lén ngó Harry một cái, rồi đi tới bên lò sưởi và quay lưng lại để sưởi ấm tấm lưng rộng thênh thang của
mình.
Bỗng nhiên ông nói:
“Đừng tưởng là tôi không biết tại sao lão dắt theo cậu tới đây.”
Harry chỉ ngước nhìn ông Slughorn. Đôi mắt ươn ướt của ông lướt qua cái thẹo trên trán của Harry, lần này nhìn luôn cả gương mặt nó.
“Cậu trông rất giống cha cậu.”
“Dạ, con có nghe nói vậy,” Harry đáp.
“Ngoại trừ đôi mắt, cậu thừa hưởng đôi mắt của…”
“Mẹ con. Dạ, đúng vậy.” Harry đã nghe nhận xét đó thường xuyên đến nỗi nó phát mệt.
“Hừm. Ừ, phải. Với tư cách thầy giáo, mình không nên có học trò cưng, dĩ nhiên rồi, nhưng con bé ấy là một trong những học trò cưng của tôi. Mẹ cáu ấy
mà.” Ông Slughorn nói thêm, để đáp lại cái nhìn thắc mắc của Harry. “Lily Evans. Một trong những học sinh thông tuệ nhất mà tôi từng dạy. Lanh lợi, cậu
biết đấy. Một nữ sinh duyên dáng. Tôi thường nói với trò ấy là đáng ra trò ấy phải thuộc về Nhà của tôi. Tôi cũng thường nhận được những câu trả lời rất
táo tợn.”
“Thầy thuộc nhà nào ạ?”
“Tôi là giáo viên chủ nhiệm Nhà Slytherin,” ông Slughorn đáp. “Ôi thôi,” ông nói tiếp rất nhanh, do thấy cảm xúc hiện lên mặt Harry; ông ngoe nguẩy một
ngón tay múp míp trước mặt nó. “Đừng cớ trách tôi về chuyện đó! Tôi đoán là cậu cũng thuộc nhà Gryffindor như mẹ cậu chứ gì? Ừ, thường là theo gia
đình. Mặc dù không phải lúc nào cũng thế. Có nghe nói đến Sirius Black không? Ắt hẳn là cậu có nghe – đăng báo đầy ra đấy trong suốt hai năm qua –
Chết cách đây vài tuần lễ.”
Như thể có một bàn tay vô hình đang vặn ngoéo ruột gan Harry và bóp chặt lại.
“Thôi, dù sao đi nữa hắn cũng là một người bạn lớn của cha cậu. Toàn bộ dòng họ Black đều vô Nhà của tôi, nhưng Sirius lại lọt vô Nhà Gryffindor, thật là
xấu hổ. Hắn là một học sinh tài giỏi. Tôi thìđược người em của hắn, Regulus, khi cậu ấy xuất hiện, nhưng tôi vẫn khoái có cả bộ.”
Ông nói như thể một nhà sưu tập máu me vừa mua hụt món cổ ngoạn ở một cuộc bán đấu giá. Rõ ràng là bị chìm đắm trong ký ức, ông đăm đăm nhìn
bức tường đối diện, lười nhác xoay qua xoay lại tại chỗ cho đến khi bảo đảm hơi nóng phả đều lên cả tấm lưng.
“Mẹ của cậu là một phù thủy gốc Muggle, dĩnhiên. Không thể tin nổi lúc phát hiện điều đó. Tưởng trò ấy phải thuộc dòng thuần huyết, trò ấy giỏi quá mà.”
“Một trong những người bạn thân nhất của con cũng có gốc Muggle,” Harry nói. “Và bạn ấy là học sinh giỏi nhất trong lứa tụi con.”
“Thỉnh thoảng xảy ra chuyện như vậy, thiệt là khôi hài hả?” ông Slughorn nói.
“Không hẳn,” Harry lạnh lùng đáp.
Ông Slughorn ngó xuống nó ngạc nhiên.
“Cậu chớ có nghĩ rằng tôi thành kiến. Không, không, không! Chẳng phải tôi vừa nói mẹ của cậu là một trong những học trò cưng muôn thuở của tôi đó
sao? Rồi nào là Dirk Cresswell trong lứa sau mẹ cậu một năm – bây giờ là Giám đốc đầu ngành Sở Liên lạc Yêu tinh, tất nhiên – một trò nữa cũng gốc
Muggle, một học sinh xuất sắc, và vẫn còn cho tôi những thông tin nội bộ tuyệt vời về hiện tình ở Gringotts!”
Ông Slughorn hơi nhún lên nhún xuống một tí, mỉm cười kiểu tự mãn nguyện, và chỉ vào vô số khung hình lấp lánh trên đầu tủ ngăn kéo, trong mỗi khung
có hình một người tíhon đang nhúc nhích.
“Tất cả cựu học sinh, đều có chữ ký. Cậu sẽ nhận thấy có Barnabas Cuffe, chủ bút tờ Nhật báo Tiên Tri, trò ấy luôn khoái nghe tôi bình luận tin tức trong
ngày. Và Ambrosius Flume, tiệm Công tước Mật – cả thùng mỗi lần sinh nhật, và tất cả chỉ vì tôi đã giới thiệu hắn với Ciceron Harrykiss, người đã cho
hắn công việc đầu tiên. Và ở hàng sau – cậu có thể thấy nếu cậu chịu khó nhóng cổ lên – đó là Gwenog Jones, đương nhiên là người cầm đầu tập đoàn
Holyhead Harrypies... Người ta cứ luôn ngạc nhiên khi nghe tôi nằm trong danh sách khách hàng thân thiết của Harrypies, và vé miễn phí bất cứ khi nào
tôi muốn!”
Ýtưởng này dường như khiến ông Slughorn phấn khởi hẳn lên.
“Và tất cả những người này đều biết thầy ở đâu mà tìm, mà gởi đồ cho thầy à?” Harry hỏi, nó vẫn không thể không thắc mắc tại sao bọn Tử thần thực tử
vẫn còn chưa dò ra tông tích của ông Slughorn khi mà những thùng kẹo, vé coi Quidditch, và những người đến xin lời khuyên hay ý kiến đều có thể kiếm
ra thầy.
Nụ cười tuột khỏi gương mặt ông Slughorn nhanh y như vết máu biến mất khỏi bức tường.
“Dĩnhiên là không,” ông đáp, ngó ngó xuống Harry. “Tôi đâu có tiếp xúc với bất kỳ ai trong suốt một năm qua.”
Harry có một ấn tượng là những lời nói đó khiến chính ông Slughorn cũng giật mình. Ông có vẻ bồn chồn một lúc. Rồi ông nhún vai.
“Tuy nhiên... pháp sư khôn ngoan đều nhẫn nhục trong những lúc như thế. Dumbledore nói cái gì thì cũng tốt cả, nhưng nhận một vị trí ở trường Hogwarts
lúc này thì cũng cầm như tuyên bố tôi đồng minh công khai với Hội Phượng hoàng! Tôi thì vẫn tin chắc họ là những người dũng cảm và đáng ngưỡng mộ
và đủ thứ tốt vân vân, nhưng tôi, với tư cách cá nhân, tôi không tưởng tượng nổi tỉ lệ tử vong...”
“Thầy đâu cần phải gia nhập Hội mới được dạy ở trường Hogwarts,” Harry nói. Nó không thể hoàn toàn giữ cho giọng nói của nó đừng lộ ra sự chế giễu.
Thật khó mà thông cảm với cách sống bo bo giữ miếng của ông Slughorn khi nó nhớ đến chú Sirius lúc đó thu mình trong một cái hang và sống bằng
những con chuột.
“Phần lớn các giáo sư đâu có ở trong Hội, và chẳng có ai bị giết cả - À, trừ khi thầy tính đến Quirrel, nhưng đáng đời ông ta vì ông ta làm tay sai cho
Voldermort.”
Harry đã biết chắc ông Slughorn là một trong những phù thủy không thể chịu đựng nổi khi nghe tên của Voldermort được nói to lên, và nó đã không thất
vọng: ông Slughorn rùng mình và kêu oai oái phản đối, nhưng Harry cứ giả nai.
Nó tiếp tục nói:
“Con cho rằng khi cụ Dumbledore là hiệu trưởng thì giáo ban được an toàn hơn so với hầu hết những người khác. Cụ được coi là người duy nhất mà
Voldermort sợ, đúng không ạ?”
Ông Slughorn nhìn đăm đăm vào khỏang không một lúc: dường như ông đang ngẫm nghĩvề những lời Harry vừa nói.
“Ừ, phải, đúng là Kẻ-chớ-gọi-tên-ra chưa bao giờ tìm cách đánh nhau với Dumbledore,” ông làu bàu với vẻ miễn cưỡng. “Và tôi cho rằng người ta có thể
lập luận rằng bởi vì tôi không gia nhập bọn Tử thần thực tử, thì Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đời nào coi tôi như một người bạn... Trong trường hợp đó nếu tôi gần
gũi anh Albus hơn thì có thể an toàn hơn... Tôi không thể giả bộ như cái chết của Amelia Bones không làm tôi rúng động... Nếu cô ấy, có tất cả những
quan hệ và sự bỏa vệ ở Bộ Pháp thuật thế, mà còn...”
Cụ Dumbledore quay trở lại căn phòng và ông Slughorn nhảy dựng lên như thể ông quên mất có cụ trong nhà. Ông nói:
“A, đây rồi, anhAlbus.Anh ở trong ấy lâu dữ à, bị đau bụng hả?”
“Không, tôi chỉ đọc mấy tờ tạp chí Muggle,” cụ Dumbledore nói. “Tôi quả thực khoái những mẫu đan. Thôi, Harry, chúng ta lợi dụng lòng hiếu khách của
anh Horace đủ lâu rồi; thầy nghĩđã đến lúc chúng ta phải ra đi thôi.”
Harry đứng phắt dậy, chẳng cần miễn cưỡng vâng lời chút nào. Ông Slughorn dường như bị dội.
“Anh đi à?”
“Ừ, đi thật. Tôi nghĩcó gặp thìmới hiểu thế nào là một sự nghiệp tiêu tùng.”
“Tiêu tùng...?”
Ông Slughorn dường như bị kích động. Ông xoay xoay hai ngón tay cái mập mạp và bồn chồn bứt rứt khi nhìn cụ Dumbledore thắt chặt tấm áo choàng đi
đường, và Harry kéo dây khóa cái áo gió của nó.
“Thôi vậy, tôi rất tiếc là anh đã không nhận công việc, anh Horace à,” cụ Dumbledore nói. Cụ giơ bàn tay không bị thương ra để chào giã biệt. “Trường
Hogwarts sẽ rất vui mừng đón anh trở lại. Mặc dù an ninh của chúng tôi phải tăng cường ghê gớm, chúng tôi vẫn sẽ luôn rộng cửa đón tiếp anh, nếu anh
muốn đến thăm trường.”
“Vâng... ừ... rất tử tế... như tôi nói...”
“Vậy thì, tạm biệt nhé.”
“Chào thầy,” Harry nói.
Hai thầy trò vừa đi tới cửa chính thìnghe một tiếng hét đằng sau lưng họ.
“Được rồi! Được rồi! Tôi sẽ nhận!”
Cụ Dumbledore quay lại thấy ông Slughorn đứng nín thở trong hành lang từ phòng khách ra cửa chính.
“Anh sẽ không nghỉ hưu nữa?”
“Ừ, ừ,” ông Slughorn nôn nóng. “Chắc là tôi điên rồi, nhưng mà, ừ.”
“Tuyệt vời!” Cụ Dumbledore tươi cười, nói. “Vậy thìanh Horace à, chúng tôi sẽ đón anh vào ngày một tháng chín.”
“Ừ, tôi dám nói là các anh sẽ gặp tôi vào tháng chín,” ông Slughorn lẩm bẩm.
Khi hai thầy trò đi xuống con đường nhỏ băng qua vườn, giọng nói của ông Slughorn vẫn còn đuổi theo họ.
“Anh Dumbledore, tôi muốn được lên lương!”
Cụ Dumbledore cười hì hì. Cổng khu vườn đóng lại sau lưng hai thầy trò, và họ bắt đầu đi ngược xuống đồi xuyên qua bóng tối và làn sương mù xoắn
đặc.
“Giỏi lắm, Harry,” cụ Dumbledore nói.
“Con đâu có làm gìđâu?” Harry ngạc nhiên nói.
“Ồ, có chứ. Con đã chỉ ra cho thầy Horace chính xác bao nhiêu lợi lộc thầy ấy đạt được khi trở lại trường Hogwarts. Con có thích thầy Horace không?”
“Ơ...”
Harry không biết chắc là liệu nó có thích thầy Slughorn hay không. Nó cho rằng thầy dễ chịu theo cách của thầy, nhưng thầy cũng có vẻ hời hợt, và cho dù
thầy có nói ngược lại đi chăng nữa, thìcó vẻ cái việc một người gốc Muggle trở nên một phù thủy xịn đối với thầy vẫn là quá bất ngờ.
Để giải tỏa cho Harry cái trách nhiệm nói ra bất cứ điều nào trong suy nghĩcủa nó, cụ Dumbledore nói:
“Thầy Horace thích sự an nhàn của thầy ấy. Thầy ấy cũng thích bầu bạn với những người nổi tiếng, người thành công và có quyền lực. Thầy ấy khoái cái
cảm giác rằng mình có ảnh hưởng với những người ấy. Thầy ấy chẳng bao giờ muốn tự mình lên ngôi; thầy ấy thích ngồi ghế sau hơn – rộng chỗ duỗi
chân tay, con hiểu chứ. Trước đây thầy ấy thường tuyển chọn học trò cưng ở trường Hogwarts, đôi khi dựa theo tham vọng hay trí tuệ của chúng, đôi khi
dựa theo sự duyên dáng hay tài năng của chúng, và thầy ấy có cái sở trường kỳ lạ chọn được những người về sau tiếp tục trở nên xuất chúng trong nhiều
lĩnh vự khác nhau. Thầy Horace lập ra một loại câu lạc bộ của những học trò cưng với cái trung tâm là chính thầy ấy, để giới thiệu, tạo ra những giao lưu
hữu ích giữa các thành viên, và để đổi lại thầy ấy luôn luôn thu hái được lợi lộc gì đó, hoặc là một hộp mứt khóm khoái khẩu miễn phí, hoặc là một cơ hội
để tiến cử nhân viên trẻ cho Sở Liên lạc Yêu tinh.”
Harry chợt thấy rõ ràng trong đầu hình ảnh một con nhện mập căng khổng lồ, dệt cái mạng chung quanh nó, giăng đây một sợi tơ, kia một sợi tơ, để dụ
mấy con ruồi to và mập đến gần hơn.
“Thầy nói với con tất cả những điều này không phải để con chống lại thầy Horace – hay giáo sư Slughorn,” cụ Dumbledore tiếp tục nói. “Bây giờ chúng ta
phải gọi ông ấy như vậy –nhưng là để cho con tự cảnh giác. Chắc chắn thầy ấy sẽ cố gắng tuyển chọn con, Harry à. Con sẽ là châu báu trong bộ sưu tập
của thầy ấy; ’Đứa trẻ sống sót’... hay như danh hiệu mà họ gán cho con lúc này, ’Kẻ được chọn’.”
Cùng lúc với những lời này, một cơn lạnh thấu không ăn nhập gì với làn sương mù chung quanh lẻn luồn vô người Harry. Những lời đó gợi nó nhớ tới
những lời mà nó đã nghe cách đây vài tuần lễ - những lời mang ý nghĩa đặc biệt và khủng khiếp đối với nó.
Không thể nào trong cả hai có thể sống khi mà kẻ kia tiếp tục tồn tại...
Cụ Dumbledore đã dường bước ngang chỗ ngôi nhà thờ mà họ đã đi quan trước đây.
“Sẽ ổn thôi, Harry. Nếu con bám chặt cánh tay thầy.”sức phen này, Harry đã sẵn sàng cho cuộc độn thổ, nhưng vẫn còn thấy khó chịu. Khi áp lực biến mất
và thấy mình đã thở lại được rồi, thì nó nhận ra mình đang đứng bên cạnh cụ Dumbledore trên một con đường quê và nhóng nhìn tới trước về phía cái
bóng ngoằn ngoèo của tòa nhà yêu dấu thứ hai của nó trên thế giới này: trang trại Hang Sóc. Bất chấp cái cảm giác kinh hoàng vừa quét qua người nó,
tinh thần của nó không thể nào không phấn chấn lên khi nhìn thấy ngôi nhà. Ron ở trong đó... Bà Weasley cũng ở trong đó, bà là người nấu ăn ngon hơn
bất cứ người nào mà nó biết...
“Nếu con không phiền, Harry à...” cụ Dumbledore nói khi hai thầy trò đi ngang qua cánh cổng, “thì thầy muốn nói vài lời với con trước khi chia tay. Bí mật.
Có lẽ nên nói ở đây?”
Cụ Dumbledore chỉ về phía một ngôi nhà phụ xây bằng đá đã xiêu vẹo là nơi mà gia đình Weasley để cán chổi. Hơi bối rối, Harry đi theo cụ Dumbledore
qua cánh cửa kêu cọt kẹt để vào một chỗ còn nhỏ hơn cái tủ chén cỡ trung bình một tí. Cụ Dumbledore thắp cây đũa phép của cụ để nó sáng lên như cây
đuốc, và mỉm cười với Harry.
“Thầy hy vọng con sẽ tha lỗi cho thầy về việc lại nhắc tới chuyện đó, Harry, nhưng thầy hài lòng và hơi tự hào là con dường như đương đầu khá tốt sau
mọi chuyện xảy ra ở Bộ. Cho phép thầy nói rằng thầy nghĩchú Sirius sẽ tự hào về con.”
Harry nuốt nước miếng, tiếng nói dường như đã bỏ rơi nó. Nó không nghĩ là nó có thể chịu đựng nổi chuyện trò về chú Sirius; nghe cái câu dượng
Vernon nói “cha đỡ đầu nó chết rồi hả?” đã đủ đau đớn rồi, và nghe tên chú Sirius bị thầy Slughorn phun ra một cách tùy tiện còn đau tệ hơn nữa.
Cụ Dumbledore nói một cách dịu dàng:
“Thật là tàn nhẫn khi mà con và chú Sirius chỉ ở bên nhau một thời gian ngắn. Một kết thúc tàn khốc của một điều đáng ra phải là một quan hệ hạnh phúc
và lâu dài.”
Harry gật đầu, mắt nó nhìn trân trân con nhền nhện lúc này đang bò lên mũ của cụ Dumbledore. Nó có thể nói rằng cụ Dumbledore đã hiểu, rằng cụ có thể
không tin, nhưng mãi cho đến khi lá thư của cụ được gởi đến, thì Harry đã dành gần như tất cả thời gian ở nhà Dursley để nằm dài trên giường, không
buồn ăn và chỉ đăm đăm nhìn vào khung cửa sổ mờ sương, đầy nỗi trống trải lạnh giá mà nó đã phải trải qua khi tiếp cận bọn giám ngục.
Cuối cùng Harry nói, giọng chùng xuống:
“Thật khó mà tin được là chú ấy sẽ không viết thư cho con nữa.”
Mắt nó chợt nóng rát và nó chớp chớp mắt. Nó cảm thấy ngu ngốc khi phải thừa nhận điều đó, nhưng quả thật rằng chuyện còn có ai đó bên ngoài
trường Hogwarts quan tâm đến những gì xảy ra cho nó, gần như một bậc cha mẹ quan tâm tới con, đã từng là điều đẹp đẽ nhất trong chuyện nó phát
hiện ra người cha đỡ đầu của mình... Vậy mà giờ đây bọn bưu cú sẽ chẳng bao giờ còn mang đến cho nó niềm an ủi đó nữa...
“Chú Sirius đã đại diện cho nhiều thứ mà trước đó con chưa từng biết đến,” cụ Dumbledore nói dịu dàng. “Đương nhiên, sự mất mát đó quá là tan nát...”
“Nhưng khi con ở nhà Dursley...” Harry ngắt lời cụ Dumbledore, giọng nó trở nên mạnh mẽ hơn. “Con đã hiểu rằng con không thể tự cô lập mình hay... hay
sụp đổ. Chú Sirius đâu có muốn con như vậy, phải không? Và dù sao đi nữa, cuộc sống quá ngắn ngủi... Hãy nghĩ tới Bà Bones, nghĩ tới bà Emmeline
Vance... Có thể con là người tiếp theo, biết đâu? Nhưng nếu có là thế,” Harry nói năng quyết liệt, bây giờ nó đã nhìn thẳng vào đôi mắt xanh lấp lánh ánh
đuốc của cụ Dumbledore, “con chắc chắn sẽ đem theo thật nhiều Tử thần thực tử chết cùng, kể cả Voldermort nếu con thanh toán nổi.”
“Nói năng vừa giống con trai của cha mẹ con vừa là con trai đỡ đầu thực sự của chú Sirius!” cụ Dumbledore vừa nói, vừa vỗ nhè nhẹ lên lưng Harry tán
thành.
“Thầy phải ngả mũ trước con... Hay đúng ra là thầy sẽ ngả mũ rồi, nếu thầy không sợ gởi cho con con nhền nhện. Và bây giờ Harry à, về một đề tài rất
gần gũi đây... Thầy tình cờ biết là con đặt mua Nhật báo Tiên Tri trong hai tuần lễ vừa qua?”
“Dạ,” Harry nói, tim nó đập nhanh hơn.
“Vậy thìcon có nhận thấy là có nhiều rò rỉ tùm lum về cuộc phiêu lưu của con trong Sảnh đường Tiên Tri chứ?”
“Dạ,” Harry lại nói. “Và bây giờ mọi người đều biết con là kẻ...”
“Không, họ không biết,” cụ Dumbledore ngắt lời. “Chỉ có hai người trên cả thế giới này biết nội dung đầy đủ của lời tiên tri được phán về con và chúa tể
Voldermort, và cả hai người đó đang đứng trong căn chòi để chổi hôi hám đầy bụi bám nhện giăng này. Tuy nhiên, đúng là nhiều người đã đoán, chính
xác là Voldermort đã phái bọn Tử thần thực tử của hắn đi đánh cắp lời tiên tri, và lời tiên tri có liên quan đến con. Bây giờ, thầy nghĩ là thầy đúng nếu nói
rằng con chưa kể cho bất cứ ai chuyện con biết lời tiên tri đó nói gìchứ?”
“Vâng,” Harry đáp.
“Một quyết định khôn ngoan, về mọi mặt,” cụ Dumbledore nói. “Mặc dù thầy nghĩ con nên thoải mái tâm sự với bạn bè thân thiết của con như Ron
Weasley và cô Hermione Granger. Ừ...” Cụ tiếp tục nói khi thấy Harry tỏ vẻ sửng sốt. “Thầy nghĩ họ cũng nên biết. Nếu con mà không giải bày với họ một
điều quan trọng như vầy thìcầm như chơi khăm họ.”
“Con không muốn...”
“...làm họ lo lắng hay sợ hãi hả?” Cụ Dumbledore nói. Cụ đưa mắt nhìn qua bên trên cặp kính nửa vầng trăng để dò xét gương mặt Harry. “Hay cũng có
thể, con không muốn thú nhận là chính con cũng lo lắng và sợ hãi? Con cần bạn bè, Harry à. Như con đã nói rất đúng, chú Sirius đâu có muốn con tự cô
lập mình.”
Harry không nói gì, nhưng cụ Dumbledore không có vẻ đòi hỏi câu trả lời. Cụ nói tiếp:
“Về một đề tài khác, mặc dù cũng có liên quan, ấy là thầy muốn niên học sắp tới con sẽ theo học một lớp riêng với thầy.”
“Lớp riêng... với thầy?”
Harry nói, ngạc nhiên đến buột miệng, phá vỡ sự im lặng nãy giờ của mình.
“Ừ, thầy nghĩđã đến lúc thầy cần can thiệp nhiều hơn vào việc giáo dục con.”
“Thưa thầy, thầy tính sẽ dạy con môn gì?”
“À, một chút môn này, một chút môn kia,” cụ Dumbledore ung dung nói.
Harry chờ đợi trong hy vọng tràn trề, nhưng cụ Dumbledore không nói tỉ mỉ, nên nó bèn hỏi về một chuyện khác đã từng khiến nó hơi điêu đứng.
“Nếu con theo học lớp riêng với thầy, con sẽ được miễn học Bế Quan bíthuật với ông Snape, phải không ạ?”
“Giáo sư Snape, Harry à... Ừ, khỏi. Con được miễn.”
Harry thở phào.
“Hay quá. Bởi vìmấy buổi học đó...” Nó ngừng lại, cẩn thận không nói ra những gìnó nghĩ.
“Thầy nghĩtừ ’hỏng bét’ là một từ hay đáng dùng trong trường hợp này,” cụ Dumbledore gật đầu nói.
Harry bật cười.
“Hay quá. Vậy nghĩa là từ nay con sé không phải gặp giáo sư Snape thường xuyên nữa,” nó nói. “Bởi vìthầy ấy sẽ không cho con theo học lớp Độc dược
trừ khi con đạt điểm Xuất sắc trong kỳ thi Pháp thuật Thường đẳng (O.W.L.), mà con biết là con sẽ không đạt nổi.”
“Đừng có đếm cú trước khi chúng được giao,” cụ Dumbledore nghiêm trang nói. “À, nhân nói chuyện này, kết quả thi sẽ được cú đưa đến trong ngày
hôm nay. Bây giờ còn hai chuyện nữa trước khi chúng ta chia tay, Harry à. Thứ nhất, thầy muốn từ bây giờ trở đi con luôn luôn giữ bên mình tấm Áo
khoác tàng hình. Ngay cả khi con ở trong trường Hogwarts. Để đề phòng thôi, con có hiểu ý thầy không?”
Harry gật đầu.
“Và sau cũng, trong thời gian con ở đây, trang trại Hang Sóc được canh phòng an ninh ở mức cao nhất mà Bộ Pháp thuật có thể bố trí. Những biện pháp
an ninh này chắc chắn gây ra rất nhiều phiền phức cho ông Arthur và bà Molly – thí dụ, tất cả bưu kiện của họ đều bị đưa về Bộ kiểm tra trước khi được
gởi đi. Họ chẳng hề lấy làm phiền chút xíu nào hết, bởi vì mối quan tâm duy nhất của họ là sự an toàn của con. Tuy nhiên, nếu trong thời gian con ở đây
với họ mà con làm điều gìliều lĩnh, thìđó sẽ là một sự đền đáp tệ bạc.”
“Con hiểu,” Harry nói nhanh.
“Vậy thì, tốt lắm,” cụ Dumbledore vừa nói, vừa đẩy cửa cái nhà để chổi và bước ra sân. “Thầy thấy có ánh đèn trong nhà bếp. Chúng ta không nên trìhoãn
lâu hơn cái cơ hội ca cẩm của bà Molly về cái sự ốm nhom ốm nhách của con.”
Chương 5
Hơi bị nhớt
Harry và cụ Dumbledore tiến đến gần cửa sau của Hang Sóc, chung quanh vương vãi những thứ đồ vứt đi thân quen như ủng cũ và vạc rỉ; Từ đây Harry
có thể nghe tiếng những con gà mái ngái ngủ cục cục vọng lại từ chuồng gà ở xa xa. Cụ Dumbledore gõ cửa ba lần và Harry thấy có một chuyển động
thình lình bên trong cửa sổ nhà bếp. Một giọng lo lắng vang lên mà Harry nhận ra ngay là giọng của bà Weasley:
“Ai đó? Hãy tự danh.”
“Tôi đây, Dumbledore, đem Harry đến.”
Cửa mở ra tức thì. Và đứng nagy cửa là bà Weasley, thấp người, phúng phính, và mặc một cái áo ngủ màu xanh lá đã cũ.
“Ôi, Harry cưng! Phước đức quá, cụAlbus, cụ làm tôi hơi hoảng, cụ nói đừng có trông cụ cho tới trước khi trời sáng mà!”
“Tại chúng tôi hên,” cụ Dumbledore nói, đẩy Harry bước qua ngưỡng cửa. “Thầy Slughorn tỏ ra dễ dụ khi hơn là tôi tưởng. Dĩ nhiên là chính Harry làm
được việc ấy.A, chào cô Nymphadora!”
Harry ngó quanh và nhận thấy bà Weasley không ở một mình trong bếp, mặc dù vào cái giờ khuya khoắt này. Một phù thủy trẻ có gương mặt hình trái tim
nhợt nhạt và một mái tóc nâu xù đang ngồi bên cạnh bàn, ấp một cái tách bự giữa hai bàn tay. Cô ta nói:
“Chào giáo sư. Khỏe hả Harry!”
“Chào cô Tonks.”
Harry nghĩ cô Tonks trông có vẻ u sầu, thậm chí bệnh, và có gì đó gượng gạo trong nụ cười của cô. Chắc chắn là bề ngoài của cô kém màu mè hơn bình
thường khi cô không trang điểm bằng cái tán quen thuộc của mái tóc màu hồng kẹo bong bóng.
“Tôi phải đi thôi,” cô nói vội, vừa khoác tấm áo choàng quanh vai. “Bà Molly, cám ơn bà đã mời trà và thông cảm.”
“Xin đừng ra đi chỉ vì tôi đến đấy,” cụ Dumbledore khách sáo nói. “Tôi không thể ở lại lâu đâu, tôi còn vài vấn đề khẩn cấp cần bàn bạc với ông Rufus
Scrimgeour.”
“Không, không. Tôi cần phải đi mà,” cô Tonks nói, tránh nhìn vào mắt cụ Dumbledore. “Ngủ ngon!”
“Này cưng, sao không ghé ăn cơm tối vào cuối tuần, cả Remus và Mắt-điên cũng tới…?”
“Không, thực tình là không thể, bà Molly à… Dù sao cũng cám ơn bà… Chúc tất cả ngủ ngon nhé.”
Cô Tonks bước vội ngang qua cụ Dumbledore và Harry để đi ra sân, cách ngưỡng cửa vài bước, cô đứng quay tại chỗ và biến mất vào không trung.
Harry nhận thấy bà Weasley có vẻ phiền muộn.
“Thôi, thầy sẽ gặp lại con ở trường Hogwarts, Harry!” cụ Dumbledore nói. “Bảo trọng. Thưa bà Molly, kẻ tôi tớ xin cáo từ.”
Cụ cúi rạp trước bà Weasley rồi nối bước cô Tonks, biến mất tại đúng y cùng một địa điểm. Bà Weasley đóng cánh cửa mở ra khoảng sân trống trơn và
rồi nắm vai Harry xoay trong vùng sáng rạng rỡ của ngọn đèn trên bàn để kiểm tra vóc dáng nó.
“Con giống thằng Ron,” bà thở dài, nhìn nó từ trên xuống. “Cả hai đứa bay trông như là bị ếm xì bùa Kéo giãn. Bác thề là thằng Ron đã cao thêm một tấc
hai kể từ khi bác mua cho nó bộ đồng phục năm ngoái. Con có đói không, Harry?”
“Dạ, con đói,” Harry nói, bất thình lình nhận ra nó đang đói cồn cào.
“Ngồi xuống đi cưng. Bác sẽ dọn ra cái gìđó.”
Khi Harry ngồi xuống, một con mèo lông xù vàng khè có cái mặt tròn bạnh như trái bầu nhảy phóc lên đầu gối của nó an tọa rồi kêu rừ rừ.
“Vậy là Hermione cũng ở đây ạ?” Harry vui vẻ hỏi, vừa cù nhẹ sau tai con mèo Crookshanks.
“Ờ phải, con bé vừa tới ngày hôm kia,” bà Weasley đáp, vừa gõ nhẹ vào cái nồi sắt tổ tướng bằng cây đũa phép. Cái nồi nhảy phóc lên mặt lò, kêu lên
một tiếng keng to và ngay lập tức bắt đầu sôi ùng ục.
“Mọi người đều đang ngủ, dĩnhiên rồi, vìbọn bác tưởng còn mấy tiếng đồng hồ nữa con mới đến. Đây, con ăn đi.”
Bà lại gõ cái nồi một lần nữa, nó tự nhấc mình lên không trung, bay về phía Harry, rồi lật nghiêng, bà Weasley đẩy một cái tô tới ngay bên dưới cái nồi
vừa đúng lúc để đón món súp hành đặc bốc khói đang chảy xuống.
“Bánh mìkhông con?”
“Cám ơn, bác Weasley.”
Bà vẫy cây đũa phép qua vai; một ổ bánh mì và một con dao cắt bành duyên dáng bay ào tới đáp xuống bàn ăn; khi ổ bánh mì đã tự cắt ra thành từng lát
và cái nồi súp đã rớt xuống mặt lò, bà Weasley ngồi xuống đối diện với Harry.
“Vậy là con đã thuyết phục được thầy Horace Slughorn đi dạy lạ?”
Harry gật đầu, mồm miệng nó đang ngốn đầy súp nóng nên nó không thể nói được.
Bà Weasley nói:
“Thầy từng dạy cả bác trai Arthur và bác. Thầy đã dạy ở Hogwarts từ thời xưa lơ xưa lắc, bác nghĩthầy bắt đầu dạy cùng thời với cụ Dumbledore. Con có
thích thầy ấy không?”
Miệng Harry giờ đây lại ngốn đầy bánh mì, nó chỉ nhún vai và đung đưa cái đầu một cách vô thưởng vô phạt.
“Bác hiểu ý con,” bà Weasley nói, gật gù một cách khôn ngoan. “Dĩ nhiên khi nào thầy ấy muốn thành hấp dẫn thì cũng thành hấp dẫn, nhưng bác Arthur
chẳng bao giờ ưa thầy ấy. Bộ Pháp thuật bây giờ bừa phứa bọn hot cưng của thầy ấy, chúng luôn luôn giỏi giang chuyện thằng quan tiến chức, nhưng
chẳng bao giờ dành nhiều thì giờ cho bác Arthur – dường như chẳng hề nghĩ là bác ấy có đủ tham vọng trèo đèo. Thôi, chỉ là nói cho con biết, ngay cả
Thầy Slughorn cũng phạm sai lầm. Bác không biết Ron có viết thư cho con chưa – chuyện mới đây thôi – nhưng bác Arthur của con vừa được thăng
chức!”
Quá rõ ràng là bà Weasley chỉ lăm le nổ ra tin sốt dẻo này.
Harry nuốt một họng đầy súp rất nóng và nghĩrằng nó cảm giác được cổ họng mình đang phồng rộp lên. Nó thổi phều phều, nói:
“Tuyệt quá!”
“Con thiệt là dễ thương,” bà Weasley cười rạng rỡ, có lẽ tưởng nó ứa nước mắt vì mừng vui cảm động trước cái tin đó. “Ừ, ông Rufus Scrimgeour đã
thiết lập thêm nhiều Sở mới để đáp ứng tình hình hiện tại, và bác Arthur hiện nay đnưgiáo sư đầu Sở Phát hiện và Tịch thu Bùa chú phòng chống và Vật
thể Bảo vệ giả mạo. Đó là một công tác lớn lao, dưới quyền của bác ấy bây giờ có tới mười người báo cáo.”
“Chính xác thì…”
“Chà, con thấy đó, trong cơn hoảng hốt vìKẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, khắp nơi rộ lên bán đủ thứ kỳ cục, những thứ được coi là để bảo vệ chống lại Kẻ-
mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy và bọn Tttt. Con có thể hình dung ra những thứ đó – như cái gọi là Độc dược bảo vệ thực ra là nước xốt pha thêm một chút mủ
củ hạch, hay hướng dẫn phòng vệ tà ma thìlại làm văng mất vành tai người ta… Ôi, đại để là thủ phạm mấy vụ đó chỉ là những người như lão Mundungus
Fletcher, những người chẳng bao giờ làm được một ngày công trung thực trong đời và đang thừa lúc mọi người quá hoảng sợ mà trục lợi. Thỉnh thoảng
đó đây lại xuất hiện những thứ đáng kinh tởm. Hôm nọ bác Arthur tịch thu được một cái hộp Kính Mách lẻo đã ếm bùa mà gần như có thể chắc chắn là do
một Tttt gài đặt. Vậy là, con hiểu chứ, đó là một công tác rất quan trọng, và bác nói với bác trai thiệt là ngu nếu không xử lý luôn mấy cái bu-gi ô tô và đám
lò nướng bánh bằng điện cùng tất cả những thứ còn lại trong mớ rác rưởi của dân Muggle.”
Bà Weasley kết thúc bào diễn văn bằng một cái nhìn nghiêm nghị, như thể chính Harry là kẻ đề xuất rằng bỏ qua mấy cái bugi là tự nhiên thôi.
“Bác trai vẫn còn ở sở làm ạ?” Harry hỏi.
“Ừ, bác trai đang làm việc. Thực ra thìbác ấy về trễ một chut… bác trai nói sẽ về nhà vào khoảng nửa đêm…”
Bà quay lại nhìn cái đồng hồ to tướng đang ngồi chông chênh trên một đống vải trải giường trong giỏ đồ chờ đem giặt ở cuối cái bàn. Harry nhận ra cái
đồng hồ ngay tức thì. Nó có chín cây kim, mỗi cây khắc tên của một người trong gia đình, và thường thường được treo trong phòng khách nhà Weasley,
mặc dù vị trí hiện giờ của nó cho thấy là bà Weasley đã rinh nó đi khắp nhà với bà. Lúc này mỗi cây kim trong tổng cộng chín cây đều chỉ vào chữ nguy
hiểm chết người.
“Dạo này nó cứ chỉ như vậy,” bà Weasley nói bằng một giọng tự nhiên không được thuyết phục lắm, “từ hồi Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy trở lại công
khai. Bác cho là bây giờ ai cũng lâm vào cảnh nguy hiểm chết người… bác không nghĩ chỉ riêng gia đình mình… nhưng bác không biết ai khác nữa có
cái đồng hồ giống như cái này, nên không thể kiểm tra được. Ô!”
Kêu lên một tiếng đột ngột, bà Weasley chỉ vào mặt đồng hồ. Cây kim ông Weasley đã chệch snag chữ đang đi lại.
“Ảnh sắp về nhà!”
Vừa đúng, chỉ một tísau là có tiếng gõ cửa. Bà Weasley bật dậy vội vàng chạy ra cửa; một tay đặt lên núm cửa và áp sát mặt vào lớp gỗ, bà gọi khẽ:
“Arthur, anh đó hả?”
“Ừ,” giọng mệt mỏi của ông Arthur vang lên. “Nhưng nếu anh là một Tttt anh cũng nói vậy, cưng à. Hãy hỏi một câu nào đi!”
“Ôi, thiệt tình…”
“Molly!”
“Được rồi, được rồi… Tham vọng tha thiết nhất của anh là gì?”
“Tìm ra cách thức làm sao máy bay giữ được trên trời.”
Bà Weasley gật đầu và vặn núm cửa, nhưng rõ ràng là ông Weasley đang nắm chặt nó ở phía bên kia cửa, bởi vìcánh cửa vẫn đóng vững vàng.
“Molly! Anh phải hỏi em câu hỏi của em trước!”
“AnhArthur, thiệt tình, chuyện này chỉ là trò ngốc…”
“Em muốn anh gọi em là gìkhi chỉ có hai đứa mình với nhau?”
Thậm chí trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn lồng Harry cũng có thể thấy bà Weasley ngượng đỏ cả mặt; chính nó cũng bỗng nhiên cảm thấy ấm quanh
tai và cổ, và nó hấp tấp húp súp sồn sột, khua muỗng trong tô thiệt to.
“Molly lắc lư,” một bà Weasley thẹn thùa thìthầm vào cái khe của kẹt cửa.
“Đúng,” ông Weasley nói. “Bây giờ thìem có thể để anh vô nhà.”
Bà Weasley mở cửa để hiện ra ông chồng của mình, một phù thủy gầy, hói, tóc đỏ hoe, đeo một cặp kính gọng sừng và mặc một cái áo choàng lữ hành
dài và bụi bặm.
“Em vẫn không hiểu tại sao chúng ta cứ phải thông qua thủ tục đó mỗi lần anh trở về nhà,” bà Weasley nói, mặt bà vẫn còn hồng hồng khi giúp chồng cởi
áo choàng. “Ýem nói là một Tttt vẫn có thể ép anh phun ra câu trả lời trước khi hắn giả dạng anh được mà.”
“Anh biết, em à, nhưng đó là thủ tục của Bộ, và anh phải làm gương. Mùi gì thơm quá… súp hành hả?” Ông Weasley khấp khởi hy vọng quay về phía cái
bàn ăn và kêu lên, “Harry! Bọn bác cứ tưởng tới sáng mới được gặp con!”
Hai bác cháu bắt tay nhau, và ông Weasley ngồi phịch xuống một cái ghế bên cạnh Harry trong khi bà Weasley đặt một tô súp trước mặt ông.
“Cám ơn em, Molly. Thiệt là một đêm vất vả. Có một thằng điên nào đó bắt đầu tung ra bán Mề-đay Biến-dạng. Chỉ cần đeo nó quanh cổ là mình có thể
biến đổi ngoại hình theo ý muốn. Một trăm ngàn kiểu ngụy trang, giá chỉ có mười Galleon!”
“Mà thực ra sẽ có chuyện gìxảy ra nếu đeo nó vô?”
“Hầu hết trường hợp thì người ta chỉ biến đổi sang một màu cam hơi dị, nhưng có hai người đã nổi mụn cóc giống gai tua bạch tuộc khắp mình mẩy.
Làm như thể bệnh viện Thánh Mungo còn thiếu việc để làm ấy!”
“Nghe giống như mấy cái thứ mà thằng Fred với thằng George thấy vui ấy,” bà Weasley ngập ngừng nói. “Anh có chắc là…”
“Dĩnhiên anh chắc,” ông Weasley nói. “Mấy thằng nhóc sẽ không làm mấy thứ như thế, nhất là khi ai nấy đang khao khát tìm sự bảo vệ.”
“Vậy đó là lý do anh về trễ à, mấy cái Mề-đay Biến-dạng ấy?”
“Không, bọn anh đánh hơi ra một Bùa Phản thùng bậy bạ dưới chỗ Con voi và Lâu đài, nhưng hên là khi bọn anh tới nơi thì Đội Thi hành Luật Pháp thuật
đã giải quyết xong vấn đề rồi…”
Harry ráng nhịn một cái ngáp dài sau bàn tay che miệng.
“Đi ngủ,” một bà Weasley không thể bị qua mắt nói ngay lập tức. “Bác đã dọn phòng của Fred và George cho con, nó sẽ là phòng riêng của con.”
“Ủa, hai anh đâu ạ?”
“Ôi, tụi nó ở dưới Hẻm Xéo, ngủ trong một căn phòng nhỏ ngay bên trên cái tiệm giỡn của tụi nó tại vì tụi nó bận lắm,” bà Weasley nói. “Bác phải nói là
ban đầu bác không tán thành lắm, nhưng rồi tụi nó có vẻ cũng có một chút nhạy bén trong kinh doanh. Thôi, đi ngủ đi con, hòm xiểng của con ở trên phòng
rồi.”
“Chúc bác ngủ ngon, bác Weasley,” Harry nói, đẩy lui cái ghế. Con Crookshanks nhảy xuống khỏi đùi nó và lỉnh ra khỏi phòng.
“Ngủ ngon, Harry,” ông Weasley nói.
Khi rời khỏi nàh bếp, Harry thấy bà Weasley liếc vào cái đồng hồ ngồi trong cái giỏ đồ giặt. Tất cả kim đồng hồ lại một lần nữa cùng chỉ vào chữ nguy
hiểm chết người.
Phòng ngủ của Fred và George ở trên tầng thứ hai. Bà Weasley chĩa cây đũa phép lên một ngọn đèn đặt trên cái bàn cạnh giường ngủ, cái đèn bật sáng
lên ngay tức thì, tràn ngập căn phòng một thứ ánh sáng vàng óng dễ chịu. Mặc dù một bình hoa to tướng đã được đặt trên bàn giấy trước một cái cửa sổ
nhỏ, hương hoa vẫn không ngụy trang được một mùi hôi vướng vất trong phòng mà Harry nghi là mùi thuốc súng. Một phần khá lớn mặt bằng căn phòng
được dành chỗ cho một số lượng khổng lồ những cái hộp giấy cạc tông dán kín và không ghi dấu hiệu gì hết. Nằm giữa đống hộp đó là cái rương của
Harry. Căn phòng trông có vẻ như đã được tạm thời làm kho chứa.
Con Hedwig rúc lên mừng rỡ chào Harry từ chỗ nó đậu trên nóc tủ quần áo, rồi bay qua cửa sổ; Harry biết là nó đã chờ gặp lại Harry rồi mới đi săn mồi.
Harry chúc bà Weasley ngủ ngon, rồi mặc quần áo ngủ vào, và trèo lên một cái giường. Có cái gìđó cưng cứng trong chiếc gối nó nằm. Nó mò mẫm bên
trong gối và lôi ra được một cục kẹo tím-và-cam, mà nó nhận ra là kẹo ói. Tự mỉm cười một mình, Harry trở mình và ngủ ngay tức thì.
Mấy giây sau, (hay là Harry nghĩ như vậy), nó bị đánh thức bởi một thứ nghe như tiếng nổ của súng thần công khi cánh cửa mở bung ra. Ngồi bật dậy, nó
nghe soàn soạt tiếng tấm màn bị kéo ra: ánh nắng chói chang dường như chọc mạnh vô hai mắt nó. Giơ một tay che mắt, Harry dùng tay kia mò mẫm tìm
đôi mắt kính của nó một cách không mấy hy vọng.
“Cứi gìvựi?”
“Tụi này không dè bồ đã ở đây rồi!” Một giọng nói to và hào hứng vang lên, và Harry nhận được một cú đấm thình lình ngay trên đỉnh đầu.
“Ron, đừng đánh trò ấy!” Một giọng con gái đầy vẻ quở trách.
Bàn tay của Harry đã tìm được cặp kính, nó bèn đeo ngay vào, tuy nhiên ánh snagiáo sư vẫn chói lọi khiến nó đằng nào cũng chẳng thấy gì. Một cái bóng
to thù lù và dài sọc đung đưa ngay trước mặt nó, nó chớp chớp mắt và Ron Weasley hiện rõ ra, đang nhe răng cười với nó.
“Có sao không?”
“Chưa bao giờ đã hơn vầy,” Harry nói, vừa xoa đỉnh đầu, vừa thụp trở xuống đống gối. “Còn bồ?”
“Không đến nỗi nào,” Ron đáp, kéo một cái thùng các tông tới gần và ngồi lên. “Bồ đến hồi nào? Má mới nói cho tụi này biết tức thì!”
“Khoảng một giờ sáng nay.”
“Mấy người Muggle ra sao? Họ đối xử với bồ OK không?”
“Vẫn như mọi khi,” Harry nói, trong khi Hermione ngồi ghé lên mép giường của nó. “Họ chẳng nói gì nhiều với mình, nhưng mình lại thích vậy hơn. Còn bồ
thìsao, Hermione?”
“Ôi mình vẫn khỏe,” Hermione nói. Cô nàng chăm chú ngắm Harry như thể thằng này đang khó ở trong mình vìcái gìđó.
Harry nghĩ là nó biết đằng sau điều này là cái gì, và bởi vì nó chẳng có chút lòng dạ nào mà chuyện trò về cái chết của chú Sirius hay bất cứ một đề tài
khốn khổ nào khác vào lúc này, nó nói:
“Mấy giờ rồi ta? Mình lỡ bữa điểm tâm rồi sao?”
“Đừng lo chuyện đó, má đang bưng lên cho bồ nguyên một khay, má cho là bồ bị suy dinh dưỡng,” Ron nói, hai mắt trợn dọc. “Vậy, có chuyện gì xảy ra
hả?”
“Chẳng có gìnhiều. Thìmình lâu nay vẫn kẹt ở nhà dìdượng mình thôi, đúng chưa nào?”
“Thôi đi bồ!” Ron nói. “Bồ đi suốt với cụ Dumbledore mà!”
“Đâu có ly kỳ vậy! Cụ chỉ muốn mình giúp cụ thuyết phục một ông giáo già đừng nghỉ hưu nữa. Tên ổng là Horace Slughorn.”
“Ôi, tụi này cứ tưởng...” Ron nói, tỏ ra thất vọng. Hermione bèn nhá một tia mắt răn đe về phía Ron, và Ron đổi hướng một cái rẹt, “...tưởng tượng ra
chuyện gìđại loại vậy.”
“Vậy hả?” Harry tức cười.
“Phải... phải rồi, bây giờ mụ Umbridge đã ra đi, thì rõ ràng chúng ta cần một giáo viên Phòng chống nghệ thuật hắc ám mới, đúng không? Vậy, ơ, ổng
như thế nào?”
“Ổng trông hơi giống một con hải mã, và trước đây từng là giáo viên Chủ nhiệm Nhà Slytherin,” Harry nói. “Chuyện gìvậy Hermione?”
Hermione đang chăm chăm ngắm Harry như thể chờ đón những triệu chứng lạ có thể bộc lộ bất thình lình. Cô nàng vội vàng điều chỉnh lại nét mặt bằng
một nụ cười chẳng thuyết phục lúc nào.
“Không, dĩnhiên là không có gì! Vậy, ơ, Thầy Slughorn coi bộ có là một thầy giáo tốt không?”
“Ai mà biết,” Harry nói. “Nhưng chắc không thể tệ hơn mụ Umbridge được, đúng không?”
“Em biết có người còn tệ hơn mụ Umbridge,” một giọng nói vang lên từ phía cửa. Cô em gái của Ron lững thững đi vô phòng, vẻ mặt cáu kỉnh.
“Chào anh Harry.”
“Em mắc chứng gìvậy?” Ron hỏi.
“Bả chứ chứng gì!” Ginny nói rồi quăng mình ngồi xuống giường Harry một cái phịch. “Bả làm em phát điên.”
Hermione tỏ ra thông cảm:
“Bả lại làm cái gìnữa vậy?”
“Cái kiểu bả nói chuyện với em ấy – chị mà nghe thìtưởng em mới lên ba!”
“Chị biết,” Hermione hạ thấp giọng. “Bả quá tự phụ.”
Harry hết sức kinh ngạc khi nghe Hermione nói về bà Weasley như thế và không có gìđáng trách khi Ron giận dữ nói:
“Hai người không thể bỏ bả qua một bên chừng năm giây hay sao?”
Ginny cự lại:
“Ờ phải mà, bênh bả đi. Tụi này biết thừa là anh chưa thấy ớn bả mà.”
Lời chỉ trích này nếu dành cho má Ron thìdường như hơi nặng. Nên Harry bắt đầu cảm thấy dường như có cái gìđó mình chưa hiểu, nó hỏi:
“Mấy bồ đang nói về ai…?”
Nhưng câu hỏi chưa kịp hỏi xong thì đã được trả lời. Cánh cửa phòng ngủ lại mở rộng một lần nữa, và Harry theo phản xạ tự nhiên kéo chăn trải giường
lên tới cằm mạnh đến nỗi cả Hermione và Ginny đều bị tuột xuống sàn.
Một phụ nữ trẻ đang đứng ngay ngưỡng cửa, một phụ nữ mà vẻ đẹp hớp hồn khiến cho căn phòng dường như thiếu không khí một cách lạ lùng. Nàng
cao và yểu điệu với mái tóc dài màu vàng và dường như tỏa ra một vầng ánh sáng bạc lung linh. Để hoàn chỉnh hình ảnh hoàn hảo này, nàng bưng đến
một cái khay chất đầy đồ điểm tâm.
“Arry. Cũn khá lâu mới gặp lại há?” Nàng nói bằng giọng cổ họng hơi khàn khàn.
Khi nàng lướt ra khỏi ngưỡng cửa đi về phía Harry, bà Weasley hiện ra, xàng xê theo sau bước chân nàng, trông đến khốn khổ.
“Không cần bưng khay lên đâu, tôi sắp tự xuống nhà bếp ăn mà.”
“Không có chi,” FLEUR DELACOUR nói, vừa đặt cái mâm lên đầu gối Harry rồi xà xuống hôn lên cả hai má nó. Harry cảm thấy chỗ mà môi cô nàng
chạm tới nóng bừng lên. “Tôi vữn mong gặp lại cậu ấy. Cậu còn nhớ em gái của tôi không Gabrielle ấy? Em nó cứ nhắc mãi anh Arry Potter. Nó sẽ rớt
mừng được gặp lại cậu đó.”
Harry rầu rĩthốt lên:
“Ối… bạn ấy cũng ở đây à?”
“Không… không, chú ngốc ạ,” Fleur bật ra một tiếng cười ngân nga. “Ýtôi nói là vào mùa hè tới, khi tụi này… Nhưn mà cậu biết chưa?”
Đôi mắt to màu xanh lơ của cô nàng mở lớn nhìn bà Weasley với vẻ hờn trách, bà Weasley bèn nói:
“Chúng tôi chưa có đủ thìgiờ để quây quần nói chuyện với Harry.”
Fleur bèn quay lại nhìn Harry, hất hất mái tóc ánh bạc khiến nó quất ngang mặt bà Weasley.
“Anh Bill và tôi sắp kết hôn!”
“Ồ,” Harry vô tư kêu lên. Nó không thể không nhận thấy tất cả mọi người, từ bà Weasley đến Ginny và Hermione đều tránh nhìn vào mắt nhau như thế nào.
“Chà. Ơ... Chúc mừng!”
Nàng lại sà xuống Harry và hôn nó.
“Lúc này anh Bill rứt bận, làm việc vất vã, và tôi chĩ làm việc bán thời gian ở Gringotts đễ luyện tiếng Anh, cho nên anh Bill đưa tôi về đơi đễ hiễu gia đình
anh ấy rõ hơn. Tôi đã rất vui lúc nghe tin cậu sắp đến đơi... Ỡ đơi chẵng có gì nhiều đễ làm cã, trừ khi cậu thích nấu nướng và gà qué. Thôi... dùng bữa
điễm tâm cũa cậu đi,Arry!”
Nói xong những lời này, nàng duyên dáng quay đi và dường như lướt nhẹ ra khỏi phòng, khẽ khàng đóng lại cánh cửa sau lưng mình.
Bà Weasley phát ra một âm thanh nghe như:
“Chà.”
“Má ghét bả,” Ginny khẽ nói.
“Má không ghét nó!” Bà Weasley thìthầm vẻ chịu đựng. “Má chỉ nghĩlà hai đứa nó hơi vội vàng đính ước, thế thôi.”
“Họ biết nhau cả năm trời rồi,” Ron nói, trông nó có vẻ choáng váng và vẫn còn đang nhìn đăm đăm cánh cửa đã đóng lại.
“Ối, một năm thìđâu có gìlà lâu. Dĩnhiên là má biết tại sao lại xảy ra như vậy. Chỉ tại tình hình bất an này với việc trở lại của Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy,
mọi người cứ nghĩ có thể chết ngay vào ngày mai, cho nên họ hấp tấp trong đủ loại quyết định mà thường thì vẫn phải dành cho nhiều thời gian hơn. Lần
trước khi hắn đang hùng mạnh cũng tương tự như vậy, thiên hạ lấy nhau tán loạn, cánh tả cũng lấy, cánh hữu cũng lấy, trung lập cũng lấy...”
“Kể cả ba và má,” Ginny ranh mãnh nói.
“Ừ thì, ba tụi mày và má được tạo ra là để cho nhau thì chờ đợi mà làm gì?” bà Weasley nói. “Trong khi đó, Bill và Fleur... hừm... hai đứa nó thì có điểm
nào giống nhau hả? Bill là một loại người siêng năng thực tế, trong khi con đó là...”
“Một con bò cái,” Ginny gật đầu nói. “Nhưng anh Bill cũng chẳng được thực tế cho lắm. Ảnh là một Phá-nguyền-sư, đúng không, ảnh hơi bị khoái phiêu
lưu, khoái cái đẹp huyền ảo... Con đoán đó là nguyên nhân ảnh mẹ con mẹ Nhớt.”
“Đừng có gọi nó như vậy, Ginny,” bà Weasley rầy ngay, trong khi Hermione và Harry phá ra cười. “Thôi, má đi lo công chuyện thìhơn... Harry, con ăn trứng
đi kẻo nguội.”
Bà Weasley ra khỏi phòng, vẻ hốc hác vìlo lắng. Ron trông vẫn còn có vẻ lừ đừ; nó thử lúc lắc cái đầu như một con chó đang rũ nước khỏi vành tai.
Harry hỏi:
“Sống chung một nhà mà các bạn không quen được chị ấy sao?”
“Ôi, riết rồi quen thôi,” Ron nói. “Nhưng nếu như bà ấy cứ đột nhiên nổi khùng với mình, giống như kỳ đó...”
“Thiệt là thống thiết,” Hermione tức tối nói, rảo bước đi thật xa khỏi Ron, đến tận bức tường rồi quay lại khoanh tay nhìn Ron. Ginny hỏi Ron một cách ngờ
vực:
“Anh đâu có thực lòng muốn bả ở chung mãi mãi hả?”
Khi Ron chỉ nhún vai đáp lại, Ginny nói:
“Chà, má sắp hành động để ngăn chặn vụ này, em dám cá bất cứ thứ gìluôn.”
“Bác gái sẽ thu xếp thế nào?” Harry hỏi.
“Má cứ cố mời cô Tonks đến ăn tối. Em nghĩ má đang hy vọng anh Bill sẽ phải lòng cô Tonks thay vì bà Nhớt. Em hy vọng ảnh sẽ thích cô Tonks, em thích
cô Tonks trong gia đình mình hơn.”
“Ừ, như vậy hay à,” Ron chế nhạo. “Nghe đây nhé. Không thằng nào đầu óc sáng suốt mà lại phải lòng cô Tonks trong khi có Fleur quanh quẩn bên cạnh.
Ýanh nói là cô Tonks trông cũng được khi cổ không làm những chuyện ngốc nghếch với đầu tóc và cái mũi của ấy, nhưng...”
“Cô ấy tỉ lần đẹp hơn con mẹ Nhớt,” Ginny nói.
Và Hermione từ góc phòng bổ sung.
“Và cô Tonks thông minh hơn, cô ấy là một Thần Sáng!”
“Fleur cũng đâu có ngu,” Harry nói. “Chị ấy đủ giỏi để vô chung kết cuộc Thi đấu Tam Pháp thuật mà.”
Hermione nói giọng chua chát:
“Thìbồ cũng đâu có ngu.”
Ginny hỏi giọng khinh miệt:
“Em đoán là anh khoái cái kiểu Nhớt gọi anh ‘Arry à’ lắm há?”
“Đâu có,” Harry nghĩphải chi nãy giờ mình đừng nói gìhết. “Anh chỉ muốn nói… Nhớt, tức là Fleur ấy…”
Ginny nói:
“Em thích có cô Tonks trong gia đình mình hơn. Ít ra cô ấy là một người vui nhộn.”
“Dạo gần đây cô ấy chẳng còn là một người vui nhộn nữa.” Ron nói. “Mỗi lần anh gặp cô ấy, trông cô càng giống con ma khóc nhè Myrtle.”
“Không công bằng!” Hermione chen ngang nói nhanh. “Cô Tonks vẫn chưa hồi phục lại sau những gì đã xảy ra… Mấy bồ biết mà… Ý mình nói, chú ấy là
bà con của cô ấy.”
Trái tim Harry chùng xuống. Họ lại nói tới chú Sirius. Nó cầm lên cây nĩa và bắt đầu xúc món trứng chiên vô miệng, hy vọng né tránh được những lời rủ rê
tham gia vào phần này của cuộc chuyện trò.
“Cô Tonks và chú Sirius hồi ấy gần như không biết nhau,” Ron nói. “Chú Sirius bị giam trong ngục Azkaban một thời gian bằng nửa cuộc đời của cô
Tonks, và trước đó gia đình họ chưa hề gặp gỡ nhau.”
“Đó không phải là nguyên nhân chính,” Hermione nói. “Cô Tonks nghĩchú Sirius chết vìlỗi của cô ấy.”
“Làm sao mà cô ấy lại kết luận như vậy?” Harry buột miệng hỏi, bất chấp ý đồ của mình.
“Thì vầy, cô ấy đang chiến đấu với mụ Bellatrix Lestrange, đúng không? Mình nghĩ cô ấy cảm thấy là nếu cô ấy dứt điểm được mụ Bellatrix, thì mụ ta đâu
có thể giết chú Sirius.”
“Tầm bậy!” Ron nói.
“Đó là mặc cảm tội lỗi của người sống sót.” Hermione nói. “Mình biết thầy Lupin đã cố gắng giải tỏa cho cô ấy, nhưng cô ấy vẫn cứ sa sút tinh thần. Cô ấy
đang thực sự gặp khó khăn với kỹ năng biến hình của cô ấy.”
“Kỹ năng gì...?”
“Cô ấy không thể thay đổi hình dạng như cô ấy thường làm trước đây nữa,” Hermione giải thích. “Mình nghĩ sức mạnh của cô ấy bị chấn thương, hay bị
sao sao đó.”
“Mình không hề biết là chuyện đó có thể xảy ra,” Harry nói.
“Mình cũng không dè,” Hermione nói. “Nhưng mình nghĩnếu người ta thực sự suy nhược tinh thần...”
Cánh cửa lại mở ra và bà Weasley thò đầu vô. Bà thìthầm:
“Ginny, xuống bếp phụ má nấu bữa trưa.”
“Con đang nói chuyện với mọi người mà!” Ginny nói, vô cùng tức tối.
“Xuống ngay!” bà Weasley nói, và thụt đầu ra.
“Má chỉ muốn em có mặt để khỏi phải ở một mình với mụ Nhớt,” Ginny cấm cẳn. Nó hất mái tóc dài ra sau trong một điệu bộ nhái giống y như Fleur rồi
nhảy tưng lên, băng ngang qua căn phòng với hai cánh tay giơ cao như một nữ diễn viên vũ ba lê.
“Mấy người cũng nên xuống nhà lẹ lên!” Cô bé nói khi đi ra khỏi phòng.
Harry bèn lợi dụng sự im lặng ngay lúc đó để ăn nhiều hơn. Hermione thì săm soi mấy cái hộp của Fred và George, mặc dù thỉnh thoảng cô nàng lại liếc
chừng về phía Harry. Ron, lúc này đang ăn ké món bánh mìnướng của Harry, vẫn còn mơ màng chằm chằm nhìn ra cánh cửa.
“Cái gìđây?” cuối cùng, Hermione hỏi, vừa giơ lên một cái gìđó giống như một cái kính thiên văn nhỏ.
“Ai mà biết!” Ron nói. “Nhưng nếu anh Fred và George để nó lại đây, thì có lẽ nó chưa thật sẵn sàng để bày bán ở ngoài tiệm giỡn, thành ra hãy cẩn
thận.”
“Má bồ nói cái tiệm làm ăn khấm khá lắm,” Harry nói. “Nói Fred và George thực sự có óc kinh doanh nhạy bén.”
“Ấy là nói bớt đi rồi,” Ron nói. “Họ đang kiếm ra bạc Galleon! Mình háo hức muốn coi cái tiệm đó lắm, tụi mình vẫn chưa đi Hẻm Xéo, bởi vì má nói ba
phải đến đó để tăng cường an ninh, vìvậy ba bận việc ghê lắm, nhưng mà cái tiệm nghe có vẻ tuyệt vời.”
“Còn anh Percy ra sao?” Harry hỏi. Người con trai lớn thứ ba trong nhà Weasley đã rơi ra khỏi quỹ đạo của gia đình. “Anh ấy có nói chuyện lại với ba má
bồ không?”
“Không,” Ron nói.
“Nhưng bây giờ đây anh ấy cũng đã biết là ba bồ đúng hết trong vụ Voldermort trở lại rồi...”
“Cụ Dumbledore nói người ta dex dàng tha thứ cho người khác vìđã sai hơn là đã đúng,” Hermione nói. “Mình nghe cụ nói vậy với má bồ, Ron à.”
“Nghe đúng kiểu mấy điều thông thái mà cụ Dumbledore vẫn hay nói,” Ron đáp.
“Thầy sắp dạy riêng mình niên học này,” Harry vui chuyện, nói.
Ron sặc miếng bánh mìnướng, còn Hermione thìhá hốc miệng.
“Bồ kín tiếng dữ à!” Ron nói.
“Mình mới sực nhớ ra thôi,” Harry thành thật nói. “Thầy mới nói với mình hồi hôm trong cái chòi để chổi của nhà bồ.”
“Mèn ơi... Lớp riêng với cụ Dumbledore!” Ron nói, coi bộ hơi sững sờ. “Mình thắc mắc là không biết tại sao cụ...”
Giọng Ron nhỏ dần đi. Harry thấy Ron và Hermione trao đổi ánh mắt với nhau. Harry đặt dao và nĩa xuống, tim nó đập khá nhanh mặc dù chẳng làm gì
ngoài việc ngồi im trên giường. Cụ Dumbledore nói nó phải làm việc đó... Tại sao không làm ngay bây giờ? Nó chăm chú ngó cái nĩa đang sáng óng lên
trong ánh nắng tràn vào tận đùi nó, và nói:
“Mình không biết chính xác tại sao thầy lại mở lớp riêng cho mình, nhưng mình nghĩchắc vìlời tiên tri.”
Cả Hermione lẫn Ron không nói gì. Harry có ấn tượng là cả hai đều sững sờ. Nó tiếp tục, vẫn nói với cái nĩa của mình.
“Mấy bồ biết đó, cái mà chúng đã cố gắng đánh cắp khỏi Bộ ấy.”
“Nhưng mà đâu có ai biết cái đó nói gì?” Hermione nói nhanh. “Nó bị bể rồi mà.”
“Mặc dù tờ Tiên tri nói...” Ron mới mở đầu câu thìHermione đã “suỵt...”
“Tờ Tiên tri nói đúng,” Harry nói, với một cố gắng lớn ngước nhìn lên hai người bạn: Hermione dường như hoảng sợ và Ron hết sức kinh ngạc. “Trái cầu
thủy tinh đã bể nát đó không phải là bản ghi duy nhất của lời tiên tri. Mình được nghe toàn bộ lời tiên tri trong văn phòng cụ Dumbledore, lời tiên tri là
nhắm cho cụ, nên cụ có thể nói với mình. Từ những gì lời tiên tri nói...” Harry hít một hơi thở sâu, “thì có vẻ như mình là kẻ phải kết liễu Voldermort... ít nhất
thìlời tiên tri nói một trong hai người không thể sống khi kẻ kia còn tồn tại.”
Ba người bạn đăm đăm nhìn nhau trong im lặng một hồi. Rồi một tiếng nổ đùng thiệt to và Hermione biến mất sau làn khói đen.
“Hermione!” Harry và Ron thét lên; cái khay đồ điểm tâm tuột xuống sàn bể loảng xoảng.
Hermione hiện trở ra trong làn khói, ho sù sụ, tay nắm chặt cái kính thiên văn và khoe một con mắt tím đen sáng rực.
“Mình véo nó và nó... nó thụi mình,” cô nàng vừa thở hổn hển vừa nói.
Và đúng y vậy, giờ thìtụi nó thấy một nắm tay nhỏ xíu trên một cái lò xo nhô ra từ đầu cái kính thiên văn.
“Đừng lo,” Ron nói, rõ ràng là đang cố gắng nín cười, “Má sẽ chỉnh lại cho, má rất giỏi chữa lành mấy thương tích lặt vặt...”
“Ôi, thôi, đừng bận tâm chuyện đó lúc này,” Hermione vội vàng nói. “Harry, ồ Harry...”
Cô nàng lại ngồi xuống bên cạnh giường Harry.
“Lúc từ Bộ trở về, tụi này cũng thắc mắc... Rõ ràng, tụi này không muốn hỏi han gì bồ, nhưng từ những gì mà lão Lucius Malfoy nói về lời tiên tri, rằng nó
nói về bồ và Voldermort ra sao, chà, tụi này cũng nghĩ dám là một chuyện gì đó giống như vậy... Ôi, Harry…” Cô nàng chăm chú nhìn Harry, rồi thì thầm,
“Bồ có sợ không?”
“Bây giò thì không sợ bằng trước đây,” Harry nói. “Khi mới nghe nó lần đầu, mình... nhưng bây giờ, có vẻ như là mình đã luôn luôn biết rằng cuối cùng rồi
mình sẽ phải đương đầu với hắn.”
“Khi tụi này nghe cụ Dumbledore đích thân đi đón bồ, tụi này cũng nghĩ có thể cụ sẽ nói với bồ điều gì đó hay chỉ cho bồ điều gì đó để đối phó với lời tiên
tri,” Ron hăng hái nói. “vậy là coi như tụi này cũng đúng há? Cụ sẽ chẳng mở lớp dạy riêng cho bồ nếu cụ nghĩ bồ là đồ tiêu rồi; hơi đâu mà cụ phí sức...
Cụ phải tin là bồ còn có thể làm được gìthìmới thế!”
“Đúng đó!” Hermione nói. “Mình thắc mắc là cụ sẽ dạy bồ môn gì, Harry nhỉ? Pháp thuật phòng vệ cao cấp chính hiệu, dám lắm... Hay phản nguyền hùng
mạnh... Hay chống tà...”
Harry gần như không lắng nghe nữa. Một niềm ấm áp không liên quan gì tới ánh nawsg đang tỏa lan khắp người nó. Cơn tức thở ngột ngạt ở ngực nó
dường như đã được khai thông. Nó biết Hermione và Ron bị sốc hơn là tụi nó biểu hiện ra ngoài, nhưng cái sự việc giản dị là tụi nó vẫn ở bên cạnh nó,
nói với nó những lời an ủi hùng hồn, chứ không co lại tránh xa nó như thể nó bị bệnh truyền nhiễm hay gây nguy hiểm, đã là điều quí giá vô cùng mà nó
không tài nào thổ lộ với hai đứa được.
“...và bùa lẩn tránh nói chung,” Hermione đúc kết lại. “Chà, ít ra thì bồ cũng được biết một lớp mà bồ sẽ học trong niên học tới, đó là trội hẳn một lớp so
với Ron và mình. Mình đang thắc mắc không biết khi nào thìtụi mình có kết quả kỳ thi Pháp thuật thường đẳng?”
“Chắc không lâu nữa đâu. Gần cả tháng rồi còn gì!” Ron nói.
“Chờ đó,” Harry nói, khi sực nhớ lại một phần của cuộc nói chuyện tối hôm qua. “Mình nghĩ là cụ Dumbledore có nói kết quả kỳ thi của tụi mình sẽ được
gởi bằng bưu cú tới trong ngày hôm nay.”
“Hôm nay?” Hermione rú lên. “Hôm nay? Nhưng tại sao bồ đã không… Ôi trời ơi… lẽ ra bồ nên nói…”
Cô nàng đứng phắt dậy.
“Mình phải đi coi coi có bưu cú nào đến chưa…”
Nhưng khi Harry xuống tới nhà dưới mười phút sau đó, ăn mặc chỉnh tề và bưng cái khay sạch trơn, nó nhận thấy Hermione ngồi bên cạnh cái bàn nhà
bếp với vẻ kích động ghê gớm, trong khi bà Weasley đang cố làm giảm đi cái bề ngoài nửa như con gấu trúc của cô nàng.
“Nó chả thèm suy suyển đi chút nào,” bà Weasley đang nói một cách căng thẳng, bà đứng cao bên trên Hermione, tay cầm cây đũa phép và cuốn sách
Trợ lý người chữa thương, mở ra chương ‘Bầm, Đứt, Trầy’. “Trước giờ cách này vẫn hiệu nghiệm mà, bác chẳng hiểu ra làm sao cả.”
“Sáng kiến cho một trò giỡn tức cười của anh Fred và George là bảo đảm sao cho vết bầm không phai được,” Ginny nói.
“Nhưng nó phải phai đi chứ!” Hermione kêu lên oai oái. “Chị không thể nào vác cái mặt như vầy đi quanh mãi được.”
“Không đâu, cháu yêu quí, chúng ta sẽ tìm ra thuốc giải độc, đừng lo,” bà Weasley dỗ dành.
“Anh Bill có kễ cho tôi nghe hai cậu Fred và George rớt vui tính,” Fleur nói, mỉm cười thanh thản.
“Ừ, vui đến nỗi tôi cười không thở được,” Hermione boppháp sư chát. Cô nàng đứng bật dậy, bắt đầu đi loanh quanh nhà bếp, văn vẹo mấy ngón tay vào
nhau.
“Bác Weasley à, bác có chắc là sáng nay cú chưa tới không?”
“Đúng vậy con à, bác có để ý mà,” bà Weasley kiên nhẫn nói. “Nhưng mới chín giờ sáng mà, hãy còn khối thìgiờ…”
“Con biết là con lộn tùm lum trong bài thi Cổ ngữ Runes,” Hermione luýnh quýnh lầm bầm. “Con chắc chắn là phạm ít nhất một lỗi dịch thuật nghiêm trọng.
Và môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám chẳng tốt chút nào cả. Con tưởng môn Biến hình khá tốt lúc ấy, nhưng coi lại…”
“Hermione à, bồ nín dùm cho, bồ không phải là người duy nhất hồi hộp,” Ron quát. “Và khi mà bồ đạt mười một điểm Xuất sắc Pháp thuật Thường
đẳng…”
“Đừng, đừng, đừng!” Hermione nói, xua xua hai tay loạn xị lên. “Mình biết là mình hỏng hết mọi môn mà!”
“Nếu mình thi hỏng thìsao há?” Harry hỏi trỏng cả phòng, nhưng lại chính Hermione là người trả lời.
“Chúng ta sẽ thảo luận với giáo viên chủ nhiệm của mỗi Nhà về các lựa chọn, mình đã hỏi giáo sư McGonagall vào cuối học kỳ vừa rồi.”
Bao tử của Harry quặn thắt. Nó ước gìnó đã không ăn một bữa điểm tâm vĩđại.
“Ỡ Beauxbaton,” Fleur nói một cách đắc chí, “chúng tôi có mợt cách làm khác. Tôi nghĩcách đó tớt hơn. Chúng tôi mỡ kỳ thi vào năm thứ sáu, thay vìnăm
thứ năm, và lúc đó…”
Lời nói của Fleur chìm lỉm trong một tiếng rú. Hermione đang chỉ tay qua cửa sổ nhà bếp. Ba cái đốm đen đang hiện rõ dần trên nền trời, càng lúc càng
to ra.
“Chúng nhất định là cú rồi!” Ron nói, giọng khàn khàn, nhảy phắt dậy, đến đứng bên cửa sổ với Hermione.
“Và có ba con cả thảy,” Harry nói, vội vàng đến đứng cạnh hai đứa kia.
“Mỗi đứa mình một con,” Hermione nói với giọng thìthào hãi hùng. “Ôi, không…, ôi… không… ôi, không…”
Cô nàng bấu chặt cứng cùi chỏ của cả Harry lẫn Ron.
Những con cú bay thẳng đến Hang Sóc, ba con cú hung xinh đẹp, khi bay thấp xuống trên con đường nhỏ dẫn lên ngôi nhà, thì thấy rõ mỗi con đều đang
mang theo một cái phong bìto vuông vức.
“Ôi không,” Hermione ré lên.
Bà Weasley chen qua ba đứa và mở cửa sổ nhà bếp ra. Một, hai, ba, bọn cú bay vù qua cửa sổ và đáp xuống mặt bàn theo một hàng ngang thẳng tắp.
Tất cả ba con cú đều giơ chân phải lên.
Harry di chuyển tới trước. Bức thư đề tên nó được buộc vào chân của con cú đứng ở giữa. Nó tháo bức thư ra bằng mấy ngón tay run rẩy. Bên trái nó,
Ron đang cố gắng tháo gỡ cái kết quả của chính nó; và ở bên phải, bàn tay Hermione run đến nỗi cô nàng làm cho chính con cú đưa thư cũng phát run.
Không ai trong nhà bếp nói năng gì. Cuối cùng, Harry cũng xoay sở mở được cái phong bì. Nó xé toạc phong bì ra thiệt nhanh và mở tấm giấy da bên
trong.
KẾT QUẢ PHÁP THUậT THƯỜNG ĐẲNG
Điểm đậu: Xuất sắc (XS) Điểm rớt: Kém (K)
Giỏi quá kỳ vọng (G) Tồi dễ sợ (T)
Xoàng (X) Bết (B)
HARRYJAMES POTTER ĐÃ ĐẠT THÀNH TÍCH:
Thiên văn học: X
Chăm sóc sinh vật huyền bí: G
Bùa ngải: G
Phòng chống nghệ thuật hắc ám: XS
Thần học: K
Thảo dược học: G
Lịch sử Pháp thuật: T
Độc dược: G
Biến hình: G
Harry đọc suốt tấm giấy da nhiều lần, hơi thở của nó trở nên hòa dịu hơn sau mỗi lần đọc. Vậy là ổn cả: nó vốn luôn biết là nó sẽ rớt môn Thần học, và nó
đã chẳng hòng đậu nổi môn Lịch sử Pháp thuật, trong hoàn cảnh nó đã gục ngã nửa chừng trong kỳ thi. Nhưng nó đã đậu tất cả các môn còn lại! Nó rà
ngón tay dọc điểm số… Nó đã đậu môn Biến hình và môn Thảo dược học dễ dàng, nó thậm chí giỏi quá kỳ vọng ở môn Độc dược! Và khoái hơn cả là
nó đạt được điểm “xuất sắc” môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám.
Nó nhìn quanh. Hermione đang quay lưng lại và đầu cô nàng cúi xuống, nhưng Ron trông hớn hở ra mặt.
“Chỉ rớt môn Thần học và Lịch sử Pháp thuật, mà ai bận tâm tới mấy thứ đó chớ?” Ron vui vẻ nói với Harry. “Đây nè… đổi…”
Harry liếc xuống hạng của Ron: chẳng có cái “xuất sắc” nào cả…
“Biết bồ giỏi nhất môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám mà,” Ron nói, vừa thoi một đấm vô vai Harry. “Tụi mình ngon lành, há?”
“Giỏi lắm!” bà Weasley nói một cách tự hào, xoa rối bù mái tóc của Ron. “Bảy chứng chỉ Pháp thuật Thường đẳng, vậy là nhiều hơn cả Fred và George
cộng lại!”
“Hermione?” Ginny ngập ngừng gọi, vìHermione vẫn không quay mặt lại. “Kết quả của chị ra sao?”
“Chị… không đến nỗi tệ,” Hermione nói nhỏ.
“Thôi mà, đừng giấu nữa!” Ron nói, rảo bước qua chỗ Hermione, hớt nhanh cái kết quả trong tay cô nàng. “Đúng… mười “xuất sắc” và một “giỏi quá kỳ
vọng” môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám,” nó ngó xuống Hermione, nửa khoái, nửa cáu. “Bồ thất vọng thiệt ấy hả?”
Hermione lắc đầu, nhưng Harry bật cười.
“Này bây giờ tụi này là bậc Phù thủy Tận sức rồi nhé!” Ron toe toét cười. “Má ơi, còn xúc xích không?”
Harry nhìn lại kết quả của nó. Kết quả tốt như nó đã hy vọng. Nó chỉ hơi nhói đau khi cảm thấy tiếc là… Thế là kết thúc tham vọng trở thành Thần Sáng của
nó. Nó đã không bảo đảm được điểm yêu cầu của môn Độc dược. Nó vẫn luôn biết là nó sẽ không đạt được, nhưng nó vẫn cảm thấy nặng nề trong gan
ruột khi nhìn lại cái điểm G nhỏ màu đen.
Kể cũng quái dị, thực vậy, lại chính một Tttt cải trang là người đầu tiên nói với Harry rằng nó có thể trở thành một Thần Sáng giỏi, nhưng chẳng biết sao
cái ý tưởng đó lại bám riết lấy nó, và nó chẳng hề mơ ước trở thành cái gìngoài điều đó. Hơn nữa có vẻ như đó là một định mệnh chính xác của nó bởi vì
nó đã nghe lời tiên tri cách đây mấy tuần lễ… một trong hai người không thể sống khi kẻ kia còn tồn tại... Vậy nếu như nó được gia nhập đội ngũ nhưng
phù thủy được huấn luyện siêu đẳng để làm công việc tìm và diệt Voldermort, thìchẳng phải là nó sẽ được sống theo đúng lời tiên tri và tự giành cho mình
một cơ hội tốt nhất để sống sót sao?
Chương 6
Khúc ngoặt của Draco
Harry vẫn ở lại trong khuôn khổ khu vườn của Hang Sóc suốt vài tuần lễ kế tiếp. Nó dành hầu hết ngày giờ để chơi bóng Quidditch hai-người-một-đội
trong vườn cây ăn trái của gia đình Weasley (nó và Hermione đấu với Ron và Ginny; Hermione thìdở khiếp còn Ginny thìchơi giỏi, cho nên tụi nó cân sức
cũng khá hợp lý), và buổi tối nó ăn tới ba phần bất cứ món gìbà Weasley dọn ra trước mặt.
Đó đáng lẽ là kỳ nghỉ hè thanh bình, vui vẻ, nếu không có những câu chuyện về mất tích, tai nạn kỳ quái, thậm chí chết chóc bây giờ xuất hiện hầu như mỗi
ngày trên tờ Tiên tri. Đôi khi Bill và ông Weasley đem tin tức về nhà trước khi báo kịp đăng. Bà Weasley đã không hài lòng chút nào khi lễ sinh nhật thứ
mười sáu của Harry bị những cơn thủy triều rùng rợn mà thầy Remus Lupin mang tới bữa tiệc làm cho hỏng bét. Thầy Lupin dạo này trông hốc hác dữ
tợn, mớ tóc nâu của thầy pha sọc dưa với mái tóc bạc, quần áo thìcáng te tua vá víu hơn bao giờ hết.
“Lại có thêm hai vụ giám ngục tấn công khác nữa,” thầy Lupin thông báo khi bà Weasley đưa cho thầy một miếng bánh sinh nhật to. “Và người ta tìm thấy
xác Igor Karkaroff trong một căn chòi tuốt trên miền Bắc. Có Dấu hiệu Hắc ám ếm trên cái chòi – Hù, thành thật mà nói, tôi ngạc nhiên là hắn còn sống sót
gần một năm trời sau khi ly khai bọn Tử thần thực tử; theo như tôi nhớ thìRegulus, em trai chú Sirius, chỉ xoay sở được có vài ngày.”
“Ừ, thôi,” bà Weasley cau mày. “Có lẽ chúng ta nên nói về cái gìđó khác…”
“Chú có nghe về Florean Fortescue không, chú Remus?” Bill hỏi, nãy giờ bị Fleur chuốc rượu vang tới tấp. “Cái ông điều hành…”
“Tiệm kem ở Hẻm Xéo hả?” Harry chen ngang với một cảm giác trống tuột khó chịu trong hốc bao tử. “Hồi trước bác ấy hay cho em cà rem miễn phí. Có
chuyện gìvới bác ấy ạ?”
“Bị trục đi, căn cứ vào hiện trường cái tiệm của ông ấy.”
“Tại sao?” Ron hỏi, trong khi bà Weasley quắc mắt ngó Bill.
“Ai mà biết. Chắc là ông ấy phải chọc giận chúng kiểu gìđó. Ông Florean ấy là một người tốt.”
“Nói tới Hẻm Xéo,” ông Weasley nói, “hình như ông Ollivander cũng biến mất rồi.”
“Ông làm đũa phép ấy hả?” Ginny hỏi, vẻ sửng sốt.
“Chính ông đó. Cửa hàng trống rỗng. Không hề có dấu vết của một cuộc chiến đấu. Không ai biết liệu ông ta tự nguyện ra đi hay là bị bắt cóc.”
“Nhưng những cây đũa phép… người ta làm sao mà có đũa phép bây giờ?”
“Họ sẽ đặt những người khác làm,” thầy Lupin nói. “Nhưng Ollivander là người giỏi nhất, và nếu đối phương có được ông ấy thì việc đó chẳng hay ho gì
cho chúng ta cả.”
Ngày hôm sau bữa tiệc trà sinh nhật hơi u ám này, thư gọi nhập học và danh mục sách giáo khoa của lũ trẻ được gởi tới từ trường Hogwarts. Phần của
Harry có kèm thêm một sự ngạc nhiên: nó được chọn làm Đội trưởng Quidditch.
“Như vầy bồ sẽ có địa vị ngang hàng với Huynh trưởng!” Hermione reo lên vui vẻ. “Từ nay bồ có thể sử dụng phòng tắm đặc biệt, và mọi thứ!”
“Chà mình nhớ khi anh Charlie đeo một trong những cái này,” Ron nói, hân hoan xem xét cái huy hiệu. “Harry à, chuyện này thiệt hay đó, bồ là đội trưởng
của mình… nếu bồ cho mình trở lại, mình cho là, hà hà…”
“Hừm, má không nghĩ là chúng ta có thể trì hoãn lâu thêm nữa chuyến đi mua sắm ở Hẻm Xéo nữa đâu, vì con cần sắm những thứ này.” Bà Weasley thở
dài, ngó xuống cái danh mục sách giáo khoa của Ron. “Chúng ta sẽ đi vào ngày thứ bảy nếu như ba con không bị kẹt công việc một lần nữa. Má sẽ
không tới đó mà không có ba các con đi cùng đâu.”
“Má à, má có thực sự nghĩlà Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy sẽ núp trong một kệ sách trong tiệm Flourish và Blotts không?” Ron cười khì.
“Chứ ông Fortescue và ông Ollivander chỉ đi nghỉ hề thôi, hả?” Bà Weasley phản công lại tức thì. “Nếu con nghĩ an ninh là chuyện giỡn chơi thì con có thể
ở nhà và má sẽ tự đi mua mọi thứ dùm con…”
“Không, con muốn đi, con muốn xem cái tiệm giỡn của anh Fred và George.” Ron vội vã nói.
“Vậy thìcậu chỉ cần thắt đai an toàn những ý tưởng của cậu lại, cậu trẻ à, trước khi tôi quyết định là cậu còn quá non nớt không thể cùng đi với chúng tôi!”
Bà Weasley giận dữ nói, chụp lấy cái đồng hồ của bà, tất cả chín cây kim đồng hồ đều chỉ vào chữ nguy hiểm chết người -“và hãy liệu hồn cảnh giác như
thế luôn trong cả chuyện trở về nhập học trường Hogwarts!”
Ron trợn mắt quay sang ngó Harry chòng chọc, trong khi mẹ nó hai tay bưng cái giỏ đồ cần giặt và cái đồng hồ ngồi chông chênh trên đó, đùng đùng đi
ra khỏi phòng.
“Ôi trời… Ở đây giỡn một chút cũng không được nữa rồi…”
Nhưng Ron cũng cẩn thận không nói năng báng bổ về Voldermort trong mấy ngày kế đó. Ngày thứ bảy ló dạng mà không nổ ra thêm cơn giận nào của bà
Weasley, mặc dù bà có vẻ rất căng thẳng trong bữa điểm tâm. Anh Bill sẽ ở nhà với Fleur (khiến Hermione và Ginny mừng húm). Anh chuyền ngang qua
mặt bàn một bịch đầy tiền cho Harry.
“Phần của em đâu?” Ron đòi hỏi ngay lập tức, hai mắt mở to.
“Đây là tiền của Harry, ngốc ạ.” Anh Bill nói. “Harry, anh đã rút tiền trong kho của em ra dùm em, bởi vì dạo này công chúng muốn rút vàng ra khỏi nhà
băng phải mất tới năm tiếng đồng hồ. Các yêu tinh nhà băng đã thắt chặt kiểm soát an ninh. Cách đây hai ngàyArkie Philport bị gắn một cái bùa Khảo
sát trung thực… Thôi, cứ tin anh đi, cách này dễ hơn.”
“Cám ơn anh Bill,” Harry nói, nhét bịch vàng vô túi.
“Anh ới luôn luôn chu đáo,” Fleur vừa vuốt mũi Bill vừa rù rì một cách trìu mến. Ginny diễn kịch câm ói vô cái chén bột điểm tâm của nó đằng sau lưng
Fleur. Harry mắc nghẹn miếng bánh bột bắp, còn Ron thìđấm thùm thụp lên lưng Harry.
Hôm đó là một ngày đầy mây ảm đạm. Một trong mấy cái xe của Bộ Pháp thuật, cái mà Harry từng đi trước đây, đang chờ ở trước sân khi họ vừa kéo
áo choàng trùm kín người vừa nhô ra khỏi nhà.
“Thiệt hay là ba có thể kiếm cho tụi mình những thứ này một lần nữa,” Ron nói giọng tán dương, vươn duỗi một cách phè phỡn trong lúc chiếc xe chạy êm
ru ra khỏi Hang Sóc, Bill và Fleur vẫy tay chào họ từ cửa sổ nhà bếp. Ron, Harry, Hermione và Ginny cũng nhau ngồi thoải mái ở băng ghế sau rộng rãi.
“Đừng có nhiễm thói quen đó, chẳng qua là vì Harry thôi,” ông Weasley nói vọng ra sau. Ông và bà Weasley ngồi ở băng ghế trước với tài xế của Bộ;
Ghế hành khách ở hàng đầu đã được kéo ra thành một thứ giống như ghế sofa hai chỗ. “Harry được đặt ở tình trạng bảo vệ cao nhất. Rồi chúng ta sẽ
còn có thêm bổ sung an ninh ở Hẻm Xéo.”
Harry không nói gì; nó không mê gì lắm chuyện mua sắm mà cứ bị một tiểu đoàn Thần Sáng vây quanh. Nó đã nhét tấm Áo khoác tàng hình vào cái ba lô
của mình và cảm thấy rằng, nếu cụ Dumbledore nghĩ làm như vậy là tốt, thì Bộ Pháp thuật ắt cũng cho là tốt, mặc dù khi nghĩ như vậy, nó không biết chắc
là Bộ có biết về tấm Áo khoác tàng hình của nó không.
Một thoáng sau, nhanh đến nỗi đáng ngạc nhiên, người lái xe mở miệng, lần đầu tiên, trong khi vẫn lái cho xe chậm lại trên đường Charing Cross rồi đậu
ngay bên ngoài quán Cái Vạc Lủng:
“Đấy, quívị đã đến nơi. Tôi sẽ chờ quívị, có biết quívị sẽ đi bao lâu không?”
“Tôi chắc chừng hai tiếng đồng hồ,” ông Weasley nói. “A, hay quá, ông ta kìa!”
Harry bắt chước ông Weasley thò đầu ra ngoài cửa sổ xe, tim nó nhảy thót lên. Chẳng thấy Thần Sáng nào canh gác bên ngoài quán cả, nhưng thay vào
đó là bóng dáng khổng lồ với bộ râu đen của bác Hagrid, người giữ sân của trường Hogwarts. Bác mặc một cái áo khoác dài bằng da hải ly, cười toe
toét khi thấy mặt Harry và hiển nhiên là khiến đám bộ hành Muggle kinh ngạc.
“Harry!” Bác kêu oang oang, vừa lướt nhanh tới cuốn Harry vào trong một cái ôm siết thân thương đến gãy xương, khi nó mới bước ra khỏi chiếc xe.
“Buckbeak – tức là Whiterwings ấy - ừ, con phải gặp nó, Harry à, nó vui hết cỡ khi được trở về sống ngoài trời...”
“Nó vui là mừng rồi,” Harry nói, nhăn răng cười trong khi xoa nắn mấy khớp xương sườn của mình. “Tụi con đâu dè ’an ninh’ lại là bác!”
“Bác biết, giống như hồi xưa, đúng hông? Biết hông, Bộ Pháp thuật tính đặc phái một đám Thần Sáng, nhưng cụ Dumbledore nói bác làm được tất,” bác
Hagrid nói một cách tự hào, ngực bác phồng lên, và hai ngón tay cái ngéo vào mép túi áo. “Nào, chúng ta đi... Xin mời đi trước thưa ông Arthur và bà
Molly...”
Quán Cái Vạc Lủng hoàn toàn trống vắng, lần đầu tiên, theo trí nhớ của Harry. Chỉ có ông Tom chủ quán, người khô xác lại không răng, là người còn sót
lại của đám đông ngày xưa. Ông ta ngước nhìn lên tràn trề hy vọng khi đám Harry bước vào quán, nhưng trước khi ông ta kịp mở miệng, bác Hagrid đã
trịnh trọng nói:
“Bữa nay chỉ đi ngang qua thôi, ông Tom à, chắc ông hiểu rồi, công tác Hogwarts, ông biết đấy.”
Ông Tom gật đầu buồn bã và quay ra lau mấy cái ly; Harry, Hermione, bác Hagrid, và đám Weasley đi băng qua quán để ra một cái sân nhỏ lạnh lẽo ở
đằng sau quán, nơi để mấy thùng rác. Bác Hagrid giơ cây dù hồng của bác lên và gõ một viên gạch nào đó trên tường, bức tường nứt ra ngay tức thì,
tạo thành một cái cổng vòm mở ra một con đường lát gạch quanh co. Họ bước qua cổng và nhìn quanh.
Hẻm Xéo đã thay đổi. Những cửa hàng lộng lẫy sặc sỡ màu sắc trưng bày sách thần chú, nguyên liệu Độc dược và chảo vạc đã bị khuất tầm nhìn sau
những áp phích vĩ đại của Bộ Pháp thuật giăng áng hết những mặt tiền cửa hàng. Hầu hết những áp phích tím thẫm âm u này in phiên bản phóng lớn của
những lời khuyên an ninh trong tờ bướm Bộ Pháp thuật đã gởi đi khắp nơi suốt mùa hè; nhưng cũng có mấy tấm áp phích khác trưng ra những bức ảnh
đen trắng cử động được của những Tử thần thực tử được biết là đang đào tẩu. Mụ Bellatrix Lestrange đang nhếch môi cười khinh khỉnh ở mặt tiền một
tiệm thuốc gần đó nhất. Một số cửa hàng đã bị đóng ván niêm phong, bao gồm tiệm kem của ông Florean Fortescue. Nhưng mặt khác, một số quầy
hàng trông nhếch nhác lại mọc rộ lên dọc theo con đường. Cái quầy gần đó nhất, được dựng lên ngay bên ngoài nhà sách Flourish và Blotts, phía dưới
một tấm vải bạt sọc rằn lem luốc, có một tấm bảng hiệu bằng giấy bồi gài ở phía trước:
Bùa Hộ mạng: chống Nười sói, Giám ngục, và Âm binh hiệu quả
Một pháp sư nhỏ thó vẻ tiều tụy đang lúc lắc một mớ những biểu tượng bằng bạc xâu thành chuỗi để mời khách qua đường.
“Một cái cho cô gái nhỏ của bà nhé?” Lão chào mời bà Weasley khi họ đi ngang, mắt lão liếc đểu Ginny. “Để bảo vệ cái cổ nõn nà của cô bé nhé?”
“Nếu tôi mà đang thi hành nhiệm vụ...” Ông Weasley trừng mặt giận dữ ngó lão ban bùa hộ mệnh.
“Ừ, nhưng đừng có đi bắt ai lúc này, anh yêu ạ, chúng ta đang vội,” bà Weasley nói, lo lắng tham khảo một cái danh sách những thứ cần mua sắm. “Má
nghĩchúng ta nên đến tiệm Bà Malkin’s trước tiên, Hermione muốn mua vài tấm áo chùng mới, áo chùng cũ đi học của Ron cũng đã ngắn hổng mắt cá nó
quá nhiều rồi, và con cũng cần áo mới nữa, Harry à, con cũng lớn nhanh quá... Naod, mọi người, đi nào...”
“Molly à, mọi người cũng kéo đến tiệm Bà Malkin’s thìchẳng hợp lý chút nào. Tại sao không để ba đứa nó tới đó cùng với bác Hagrid, còn chúng ta thìđi
đến tiệm Flourish và Blotts để mua sách cho tất cả tụi nó?”
“Em không biết,” bà Weasley lo lắng nói, rõ ràng là bị giằng co giữa ước muốn mua sắm cho thiệt nhanh với mong muốn bám nhau thành một đoàn. “Bác
Hagrid, bác nghĩsao?...”
“Đừng sơ, chị Molly, tụi nó đi với tôi được mà,” bác Hagrid nói một cách dịu dàng, quơ quơ một bàn tay lông lá to bằng cái nắp thung rác. Bà Weasley có
vẻ không được thuyết phục hoàn toàn, nhưng cũng cho phép xẻ đàn, rồi gấp rút đi về phía tiệm Flourish và Blotts cùng chồng và Ginny, trong khi Harry,
Ron, Hermione và bác Hagrid đi về phía tiệm Bà Malkin’s.
Harry để ý thấy nhiều người đi ngang qua tụi nó cũng có cái vẻ lo âu, phiền muộn như bà Weasley, và không ai dừng chân trò chuyện nữa; những người
mua sắm đi cùng nhau thành từng nhóm và bám nhau chặt chẽ, lăm lăm đi lo cho xong công việc của mình. Dường như chẳng có ai đi bát phố mua sắm
một mình.
“Tất cả cùng vô đó thì hơi chạt một tí,” bác Hagrid nói, dừng chân bên ngoài tiệm Bà Malkin’s và cúi xuống dòm qua cửa sổ. “Bác đứng canh bên ngoài,
được hông?”
Thế là Harry, Hermione và Ron cùng nhau đi vô cái tiệm nhỏ. Thoạt nhìn thì thấy có vẻ như tiệm vắng khách, nhưng ngay sau khi cánh cửa tiệm mở ra rồi
khép lại sau lưng, chúng đã nghe một giọng nói quen thuộc phát ra từ sau một dãy giá treo áo chùng viền màu xanh lục và xanh lơ.
“...không còn con nít nữa, trong trường hợp mẹ không nhận ra, mẹ à. Con hoàn toàn đủ khả năng tự đi mua sắm một mình!”
Có tiếng tạc lưỡi nghe như gà mái cục tác và một giọng nói mà Harry nhận ra là giọng của bà Malkin, chủ tiệm.
“Ấy, cậu thân mến, mẹ của cậu hoàn toàn đúng đấy, chẳng ai trong chúng ta lại tính chuyện đi lang thang một mình vào thời buổi này nữa, cái đấy thìkhông
liên quan gìđến chuyện còn con nít...”
“Để ý tới chỗ bà đâm cái kim gài ấy, được không?”
Một thằng tuổi mới lớn có gương mặt nhọn trắng nhợt nhạt và mái tóc vàng ánh trắng hiện ra đằng sau giá treo áo, nó mặc một bộ áo chung thanh lịch
màu xanh lục sậm lấp lánh kim gài quanh lai và đường viền tay áo. Nó rảo bước đến tấm gương soi và tự ngắm nghía mình; chỉ tích tắc sau là nó nhận
thấy Harry, Hermione và Ron trong gương, sau lưng nó. Đôi mắt xám của nó híp lại.
“Nếu mẹ thắc mắc cái mùi gìthum thủm, mẹ à, ấy là vìmột con Máu bùn vừa bước vô tiệm,” Draco Malfoy nói.
“Tôi cho là không cần thiết phải dùng ngôn ngữ như thế,” bà Malkin nói, vội vàng bước ra từ phía sau giá treo quần áo, tay cầm một cuộn thước dây và
một cây đũa phép. “Và tôi cũng không muốn có đũa phép chĩa ra trong tiệm của tôi!” Bà hấp tấp nói thêm, khi liếc về phía cửa và thấy cả Harry lẫn Ron
đang đứng đó rút đũa phép ra chĩa về phía Malfoy.
Hermione đưng hơi khuất đằng sau hai đứa này, khẽ nói:
“Đừng, ôi xin đừng... thực lòng, chẳng đáng...”
“Chà, coi bộ chúng mày dám xài Pháp thuật ở ngoài trường ha,” Malfoy khinh khỉnh nói. “Ai làm bầm mắt mày thế, Hermione? Tao muốn gởi hoa tặng kẻ
đó.”
“Thôi đủ rồi,” bà Malkin nói giọng sắc đanh, vừa ngoái nhìn ra sau để tìm sự hỗ trợ. “Thưa bà, xin vui lòng...”
Bà Narcissa Malfoy thong thả bước ra từ đằng sau giá treo áo.
“Dẹp mấy thứ đó đi!” Bà ta lạnh lùng nói với Harry và Ron. “Nếu chúng mày tấn công con trai tao một lần nữa, tao sẽ cam đoan đó sẽ là hành động cuối
cùng trong đời chúng mày.”
“Thiệt hả?” Harry tiến tới trước một bước và đăm đăm nhìn vào gương mặt kiêu căng phẳng lì tuy tái nhợt nhưng vẫn giống y gương mặt của bà chị. Bây
giờ Harry đã cao bằng bà ta. “Sắp kêu thêm vài tên Tử thần thực tử chícốt đến thanh toán chúng tôi chứ gì?”
Bà Malkin rú lên và ép chặt trái tim.
“Thực tình, cậu không nên cáo buộc... nói thế là nguy hiểm... làm ơn cất đũa phép đi!”
Nhưng Harry chẳng chịu hạ thấp cây đũa phép của nó. Narcissa Malfoy mỉm cười khó chịu.
“Tao nhận thấy việc là một học trò cưng của lão Dumbledore đã khiến cho mày có ý thức sai lầm về sự an toàn, Harry Potter à. Nhưng lão Dumbledore
đâu có thể lúc nào cũng có mặt để bảo vệ mày.”
Harry ngó quanh cái tiệm vẻ chế giễu:
“Chà... nhìn quanh coi... cụ không có mặt ở đây lúc này! Thế tại sao còn chưa ra tay? Biết đâu họ có thể kiếm ra một buồng giam đôi trong nhà ngục
Azkaban cho bà và ông chồng chiến bại của bà!”
Malfoy làm một cử động tức giận về phía Harry, nhưng vấp té phải vạt áo chùng dài quá khổ mà nó đang mặc. Ron bật cười to.
“Mày dám nói năng như vậy với mẹ tao hả, thằng Potter?” Malfoy gầm gừ.
“Không hề gì Draco,” Narcissa nói, quặp mấy ngón tay trắng gầy của mình lên vai thằng con. “Mẹ chờ coi thằng Potter sẽ sum họp với thằng chú Sirius
yêu dấu của nó trước khi mẹ tái hợp với ba Lucius.”
Harry giơ cây đũa phép của nó cao hơn.
“Harry, đừng!” Hermione rên rỉ, chụp lấy cánh tay nó và cố gắng kéo xuôi xuống bên hông. “Hãy suy nghĩ... Bồ còn phải... Bồ sẽ bị rắc rối...”
Bà Malkin run cầm cập tại chỗ mất một lúc, rồi dường như quyết định phải hành động như thể không có chuyện gì đang xảy ra, với hy vọng là sẽ không
xảy ra chuyện gì. Bà cúi xuống về phía Malfoy, nó vẫn đang trừng mắt nhìn Harry.
“Tôi cho là ống tay áo trái có thể được vén lên thêm một chút xíu nữa thôi, cậu à, hãy để tôi...”
“Ui!” Malfoy rống lên, vả bàn tay bà Malkin bật ra. “Để mắt tới chỗ bà găm kim vô chứ, mụ! Mẹ... con nghĩcon không muốn bộ đồ này nữa...”
Nó kéo tấm áo chùng qua khỏi đầu và quăng trả xuống sàn ngay chân bà Malkin.
“Con đúng đấy, Draco,” Narcissa nói, kèm một cái liếc miệt thị về phía Hermione. “Bây giờ mẹ đã biết loại cặn bã nào mua sắm ở tiệm này... Chúng ta sẽ
sắm được đồ tốt hơn ở tiệm Twilfit và Tatting’s.”
Và nói thế xong, cả hai mẹ con rảo bước ra khỏi tiệm, Malfoy cố tình ra sức tông thiệt mạnh vô Ron trên đường đi ra cửa.
“Chà, thiệt tình!” Bà Malkin nói, gom mớ áo chùng rớt dưới sàn và rà đầu cây đũa phép của bà khắp áo như một cái máy hút bụi để phụi hết bụi bặm.
Bà bị hoang mang suốt buổi thử áo cho Ron và Harry, định bán cho Hermione áo chùng pháp sư thay vì áo thụng phù thủy, và cuối cùng khi bà cúi chào
tiễn tụi nó ra khỏi tiệm, sắc mặt bà sáng lên niềm vui được nhìn thấy cái lưng của tụi nó.
“Sắm đủ thứ rồi hả?” Bác Hagrid hớn hở hỏi khi thấy tụi nó xuất hiện bên cạnh.
“Kể như đủ,” Harry nói. “Bác có thấy thằng Malfoy không?”
“Có,” bác Hagrid nói, chẳng bận tâm. “Nhưng tụi nó chẳng dám gây chuyện giữa Hẻm Xéo đâu, Harry. Đừng lo tới tụi đó.”
Harry, Ron và Hermione nhìn nhau, nhưng trước khi chúng có thể làm cho bác Hagrid nhận ra quan niệm của bác là sai lầm, ông bà Weasley và Ginny đã
xuất hiện, người nào cũng tay xách nách mang những gói sách nặng ịch.
“Mọi người ổn cả chứ?” Bà Weasley nói. “Mua áo chùng chưa? Vậy tốt, chúng ta có thể ghé qua tiệm thuốc Apothecary và Eeylopháp sư trên đường đến
tiệm của Fred và George – Nào, đi sát vô nhau...”
Cả Harry và Ron đều không mua chút nguyên liệu nào ở tiệm thuốc, vì nghĩ rằng chúng chẳng còn học môn Độc dược nữa, nhưng ở chợ Cú Eeylopháp
sư, cả hai mua mấy hộp hạt cú to để làm quà cho Hedwig và Pigwidgeon. Kế đến, với bà Weasley kiểm tra cái đồng hồ của bà, chừng mỗi một hai phút
một lần, mọi người đi tới dọc con đường để tìm tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley, một tiệm giỡn do Fred và George điều hành.
“Chúng ta thực tình chẳng còn nhiều thời gian,” bà Weasley nói, “cho nên chúng ta chỉ tham quan ngắn gọn rồi trở về xe. Chúng ta phải đi sát vào nhau,
kia là số chín mươi hai... chín mươi tư...”
“Chu choa!” Ron nói, dừng bước trên đường đi.
Nổi bật lên đám cửa hàng bị bao bọc bởi đám áp phích chán phèo, cửa hàng của Fred và George đập vô mắt người ta cảnh tượng giống như trình diễn
pháo hoa. Khách bộ hành vô tình đi ngang đều ngoái đầu nhìn cửa hàng, và một số người có vẻ bị choáng váng đã thực sự dừng bước, ngẩn ngơ. Cửa
sổ bày hàng bên trái làm hoa mắt người ta bằng đủ loại sản phẩm cứ chỏi dậy, nổ ra, lóe sáng, nảy tưng tưng, và gào rú; Harry bắt đầu nhòe nước mắt
khi nhìn cửa hàng này. Cửa sổ bày hàng bên phải bị che bởi một tấm áp phích khổng lồ, màu tím giống như những tấm áp phích của Bộ Pháp thuật,
nhưng được làm nổi bật lên những chữ màu vàng chớp nhá sau:
Tại sao Quívị lại lo lắng về
Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy?
Quívị nên lo lắng về
AI-CŨNG-KHÔNG-Ị
Cái cảm giác táo bón đang kìm kẹp đất nước
Harry bắt đầu cười lớn. Nó nghe một giọng ca cẩm yếu ớt bên cạnh và nhìn thấy bà Weasley đứng chết lặng dưới tấm áp phích. Môi bà mấp máy không
thành tiếng khi cố đọc “AI-CŨNG-KHÔNG-Ị”
“Tụi nó sẽ bị ám sát ngay trên giường ngủ!” Bà thìthào.
“Không đời nào họ bị!” Ron nói, cũng giống như Harry, nó đang cười. “Cái này thiệt là thông minh!”
Và nó cùng Harry dẫn đầu cả đám vô tiệm. Khách hàng đông chật cửa tiệm; Harry không thể nhích tới gần mấy cái kệ để hàng. Nó trố mắt nhìn chung
quanh, ngước lên mấy cái hộp chất cao đến trần nhà: đây là những hộp Quà vặt Cúp cua mà hai anh em đã hoàn thiện trong niên học cuối dở dang của
họ ở trường Hogwarts; Harry nhận thấy kẹo Nuga Máu cam rất được ưa chuộng, chỉ còn lại mỗi một hộp bị móp trên kệ. Có những cái thùng đựng đầy
những cây đũa phép bịp, những cây rẻ nhất khi vung vẩy chỉ biến thành gà cao su hay một đôi quần đùi, cây mắc tiền nhất thì nện lên đầu lên cổ những
người thiếu cảnh giác, và mấy hộp viết lông ngỗng được bày bán thành ba loại: Tự-bơm-mực, Tự-kiểm-tra-chính-tả, và Trả-lời-thông-minh. Có một chỗ
hở trong đám đông, Harry bèn chen vô tiến về phía quầy tính tiền, nơi có một đám nhóc mười tuối loi choi hí hửng đứng xem một người gỗ nhỏ xíu đang
từ từ leo lên cầu thang đến một bộ giá treo cổ, cả hai đều đặt trong một cái hộp có hàng chữ: Người treo cổ xài nhiều lần - Ếm đi kẻo hắn đánh đu!
“Bùa Mơ mộng độc quyền sáng chế...”
Hermione đã xoay sở chen tới được một chỗ trưng bày lớn gần quầy tính tiền và đang đọc thông tin trên nắp một cái hộp có vẽ một bức tranh màu sắc
chói lọi của một chàng trẻ tuổi đẹp trai và một cô gái đẹp mê hồn đang đứng trên boong của một chiếc tàu cướp biển.
“Chỉ một câu thần chú đơn giản và quí vị sẽ đi vào ba mươi phút mơ mộng cự kỳ thực, chất lượn tuyệt vời, dễ dàng gắn với một buổi học trung bình ở
trường và hầu như khó lộ tẩy (tác dụng phụ bao gồm hồn phi phách tan và nhỏ dãi chút đỉnh), không bán cho người dưới mười sáu tuổi.”
“Bồ biết đấy,” Hermione ngước lên nhìn Harry, nói, “đó thực sự là một trò ảo thuật phi thường!”
“Vìthế, Hermione à,” một giọng nói vang lên đằng sau hai đứa, “em có thể được một cái miễn phí.”
Một anh chàng Fred toe toét cười đang đứng trước mặt tui nó, mặc một bộ áo chùng màu đỏ tươi đối chọi một cách lộng lẫy với mái tóc hung rực rỡ.
“Khỏe không, Harry?” Hai người bắt tay nhau. “Và con mắt em sao vậy Hermione?”
“Cái kính thiên văn thụi của anh,” cô nàng nói một cách thảm não.
“Ối, anh quên béng mất mấy cái đó,” Fred nói. “Đây...”
Fred lấy trong túi ra một cái bình đưa cho Hermione; cô nàng thận trọng vặn mở cái nắp để lộ ra một chất đặc sệt màu vàng.
“Chỉ cần chấm chấm nhẹ lên vết bầm, nó sẽ biến mất trong vòng một tiếng đồng hồ,” Fred nói. “Bọn anh đã phải tìm ra một loại thuốc tẩy bầm đứng đắn.
Bọn anh đã thử nghiệm hầu hết sản phẩm lên chính mình.”
Hermione tỏ ra lo lắng. “Thế có an toàn không?”
“Dĩnhiên là an toàn,” Fred nói, giọng cam đoan. “Lại đây, Harry, anh dẫn em đi tham quan một vòng.”
Harry để mặc Hermione chấm chấm thuốc tẩy bầm lên con mắt đen thùi, đi theo Fred về phía sau của cửa hàng, nơi nó thấy một quầy toàn những trò
mánh bằng dây thừng và lá bài.
“Mánh ảo thuật của dân Muggle!” Fred vui vẻ nói, lật tẩy chúng ra, “dành cho những người hâm mô kiểu ba anh, em biết đấy, ổng khoái đồ tác tạo của
dân Muggle lắm. Không kiếm lời lớn, nhưng bọn anh đang làm ăn khấm khá, là hàng cực mới đó... Ô, George kìa...”
Người anh sinh đôi của Fred bắt tay Harry thật chặt.
“Đang tham quan hả? Đi ra đằng sau đi, Harry, đó mới là nơi tụi này kiếm tiền thực sự - cứ bỏ túi bất cứ thứ gìđi, nhóc, rồi sẽ phải nộp vô nhiều hơn bạc
Galleon! ” Fred cảnh báo một thằng nhóc đang vội vã rút tay khỏi một cái bình có nhãn Dấu hiệu Hắc ám Ăn được – Chúng sẽ làm cho bất kỳ ai cũng phát
bệnh!
George đẩy vẹt một tấm màn bên cạnh những trò mánh của dân Muggle ra và Harry thấy một căn phòng vắng khách hơn, tối hơn. Bao bì của những sản
phẩm sắp hàng trên kệ coi ít hung hăng khiêu khích hơn.
“Bọn anh vừa mới phát triển mặt hàng nghiêm túc hơn này,” Fred nói. “Chuyện này xảy ra mới thiệt là tức cười...”
“Em không thể nào tin nổi đâu, là có bao nhiêu người, kể cả những người làm việc ở Bộ Pháp thuật, không thể nào ếm nổi một lá Bùa chắn cho tử tế,”
George nói. “Dĩnhiên, Harry à, tại họ đâu có được em dạy cho đâu.”
“Đúng vậy... À, thế này, bọn anh nghĩ mấy cái Nón chắn là một trò vui, em biết đấy, đội nón vô rồi thách thằng bạn ếm xì bùa mình, rồi ngó cái bộ mặt nó bị
bùa dội ngược lại. Vậy mà Bộ Pháp thuật mua năm trăm cái phát cho tất cả các cộng tác viên hỗ trợ của Bộ! Và bọn anh còn tiếp tục nhận đơn đặt hàng
hàng loạt!”
“Thành ra bọn anh mở rộng mặt hàng ra Áo khoác chắn, Găng tay chắn...”
“...Nghĩa là, chúng chẳng được tích sự gì lắm trong việc chống lại lời Nguyền Không thể tha thứ, nhưng xài được với mấy lời rủa xả, tà ma từ loại nhảm
đến trung bình...”
“Và rồi bọn anh nghĩ bọn anh nên nhảy vô toàn bộ lĩnh vực Phòng chống nghệ thuật hắc ám, bởi vì đó quả là một mỏ vàng,” George nói tiếp một cách say
sưa nhiệt thành. “Cái này hay. Này nhé, Bột tối hù ăn liền, bọn anh nhập khẩu từ Peru. Rất tiện lợi nếu em muốn chuồn nhanh.”
“Và Pháo đánh lạc hướng của bọn này vừa mới chạy khỏi kệ, coi nè,” Fred nói, chỉ vào một số vật thể như cái còi ô tô màu đen coi rất quái dị, mấy vật
này quả thật đang cố gắng lủi nhanh khỏi tầm mắt. “Em chỉ cần bímật thả một viên, nó sẽ chạy biến đi và nổ một cái đùng đã lỗ tai ở ngoài tầm mắt, đánh
lạc hướng dùm em nếu em cần chiến thuật nghi binh.”
“Tiện dụng thật,” Harry nói, rất ấn tượng.
“Đây,” George nói, bắt được hai viên và quăng chúng cho Harry.
Một phù thủy trẻ có mái tóc vàng ngắn thò đầu qua bức màn; Harry thấy cô ta cũng mặc áo chùng đỏ tươi của nhân viên cửa hàng.
“Thưa ông Weasley và ông Weasley, có một khách hàng ngoài kia đang tìm một cái vạc giỡn.”
Harry thấy hơi kỳ cụ khi Fred và George được gọi là “ông Weasley”. Nhưng hai anh chàng coi đó là nề nếp kinh doanh.
“Tốt đấy, Verity, tôi ra liền.” George nói ngay, “Harry, em cứ tự tiện muốn lấy gìthìlấy, được chứ? Không tính tiền.”
“Em không làm vậy được!” Harry nói; nó đã móc cái túi tiền ra để trả cho mấy viên Pháo đánh lạc hướng.
“Ở đây em không cần trả tiền,” Fred kiên quyết, phủi vàng của Harry đi.
“Nhưng…”
“Em đã cho bọn anh vay món tiền khởi nghiệp, bọn anh không bao giờ quên,” George nghiêm nghị nói. “Cứ lấy bất cứ thứ gìem thích, chỉ cần nhớ nói với
người ta nơi mà em kiếm ra mấy món hàng, nếu họ hỏi.”
George lướt nhanh qua bức màn để đi tiếp khách, Fred dẫn Harry trở lại gian chính của cửa hàng để tìm Hermione và Ginny vẫn còn đang mải mê ngắm
Bùa Mơ mộng độc quyền sáng chế.
“Quícô nương đã thấy sản phẩm đặc biệt Phù thủy tuyệt vời của chúng tôi chưa?” Fred hỏi. “Xin mời quícô nương…”
Gần cửa sổ là một dãy những sản phẩm hồng thắm sắp xếp ngay ngắn mà một đám con gái háo hức đang xúm xít chung quanh, khúc khích cười có vẻ
hứng chílắm. Cả Hermione và Ginny đều muốn lùi lại, trông có vẻ lo lắng.
“Đây thưa các cô,” Fred nói, “loại yêu được hay nhất mà các cô không thể tìm thấy ở bất cứ đâu.”
Ginny nhướn một chân mày lên ngờ vực.
“Có hiệu lực không?” Nó hỏi.
“Chắc chắn là có hiệu lực, cho tới tối da hai mươi bốn giờ một lần xài, tùy theo trọng lượng của chàng trai được nói tới…”
“…và tùy sức hấp dẫn của cô gái,” George nói, tái xuất hiện bất ngờ bên cạnh bọn họ. “Nhưng bọn anh sẽ không bán món này cho cô em gái của mình
đâu,” nó nói thêm, trở nên nghiêm trang đột ngột. “Không thể, khi mà cô bé đã có chừng năm chàng trai cùng ngấp nghé, theo như bọn anh nghe đồn…”
“Dù các anh nghe gì đi nữa từ miệng Ron thì đó cũng chỉ là chuyện dóc tổ,” Ginny bình tĩnh nói, chồm tới trước để lấy một bình nhỏ màu hồng ra khỏi kệ.
“Cái gìđây?”
“Thuốc Cam đoan tan mụn trong mười giây,” Fred nói. “Hiệu nghiệm thần sầu trên mọi thứ từ nhọt đinh đến mụn trứng cá, nhưng đừng có đổi đề tài. Em
có đang hẹn hò với một chàng trai tên là Dean Thomas hay không đấy?”
“Có,” Ginny nói. “Và lần cuối cùng em ngó thìnó chắc chắn chỉ là một thằng, không phải năm thằng. Mấy cái kia là gì?”
Cô nàng chỉ vào một số những trái banh bằng bông tròn màu hồng và tím, tất cả lăn tròn chung quanh đáy của một cái chuồng và phát ra tiếng kêu lanh
lảnh.
“Bông Thoa Lùn,” George nói. “Bòng bòn xốp tíhon, bọn anh không nhân giống chúng kịp tốc độ tiêu thụ. Thế anh chàng Micheal Corner thìsao?”
“Em vứt nó vô thùng rác rồi, nó là thằng tồi,” Ginny nói, thò một ngón tay qua song chắn của cái chuồng và ngắm mấy con Bông Thoa Lùn bu chung quanh.
“Mấy con này thiệt dễ thương.”
“Ừ, chúng hơi nhõng nhẽo,” Fred thừa nhận. “Nhưng em thay bạn trai có hơi lẹ, đúng không?”
Ginny quay lại nhìn ông anh, hai bàn tay cô bé chống nạnh. Có một cái quăc mắt kiể Bà-Weasley trên mặt cô bé mà Harry ngạc nhiên thấy Fred chẳng
chùn bước chút nào.
“Mắc mớ gì tới anh hả? Và tôi sẽ cám ơn anh, nếu đừng có bịa thêm chuyện về tôi với hai người này nữa,” cô bé giận dữ nói thêm với Ron, anh chàng
này vừa mới hiện ra bên cạnh George, hai tay vác đầy hàng hóa.
“Hết thảy ba Galleon, chín Sickle, một Knut,” Fred kiểm tra mấy cái hộp trong tay Ron và nói. “Nhả ra.”
“Em là em của anh mà!”
“Và đó là đồ của bọn anh mà em đang xoáy. Ba Galleon, chín Sickle.Anh sẽ bớt cho một Knut.”
“Nhưng mà em đâu có ba Galleon, chín Sickle!”
“Thìtốt hơn em nên trả những thứ đó lại, và phiền em để lại đúng kệ giùm.”
Ron làm rớt mấy cái hộp, chửi um lên, và làm một cử chỉ thô lỗ bằng tay về phía Fred, rủi thay lại bị bà Weasley bắt quả tang, bà đã chọn thiệt đúng lúc
để xuất hiện.
“Nếu má thấy con làm như vậy lần nữa, má sẽ trù cho ngón tay con dính vô nhau,” bà đanh giọng nói.
“Má, con lấy một con Bông Thoa Lùn được không?” Ginny nói ngay.
“Con gì?” Bà Weasley hỏi, giộng cảnh giác.
“Coi nè, tụi nó dễ thương ghê...”
Bà Weasley đi tới bên cạnh để ngắm mấy con Bông Thoa Lùn, và Harry, Ron cùng Hermione được một lúc nhìn ra cửa sổ mà không bị cản trở. Draco
Malfoy đang một mình vội vã băng qua đường. Khi nó đi ngang qua tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley, nó liếc nhìn lại một cái. Chớp mắt sau đó nó đã đi
ra khỏi tầm nhìn từ khuôn cửa sổ và tụi nhỏ không còn thấy nó nữa.
“Không biết mẹ nó đâu ta?” Harry cau mày, nói.
“Coi bộ bả để tuột mắt khỏi nó rồi,” Ron nói.
“Nhưng mà tại sao?” Hermione hỏi.
Harry không nói gì; nó đang suy nghĩ dữ dội. Bà Narcissa Malfoy sẽ không đời nào tự nguyện để cho cậu quí tử ra khỏi tầm mắt của mình; ắt hẳn là
Malfoy đã phải cố gắng dữ lắm mới vùng ra được khỏi sự túm chặt của bà mẹ.
Vìquá biết và quá tởm Malfoy, Harry chắc chắn nguyên nhân không hẳn là vô tư.
Nó liếc nhìn quanh. Bà Weasley và Ginny đang cúi xuống xem mấy con Bông Thoa Lùn. Ông Weasley thì kiểm tra một cách vui sướng một bộ bài Muggle
có đánh dấu. Cả Fred và George đều đang phục vụ khách hàng. Bên ngoài lớp cửa kính, bác Hagrid đang đứng quay lưng lại, nhìn lên ngó xuống con
đường.
“Chui vô đây, nhanh lên,” Harry nói, rút cái Áo khoác tàng hình ra khỏi ba lô.
“Ôi… mình không biết, Harry à,” Hermione nói, vừa hoang mang nhìn về phía bà Weasley.
“Thôi đi nào,” Ron nói.
Cô bé ngập ngừng thêm một giây, rồi chui xuống dưới tấm áo khoác cùng với Harry và Ron. Không ai để ý tụi nó tàng hình; họ còn mải mê với những sản
phẩm của Fred và George. Harry, Ron và Hermione chen lấn đi ra cửa nhanh hết cỡ, nhưng vào cái lúc tụi nó ra tới mặt đường, thì Malfoy đã mất dạng,
tài tình y như kiểu tụi nó vừa tàng hình vậy.
“Nó đi về hướng đó đó,” Harry thìthầm thật khẽ, để cho bác Hagrid đang ư ử ngân nga không nghe được. “Đi nào.”
Tụi nó vội vàng đi dọc theo con đường, ngó trái ngó phải, qua cửa cái cửa sổ của các cửa tiệm, cho đến khi Hermione chỉ về phía trước.
“Nó kìa, đúng không?” Cô bé thìthầm. “Quẹo trái nhé?”
“Quá ngạc nhiên,” Ron thìthầm.
Bởi vìchúng thấy Malfoy liếc nhìn quanh quât, rồi lẻn vào hẻm Knockturn, và mất dạng.
“Nhanh lên, kẻo tụi mình mất dấu nó,” Harry vừa nói vừa rảo bước nhanh hơn.
“Coi chừng chân tụi mình bị thấy!” Hermione lo lắng nói, khi tấm Áo khoác tàng hình đánh lật phật vô mắt cá chân của tụi nó; Cũng thiệt khó cho cả ba đứa
nó giờ đây cùng trốn dưới một tấm áo khoác.
“Không sao,” Harry sốt ruột nói. “Chỉ cần đi gấp lên!”
Nhưng hẻm Knockturn, con đường ngang dành cho Nghệ thuật Hắc ám trông hoàn toàn vắng ngắt. Đi ngang qua cửa sổ nào tụi nó cũng ngó vô. Nhưng
không một cửa hàng nào có vẻ có khách hàng cả. Harry nghĩ trong thời buổi nguy hiểm và mập mờ này mà mua, hay ít nhất bị nhìn thấy mua vũ khí Hắc
ám, thìchẳng khác nào tự tố cáo mình.
Bỗng Hermione véo mạnh vô cánh tay của nó.
“Ui!”
“Suỵt! Nhìn kìa! Nó ở trong đó!” Cô bé thìthào vào tai Harry.
Tụi nó đã tới ngang cái cửa hàng duy nhất trong hẻm Knockturn mà Harry từng vào, tiệm Borgin và Burkes, một cửa hàng bán rất nhiều loại đồ vật hiểm
độc. Ở đó, giữa những thùng đựng đầy đầu lâu và chai lọ cũ, Draco Malfoy đang đứng quay lưng về phía tụi nó, ở phía bên kia cái tủ lớn màu đen mà
Harry đã từng trốn vô đó để tránh mặt Malfoy và cha nó. Căn cứ theo động tác cánh tay của Malfoy, thì suy ra thằng này đang nói năng sôi nổi lắm. Người
chủ tiệm, ông Borgin, một người đàn ông gù lưng tôm, tóc bóng mướt đầu, đứng đối diện với Malfoy. Ông này đang đeo một vẻ mặt kỳ dị của căm hận
trộn lẫn khiếp sợ.
“Giá mà tụi mình có thể nghe được những gìhọ nói!” Hermione nói.
“Có thể chứ!” Ron hăm hở nói. “Chờ đó… cà chớn!”
Nó làm rớt thêm hai cái trong đám hộp mà nó vẫn đang cố ghị chặt trong lúc vụng về mò tìm cái hộp to nhất.
“Coi đây, Bành Trướng nhĩ!”
“Tuyệt vời!” Hermione nói, trong khi Ron tháo cuộn dây dài màu thịt tươi, và bắt đầu quăng về phía đãy của cánh cửa.
“Ôi, mình hy vọng cửa không bị ếm Bùa Tỉnh bơ.”
“Không,” Ron híhửng nói. “Nghe đây!”
Tụi nó chụm đầu lại và chăm chú lắng nghe câu chuyện ở đầu dây bên kia, qua đó cái giọng của Malfoy nghe rõ mồn một, như thể một cái máy truyền
thanh vừa được bật nút.
“…ông biết chữa cách nào không?”
“Có thể,” ông Borgin nói, bằng một cái giọng cho thấy ông chẳng tận tụy chút nào. “Tuy nhiên tôi cần phải thấy nó. Tại sao cậu không đem nó lại cửa
hàng?”
“Tôi không thể,” Malfoy nói. “Nó phải được để yên. Tôi chỉ cần ông nói cho tôi biết cách chữa thôi.”
Harry thấy ông Borgin liếm môi một cách lo lắng.
“Chà, không nhing thấy nó, tôi đành phải nói là công việc sẽ rất khó khăn, có thể không làm được. Tôi không thể đảm bảo gìhết.”
“Không hả?” Malfoy nói, và Harry biết, chỉ căn cứ vào cái giọng nói, rằng Malfoy đang nhạo báng. “Có lẽ cái này sẽ khiến ông thêm tự tin.”
Malfoy nhích về phía ông Borgin và bị khuất mắt sau cái tủ. Harry, Ron, và Hermione nhích chân qua bên cạnh để cố nhìn thấy thằng này, nhưng chỉ thấy
ông Borgin, vẻ mặt ông này đầy hoảng sợ.
“Hở ra cho ai biết,” Malfoy nói, “là có thưởng đẹp đấy. Ông biết Fenrir Greyback chứ? Ông ta là một người bạn của gia đình. Thỉnh thoảng ông ta sẽ ghé
qua để biết chắc là ông dành hết tâm trívô vấn đề đó.”
“Không cần phải…”
“Tôi sẽ quyết định chuyện đó,” Malfoy nói. “Thôi, tôi phải đi. Và đừng quên giữ kỹ cái đó, tôi sẽ cần đến nó.”
“Có lẽ cậu muốn lấy nó đi ngay bây giờ?”
“Không, dĩ nhiên tôi không lấy đi bây giờ được. Ông bé ngu ạ, trông tôi sẽ như thế nào khi mang theo cái đó xuống phố chớ? Chỉ đừng bán mất cái đó
thôi.”
“Dĩnhiên là không, thưa… Ngài.”
Ông Borgin cúi chào thật thấp, kiểu giống như Harry đã từng nhìn thấy ông ta chào Lucius Malfoy.
“Không nói một lời với ai đấy nhé, ông Borgin, kể cả mẹ tôi, hiểu không?”
“Đương nhiên, đương nhiên,” ông Borgin lẩm bẩm, lại cúi chào một lẫn nữa.
Tiếp theo, chuông treo ở cửa kêu leng keng rất to khi Malfoy hiên ngang bước ra khỏi cửa hàng, trông có vẻ hết sức thỏa mãn với chính mình. Nó đi
ngang qua, gần Harry, Ron và Hermione đến nỗi tụi nó cảm thấy tấm áo khoác một lần nữa xao động nhẹ quanh đầu gối. Bên trong cửa hàng, ông Borgin
vẫn còn đứng sững chết lặng; nụ cười tiếp khách giả tạo của ông biến mất; trông ông lo lắng ra mặt.
“Chuyện này là về cái gìvậy?” Ron thìthầm, quấn lại cái Bành Trướng nhĩ.
“Không biết,” Harry nói, suy nghĩmuốn bể đầu. “Nó muốn chữa cái gìđó… và nó muốn giữ lại món gìđó trong tiệm… Mấy bồ có thấy nó chỉ cái gìkhi bảo
‘cái đó’ không?”
“Không. Nó đứng khuất sau cái tủ to đùng ấy.”
“Hai đứa bồ ở đây,” Hermione nói nhỏ.
“Bồ định làm…?”
Nhưng Hermione đã chui ra ngoài tấm áo khoác. Cô nàng soi gương sửa sang tóc tai rồi bước vào cửa hàng, khiến cái chuông treo cửa lại kêu leng
keng. Ron vội vàng quăng cái Bành Trướng nhĩtrở lại phía dưới cánh cửa và đưa cho Harry một đầu dây.
“Chào ông, một buổi sáng khủng khiếp, ông nhỉ?” Hermione rạng rỡ nói với ông Borgin, ông này không trả lời, chỉ quẳng cho cô bé một cái nhìn ngờ vực.
Ngâm nga một cách vui vẻ, Hermione thong thả dạo quanh đám hàng hóa bày biện lung tung.
“Cái vòng đeo cổ này có bán không?” Cô nàng hỏi, dừng chân bên cạnh một cái hộp có mặt trước bằng thủy tinh.
“Nếu cô có một ngàn lẻ một Galleon,” ông Borgin lạnh lùng đáp.
“Ồ… ơ… không, tôi không có nhiều tiền đến thế,” Hermione nói, tiếp tục bước. “Và… cái… ưm… cái đầu lâu… dễ thương này giá bao nhiêu?”
“Mười sáu Galleon.”
“Vậy là ông có thể bán nó? Nó không phải… giữ lại cho ai hết chứ?”
Ông Borgin liếc mắt nhìn cô bé. Harry có một cảm giác bực bội khi nó biết chính xác Hermione đang muốn cái gì. Hiển nhiên là Hermione cũng cảm thấy
bị lộ tẩy bởi vìbỗng nhiên cô nàng tung hê cho gió cuốn đi sự thận trọng.
“Cái vật mà… ơ… anh chàng vừa mới ở đây ra – Draco Malfoy, ừ, anh ta là một người bạn của tôi, và tôi muốn kiếm cho anh ấy một món quà sinh nhật,
nhưng nếu anh ấy đã đặt trước một món gìở đây, thìhiển nhiên là tôi chẳng muốn tặng anh ta một món tương tự, cho nên… ưm…”
Theo ý Harry thìcâu chuyện nghe chẳng xuôi tai chút nào, và dường như ông Borgin cũng nghĩvậy.
“Đia ra!” Ông ta đanh giọng quát. “Cút ngay!”
Hermione không đợi được bảo lần thứ hai, vội vã đi ra cửa với ông Borgin bám sát gót. Khi chuông treo cửa kêu leng keng lẫn nữa, ông Borgin đóng
sập cánh cửa đằng sau lưng Hermione và treo lên tấm bảng thông báo tiệm đóng cửa.
“À há,” Ron nói, vừa quăng tấm áo khoác ra trùm lại Hermione, “cũng đáng công thử, nhưng mà bộ hơi bị lộ...”
“Ừ, lần sau bồ có thể chỉ bảo mình cách làm như thế nào, thưa Bậc thầy Bíẩn!” Cô nàng cự lại ngay.
Ron và Hermione cự cãi lăng nhẵng suốt quãng đường trở lại tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley, nơi hai đứa nó phải ngừng cãi lộn để tránh bị dò xét bởi
một bà Weasley và một bác Hagrid đang lo lắng. Hai người này đã nhận ra sự vắng mặt của tụi nó. Khi đã trở vô tiệm rồi, Harry cởi phắt tấm Áo khoác
tàng hình ra, giấu trong cái ba lô, và hợp sức với hai đứa kia khăng khăng nói rằng từ nãy giờ tụi nó ở suốt trong gian sau của cửa hàng, để đáp lại sự
quở trách của bà Weasley, và phản pháo là bà có thể đã không nhìn ngó kỹ càng nên chẳng thấy tụi nó.
Chương 7
Câu lạc bộ Slug
Harry dành khá nhiều thì giờ của tuần lễ cuối kỳ nghỉ hè để nghiền ngẫm ý nghĩa hành vi của Malfoy ở hẻm Knockturn. Điều khiến nó bực mình nhất là cái
vẻ mãn nguyện trên gương mặt Malfoy khi thằng này bước ra khỏi cửa hàng. Không có gì làm cho Malfoy vui đến thế lại có thể là tin lành. Tuy nhiên Harry
hơi lấy làm buồn lòng rằng cả Ron lẫn Hermione đều dường như không được tò mò như nó về hoạt động của Malfoy; hay ít nhất là sau vài ngày tụi kia có
vẻ đã phát chán bàn bạc về chuyện đó.
“Ừ, mình đã đồng ý ngay từ đầu là nó rất đáng nghi, Harry à,” Hermione nói hơi thiếu kiên nhẫn. Cô nàng đang ngồi trên bệ cửa sổ trong phòng của Fred
và George với hai chân gác lên một trong mấy cái hộp giấy bồi và chỉ miễn cưỡng rời mắt khỏi cuons sách mới của mình, cuốn Dịch thuật chữ Rune cao
cấp, để ngước nhìn lên. “Nhưng chẳng phải là tụi mình đã đồng ý là có thể có nhiều cách giải thích sao?”
“Có thể nó đã làm bể cái Bàn tay vẻ vang của nó.” Ron nói mơ hồ, trong khi cố gắng kéo thẳng lại cái đuôi chổi bị cong của mình. “Có nhớ cánh tay quắt
queo mà Malfoy có không?”
“Nhưng khi nó nói, ‘Đừng quên giữ kỹ cái đó cho an toàn’ là nó nói về chuyện gì chứ?” Harry hỏi đến lần thứ mười mấy. “Mình nghe có vẻ như ông Borgin
còn có một cái khác của cái đã bị bể, và Malfoy muốn cả hai.”
“Bồ tin vậy hả?” Ron nói, bây giờ nó đang cạo bùn đất khỏi cán chổi.
“Ừ, mình tin vậy,” Harry nói. Khi cả Ron và Hermione đều không trả lời, nó nói tiếp, “Cha của Malfoy đang ở trong ngục Azkaban. Mấy bồ không nghĩ là nó
muốn trả thù sao?”
Ron ngẩng đầu lên, chớp chớp mắt.
“Malfoy, trả thù à? Nó thìcó thể làm được gì?”
“Mình không biết, đó chính là vấn đề!” Harry nói, hết sức nản lòng. “Nhưng nó đang âm mưu gìđó và mình nghĩtụi mình nên xem xét nghiêm túc chuyện đó.
Cha của nó là một Tử thần thực tử và...”
Harry ngừng nói, mắt nó dán vào cửa sổ đằng sau Hermione, miệng nó há ra. Một ý tưởng đáng sửng sốt vừa nảy ra trong đầu nó.
“Harry?” Hermione kêu lên bằng giọng lo lắng. “Có chuyện gìvậy?”
“Cái thẹo của bồ phát nhức lại hả?” Ron hỏi, giọng căng thẳng.
“Nó là một Tử thần thực tử,” Harry chậm rãi nói. “Nó kế nghiệp cha nó làm một Tử thần thực tử!”
Mọi người im lặng, rồi Ron phá ra cười. “Malfoy ấy à? Nó mới mười sáu tuổi mà Harry! Bồ tưởng Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy để cho Malfoy gia nhập
à?”
“Có vẻ như không phải vậy đâu, Harry,” Hermione nói bằng giọng cố kiềm chế. “Cái gìkhiến bồ nghĩ...?”
“Trong tiệm bà Malkin. Bả không hề đụng tới nó, nhưng nó cứ kêu la rồi vùng cánh tay ra khỏi bả khi bả muốn xăn tay áo nó lên. Đó là cánh tay trái. Nó đã
được xăm Dấu hiệu Hắc ám!”
Ron và Hermione nhìn nhau.
“Chà...” Ron nói, tỏ ra không hoàn toàn được thuyết phục.
“Minhg nghĩnó chỉ muốn ra khỏi chỗ đó thôi, Harry à,” Hermione nói.
“Nó đã chỉ cho ông Borgin cái gì đó mà chúng ta không nhìn thấy được,” Harry cứ khăng khăng một cách bướng bỉnh. “ Cái gì đó đã khiến cho ông
Borgin vô cùng khiếp sợ. Đó chính là Dấu hiệu, mình biết cái đó – nó đã tỏ cho ông Borgin biết là ông ta đang giao thiệp với ai, mấy bồ có thể thấy ông
ấy ngán sợ nó như thế nào!”
Ron và Hermione trao đổi với nhau một cái nhìn nữa.
“Mình không chắc, Harry à…”
“Ừ, mình vẫn không cho là Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy chịu để cho Malfoy gia nhập...”
Bực mình, nhưng chắc chắn tin là mình đúng, Harry quơ lấy một đống áo chùng hôi hám đã mặc khi chơi Quidditch và bỏ ra khỏi phòng; bà Weasley đã
khuyên răn tụi nó bao nhiêu ngày rồi là đừng để quần áo đên phút cuối mới đem giặt và xếp vô rương. Khi xuống hết cầu thang, nó đụng đầu Ginny, cô bé
đang quay về phòng mình với một đống quần áo mới giặt xong.
“Em mà là anh thìem sẽ chẳng vô nhà bếp lúc này,” cô bé cảnh cáo Harry. “Chỗ nào cũng đầy Nhớt.”
“Anh sẽ cẩn thận để không bị trợt vô đó,” Harry mỉm cười.
Quả đúng vậy, khi Harry đi vô nhà bếp thì thấy ngay Fleur đang ngồi bên bàn, hào hứng nói về các kế hoạch đám cưới giữa nàng và Bill, trong khi bà
Weasley không ngừng để mắt tới lũ măng tây đang tự gọt, trông bà cau có hết biết.
“...Anh Bill và con gần như đã quyết định chĩ hai phù dâu thơi, Ginny và Gabrielle trông xẽ rớt ngọt ngào với nhao. Con đang nghĩ đến chuyện cho hai em
ấy mặc áo vàn nhạt – màu hồng dĩnhiên là trông rất khũn khiếp với mái tóc cũa Ginny...”
“A, Harry!” bà Weasley nói to, cắt ngang bài độc thoại của Fleur. “Tốt, bác muốn giải thích về sự sắp đặt an ninh cho chuyến đi đến trường Hogwarts ngày
mai. Chúng ta lại mượn được xe của Bộ Pháp thuật một lần nữa, và sẽ có các Thần Sáng chờ ở nhà ga...”
“Cô Tonks có ở đó không, bác?” Harry hỏi, đưa cho bà Weasley quần áo chơi Quidditch của nó.
“Không, bác nghỉ là không, theo bác Arthur nói thìcô ấy được chốt ở đâu đó.”
“Cô ấy đã tự cữ mình đi, cái cô Tonks ấy,” Fleur nói mơ màng, ngắm nghía chính hình bóng mê hoặc của mình trong đáy tách trà. “Nếu bác hõi thì con sẽ
nói đó là một sai lầm lớn...”
“Được, cám ơn,” bà Weasley nói giọng gay gắt, ngắt lời Fleur một lần nữa. “Con nên chuẩn bị hành lý đi, Harry, bác muốn nếu có thể thì hòm xiểng đều
phải sẵn sàng hết vào tối nay, để chúng ta sẽ không bị rối tinh beng vào phút chót như mọi năm.”
Và thật ra, cuộc khỏi hành của tụi nhỏ vào sáng sớm hôm sau suôn sẻ hơn mọi khi. Khi mấy chiếc xe của Bộ Pháp thuật lướt tới trước cửa Hang Sóc thì
tụi nó đã đứng chờ sẵn, hòm xiểng sẵn sàng; con mèo của Hermione, Crookshanks, nằm an toàn trong cái rổ đi đường của nó; Hedwig, Pigwidgeon,
con cú của Ron và con Bông Thoa Lùn mới sắm của Ginny, được đặt tênArnold, đều ở trong chuồng.
“Au revoir, Arry,” Fleur nói giọng cổ họng, vừa hôn gió nó. Ron vội vã đi tới, có vẻ hy vọng, nhưng Ginny giơ cẳng ra ngáng Ron ngã lăn cù vô đám bụi
dưới chân Fleur. Nổi khùng lên với bộ mặt đỏ bừng và văng bụi tùm lum, anh chàng lên xe gấp khỏi cần nói lời chia tay.
Chẳng thấy bác Hag hớn hở chờ họ ở Nhà ga Ngã tư vua. Thay vào đó là hai Thần Sáng có bộ mặt khắc nghiệt đầy râu mặc quần áo Muggle màu đen
tiến tới đón ngay khi mấy chiếc xe vừa dừng lại, và họ kẹp sát hông tất cả nhóm, hộ tống vô thẳng nhà ga mà chẳng nói lời nào.
“Lẹ, lẹ lên, băng qua rào chắn,” bà Weasley nói, dường như bà hơi bối rối vìcái hiệu quả khắc khổ này. “Harry nên đi trước, với...”
Bà nhìn một trong hai Thần Sáng một cách dò hỏi, người này nhẹ gật đầu, nắm lấy bắp tay trên của Harry, và cố gắng dẫn nó đi về phía hàng rào chắn
giữa sân ga số chín và số mười.
“Em đi được mà, cám ơn,” Harry bực dọc nói, giật cánh tay mình ra khỏi nắm tay của vị Thần Sáng. Nó đẩy cái xe hành lý của nó đâm thẳng vào hàng rào
chắn vững chãi, lờ phắt đi người đồng hành im lặng, và một giây sau, nó nhận ra mình đang đứng trên sân ga chín ba phần tư, nơi tàu tốc hành Hogwarts
đang nằm ợ ra hơi nước phả vào đám đông.
Hermione và gia đình Weasley nhập bọn với nó trong vòng vài giây sau. Không cần chờ tham vấn vị Thần Sáng mặt mày khắc khổ của mình, Harry ra dấu
gọi Ron và Hermione theo nó đi ngược lên sân ga, tìm một toa tàu trống.
“Tụi này không thể đi cùng bồ, Harry à,” Hermione nói, tỏ vẻ xin lỗi. “Ron và mình sẽ phải đến toa tàu của Huynh trưởng trước tiên và rồi phải đi tuần tra
hành lang tàu một tí.”
“Ờ phải, mình quên mất,” Harry nói.
“Tất cả các con nên lên tàu ngay, các con chỉ còn vài phút nữa là khởi hành,” bà Weasley nói, vừa tham khảo cái đồng hồ của bà. “Thôi, chúc con một học
kỳ tốt đẹp, Ron...”
“Thưa bắc Weasley, con có thể nói vài lời với bác không?” Harry nói, quyết định luôn trong hoàn cảnh gấp gáp ấy.
“Dĩnhiên,” ông Weasley nói, vẻ mặt hơi ngạc nhiên, nhưng dù vậy ông vẫn đi theo Harry ra xa khỏi tầm tai những người khác.
Harry đã suy nghĩ cặn kẽ và đã đi tới kết luận rằng, nếu nó cần nói với ai đó, thì người đó hẳn là ông Weasley; Trước tiên, bởi vì ông làm việc ở Bộ Pháp
thuật và vì vậy là người ở vị trí tốt nhất để tiến hành những cuộc điều tra xa hơn, và thứ hai, bới vì nó nghĩ nếu ông Weasley nổi cơn thịnh nộ thì sẽ ít nguy
hiểm hơn.
Nó có thể thấy bà Weasley và vị Thần Sáng với bộ mặt khắc khổ liếc theo bác cháu nó khi hai người đi tách ra.
“Khi tụi con ở Hẻm Xéo,” Harry bắt đầu nói, nhưng ông Weasley chặn đầu nó trước bằng một cái nhăn mặt.
“Có phải bác sắp được khám phá ra nơi mà con, Ron và Hermione đã biến mất trong khi lẽ ra các con phải ở gian sau cửa hàng của Fred và George
không?”
“Làm sao bác...?”
“Harry à, con đang nói chuyện với một người đã nuôi lớn Fred và George.”
“Ơ... dạ, thôi thì, chúng con đã không ở gian sau...”
“Tốt lắm, vậy bây giờ, chúng ta hãy nghe nốt phần dỡ nhất.”
“Dạ, tụi con đi theo Draco Malfoy. Tụi con dùng tấm Áo khoác tàng hình.”
“Các con có lý do đặc biệt nào không, hay đó chỉ là cao hứng?”
“Bởi vì con nghĩ Malfoy đang âm mưu gì đó,” Harry nói, không đẻ ý vẻ mặt vừa bực bội vừa thích thú của ông Weasley. “Nó đã trốn má nó đi và con muốn
biết tại sao.”
“Dĩnhiên là con đã có lý do,” ông Weasley nói, nghe giọng nhẫn nại. “Thế con có tìm ra được tại sao không?”
“Nó đi vô tiệm Borgin và Burkes,” Harry nói, “xong bắt đầu trấn áp người đàn ông trong tiệm, ông Borgin, bắt ông ta sửa cho nó cái gì đó. Và nó nói là nó
muốn ông Borgin giữ cho nó cái gì đó nữa. Nghe thì có vẻ như cái đó cùng là một thứ với cái mà nó muốn sửa chữa. Có vẻ như hai cái đó là một cặp.
Và…”
Harry hít một hơi thở sâu.
“Còn nữa. Tụi con thấy Malfoy nhảy vọt ra cả dặm khi bà Malkin thử chạm vô cánh tay trái của nó. Con nghĩ nó đã được xăm Dấu hiệu Hắc ám. Con nghĩ
nó được thế chỗ cha nó làm một Tử thần thực tử.”
Trông ông Weasley có vẻ sửng sốt. Một lát sau ông nói, “Harry à, bác không chắc là liệu Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy có cho phép một đứa trẻ mười sáu
tuổi…”
“Có ai biết chắc Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy làm cái gì hay không làm cái gì đâu?” Harry hỏi một cách tức tối. “Bác Weasley, con xin lỗi, nhưng chuyện
đó không đáng điều tra sao? Nếu Malfoy muốn sửa chữa cái gìđó, và nó phải đe dạo ông Borgin làm chuyện đó, thìchuyện đó có thể là cái gìđó Hắc ám
và nguy hiểm, đúng không?”
“Thành thật mà nói, bác không chắc, Harry à,” ông Weasley nói chậm rãi. “Con cũng hiểu, khi Lucius Malfoy bị bắt, chúng ta đã lục soát nhà hắn. Chúng ta
đã lấy đi mọi thứ có thể là hung khínguy hiểm.”
“Con nghĩbác có thể đã bỏ sót cái gìđó,” Harry nói một cách bướng bỉnh.
“Ừ, có thể,” ông Weasley nói, nhưng Harry có thể thấy là ông Weasley chỉ nói cho vừa lòng nó mà thôi.
Một tiếng còi tàu vang lên sau lưng hai bác cháu; gần như mọi người đã lên tàu cả và cửa các toa đang đóng lại.
“Con nên lẹ lên đi!” ông Weasley nói, trong khi bà Weasley giúp nó nhấc hành lý lên tàu.
“Này, cưng, con sẽ về ăn lễ Noel với gia đình bác, đã thu xếp xong với cụ Dumbledore rồi, vậy là hai bác sẽ sớm gặp lại con thôi,” bà Weasley nói vói
qua cửa sổ toa tàu trong khi Harry đóng sập cửa tàu lại sau lưng và chiếc xe lửa bắt đầu di chuyển. “Con nhớ tự chăm sóc mình và…”
Đoàn tàu bắt đầu tăng tốc.
“…học giỏi và…” bà Weasley chạy theo để kịp đoàn tàu.
“…bảo trọng!”
Harry vẫy tay cho đến khi đoàn tàu quẹo qua một khúc quanh và ông bà Weasley khuất dạng, rồi nó quay ra xem những đứa khá ở đâu. Nó đoán Ron và
Hermione bị nhiệm vụ cầm chân trong toa tàu Huynh trưởng, nhưng Ginny thìđang ở trong hành lang cách nó một quãng ngắn, đang tán dóc với mấy đứa
bạn. Nó đi về phía cô bé, kéo lê cái rương theo.
Đám học trò trố mắt nhìn nó không ngượng ngùng khi nó đi đến gần. Chúng nó thậm chí áp mặt vào kính cửa sổ toa tàu để ngó cho được nó. Nó đã
lường trước một làn sóng những cái miệng há hốc và những cặp mắt nhìn trâng tráo mà nó sẽ phải chịu đựng trong suốt học kỳ này sau tất cả những sự
rùm beng về “Kẻ được chọn” đăng trên Nhật báo Tiên Tri , nhưng nó chẳng thích thú gì lắm cái cảm giác đứng ở nơi đèn đuốc sáng trưng. Nó vỗ nhẹ lên
vai Ginny.
“Kiếm thử một khoang tàu trống chứ hả?”
“Em thìkhông được, anh Harry à, em có hẹn gặp Dean,” Ginny rạng rỡ nói. “Gặp lại anh sau nhé.”
“Được,” Harry nói. Nó có một cảm giác nhói đau kỳ lạ khi Ginny bỏ đi, mái tóc dài màu hung đỏ của cô bé đung đưa sau lưng; Nó đã trở nên quá quen
với sự hiện diện của cô bé trong kỳ nghỉ hè đến nỗi nó hầu như quên béng đi rằng Ginny giờ đây không còn lẵng nhẵng bám theo nó, Ron và Hermione
khi ở trường nữa. Rồi nó chớp mắt nhìn quanh: Quanh nó là những cô gái bị tiếng tăm mê hoặc.
“Chào Harry!” Một giọng nói qurn thuộc vang lên sau lưng nó.
“Neville!” Harry reo lên nhẹ nhõm, khi quay lại nhìn thấy một cậu chàng mặt mày tròn trịa đang chen lấn để đến gần nó.
“Chào Harry,” một cô nàng tóc dài với đôi mắt to mơ huyền xuất hiện ngay sau lưng Neville.
“Chào Luna, em khỏe không?”
“Rất khỏe, cám ơn anh,” Luna nói. Cô nàng đang ép chặt một tạp chí vào ngực mình; những chữ to trên trang bìa thông báo rằng bên trong có một cặp
Kính chiếu yêu.
“Tạp chí Kẻ Lý sự vẫn bán chạy chứ?” Harry hỏi, nó cảm thấy có một sự trìu mến với tờ tạp chí, và đã dành cho tờ tạp chí này một cuộc phỏng vấn độc
quyền vào năm học trước.
“Ồ, số lượng phát hành tăng tốt,” Luna nói một cách sung sướng.
“Tụi mình kiếm chỗ ngồi đi,” Harry nói, và ba đứa cùng đi dọc đoàn tàu, băng qua những đoàn học sinh im lặng ngó theo chằm chằm. Cuối cùng cả ba tìm
được một khoang còn trống, và Harry vội vã đi vào với vẻ biết ơn.
“Họ nhìn chòng chọc cả tụi này nữa!” Neville nói, ám chỉ chính nó và Luna. “Chỉ vìtụi này đi với bồ.”
“Họ ngó bồ bởi vì bồ cũng có mặt trong vụ xảy ra ở Bộ Pháp thuật,” Harry nói, trong lúc cố nhấc cái rương của nó để lên giá đỡ hành lý. “Cuộc phiêu lưu
nho nhỏ của tụi mình được đăng khắp trên tờ Nhật báo Tiên Tri, chắc bồ đã xem rồi chứ?”
“Có, mình tưởng bà mình sẽ nổi giận vì tất cả những chuyện rùm beng công khai đó,” Neville nói, “nhưng hóa ra bà lại khoái thực sự. Nói rằng rốt cuộc
mình đã bắt đầu sống theo gương ba mình. Bà đã mua cho mình một cây đũa phép mới, coi nè!”
Nó rút cây đũa phép ra và đưa cho Harry coi.
“Gỗ anh đào và lông kỳ lân,” nó nói giọng tự hào. “Mình nghĩ đó là một trong những cây đũa phép cuối cùng mà ông Olv bán ra, ông ấy biến mất tiêu vào
ngày hôm sau – Ôi, quay lại đây Trevor!”
Và nó chui xuống dưới gầm ghế để thu hồi lại con cóc khi con vật này thực hiện một trong những nỗ lực trường kỳ tìm kiếm tự do cho mình.
“Năm nay anh có tiếp tục mở những buổi họp ĐQD nữa không, anh Harry?” Luna hỏi, cô nàng đang gỡ cặp kính chiếu yêu ra từ giữa tờ Tạp chíKẻ Lý sự
.
“Bây giờ tụi mình đã dẹp được mụ Umbridge rồi, đâu còn lý do gì nữa, hả?” Harry vừa nói vừa ngồi xuống. Neville cụng đầu vô cái ghế khi chui ra từ
dưới gầm. Trông nó thất vọng ra mặt.
“Mình thích ĐQD lắm! Mình học được cả đống với bồ!”
“Em cũng khoái những buổi họp đó lắm,” Luna hồn nhiên nói. “Giống như có nhiều bạn vậy.”
Đây là một trong những điều không thoải mái nà Luna hay nói và khiến cho Harry có một cảm giác lẫn lộn loằng ngoằng giữa lòng thương hại với bối rối.
Tuy nhiên, trước khi nó có thể trả lời, bên ngoài cửa khoang của tụi nó xảy ra một vụ ầm ĩ; một nhón học sinh năm thứ tư đang xầm xì và cười cợt với
nhau bên kia lớp cửa kính toa tàu.
“Bồ hỏi ảnh đi!”
“Thôi, bồ ấy!”
“Tôi sẽ làm chuyện đó!”
Và một đứa trong đám đó, một đứa con gái vẻ mặt trơ trẽn có đôi mắt đen to, một cái cằm chìa tới trước, và mái tóc đen dài, đẩy cánh cửa to bước vô.
“Chào anh Harry, em là Romilda, Romilda Vance,” con bé nói to và dõng dạc. “Sao anh không qua ngồi chung với toa tụi em? Anh không cần phải ngồi
với tụi kia.” Con bé nói thêm bằng giọng thì thào rất kịch, chỉ vào mông của Neville, lúc ấy lại vừa nhô ra từ dưới gầm ghế một lần nữa khi đang mò mẫm
kiếm Trevor, và Luna – mắt đang đeo cặp Kính chiếu yêu miễn phí, khiến cho trông càng giống một con cú có nhiều màu thật khùng.
“Họ là bạn bè của tôi,” Harry lạnh lùng nói.
“Ồ,” con bé nói, có vẻ ngạc nhiên. “Thôi vậy.”
Và nó rút lui, kéo cánh cửa khoang tàu lại.
“Người ta cứ nghĩanh phải có bạn bè bảnh hơn tụi này.” Luna nói, một lần nữa lại bộc lộ cái thói quen thành thực khiến người khác phải bối rối.
“Em cũng bảnh vậy,” Harry nói ngay. “Không ai trong đám đó có mặt trong vụ Bộ Pháp thuật. Họ đâu có chiến đấu cùng tôi đâu.”
“Anh nói vậy thiệt là tử tế,” Luna tươi cười. Rồi cô nàng đẩy cặp Kính chiếu yêu xa thêm trên sống mũi và bắt đầu đọc Tạp chíKẻ Lý sự.
“Nhưng mà tụi này đâu có đối đầu với hắn,” Neville nói, hiện ra từ dưới gầm ghế cùng với bụi bặm và lông lá dính trên tóc, và một con Trevor nhẫn nhục
trong tay. “Chỉ có bồ làm chuyện đó. Bồ nên nghe bà của mình nói về bồ. ‘Cậu Harry Potter ấy còn mạnh hơn toàn thể Bộ Pháp thuật gom lại!’ Bà sẵn
sàng đánh đổi mọi thứ để có đứa cháu nội như bồ...”
Harry bật cười không thoải mái lắm và thay đổi đề tài, chuyển qua kết quả kỳ thi Thường đẳng Pháp thuật ngay khi có thể. Trong khi Neville đọc lại vanh
vách thứ hạng của nó và thắc mắc liệu nó có được phép theo học lớp Biến hình bậc Phù thủy Tận sưc không, khi mà nó chỉ có mỗi một điểm ‘Chấp nhận
được’, Harry ngắm Neville mà không thực sự lắng nghe.
Tuổi thơ của Neville cũng bị Voldermort đày đọa như tuổi thơ của Harry vậy, nhưng Neville không hề biết chút nữa thì số phận của nó chính là số phận của
Harry. Lời Tiên tri có thể ứng với bất kỳ đứa nào trong hai đứa nó, thế nhưng vìnhững lý do bíhiểm của chính hắn, Voldermort đã chọn niềm tin rằng Harry
là kẻ được ám chỉ trong lời Tiên tri.
Nếu Voldermort chọn Neville, thì tình huống sẽ là Neville ngồi đối diện Harry mang cái thẹo hình tia chớp và gánh nặng lời Tiên tri... Mà liệu có thể không
nhỉ? Liệu mẹ của Neville có chết đi để cứu mạng nó, như mẹ Lily đã hy sinh cho Harry không? Chắc chắn bà sẽ hy sinh... Nhưng nếu bà không thể đứng
án giữa con trai mình và Voldermort thì sao? Liệu có một ‘Kẻ được chọn’ không? Hay chỉ là một cái ghế trống ở chỗ hiện giờ Neville đang ngồi và một
thằng Harry không bị thẹo được chính mẹ mình chứ không phải mẹ của Ron hôn tạm biệt.
“Bồ có sao không, Harry? Trông bồ tức cười quá,” Neville nói.
Harry mới mở miệng nói, “Xin lỗi... mình...”
“Anh bị XìTảo hả?” Luna nói đầy cảm thông, vừa ngắm Harry qua đôi kính màu nè bự chảng.
“Tôi... cái gì?”
“Xì Tảo... Nó vô hình. Nó bay xuyên qua lỗ tai anh làm cho đầu óc anh mờ mịt,” cô bé nói. “Em nghĩ em cảm thấy được có một con đang bay quanh quẩn
ở đây.”
Cô nàng vỗ tay đen đét trong không khí, như thể đang đập mấy con sâu bướm khổng lồ vô hình. Harry và Neville đưa mắt nhìn nhau rồi vội vàng bắt luôn
qua chuyện Quidditch.
Thời tiết bên ngoài cửa sổ đoàn tàu thay đổi thất thường y như suốt mùa hè vừa qua. Tàu đã chạy qua một vùng sương mù lạnh cóng kéo dài, rồi ra đến
vùng nắng trong, mong manh. Chính lúc tàu đang chạy qua một trong những vùng quang đãng ấy, lúc mặt trời hầu như được nhìn thấy ngay trên đỉnh đầu,
thìRon và Hermione đi vô khoang tụi nó.
“Ước gì xe bán đồ ăn đẩy tới nhanh nhanh lên, mình đang chết đói đây.” Ron nói một cách tha thiết, ngồi thụp xuống cái ghế bên cạnh Harry và xoa xoa
cái bụng của nó. “Chào Neville. Chào Luna. Biết gì không?” Nó quay ngang Harry nói thêm, “Malfoy không làm nhiệm vụ Huynh trưởng. Nó chỉ ngồi ì trong
toa của nó với mấy đứa khác trong nhà Slytherin, tụi này thấy nó lúc đi ngang qua.”
Harry ngồi thẳng dây, chú ý ngay. Thật chẳng giống Malfoy chút nào nếu nó chịu bỏ qua cơ hội biểu diễn quyền hành Huynh trưởng, cái quyền mà nó đã
khoái chílạm dụng suốt năm học trước.
“Lúc mấy bồ thấy nó thìnó đang nó làm gì?”
“Bình thường,” Ron nói dửng dưng, biểu diễn một động tác thô lỗ bằng tay. “Chẳng giống nó gì hết, dúng không? Chà... nhưng vậy đó.” Nó lại làm động
tác tay một lần nữa. “Nhưng tại sao nó lại không ra ngoài kia ăn hiếp bọn học sinh năm thứ nhất nhỉ?”
“Ai mà biết,” Harry nói nhưng đầu óc nó đang căng thẳng. Chẳng lẽ chuyện này không cho thấy Malfoy đang âm mưu những chuyện quan trọng hơn là
chuyện hiếp đáp bọn học sinh đàn em hay sao?
“Có lẽ nó khoái Đội Thẩm tra hơn,” Hermione nói. “Có thể làm Huynh trưởng một thời gian nó trở nên thuần hơn một chút.”
“Mình không nghĩvậy,” Harry nói. “Mình nghĩnó...”
Nhưng trước khi nó có thể giải thích giả thuyết của mình, cánh cửa một lần nữa lại được mở ra và một nữ sinh năm thứ ba bước vào, gần như không thở
nổi.
“Em được giao nhiệm vụ đưa mấy cái này cho Neville Longbottom và Harry P... Potter,” cô bé ấp úng nói, và khi bắt gặp náh mắt của Harry, mặt cô bé đỏ
ửng lên. Cô bé đưa ra hai cuộn giấy da buộc bằng nơ tím, Harry và Neville nhận cái cuộn có đề tên mình, và cô bé luống cuống lui ra khỏi khoang tàu.
“Cái gìvậy?” Ron hỏi khi Harry tháo cuộn giấy gởi cho nó ra.
“Một thư mời,” Harry nói.
Harry,
Thầy sẽ vui mừng nếu trò cùng muốn ăn trưa với với thầy ở toa C.
Thân ái,
Gs H.E.F. Slughorn.
“Giáo sư Slughorn nào?” Neville hỏi, tỏ ra bối rối vìlời mời.
“Thầy giáo mới,” Harry nói. “Chà, mình nghĩchắc là tụi mình phải đi thôi.”
“Nhưng mà thầy ấy cần mình để làm gì?” Neville lo lắng hỏi, trông như nó tưởng nó sắp bị cấm túc.
“Chả biết,” Harry nói, thật ra thì không hẳn như thế, mặc dù nó chẳng có bằng chứng gì để chứng minh là linh cảm của nó đúng. “Nghe đây,” nó nói thêm,
thình lình bộ não nó phát ra một sáng kiến, “tụi mình chui xuống dưới cái Áo khoác tàng hình đi, như thế có thể quan sát được Malfoy suốt đường, coi nó
đang âm mưu cái gì.”
Tuy nhiên, sáng kiến này không khả thi chút nào: không thể nào mặc Áo khoác tàng hình vượt qua được các hành lang đầy nhóc người đang nhong nhòng
đợi cái xe đẩy bán đồ ăn trưa. Harry tiếc hùi hụi nhét cái Áo khoác tàng hình trở vô ba lô, vừa ngẫm nghĩý tưởng đó thiệt là hay, cho dù mặc cái Áo khoác
tàng hình chỉ để tránh những cái nhìn chòng chọc. Những cái nhìn đó dường như đã gia tăng cường độ kể từ khi Harry đi trong hành lang tàu lần vừa rồi.
Thỉnh thoảng bọn học sinh lại xô đẩy chen nhau dồn ra cửa khoang của mình để dòm Harry được kỹ hơn. Ngoại lệ duy nhất là Cho Chang, cô nàng xẹt
ngay vô khoang của mình khi nhìn thấy Harry đi tới. Khi đi ngang qua cửa sổ, Harry thấy Cho làm như đang say sưa trò chuyện với cô bạn Marietta, cô
nàng này đeo một bộ mặt trang điểm dày cui mà vẫn không làm mờ được mấy hột mụn vô duyên cứ nổi lên vằn vện khắp gương mặt. Khẽ mỉm cười vu
vơ, Harry đi tới trước.
Khi hai đứa tới toa C, tụi nó thấy ngay tụi nó không phải là khách mời duy nhất của thầy Slughorn, mặc dù căn cứ vào sự đón chào sốt sắng của thầy
Slughorn thìHarry đúng là người được mong đợi nhiệt tình nhất.
“Harry, chàng trai của ta!” Thầy Slughorn đứng phắt dậy khi nhìn thấy Harry khiến cho cái bụng phủ nhung của thầy dường như choán hết chỗ trong
khoang tàu. Cái đầu hói bóng loáng và bộ râu bạc của thầy tỏa sáng rực rỡ trong ánh nắng như mấy cái nút bằng vàng của tấm áo chẽn thầy đang mặc.
“Mừng được gặp trò! Mừng được gặp trò! Và trò đây ắt hẳn là cậu Longbottom!”
Neville gật đầu, trông khiếp đảm. Theo động tác ra dấu của Thầy Slughorn, hai đứa nó ngồi xuống hai cái ghế duy nhất còn trống, gần cửa nhất. Harry
đưa mắt nhìn quanh đám khách mời. Nó nhận ra một đứa cùng năm bên Nhà Slytherin, một thằng cao nhòng đen thui có hai gò má cao xương xẩu và đôi
mắt xếch dài; Cũng có hai nam sinh năm thứ bảy mà Harry không biết, và bị nhét vô một góc kẹt bên cạnh Thầy Slughorn là một cô bé vẻ mặt băn khoăn
không biết tại sao mình có mặt ở đây, ấy là Ginny.
“Nào, hai trò biết hết mọi người chứ?” Thầy Slughorn hỏi Harry và Neville. “Đây là Blaise Zabini cùng năm với các trò, tất nhiên...”
Zabini không hề tỏ một dấu hiệu nhận ra hay chào hỏi nào cả, và Harry lẫn Neville cũng tỉnh bơ: trên nguyên tắc, học sinh nhà Gryffindor và nhà Slytherin
căm ghét lẫn nhau.
“Đây là Cormac McLaggen, có lẽ các trò đã từng gặp gỡ lẫn nhau...? Chưa à?”
McLaggen, một chàng trai to tướng tóc xoắn như dây kẽm gai, giơ một ban tay lên chào; Harry và Neville gật đầu đáp lễ anh ta.
“...và đây là Marcus Belby, thầy không biết liệu...?”
Belby, một anh chàng gầy gò vẻ mặt bồn chồn lo lắng, nhe ra một nụ cười sượng ngắt.
“...và cô nương xinh đẹp quyến rũ này nói với thầy là cô ấy biết các trò!”
Thầy Slughorn kết thúc.
Ginny làm điệu bộ nhăn mặt với Harry và Neville từ sau lưng Thầy Slughorn.
“Thôi bây giờ, đến phần thú vị nhất,” Thầy Slughorn nói một cách thân tình. “Một cơ hội để biết tất cả các trò kỹ hơn một chút. Đây, lấy một cái khăn ăn.
Thầy đã gòi theo đồ ăn trưa. Còn cái xe đẩy, theo thầy nhớ, hơi bị nhiều Que Cam thảo, và hệ thống tiêu hóa èo uột của một ông già thì không kham nỗi
những thứ như thế... Nếm món gà lôi không, Belby?”
Belby bắt đầu ăn và nhận một miếng trông có vẻ giống một nữa con chim trĩnguội ngắt.
“Thầy vừa nói với chàng Marcus trẻ tuổi đây là thầy từng được hân hạnh dạy bác Damocles của cậu ấy,” Thầy Slughorn nói với Harry và Neville, lúc này
đang chuyển quanh rổ bánh mì tròn. “Một pháp sư xuất chúng, xuất chúng, và huy chương Merlin được trao cho ông ta quả thực xứng đáng. Trò có
thường gặp bác không, Marcus?”
Không may, Belby vừa mới ngoạm một miếng to gà lôi đầy cả họng; và để nhanh nhẩu đáp lại Thầy Slughorn, anh ta nuốt quá gấp, nên bị mắc nghẹn, đỏ
tím cả mặt mũi.
“Hết tắc thở,” Thầy Slughorn bình tĩnh chĩa cây đũa phép vào Belby, cuống họng anh chàng này dường như được thông ngay tức thì.
“Không... không gặp bác thường lắm, không ạ,” Belby há hốc miệng vừa thở vừa nói, nước mắt ràn rụa.
“Chà, dĩ nhiên, thầy dám nói là ông ấy rất bận,” Thầy Slughorn nói, vừa nhìn Belby với vẻ chất vấn. “Thầy nghi ông ta đã phát minh ra thuốc Bả sói mà
không đến nỗi phải lao động vất vả lắm!”
“Con nghĩ...” Belby nói, dường như không dám cắn thêm một miếng gà lôi nào nữa trước khi biết chắc là Thầy Slughorn đã nói chuyện xong với mình.
“Ơ... Bác và ba con không thuận thảo với nhau lắm, thành ra, thầy hiểu cho, con thực sự cũng không biết nhiều...”
Giọng của Belby đuổi dần khi Thầy Slughorn tặng cho cậu ta một nụ cười lạnh nhạt và quay qua nói với McLaggen.
“Nào, trò, Cormac,” Thầy Slughorn nói, “thầy tình cờ được biết trò rất hay gặp bác Tiberius của trò, bởi vì ông ta có một bức hình rất tuyệt chụp hai bác
cháu đi săn Heo đuôi cụt ở... để thầy nhớ coi... ở Norfolk đúng không?”
“Ồ, phải, vui lắm, đúng vậy ạ,” McLaggen nói. “Bác cháu con đi chung với Bertie Higgs và Rufus Scrimgeour – đương nhiên là chuyện này xảy ra trước
khi ông ấy trở thành Bộ trưởng ạ.”
“A, trò cũng quen biết Bertie Higgs và Rufus nữa à?” Thầy Slughorn cười hớn hở, lúc này đang đưa một cái khay bành ngọt mời quanh mọi người; chẳng
biết làm sao mà Belby lại bị bỏ sót. “Thế, nói cho thầy biết...”
Đúng y như Harry đã nghi ngờ. Mọi người có mặt ở đây dường như bị mời đến bởi vì có liên hệ tới ai đó nổi tiếng hay có ảnh hưởng – mọi người ngoại
trừ Ginny. Zabini, người bị tra vấn tiếp theo McLaggen, hóa ra có một bà mẹ là một phù thủy đẹp nổi tiếng (và theo như Harry vỡ lẽ thì bà ta đã lấy bảy
đời chồng, mỗi ông chồng đều chết một cách bíẩn và để lại cho bà ta cả đống vàng). Người tiếp theo là Neville: đây là mười phút rất khó chịu, bởi vì cha
mẹ của Neville là những Thần Sáng nổi tiếng, đã bị Bellatrix Lestrange và hai đồng bọn Tử thần thực tử hành hạ đến mất trí. Vào cuối cuộc tra vấn
Neville, Harry có cảm tưởng thầy còn đang cân nhắc việc đánh giá Neville, chưa chắc lắm là liệu nó có được chút tài hoa nào của cha mẹ nó không.
“Và bây giờ,” Thầy Slughorn, trịnh trọng xoay mình trên ghế với cái vẻ mặt của một “em-xi” sắp giới thiệu tiết mục ngôi sao của mình. “Harry Potter! Bắt
đầu từ đâu nhỉ? Thầy có cảm tưởng lần mình gặp nhau hè rồi mới sơ sơ như gãi ngứa thôi!” Thầy ngắm nghía Harry một lát như thể nó là một miếng gà
lôi đặc biệt to béo ngon lành, rồi nói, “giờ đây người ta gọi con là “Kẻ được chọn”!”
Harry không nói gì. Belby, McLaggen, và Zabini đều nìn nó chòng chọc.
“Dĩ nhiên,” Thầy Slughorn nói, quan sát Harry kỹ hơn, “Thiên hạ đồn đại bao nhiêu năm trời... Thầy còn nhớ khi... chà... sau cái đêm kinh khủng ấy... Lily...
James... và con sống sót... và tiếng đồn rằng con ắt là có được những quyền năng phi thường...”
Zabini húng hắng ho, rõ ràng tỏ một sự ngờ vực tức cười. Một giọng nói giận dữ nổ ra ngay sau lưng Thầy Slughorn.
“Phải đó, Zabini, bởi vìanh quá tài hoa chứ gì... trong trò khoe mẽ...”
“Ôi, thôi mà!” Thầy Slughorn cười hì hà một cách thoải mái, ngoái đầu lại nhìn Ginny, cô nàng đang trừng mắt nhìn Zabini vòng qua cái bụng bự của Thầy
Slughorn. “Trò hãy cẩn thận đấy, Blaise! Thầy đã nhìn thấy cô bé này hô ếm một Bùa Gậy Ba-Bị tuyệt vời nhất khi thầy đi ngang qua khoang của cô bé!
Thầy sẽ không bao giờ đi gây hấn với cô ấy đâu!”
Zabini chỉ tỏ vẻ khinh thường.
“Tóm lại,” Thầy Slughorn nói, quay trở lại với Harry. “Dư luận như thế vào mùa hè. Dĩ nhiên, người ta không biết đâu mà tin, người ta biết tờ Tiên tri từng
nhầm lẫn, in những điều không chính xác – nhưng dựa vào một số nhân chứng, thìcó vẻ chắc chắn rằng đã xảy ra một biến cố khá ồn ào ở Bộ và rằng trò
có mặt ngay trong cuộc!”
Harry không thấy có cách nào thoát ra được mà không phải nói dối trắng trợn, đành chỉ gật đầu mà không nói gìhết. Thầy Slughorn tười cười với nó.
“Khiêm tốn quá, khiêm tốn quá, chẳng lạ gì mà cụ Dumbledore lại yêu quí đến thế - vậy là trò đã có mặt ở đó? Nhưng phần còn lại của câu chuyện... chấn
động dư luận, dĩnhiên rồi, người ta không biết nên tin vào cái gì... chẳng hạn như lời Tiên tri được thêu dệt...”
“Chúng con chẳng hề nghe thấy lời Tiên tri,” Neville nói, và khi nói điều đó thìnó đỏ ửng như gấc chín.
“Đúng vậy,” Ginny xác nhận một cách chắc chắn. “Cả anh Neville và con cũng có mặt ở đó, và tất cả chuyện nhảm nhí“Kẻ được chọn” ấy chỉ là chuyện bịa
đặt của tờ Tiên tri như mọi khi.”
“Cả hai trò đều có mặt ở đó à?” Thầy Slughorn nói giọng đầy thích thú, hết nhìn Ginny đến nhìn Neville, nhưng cả hai ngồi câm như hến trước nụ cười
khích lệ của thầy.
“Chà... phải... đúng là tờ Tiên tri hay thổi phồng, dĩ nhiên...” Thầy Slughorn nói, nghe ra hơi thất vọng một tí. “Thầy nhớ Gwenog yêu dấu có nói với thầy (dĩ
nhiên thầy muốn nói đến Gwenog Jones, Đội trưởng của Holyhead Harrypies)...”
Thầy lang thang vơ vẩn vào một chuỗi hồi tưởng dài lê thê, nhưng Harry có một cảm giác rõ rệt là Thầy Slughorn chưa xong với nó, và thầy chẳng thấy
Neville và Ginny có chút nào thuyết phục cả.
Buổi trưa ấy tiếp tục kéo dài với nhiều giai thoại nữa về những pháp sư lừng lẫy mà Thầy Slughorn đã dạy dỗ, tất cả đều đã vui sướng gia nhập cái mà
thầy gọi là “Câu lạc bộ Slug” ở trường Hogwarts. Harry nôn nóng muốn đi về, nhưng không biết làm thế nào cho đừng quá vô lễ. Cuối cùng, khi đoàn tàu
lửa ra khỏi một đoạn đường dài mịt mù sương giá để vào một vùng đỏ ráng hoàng hôn, Thầy Slughorn nhìn quanh, hấp háy mắt trong ánh nắng chiều.
“Chu choa, trời gần tối rồi! Thầy không để ý là người ta đã thắp đèn lên! Tất cả các trò nên về thay áo chùng vô đi. McLaggen, trò nên ghé qua văn phòng
thầy và mượn cuốn sách về Heo Đuôi cụt ấy. Harry, Blaise – cứ ghé bất cứ lúc nào các trò đi ngang qua. Trò cũng thế nhé, cô nương,” thầy nháy mắt với
Ginny. “Thôi, các trò đi đi, các trò đi nhé!”
Khi đẩy Harry vào hành lang tối om, Zabini ném cho nó một cái nhìn kinh tởm và Harry đáp lại cả vốn lẫn lời. Nó, Ginny, và Neville đi theo Zabini về dọc
theo hành lang đoàn tàu.
“Mình thiệt mừng là bữa ăn xong rồi,” Neville lầm bầm. “Người đâu mà kỳ quá, đúng không?”
“Ừ, thầy hơi kỳ,” Harry nói, mắt nó không rời Zabini. “Mà làm sao em lại mắc kẹt vô chỗ đó vậy Ginny?”
“Thầy nhìn thấy em ếm Zacharias Smith,” Ginny nói. “Anh có nhớ cái thằng ngốc của nhà Hufflepuff tham gia ĐQD không? Hắn cứ lẵng nhẵng đeo theo
hỏi hoài chuyện gì đã xảy ra ở Bộ và cuối cùng hắn làm em bực mình quá nên em ếm xì bùa hắn luôn. Khi Thầy Slughorn đến em tưởng đâu em sắp bị
cấm túc, nhưng thầy chỉ nghĩlà em ếm một cái bùa xịn ra trò và mời em ăn trưa! Khùng quá hả?”
“Dù sao lý do đó còn đỡ hơn là có một bà mẹ đẹp nổi tiếng,” Harry nói, vừa quắc mắt nhìn cái chẩm của Zabini, “hay có một ông bác...”
Nhưng nó chợt ngừng ngang. Một ý tưởng vừa nảy ra, tuy hơi táo bạo nhưng có khả năng là một sáng kiến tuyệt vời... Chỉ trong chừng một phút nữa
Zabini sẽ đi vào toa tàu của đám học sinh năm thứ sáu nhà Slytherin và Malfoy hẳn là đang ngồi trong đó, tưởng là nó không bị ai nghe lén ngoài đám
bạn Slytherin... Nếu Harry có thể đi theo sau Zabini vào đó, không bị nhìn thấy, thì có gì mà nó không thể thấy hay nghe được? Đúng là cuộc hành trình
cũng gần kết thúc – nhà ga Hogsmeade chỉ còn cách đó không đầy nửa tiếng đồng hồ, căn cứ vào cảnh vật hoang sơ đang lướt qua bên ngoài cửa sổ -
nhưng vìkhông đứa bạn nào coi trọng sự nghi ngờ của Harry về âm mưu của Malfoy, nên chính nó cần phải tìm bằng cớ để chứng minh.
“Lát nữa mình sẽ gặp lại hai bạn,” Harry thìthầm thật nhỏ, vừa kéo cái Áo khoác tàng hình ra và tung nó lên để trùm kín mình.
“Nhưng mà bồ...?” Neville hỏi.
“Lát sau!” Harry thì thầm, vừa nhanh chân vọt theo Zabini một cách hết sức lặng lẽ, mặc dù trong tiếng rầm rập của đoàn tàu lửa đang chạy thì sự cẩn
trọng của nó hơi bị thừa.
Lúc này hành lang hầu như hoàn toàn trống vắng. Hầu như tất cả học trò đã trở lại toa tàu của mình để thay đồng phục của trường và thu thập hành trang
cùng vật dụng cá nhân. Mặc dù nó bám sát Zabini hết mức, chỉ giữ khoảng cách sao cho không bị đụng vào người thằng này, Harry vẫn không đủ nhanh
để kịp lẻn vô toa tàu khi Zabini mở cánh cửa. Lúc Zabini đang kéo sập cánh cửa thìHarry vội vã thò một chân vô để ngáng không cho cánh cửa đóng lại
“Cánh cửa này mắc dịch gìvậy?” Zabini giận dữ nói khi nó cố dập đi dập lại cánh cửa vô chân Harry.
Harry chụp cánh cửa và đẩy nó mở ra thật mạnh; Zabini vẫn nắm chặt cái núm cửa nên bị văng ra một bên và té lăn cù vào đùi của Gregory Goyle, và
trong cảnh bát nháo tiếp theo đó, Harry xẹt nhanh vô trong khoang tàu, nhảy lên chỗ ngồi của Zabini lúc đó còn trống để tự đu người lên cái giá để hành
lý. Cũng may là lúc đó Goyle và Zabini đang cự cãi nhau, khiến bao nhiêu cặp mắt đều hướng về phía tụi nó, bởi vì Harry khá chắc chắn là bàn chân và
mắt cá nhân của nó đã bị hở ra khi vạt áo khoác bay lật lên; thực tình, trong một thoáng hoảng hốt, nó đã nghĩ rằng con mắt của Malfoy có ngó theo chiếc
giầy thể thao của nó khi nó rút giò lên biến mất. Nhưng vừa lúc ấy Goyle đóng sập cánh cửa lại, xô Zabini ra; Zabini đổ nhào xuống chỗ ngồi của mình,
mặt mũi xù lên bặm trợn, Vincent Crabbe tiếp tục xem cuốn truyện tranh của mình, và Malfoy, cười khúc khích, lại nằm dài ra băng ghế hai chỗ, đầu đặt
lên đùi của Pansy Parkinson. Harry nằm cuộn tròn một cách khốn khổ trong tấm Áo khoác tàng hình để bảo đảm là mỗi phân của thân thể nó đều được
giấu kín, và nó ngó Pansy vuốt mái tóc vàng óng mượt của Malfoy ngược lên trán, vừa làm vừa mỉm cười tự mãn như thể bất cứ ai cũng thèm được ở
vào vị trí của cô ả. Những cái lồng đèn đung đưa từ trên trần toa tàu phả ánh sáng rực rỡ lên khung cảnh: Harry thậm chí có thể đọc được từng chữ trong
cuốn truyện tranh của Crabbe ở ngay phía dưới nó.
“Sao, Zabini,” Malfoy nói, “lão Slughorn muốn gì?”
“Chỉ là toan kết bè tựu đám với những người có quen biết lớn,” Zabini nói, hày còn trừng mắt với Goyle. “Nhưng lão cũng chẳng kiếm được nhiều tay cho
lắm.”
Thông tin này không có vẻ làm cho Malfoy hài lòng. “Mời thêm được đứa nào nữa?” Nó hạch hỏi.
“McLaggen của nhà Gryffindor,” Zabini nói.
“Ồ phải, bác nó làm lớn ở trong Bộ mà,” Malfoy nói.
“...một tay nào đó tên Belby, của nhà Ravenclaw.”
“Chẳng lẽ là nó, nó chỉ là một thằng đần độn!” Pansy nói.
“...và Longbottom, Potter với con nhỏ Weasley,” Zabini kết thúc.
Malfoy thình lình ngồi bật dậy, gạt bàn tay của Pansy qua một bên.
“Lão mời cả thằng Longbottom?”
“Ừ, tôi cho là vậy, bởi vìthằng Longbottom đã ở đó,” Zabini dửng dưng đáp.
“Lão Slughorn khoái thằng Longbottom ở chỗ nào?”
Zabini nhún vai.
“Potter, Potter quíbáu, hiển nhiên là lão muốn ngắm “Kẻ được chọn”,” Malfoy khinh khỉnh nhạo báng, “nhưng cái con bé Weasley! Nó có gìđặc biệt chứ?”
“Nhiều chàng khoái con nhỏ đó lắm,” Pansy nói, kín đáo quan sát Malfoy để xem phản ứng của thằng này. “Ngay cả anh cũng nghĩ là con nhỏ xinh đẹp,
đúng không, Blaise, ấy là tất cả chúng ta đều biết anh khó tính cỡ nào!”
“Tôi chẳng đời nào đụng tới một đứa thuộc nòi phản trắc bẩn thỉu như con đó, cho dù nó đẹp xấu thế nào đi nữa,” Zabini lạnh lùng nói, và Pansy tỏ vẻ hài
lòng. Malfoy nằm ngả trở xuống đùi cô nàng và cho phép cô nàng tiếp tục vuốt ve mái tóc của nó.
“Chà, thật đáng tội nghiệp cho cái khẩu vị của lão Slughorn. Có lẽ lão hơi bị lẩm cẩm rồi. Thiệt là đáng xấu hổ. Cha tôi luôn nói rằng lão là một pháp sư
giỏi vào thời của lão. Cha tôi xưa cũng là một trong những học trò cưng của lão. Có lẽ lão Slughorn chưa nghe nói là tôi đang ở trên tàu, hoặc là...”
“Tôi chẳng tin gìvề lời mời đâu,” Zabini nói. “Khi tôi mới tới, lão có hỏi thăm tôi về cha của Nott. Hình như họ vốn là bạn cũ, nhưng khi lão nghe ông kia đã
bị bắt ở Bộ thìlão tỏ vẻ không vui lắm, và Nott đâu có được mời, đúng không? Tôi không nghĩlão Slughorn khoái Tử thần thực tử đâu.”
Malfoy có vẻ tức giận, nhưng cố nặn ra vỏn vẹn một tiếng cười khan không chút khôi hài.
“Hừ, ai hơi đâu bận tâm lão khoái cái gì? Lão là ai, một khi thời thế thay đổi? Chỉ là một thầy giáo già ngu xuẩn.” Malfoy ngáp rõ to. “Ý tôi là, có thể tôi
chẳng còn ở trường Hogwarts vào năm tới nữa, thì cái chuyện một lão mập già vang-bóng-một-thời khoái hay không khoái tôi có nghĩa lý quái gì kia
chứ?”
“Anh nói gì, có thể anh không đến trường Hogwarts vào niên học tới nữa à?” Pansy giận dỗi hỏi, ngừng vuốt tóc Malfoy tức thì.
“Ôi, ai biết trước được đâu,” Malfoy nói với một thoáng tự mãn. “Anh có thể... ơ.. chuyển sang những thứ khác lớn lao hơn và hay hơn.”
Nằm co quắp trong tấm Áo khoác tàng hình trên giá để hành lý, trái tim Harry bắt đầu đập nhanh. Liệu Ron và Hermione sẽ nói sao về chi tiết này?
Crabbe và Goyle trố mắt nhìn Malfoy; dường như chúng chẳng có ý niệm mơ hồ nào về bất kỳ kế hoạch nào để chuyển sang những thứ lớn lao hơn và
hay ho hơn. Ngay cả Zabini cũng để lọt một ánh mắt tò mò khiến vẻ mặt kiêu kỳ hơi bị mẻ phong độ mất một tí. Pansy tiếp tục chậm rãi vuốt tóc Malfoy, vẻ
mặt sững sờ.
“Có phải anh định nói – Kẻ ấy?”
Malfoy nhún vai.
“Mẹ muốn anh học hành xong xuôi đã, nhưng đối với anh, anh chẳng thấy chuyện học quan trọng vào thời buổi này. Anh muốn nói, thử nghĩ xem... Khi
Chúa tể Hắc ám lên ngôi, liệu ngài có bận tâm một kẻ nào đó có bao nhiêu chứng chỉ Pháp thuật Thường đẳng hay bằng Pháp thuật Tận sức không? Dĩ
nhiên ngài sẽ không cần... Vấn đề là kẻ đó đã làm được việc gìcho ngài và đã chứng tỏ với ngài sự tận tụy cống hiến ra sao.”
“Và anh cho là anh có thể làm được điều gìđó cho ngài à?” Zabini hỏi giọng gay gắt. “Mười sáu tuổi và thậm chíchưa đậu hết các chứng chỉ?”
“Chẳng phải tôi vừa nói rồi đó sau? Có thể ngài chẳng bận tâm là tôi có đậu hết các chứng chỉ không. Có thể công việc mà ngài muốn tôi làm không phải
là cái việc người ta cần có đủ chứng chỉ mới làm được” Malfoy nói khẽ.
Cả Crabbe và Goyle đều ngồi há hốc mồm ra như mấy cái máng xối hình đầu thú. Pansy đăm đăm ngó xuống Malfoy như thể cô nàng chưa từng bao giờ
thấy cái gìgây kinh hoàng như thế.
“Tôi nhìn thấy trường Hogwarts rồi,” Malfoy nói khi chỉ ra ngoài cửa sổ tối hù rõ ràng muốn thêm gia vị cho cái hiệu quả mà nó vừa tạo ra. “Chúng ta nên
mặc đồng phục vào.”
Harry mải chăm chú ngó Malfoy, nên không để ý Goyle đang vói lấy cái rương của nó; khi thằng này lẳng cái rương xuống, cái rương đụng mạnh vào một
bên đầu của Harry. Nó để vuột một tiếng kêu đau không kềm được, và Malfoy ngước nhìn lên cái giá để hành lý, cau mày.
Harry không ngán Malfoy, nhưng nó cũng chẳng thích thú gì lắm cái ý tưởng bị một đám Slytherin thù địch hát hiện trốn dưới tấm Áo khoác tàng hình.
Nước mắt còn ứa ra và cái đầu còn đau buốt, Harry rút cây đ ra, cẩn thận không làm xáo trộn tấm áo khoác, và nín thở chờ đợi. May sao, Malfoy dường
như quyết định là nó chỉ tưởng tượng ra tiếng kêu đó mà thôi; nó khác áo chùng vào như những đứa khác, khóa cái rương lại, và khi xe lửa giảm tốc độ
chỉ còn trườn rề rề vô sân ga, nó thắt chặt quanh cổ tấm áo choàng lữ hành mới toanh.
Harry nhìn thấy hành lang toa tàu giờ lại đông đúc người và hy vọng Hermione và Ron sẽ đem giùm hành lý của nó lên sân ga; nó bị mắc kẹt tại chỗ cho
đến khi toa tàu hoàn toàn trống vắng. Sau cùng, sau cái lắc lư cuối cùng, đoàn tàu lửa dừng hẳn lại. Goyle mở tung cánh cửa và cậy vào vai u thịt bắp mà
chen lấn vô một đám học sinh năm thứ hai, huých đẩy chúng giạt qua một bên; Crabbe và Zabini đi theo.
“Em ra trước đi,” Malfoy bảo Pansy, cô ả đang giơ hai tay ra chờ đợi như thể hy vọng Malfoy sẽ nắm lấy tay ả. “Anh chỉ muốn kiểm tra lại một thứ.”
Pasny đi ra. Giờ đây chỉ còn lại Harry và Malfoy trong khoang tàu. Mọi người đang lũ lượt đi thành hàng dài và kéo xuống sân ga tối om. Malfoy đi tới
cửa khoang và buông rèm cửa xuống, để người đi ngoài hành lang không thể dòm dỏ vào. Xong nó cúi xuống cái rương của nó mở ra một lần nữa.
Harry dòm xuống qua mép của giá để hành lý, tim nó càng đập mạnh hơn. Malfoy định giấu diếm Pansy cái gì? Liệu nó có sắp nhìn thấy cái vật bí mật đã
bị hỏng cần thiết được sửa chữa không?
“Bất động toàn thân!”
Thình lình, Malfoy chĩa cây đũa phép của nó về phía Harry, khiến Harry bị tê liệt tức thì. Rồi như thể trong him quay chậm, Harry té lăn cù ra khỏi giá để
hành lý, rớt xuống ngay chân Malfoy, rung chuyển cả sàn tàu, đau đớn thấu xương, Tấm Áo khoác tàng hình bị nó đè lên, cả thân hình nó lộ ra với hai chân
co quắp lại trong tư thế quìmọp. Nó chẳng thể nhúc nhích được một cơ bắp nào; nó chỉ có thể trợn mắt ngó Malfoy đang ngoác miệng cười.
“Tao đoán đúng,” Malfoy hí hửng nói. “Tao nghe cái rương của Goyle đụng vô mày. Và tao nhớ đã thấy cái gì đó loáng thoáng trắng trên không trung sau
khi Zabini trở lại...”
Cái nhìn của nó chần chừ một chút trên đôi giày thể thao của Harry.
“Mày chẳng hề nghe được bất cứ điều gìmà tao quan tâm đâu, Potter à. Nhưng nhân khi tao tóm được mày ở đây...”
Thế là nó đạp thật mạnh vô mặt Harry. Harry cảm giác cái mũi nó bị bể, máu xịt ra khắp nơi.
“Cú đó cho cha tao. Bây giờ, để coi...”
Malfoy kéo tấm Áo khoác tàng hình bị đè bên dưới thân hình bất động của Harry và quăng trùm lên Harry.
“Tao không tin là họ sẽ tìm ra mày trước khi tàu trở lại London,” nó nói khẽ. “Hẹn gặp lại sau, Potter nhé... hoặc khỏi gặp.”
Và cố ý bước giẫm lên mấy ngón tay của Harry, Malfoy đi ra khỏi toa tàu.
Chương 8
Thầy Snape đắc thắng
Harry không thể nhúc nhích một cơ bắp nào cả. Nó cứ nằm đó, bên dưới tấm Áo khoác tàng hình, cảm thấy máu từ mũi chảy ra, nóng và ướt, loang khắp
mặt. Nó lắng nghe tiếng người nói và tiếng bước chân bên kia hành lang. Ý nghĩ ngay tức thì của nó là ai đó chắc chắn sẽ kiểm tra các toa tàu trước khi
đoàn tàu lại khởi hành. Nhưng cũng ngay sau đó nó nản lòng nhận ra rằng cho dù có ai đó nhìn vào toa, họ cũng không thể nhìn thấy hay nghe thấy nó.
Niềm hy vọng lớn nhất của nó là ai đó sẽ bước vào toa và đạp phải nó. Harry chưa bao giờ ghét Malfoy hơn cái lúc nó nằm cứng đơ ở đó, giống như
một con rùa ngu xuẩn bị lật ngửa trên cái mai của mình, máu nhểu vào miệng há hốc đến phát lợm. Nó đã tự dẫn xác vào một tình huống ngu hết chỗ nói...
Và giờ đây những bước chân cuối cùng đang xa dần; mọi người đang kéo lê hành lý trên sân ga tối om phía bên ngoài; nó có thể nghe thấy những tiếng
rương cạ mặt đường ràn rạt và tiếng người chuyện trò bép xép ỏm tỏi.
Ron và Hermione hẳn nghĩlà nó đã ra khỏi tàu mà không đợi tụi nó. Một khi đã vào trường Hogwarts rồi và ngồi vào chỗ của mình trong Đại sảnh đường,
tụi nó sẽ ngó lên ngó xuống dãy bàn của nhà Gryffindor vài ba hút, và cuối cùng nhận ra nó không có mặt ở đó, thìlúc đó hẳn là nó đã vượt qua nửa quãng
đường quay lại London.
Nó cố gắng tạo ra một âm thanh nào đó, thậm chí một tiếng rên ư ử, mà cũng không thể được. Rồi nó sực nhớ là một số pháp sư, như cụ Dumbledore
chẳng hạn, có thể ếm bùa mà không cần hô thành tiếng, thế là nó thử triệu hồi cây đũa phép đã văng ra khỏi tay nó bằng cách nhẩm đi nhẩm lại trong đầu
mấy tiếng “Lại đây đũa phép!” nhưng chẳng có gìxảy ra cả.
Nó tưởng nghe được tiếng rì rào của cây cối quanh hồ, và tiếng cú rúc vọng từ xa xa, nhưng chẳng có dấu hiệu gì là có ai đó kiểm tra các toa tàu hay
thậm chí (nó hơi tự khinh mình về niềm hy vọng này) tiếng hô hoán hoảng loạn rằng Harry đã đi đâu mất rồi. Một cảm giác tuyệt vọng xâm chiếm khắp
người nó khi nó tưởng tượng cảnh đoàn xe do vong mã kéo lăn bánh vô trường và tư một chiếc xe ngựa nào đó đang chở Malfoy vang tiếng cười rú dù
đã được hãm bớt âm thanh, khi thằng này kể lại chuyện nó dần Harry nhừ tử cho Crabbe, Goyle, Zabini, và Pansy Parkinson nghe.
Đoàn tàu lửa bắt đầu lắc lư khiến Harry lăn qua một bên. Bây giờ nó ở tư thế có thể nhìn chăm chăm vào gầm ghế bụi bặm thay vì cái trần tàu. Sàn tàu
bắt đầu rung chuyển khi đầu máy gầm lên khởi động. Đoàn tàu Tốc hành đang chuyển bánh ra đi mà không ai biết Harry vẫn còn ở trên tàu...
Bỗng nhiên nó cảm thấy tấm Áo khoác tàng hình bay ra khỏi người và một giọng nói vang lên:
“Chào Harry.”
Một ánh đèn đỏ nhá lên và cơ thể Harry hết đông cứng; nó đã có thể gượng ngồi lên trong một tư thế có nhân cách hơn, vội vàng dùng mu bàn tay lau
máu tèm lem trên gương mặt bầm giậ, rồi ngẩng đầu nhìn cô Tonks , cô đang cầm tấm Áo khoác tàng hình mà cô mới giở lên khỏi người Harry.
“Chúng ta hải ra khỏi đây, nhanh lên,” cô nói khi cửa sổ tàu trở nên mịt mờ hơi nước và đoàn tàu bắt đầu tiến ra khỏi sân ga. “Nào, chúng ta sẽ nhảy ra
khỏi tàu.”
Harry vội vã đi thoe cô Tonks ra hành lang. Cô kéo cửa xe lửa mở ra và nhảy xuống cái sân ga dường như đnag trượt nhanh bên dưới hai người vì con
tàu đang tăng tốc. Harry nhảy thoe cô Tonks , lảo đảo một tí khi chạm mặt đất, rồi đứng thẳng dậy vừa kịp lúc để thấy cái đầu máy hơi nước màu đỏ tía
láng lẫy đã tăng tốc, quanh qua cua, và biến mất khỏi tầm nhìn.
Làn khí đêm lạnh lẽo làm dịu đi cơn đau nhói của cái mũi Harry. Cô Tonks đang nhìn nó; nó cảm thấy bực tức và bối rối về cái sự nó đã được phát hiện
trong một tư thế buồn cười. Cô Tonks lặng lẽ trao lại nó tấm Áo khoác tàng hình.
“Ai làm?”
“Draco Malfoy,” Harry thốt lên cay đắng. “Cám ơn chị đã... ơ...”
“Không có chi,” căn cứ vào những gì Harry có thể nhìn thấy trong bóng tối, thì cô Tonks vẫn đầu tóc bơ phờ, mặt mày ủ dột như cái hôm Harry gặ cô ở
Hang Sóc. “Nếu em đứng yên thìtôi có thể sửa mũi cho em.”
Harry không nghĩ ý kiến đó hay lắm; nó đã có ý định đến khám mũi ở chỗ bà Pomfrey, bà sế bệnh thất của trường, người mà Harry tin tưởng một chút về
Bùa Chữa thương, nhưng nói ra thìbất lịch sự, nó đành đứng ngay đơ nhắm mắt lại.
“Chữa lành chữa lặn,” cô Tonks hô. Cái mũi của Harry nóng lên dễ sợ, rồi lạnh buốt. Nó giơ một bàn tay lên, cẩn thận rờ cái mũi. Dường như cái mũi đã
lành.
“Cám ơn chị nhiều lắm!”
“Em nên khoác tấm áo đó lên, và chúng ta có thể đi bộ về trường,” cô Tonks nói, vẫn không hề mỉm cười. Khi Harry đã tung tấm áo khoác trùm lên người,
cô Tonks vẫy cây đũa phép của mình; một sinh vật bốn chân óng ánh bạc trông rất cừ khôi hiện ra từ đầu đũa và phi vào đêm tối.
“Có phải đó là một Thần Hộ mệnh?” Harry hỏi, nó từng thấy cụ Dumbledore gởi thông điệp bằng cách tương tự.
“hải tôi đang nhắn tin về lâu đài là đã đón được em, kẻo người ta lo lắng. Thôi đi nào, chúng ta không nên nhởn nhơ.”
Cả hai tiến về hía con đường dẫn về tòa lâu đài.
“Làm sao chị kiếm ra em?”
“Tôi nhận thấy em chưa ra khỏi tàu và tôi biết em có tấm áo khoác đó. Tôi nghĩ óc thể em đang ấn nú vì một lý do nào đó. Khi nhìn thấy tấm rèm buông
xuống ở cửa một toa tàu, tôi nghĩmình nên kiểm tra.”
“À, mà chị làm gìở đây vậy?” Harry hỏi.
“Hiện giờ tôi được cử gác ở nhà ga Hogsmeade, gọi là bảo vệ thêm cho trường,” cô Tonks nói.
“Chỉ có mình chị chốt ở đây hay là...?”
“Không, Chân Nhồi bông, Savaga, và Dawlish cũng gác ở đây nữa.”
“Dawlish, có phải vị Thần Sáng đã bị cụ Dumbledore tấn công hồi năm ngoái không ạ?”
“Phải.”
Hai người lần bước đi trên con đường vắng vẻ tối om, men theo dấu của đoàn xe vừa mới chạy qua. Từ dưới tấm áo khoác, Harry liếc nhìn sang cô
Tonks đi bên cạnh. Năm ngoái cô háo hức tò mò (đến mức có lúc gây bực mình), cô dễ dàng há ra cười, cô hay nói tiếu lâm. Bây giờ cô dường như già
hơn và nghiêm trang hơn nhiều, và có vẻ lầm lì quả quyết. Tất cả những thay đổi này có hải là hậu quả của chuyện xảy ra ở Bộ? Nó ngẫm nghĩ lại một
cách khổ sở về việc Hermione đã đề nghị nó nên nói gì đó để an ủi cô Tonks về việc chú Sirius; rằng đó không hề là lỗi của cô ấy, nhưng Harry không thể
nào mở miệng nói điều đó được. Nó chẳng hề trách cô về cái chết của chú Sirius; cô cũng chẳng có lỗi gì hơn những người khác (và càng ít lỗi hơn cả
nó) nhưng nó không thích nói về chú Sirius nếu như nó có thể tránh được. Và thế là hai người cứ nặng nề bước đi bên nhau trong im lặng. Vạt áo choàng
của cô Tonks quét loạt soạt phía sau họ.
Trước giờ vẫn đi đến trường bằng vong mã kéo, Harry đã chẳng bao giờ ước lượng được khoảng cách từ trường Hogwarts đến nhà ga Hogsmeade.
Cuối cùng, khi nhìn thấy mấy cây cột cao hia bên cổng trường, mỗi đỉnh cột có một con heo rừng có cánh, nó thở hào nhẹ nhõm. Nó lạnh, nó đói, và nó
hăm hở bỏ lại sau lưng cái cô Tonks ủ dột nó mới biết đến này. Nhưng khi đưa tay đẩy cánh cổng, tìnó nhận thấy cổng đã được khóa bằng xích.
“Mở ra!” Nó hô lên một cách tự tin, vừa chĩa cây đũa phép vào ổ khóa, nhưng chẳng có gìxảy ra cả.
“Thần chú đó không hiệu nghiệm đối với cái này,” cô Tonks nói. Đích thân cụ Dumbledore đã phù phép chúng.
Harry nhìn quanh.
“Em có thể trèo qua một bức tường,” nó đề nghị.
“Không, em không thể làm vậy,” cô Tonks nói dứt khoát. “Bùa phép chống-kẻ-đột-nhập được ếm lên tất cả các bức tường. Hè này an ninh đã được tăng
cường gấp một trăm lần.”
“Vậy thì,” Harry nói, bắt đầu cảm thấy bực mình về cái sự chẳng giúp đỡ gì được của cô Tonks, “em coi như sẽ hải ngủ ở ngoài này chờ đến khi trời
sáng.”
“Có người ra đón em vào,” cô Tonks nói, “Nhìn kìa.”
Một cái đèn lồng nhấp nhô cách tòa lâu đài không xa. Harry mừng rỡ được nhìn thấy ánh đèn đến nỗi cảm thấy nó có thể chịu đựng cả những lời phê bình
khò khè của thầy Filch về sự lề mề của nó lẫn bài diễn văn thùng rỗng về việc tuân thủ giờ giấc của nó sẽ tiến triển nếu chịu khó áp dụng thường xuyên
hình phạt kẹp ngón tay. Chỉ đến khi ánh đèn vàng sáng sủa chỉ còn cách hai người chừng ba thước, và Harry đã lột tấm Áo khoác tàng hình ra để lộ thân
mình, nó mới nhận ra, cùng lúc với một nỗi căm ghét trào lên, cái mũi khoằm sáng bóng và mái tóc đen dài nhờn nhẫy của thầy Severus Snape.
“Ái chà chà,” Thầy Snape vừa cười khẩy châm chọc, vừa rút cây đũa phép ra gõ lên ổ khóa một lần, khiến cho sợi dây xích ngoằn ngoèo rút lại như con
rắn thu mình, và cánh cổng mở ra kêu cọt kẹt. “Trò xuất hiện là tốt đấy, Potter, tuy nhiên hẳn là trò đã quyết định rằng mặc đồng phục sẽ giảm đi giá trị
ngoại hình của trò chứ gì.”
“Con không thể thay đồ, con không có cái...” Harry vừa mới mở miệng nói, Thầy Snape đã ngắt lời nó.
“Không cần phải đợi đâu, cô Nymphadora à, Potter hoàn toàn... à... an toàn trong tay tôi.”
“Tôi tưởng bác Hagrid là người nhận thông báo,” cô Tonks nói, cau mày lại.
“Lão Hagrid trễ bữa tiệc khai trường, y như cậu Potter đây, cho nên tôi đã nhận thay. Và nhân tiện,” Thầy Snape nói, vừa đứng lùi lại để cho Harry đi
ngang qua, “tôi thích xem Thần Hộ mệnh mới của cô.”
Thầy đóng sập cánh cánh cổng trước mặt cô Tonks một cái rầm và gõ cây đũa phép lên sợi dây xích một lần nữa, khiến nó vươn ra, kêu xủng xẻng, trở
lại vị trítrước đó.
“Tôi nghĩcô coi bộ khá hơn với con cũ,” Thầy Snape nói, sự ác ý trong giọng nói của thầy không thể nào nhầm lẫn được. “Con mới coi bộ yếu.”
Khi Thầy Snape quơ ngọn đèn lồng lên, Harry thoáng thấy vẻ king ngạc và giận dữ trên gương mặt cô Tonks. Rồi cô lại khuất chìm trong bóng tối một lần
nữa.
“Tạm biệt cô Tonks,” Harry ngoái đầu chào vói lại khi nó bắt đầu đi về phía trường với Thầy Snape. “Cám ơn cô về... mọi thứ,”
“Hẹn gặp lại nhé, Harry”
Thầy Snape không nói gì trong một hay hai phút. Harry cảm thấy như thể cơ thể nó đang phát ra những luồng sóng căm ghét mạnh đến nỗi kể cũng lạ
rằng Thầy Snape không cảm thấy bị chúng đốt cháy. Nó đã không ưa được Thầy Snape ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, nhưng qua thái độ của thầy đối với
chú Sirius, Thầy Snape đã tự đặt mình vào chỗ vượt quá xa cái khả năng tha thứ của Harry, mãi mãi và bất di bất dịch. Bất chấp cụ Dumbledore nói gì đi
nữa, Harry đã có thìgiờ suy nghĩsuốt mùa hè, và đã kết luận rằng nhwnag khích bác ác độc của Thầy Snape với chú Sirius, về việc chú thìcứ ở nơi trú ẩn
an toàn trong khi những người khác trong Hội Phượng hoàng hải ra ngoài chiến đấu với Voldermort, có lẽ đã là một yếu tố có tác động mạnh khiến chú
Sirius lao vào Bộ cái đêm mà chú bị giết.
Harry bám vào lý giải này, bởi vì như thế nó có thể oán trách Thầy Snape, điều này khiến cho nó cảm thấy thỏa mãn, và cũng bởi vì nó biết rằng nếu có ai
đó không thương tiếc cái chết của chú Sirius thìkẻ đó chính là người đàn ông đang rảo bước đi bên cạnh nó trong bóng tối.
“Ta cho rằng nhà Gryffindor đáng bị trừ năm mươi điểm vầy sự đi trễ này,” Thầy Snape nói. “Và, để ta xem, trừ thêm hai mươi điểm vì bộ đồ Muggle trò
đang mặc. Trò biết đấy, ta không tin bất cứ nhà nào lại bị điểm âm sớm như vậy vào đầu niên học: mọi người còn chưa bắt đầu món bánh nướng cơ mà.
Có thể trò đã lập một kỷ lục đấy, Potter ạ.”
Cơn giận dữ căm ghét sôi sục bên trong người Harry và dường như cháy thành một ngọn lửa nóng đến trắng lóa, nhưng nó thà bị đông cứng trên suốt
quảng đường quay trở lại London còn hơn là nói cho Thầy Snape biết tại sao nó đến trễ.
“Ta nghĩ là trò muốn làm một cú xuất hiện độc đáo, đúng không?” Thầy Snape tiế tục. “Và vì không có sẵn xe bay nên trò quyết định là nếu xuất hiện đột
ngột giữa Đại sảnh đường giữa chừng bữa tiệc ắt là tạo được một hiệu quả đầy ấn tượng.”
Harry vẫn làm thinh, mặc dù nó tưởng như ngực nó có thể nổ tung. Nó biết Thầy Snape ra đón nó là nhằm vào việc này, được hành hạ châm chích nó
trong mấy hút ấy mà không bị ai nghe thấy.
Hai thầy trò đi đến bậc thềm cuối cùng và cánh cửa trước khổng lồ bằng gỗ sồi mở ra một tiền sảnh mênh mông rợp bóng cờ, và tiếng nói cười, tiếng ly
chén chạm nhau lanh canh bùng lên chào đón hai người đi qua cánh cửa thông để mở vô Đại sảnh đường. Harry tự hỏi là nó có thể chuồi trở vô trong
tấm Áo khoác tàng hình, để bằng cách ấy đến được chỗ ngồi của nó ở dãy bàn nhà Gry mà không bị chú ý không (thiệt bất tiện là dãy bàn đó nằm ở tuốt
phía cuối Đại sảnh đường).
Tuy nhiên dường như đọc được suy nghĩ của Harry, Thầy Snape nói, “Không mặc áo khoác. Trò cứ bước vào để mọi người thấy trò, ta chắc là trò muốn
như vậy mà.”
Harry xoay người tại chỗ và dõng dạc đi thẳng qua cánh cửa mở rộng: gì cũng được miễn là thoát khỏi Thầy Snape. Đại sảnh đường với bốn dãy bàn
dài cho học sinh bốn nhà và một bàn dành cho giáo ban đặt ở đầu sảnh, được trang hoàng như thường lệ với những ngọn nến lơ lửng giữa không trung
khiến cho những cái dĩa bên dưới lấ lánh và sáng choang. Nhưng tất cả đều nhòe nhạt lung linh đối với Harry, nó bước nhanh đến nỗi khi đã qua khỏi dãy
bàn của nhà Hufflepuff rồi mới bắt đầu bị mọi người trố mắt nhìn, và khi đám học trò đứng lên để nhìn nó cho kỹ, thìnó đã tìm ra Ron và Hermione. Nó bèn
đi như chạy về phía băng ghế của hai đứa bạn và chen vô ngồi giữa hai đứa nó.
“Nãy giờ bồ ở đâu?... Trời ơi, bồ đã làm gìcái mặt của bồ vậy?” Ron nói, cũng lõ mắt nhìn Harry như mọi người xung quanh.
“Hả, cái mặt mình bị sao?” Harry nói, chụp lấy một cái muỗng và liếc nhìn cái bóng phản chiếu méo mó của chân dung nó.
“Mặt bồ bê bết máu!” Hermione nói. “Lại đây...”
Cô nàng giơ cây đũa phép lên, nói “Tẩy sạch!” và làm tiêu hết mấy vết máu khô.
“Cám ơn,” Harry nói, sờ sờ cái mặt giờ đây đã sạch sẽ của nó. “Cái mũi của mình trông thế nào?”
“Bình thường,” Hermione lo lắng nói. “Mà tại sao nó có thể không bình thường cơ chứ? Harry, có chuyện gìvậy? Tụi mình sợ quá!”
“Mình sẽ nói với mấy bồ sau,” Harry sẵng giọng. Nó thấy rất rõ là Ginny, Neville, Dean, và Seamus đang dỏng tai nghe ngóng; ngay cả Nick Suýt mất đầu,
con ma của nhà Gryffindor, cũng lảng vảng gần băng ghế của tụi nó mà nghe lén.
“Nhưng…” Hermione nói.
“Lúc này không được, Hermione,” Harry rầu rĩnói, bằng một giọng đầy ngụ ý. Nó hy vọng lắm lắm là người ta sẽ đoán rằng nó vừa dính líu vô chuyện gìđó
anh hùng, nếu là chuyện đương đầu với hai tên Tử thần thực tử và một tên giám ngục thìcàng hay. Tuy nhiên Malfoy sẽ loan truyền câu chuyện rộng rãi hết
mức có thể, nhưng biết đâu câu chuyện ấy sẽ không tới tai quá nhiều người trong nhà Gryffindor.
Nó vói ngang qua Ron tính lấy hai cái đùi gà và một nắm khoai chiên, nhưng chưa kịp lấy thìchúng đã biến mất, và thay vô đó là món bánh nướng.
“Đằng nào thìbồ cũng đã lỡ buổi phân loại học sinh mới rồi,” Hermione nói, trong khi Ron thò tay lấy một miếng bánh ngọt sô cô la.
“Nón có nói gìhay ho không?” Harry hỏi, vừa lấy một miếng bánh trái cây tẩm mật.
“Thực ra thìcũng như mọi năm… khuyên nhủ chúng ta đoàn kết để đối phó với kẻ thù, đại khái như bồ đã biêt rồi đấy.”
“Thầy Dumbledore có nhắc gìtới Voldermort không?”
“Chưa, nhưng thầy luôn để dành bào diễn văn riêng của thầy đến cuối bữa tiệc mà. Chắc cũng không còn lâu nữa đâu.”
“Thầy Snape nói bác Hagrid đến dự tiệc trế…”
“Bồ đã gặp Thầy Snape hả? Chuyện ra sao?” Ron nói giữa những cái ngoạm như điên vô miếng bánh ngọt.
“Tình cờ chạm trán ổng,” Harry nói lảng đi.
“Bác Hagrid chỉ trễ vài phút,” Hermione nói. “Nhìn kìa, bác đang vẫy tay với bồ kìa, Harry.”
Harry ngước nhìn lên bàn dành cho giáo ban và nhe răng cười với bác Hagrid, bác ấy quả thực đang vẫy tay chào nó. Bác Hagrid chẳng bao giờ kềm
chế được hoàn toàn cách xử sự của mình cho đàng hoàng đứng đắn như giáo sư McGonagall – giáo viên chủ nhiệm của nhà Gryffindor. Cái đầu của bà
nhô lên tới đâu đó khoảng giữa vai và cùi chỏ của bác Hagrid, bởi vì hai người đang ngồi cạnh nhau, và giáo sư McGonagall tỏ vẻ không tán thành cái
kiểu chào hỏi hơi bị nồng nhiệt này. Harry ngạc nhiên thấy giáo viên môn Chiêm tinh, cô Trelawney đang ngồi sát bên cạnh bác Hagrid; hiếm khi nào thấy
bà rời khỏi cái phòng trên tháp, và Harry chưa bao giờ thấy bà trong những bữa tiệc khai trường trước đây. Trông bà vẫn quái dị như hồi nào tới giờ, lấp
lánh những chuỗi đeo lòng thòng và khăn quàng dài lượt thượt, hai mắt được cặp kính khuếch đại cho đến kích thước khổng lồ. Vì luôn luôn coi giáo sư
Trelawney như một loại thầy bói bịp, Harry đã sửng sốt khi khám phá ra vào cuối niên học trước, rằng chính bà là người đã phán ra lời Tiên tri đã trở
thành nguyên nhân khiến Chúa tể Voldermort giết cha mẹ Harry và tấn công chính Harry. Sự hiểu biết này khiến nó các ít háo hức xun xoe quanh bà, và
thiệt may phước, nam nay nó bỏ học môn Chiêm tinh. Hai con mắt như đèn hiệu của bà Trelawney đảo vòng về hướng Harry; nó vội vàng nhìn thác qua
hướng bàn ăn nhà Slytherin. Draco Malfoy đang làm điệu bộ kịch câm diễn tả động tác đạp bể một cái mũi giữa tiếng vỗ tay hoan hô và tiếng cười khành
khạch. Harry cụ mắt lại ngó cái bánh trái cây tẩm mật của nó, ruột gan lại sôi lên. Nó phải đánh đổi cái gìđây để được đấu tay đôi với Malfoy một phen…
“Thế giáo sư Slughorn muốn gì?” Hermione hỏi.
“Muốn biết thực sự thìchuyện gìđã xảy ra ở Bộ,” Harry nói.
“Ông ấy và tất cả mọi người ở đây,” Hermione khịt khịt mũi lại. “Thiên hạ tra vấn tụi này suốt hành trình trên tàu, đúng không Ron?”
“Ừ,” Ron nói. “Tất cả đều muốn biết liệu bồ có phải là “Kẻ được chọn” không...”
“Cái đề tài đó được thảo luận rất nhiều, thậm chí trong giới ma,” Nick Suýt mất đầu chen ngang, vừa cúi cái đầu chỉ còn dính tòn teng về phía Harry khiến
cho cái đầu lặc lìa một cách đe dọa trên nếp cổ áo. “Tôi thì được coi như một thứ có uy tín về vấn đề Potter; ai cũng biết chuyện chúng ta thân thiết với
nhau. Tôi sẽ khẳng định với cộng đồng mà là tôi sẽ không quấy rầy cậu để dò la thông tin, tuy nhiên tôi nói với họ là ’Harry Potter biết cậu ấy có thể giãi
bày tâm sự với tôi mà tin cậy tuyệt đối. Tôi thà chết chứ không phản bội lòng ton của cậu ấy’.”
“Nói vậy thìcũng huề tiền, bởi vìông đã chết mất tiêu rồi còn đâu,” Ron nhận xét.
“Một lần nữa, cậu lại cho thấy sự nhạy bén của một cái rìu cùn,” Nick Suýt mất đầu nói bằng giọng bị xúc phạm ghê gớm, rồi ông trồi lên trên không trung
và lướt về phía đầu kia của cái bàn nhà Gryffindor vừa đúng lúc cụ Dumbledore đứng dậy từ bàn ăn của giáo ban. TIếng nói tiếng cười đang vang khắp
sảnh đường hầu như lắng xuống ngay tức thì.
“Chúc các trò buổi tối tuyệt vời nhất!” Cụ nói, miệng cười tươi, tay dang rộng như thể muốn ôm hết cả sảnh đường.
“Tay của thầy bị sao vậy?” Hermione há hốc miệng thắc mắc.
Cô bé không phải là người duy nhất để ý. Bàn tay phải của cụ Dumbledore đã bị thâm đen và có vẻ như đã chết vào cái đêm mà cụ đến đón Harry ở gia
đình Dursley. Tiếng xì xào nổi lên hắp phòng; Cụ Dumbledore, suy diễn đúng những lời xì xào đó, chỉ mỉm cười và rũ ống tay áo màu vàng tía che phủ vết
thương.
“Không có gì đáng lo lắng cả,” cụ ung dung nói. “Nào các học sinh mới, ta mừng đón các trò vào trường, và các học sinh cũ, ta mừng đón các trò trở lại
trường! Một năm học với đầy đủ giáo dục về pháp thuật đang chờ đón các trò…”
“Bàn tay của thầy đã như vậy từ khi mình gặp thầy hồi mùa hè,” Harry thì thầm với Hermione. “Nhưng mình tưởng đâu giờ này thầy đã chữa lành cho nó
rồi chứ… hay bà Pomfrey đáng ra đã phải chữa lành cho thầy rồi chứ.”
“Trông có vẻ như bàn tay đã chết,” Hermione nói, với một vẻ buồn nôn. “Nhưng có một số thương tích không thể chữa lành được… những lời nguyền
xưa… và có những thứ thuốc độc không có thuốc giải…”
“…và thầy Filch, giám thị của chúng ta, đã nhờ tôi nói rằng có một sự cấm ngặt bất cứ món đồ chơi giỡn nào xuất xứ từ cửa hàng gọi là Phù thỉ Wỉ Wái
của Wea.
Những ai muốn chơi cho đội Quidditch của các nhà nên ghi danh với giáo sư hướng dẫn của nhà mình như thông lệ. Chúng ta cũng đang tìm một nhà
bình luận Quidditch mới, thủ tục như trên.
Năm học này, chúng ta hân hoan chào đón một thành viên mới trong giáo ban, Giáo sư Slughorn,” Thầy Slughorn đứng dậy, cái đầu hói của thầy sáng
bóng lên trong ánh nến, cái bụng bự quá khổ của thầy đổ bóng xuống mặt bàn. “Đây là đồng nghiệp của tôi trước đây, ông đã đồng ý phục hồi vị trícũ của
mình là một bậc thầy Độc dược.”
“Độc dược à?”
“Độc dược?”
Tiếng hỏi vang nhau khắp sảnh đường vìngười ta thắc mắc liệu mình có nghe đúng không.
“Độc dược hả?” Ron và Hermione nói cùng một lúc, cùng quay lại nhìn Harry chằm chằm. “Nhưng bồ nói là…”
“Đồng thời GIÁO SƯ Snape,” cụ Dumbledore cất giọng cao hơn để lời cụ át đi những tiếng xì xầm, “sẽ nhận dạy bộ môn Phòng chống nghệ thuật hắc
ám.”
“Không!” Harry nói to đến nỗi nhiều cái đầu quay về phía nó. Nó chẳng bận tâm. Nó đang trừng trừng ngó lên bàn giáo ban, tức như bị bò đá. Làm sao
mà Thầy Snape được giao cho bộ môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám trong thời buổi này chứ? Chẳng phải ai cũng biết rằng cụ Dumbledore đã không
tin tưởng giao cho thầy ấy công việc đó suốt bao nhiêu năm hay sao?
“Nhưng Harry à, bồ nói Thầy Slughorn sắp dạy môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám cơ mà!” Hermione nói.
“Mình cứ tưởng vậy!” Harry nói, vắt óc nhớ lại có khi nào cụ Dumbledore đã nói với nó điều này không, nhưng bây giờ nghĩ lại, nó không thể nào nhớ ra
cụ Dumbledore có từng nói với nó là Thầy Slughorn sẽ dạy cái gì.
Thầy Snape, người ngồi ngay bên phải cụ Dumbledore, đã không buồn đứng dậy đáp lễ khi tên thầy được nêu lên; thầy chỉ giơ một bàn tay lên uể oải ghi
nhận tiếng vỗ tay hoan hô vang lên từ bàn ăn của nhà Slytherin, tuy vậy, Harry chắc chắn là nó đã phát hiện ra cái vẻ đắc thắng trên gương mặt mà nó
ghét cay ghét đắng.
“Chà, có một điều lành,” nó nói một cách hằn học, “Thầy Snape sẽ ra đi vào cuối năm học.”
“Ýbồ muốn nói gì?” Ron hỏi.
“Cái môn xúi quẩy. Không ai dạy môn đó mà ở lại trường qua một năm… Trên thực tế thầy Quirrell chết khi đang dạy… Về phần mình, mình sẽ cầu khấn
cho có thêm một cái chết nữa…”
“Harry!” Hermione kêu lên, giọng sửng sốt và quở trách.
“Có thể thầy ấy chỉ cần quay lại dạy môn Độc dược vào cuối niên học,” Ron nói với giọng biết điều. “Có thể cái ông Slughorn đó sẽ không muốn ở lại dạy
lâu dài. Như thầy Moody đâu có ở lại.”
Cụ Dumbledore đằng hắng. Harry, Ron và Hermione không phải là những đứa duy nhất đang nói chuyện; cả Đại sảnh đường đã nổ bùng ra tiếng chuyện
trò râm ran về cái tin Thầy Snape cuối cùng đã đạt được tâm nguyện. Dường như không biết đến tính chất gây xúc động của cái tin mà cụ vừa phổ biến,
cụ Dumbledore không nói gìthêm về việc bổ nhiệm nhân sự trong giáo ban, cụ chờ vài giây cho có sự im lặng hoàn toàn rồi tiếp tục nói.
“Giờ đây, như mọi người trong sảnh đường này đều biết, chúa tể Voldermort và đồ đệ hắn lại một lần nữa tung hoành công khai và đang tăng cường lực
lượng.”
Sự im lặng dường như trở nên ngột gạt và căng thẳng khi cụ Dumbledore nói. Harry liếc sang Malfoy. Malfoy lúc ấy không nhìn cụ Dumbledore, mà đang
dùng cây đũa phép khiến cái nĩa của nó bay lượn lờ giữa không trung, như thể nó thấy lời lẽ của vị hiệu trưởng chẳng đáng cho nó để lọt vào tai.
“Tôi không thể nhấn mạnh đầy đủ sự nguy hiểm của tình thế hiện nay, và cẩn trọng mà mỗi người trong chúng ta ở trường Hogwarts cần phải có để bảo
đảm chúng ta được an toàn. Tòa lâu đài đã được củng cố phòng thủ Pháp thuật vững chắc trong mùa hè, chúng ta đã được bảo vệ bằng những cách
thức mới và mạnh hơn, nhưng chúng ta vẫn phải đề phòng hết sức cẩn thận sự cẩu thả vô ý về phía học sinh và giáo ban. Vì vậy thầy khuyên các trò nên
tôn trọng bất cứ giới hạn an ninh nào mà các thầy cô giáo có thể áp đặt lên các trò, cho dù các trò có thấy khó chịu thế nào đi nữa- đặc biệt, điều lệ nội
qui các trò không được ra khỏi giường vào ban đêm. Thầy kêu gọi các trò, nếu nhận thấy bất cứ điều gì khác lạ hay đáng ngờ bên trong lẫn bên ngoài
tòa lâu đài, các trò hãy báo ngay lập tức cho một người trong giáo ban. Thầy tin tưởng các trò luôn xử xự với ý thức cao nhất về sự an toàn của chính các
trò và của những người khác.”
Đôi mắt xanh cụ Dumbledore lướt qua khắp đám học sinh trước khi cụ mỉm cười một lần nữa.
“Nhưng bây giờ, chăn êm nệm ấm đang chờ các trò, thoải mái và ấm áp như các trò có thể mơ ước, và thầy biết ưu tiên số một của các trò là được nghỉ
ngơi thật tốt để chuẩn bị cho bài học ngày mai. Cho nên chúng ta hãy chúc nhau ngủ ngon. Píp píp!”
Cùng với âm thanh ràn rạt điếc tai như mọi khi là những băng ghế bị đẩy ra sau và hàng trăm học sinh bắt đầu rồng rắn kéo nhau ra khỏi Đại sảnh đường
đi về phía phòng ngủ của chúng. Harry, chẳng việc gì phải vội đi cùng cái đám đông cứ trố mắt nhìn nó, cũng không cần đến gần Malfoy vừa đủ để cho
phép nó kể lại câu chuyện đạp bể cái mũi, cứ cà rề lại phía sau, làm bộ cột lại dây giày, nhường cho hầu hết học sinh nhà Gryffindor kéo ra trước.
Hermione đã lao đi trước để làm nhiệm vụ Huynh trưởng của mình là chăn dắt đàn em năm thứ nhất, nhưng Ron nán lại với Harry.
“Thực ra thìcó chuyện gìvới cái mũi của bồ?” Ron hỏi, khi hai đứa đã cách khá xa cái đám đông đang kéo nhau ra khỏi Đại sảnh đường, và ở ngoài tầm
nghe ngóng của bất cứ ai.
Harry kể cho Ron nghe. Ron không phá ra cười là một bằng chứng hùng hồn cho tình bạn vĩđại giữa tụi nó.
“Mình thấy Malfoy làm điệu bộ nhái cái gìđó liên quan đến cái mũi,” Ron rầu rầu nói.
“Ừ, mà thôi, hơi đâu mà bận tâm,” Harry cay đắng nói. “Chỉ cần nghe điều mà nó nói trước khi phát hiện ra mình ở đó...”
Harry những tưởng Ron sẽ sửng sốt trước lời khoác lác của Malfoy. Thế nhưng, với thái độ mà Harry cho là đơn thuần ngoan cố, Ron chẳng xúc động tì
nào.
“Thôi đi, Harry, nó chỉ khoe mẽ với con nhỏ Parkinson… Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy giao cho nó cái thứ sứ mạng gìchứ?”
“Làm sao bồ biết chắc được là Voldermort không cần ai nằm vùng trong trường Hogwarts? Đó sẽ là chuyện đầu tiên...”
“Ta ước gì con đừng nói ra cái tên đó nữa, Harry à,” một giọng nói đang đến gần tụi nó từ phía sau. Harry ngoảnh lại nhìn và thấy bác Hagrid đang lắc
đầu.
“Thầy Dumbledore nói đúng cái tên đó,” Harry bướng bỉnh nói.
“Ừ, thôi, đó là cụ Dumbledore mà, đúng hông?” Bác Hagrid nói với giọng bíẩn. “Mà sao con đến trễ vậy, Harry? Bác lo quá.”
“Con bị mắc kẹt trên tàu lửa,” Harry nói. “Còn bác, sao cũng đến trễ?”
“Bác bận lo cho Grawp,” bác Hagrid vui vẻ nói. “Thỉnh thoảng lạc đường. Bây giờ nó đã có một ngôi nhà mới trên núi, cụ Dumbledore bố trí cho nó – một
cái hang đẹp. Ở đó nó sung sướng hơn nhiều so với hồi ở trong rừng.Anh em bác đã chuyện trò tán dóc với nhau.”
“Vậy hả?” Harry nói, cố trành nhìn vào mắt Ron; lần cuối cùng nó gặp người em cùng mẹ khác cha của bác Hagrid thì đó là một người cục cằn có tài nhổ
bật gốc cây, vốn từ vựng tổng cộng chừng năm từ, mà trong số đó có hai từ ông ta không thể phát âm rõ ràng.
“Ờ phải, chú ấy thiệt là tiến bộ,” bác Hagrid nói giọng tự hào. “Tụi con sẽ ngạc nhiên cho coi. Bác đang nghĩđến chuyện huấn luyện chú ấy làm trợ lý.”
Ron khịt mũi hơi to, nhưng xoay sở làm sao như thể đó chỉ là một cái nhảy mũi. Bây giờ ba bác cháu đang đứng bên cạnh cánh cửa chính bằng gỗ sồi.
“Thôi thì, hẹn gặp các con vào ngày mai, bài học đầu tiên bắt đầu ngay sau bữa ăn trưa. Các con tới sớm một tí để còn chào con Buck – ý là con
Whiterwings!”
Giơ một bàn tay lên vui vẻ vẫy chào tạm biệt, bác Hagrid hướng ra cửa đi vòa bóng đêm. Harry và Ron nhìn nhau. Harry có thể nói Ron cũng đang trải
qua cái cảm giác chùng xuống như chính nó.
“Bồ không theo lớp học Chăm sóc sinh vật huyền bínữa, phải không?”
Ron lắc đầu. “Và bồ cũng không phải?
Harry lại lắc đầu một lẫn nữa. Nó không muốn nghĩxem bác Hagrid sẽ nói gìkhi nhận ra cả ba đứa học trò cưng đều bỏ môn học của bác.
Chương 9
Hoàng tử lai
Harry và Ron gặp lại Hermione trong phòng sinh hoạt chung trước bữa điểm tâm vào sáng hôm sau. Hy vọng kiếm được sự ủng hộ cho giả thuyết của
mình, Harry kể ngay cho Hermione những gìnó đã nghe lóm Malfoy nói trên tàu tốc hành Hogwarts.
Nhưng trước khi Hermione có thể nói điều gìthìRon đã xen vào: “Chẳng qua nó chỉ khoe mẽ với Parkinson thôi, đúng không?”
“Ơ,” Hermione nói không chắc chắn lắm, “mình không biết… Có vẻ như Malfoy tự làm cho mình có vẻ quan trọng hơn chính thực chất của nó… nhưng xạo
chuyện đó thìhơi quá…”
“Đúng vậy,” Harry nói, nhưng nó cũng chẳng thể triển khai ý kiến xa hơn được, vì có quá nhiều người đang cố tình nghe ngóng nó chuyện trò, ấy là không
kể đến cái sự cứ nhìn nó chòng chọc và che miệng thìthầm bàn tán về nó.
“Chỉ chỏ là thô lỗ,” Ron nạt một thằng bé đặc biệt xinh xắn của năm thứ nhất khi tụi nó nối đuôi nhau để chui qua cái lỗ chân dung. Thằng bé vừa che
miệng rù rìcái gìđó với đứa bạn lập tức đỏ mặt tía tai cà té lọt qua khỏi cái lỗ trong cơn hoảng hốt.
Ron khúc khích cười. “Mình khoái làm đàn anh năm thứ sau quá. Và tụi mình sẽ có nhiều thì giờ rảnh hơn trong năm nay. Nguyên một lô tiết học trống để
mình có thể chỉ cần ngồi đây mà xả hơi.”
“Chúng ta sẽ cần thời gian đó để nghiên cứu, Ron à!” Hermione nói, khi cả hai bắt đầu đi xuống hành lang.
“Ừ, nhưng không phải bữa nay,” Ron nói. “Mình tính bữa nay là một này nghỉ thẳng cẳng.”
“Khoan đã!” Hermione nói, vừa vung ra một cánh tay để chặn lại một học sinh năm thứ tư đang đi ngang qua, cậu này đang cố chen lấn Hermione để
vượt lên trước, trong tay cầm chắc một cái đĩa màu xanh vỏ chanh.
“Dĩa Quăng răng nanh bị cấm, đưa nó đây.” Hermione nghiêm nghị nói với thằng nhỏ. Thằng nhỏ cáu kỉnh giao nộp cái dĩa quăng đang gầm gừ, rồi lách
qua khỏi cánh tay Hermione, và nhập vào đám bạn của mình. Ron đợi nó đi khuất rồi mới giật mạnh cái dĩa ra khỏi tay Hermione.
“Xuất sắc, lâu nay mình vẫn muốn có một cái như vầy.”
Sự phản đối của Hermione bị nhấn chìm trong tiếng cười khúc khích rất to; Hiển nhiên Lavender Brown thấy lời bình của Ron rất ư thú vị. Cô ả tiếp tục
cười khi đã đi ngang qua tụi nó, vừa liếc nhìn lại Ron. Ron trông có vẻ cũng hơi hài lòng với chính mình.
Tấm trần của Đại sảnh đường màu xanh trong êm ả và được điểm xuyết bằng những dải mây mỏng manh lãng đãng, tựa như những ô vuông trời được
nhìn qua cửa sổ có chấn song. Trong khi tụi nó ăn cháo với trứng và thịt muối, Harry và Ron kể cho Hermione nghe về cuộc nói chuyện khiến tụi nó bối rối
vào đêm hôm trước với bác Hag.
“Nhưng bác ấy đâu có thể cứ mong tụi mình tiếp tục học môn Chăm sóc sinh vật huyền bí được!” Hermione nói, có vẻ khổ tâm. “Mình muốn nói là, có hồi
nào… đứa nào trong tụi minhg tỏ ra… mấy bồ biết đó… nhiệt tình đâu?”
“Ừ mà, vậy đó,” Ron nói, vừa nuốt nguyên một cái trứng chiên. “Tụi mình là những đứa đã gắng hết sức trong lớp tại vì tụi mình yêu mến bác Hag. Nhưng
bác lại tưởng là tụi mình khoái cái môn nhảm nhíđó. Mấy bồ có nghĩlà có ai lại đi học môn đó ở cấp Pháp thuật tận sức không?”
Cả Harry lẫn Hermione đều không trả lời; Câu trả lời chẳng cần thiết. Tụi nó biết quá rõ rằng không ai vào năm thứ sáu lại muốn tiếp tục môn Chăm sóc
sinh vật huyền bí. Tụi nó tránh ánh mắt của bác Hag và chỉ đáp lại cái vẫy tay chào nồng nhiệt của bác bằng một nửa nhiệt tình khi bác rời bàn ăn giáo
ban khoảng mười phút sau đó.
Sau khi ăn xong, tụi nó vẫn ở lại trong lâu đài, chờ giáo sư McGonagall đi xuống từ bàn ăn của giáo ban. Việc phân phát thời khóa biểu năm nay hơi
phức tạp hơn mọi năm, bởi vìgiáo sư McGonagall trước tiên cần xác định rằng mọi người đã đạt được thứ hạng cần thiết trong kỳ thi Pháp thuật thường
đẳng để tiếp tục theo học những môn họ chọn để thi Pháp thuật Tận sức.
Hermione nhanh chóng được thông qua với các môn Bùa phép, Phòng chống nghệ thuật hắc ám, Biến hình, Dược thảo học, Số học, Cổ ngữ Runes, và
Độc dược, và phóng vọt đi đến tiết đầu tiên của lớp Runes Cổ đại mà không cần tốn thêm công sức gìnữa. Neville mất nhiều thìgiờ hơn để sắp xếp đâu
ra đó; gương mặt tròn quay của nó hết sức căng thẳng khi giáo sư McGonagall ngó xuống hồ sơ của nó và tham khảo kết quả Pháp thuật thường đẳng.
“Dược thảo học, tốt,” bà nói. “Giáo sư Sprout sẽ vui mừng gặp lại trò với điểm ‘Xuất sắc’ trong chứng chỉ Pháp thuật thường đẳng. Và trò đạt yêu cầu
theo học tiếp lớp Phòng chống nghệ thuật hắc ám với điểm ‘Vượt quá kỳ vọng’. Nhưng có vấn đề ở môn Biến hình. Ta rất tiếc, Longbottom à, nhưng
điểm ‘Chấp nhận được’ thực ra không đủ để tiếp tục học lớp này ở bậc Pháp thuật Tận sức. Ta chỉ sợ là con không thể theo kịp bài tập trong khóa học.”
Neville cúi gục đầu. Giáo sư McGonagall ngó nó qua cặp kính vuông của bà.
“Nhưng tại sao con muốn tiếp tục học môn Biến hình? Ta chưa bao giờ có cảm tưởng là con đặc biệt say mê môn học này.”
Neville tỏ vẻ khổ sở và lẩm bẩm cái gìđó rằng, “Bà nội muốn.”
“Hừm,” giáo sư McGonagall khụt khịt mũi. “Đã tới lúc bà nội của trò phải biết tự hào về đứa cháu mà bà ấy có, chứ không phải đứa cháu mà bà ấy nghĩ
là bà ấy nên có – đặc biệt là sau những gìxảy ra ở Bộ.”
Neville đỏ mặt và chớp chớp mắt bối rối; trước đây giáo sư McGonagall chưa bao giờ thốt lời khen ngợi nào đối với nó.
“Ta rất tiếc, Longbottom à, nhưng ta không thể để cho trò vào học lớp Pháp thuật Tận sức của ta. Tuy nhiên, ta thấy trò có điểm ‘Vượt quá kỳ vọng’ ở môn
Bùa phép – tại sao trò không thử học lớp Bùa phép cấp Tận sức?”
“Bà nội con cho rằng Bùa phép là một sự lựa chọn dễ dãi,” Neville lại nói línhí.
“Hãy học môn Bùa phép,” giáo sư McGonagall nói, “và ta sẽ gởi cho chị Augusta một dòng nhắc chị rằng không thể chỉ vì chị thi rớt môn Bùa phép trong
kỳ thi Pháp thuật thường đẳng mà môn học ấy trở nên không đáng học một cách không cần thiết.”
Nhẹ mỉm cười với nét mặt rạng rỡ lên trong vẻ bán tín bán nghi của Neville, giáo sư McGonagall gõ nhẹ đầu cây đũa phép của bà lên cái thời khóa biểu
còn để trống và đưa cho Neville, bây giờ cái thời khóa biểu đã đầy đủ chi tiết về các lớp học.
Giáo sư McGonagall tiếp đến làm việc với Parvati Patil, cô bé này trước tiên hỏi ngay là thầy Firenze, chàng nhân mã đẹp trai, có còn dạy môn Chiêm
tinh không.
“Thầy ấy và giáo sư Trelawney cùng chia lớp dạy trong năm học này,” giáo sư McGonagall nói, trong giọng nói của bà có ẩn ý không tán thành việc đó; ai
cũng biết là bà coi thường môn Chiêm tinh. “Năm thứ sáu sẽ do giáo sư Trelawney dạy.”
Năm phút sau đó Parvati khởi hành đến lớp Chiêm tinh với vẻ hơi bị cụt hứng.
“Vậy là Potter, Potter...” giáo sư McGonagall lại nói, vừa tham khảo những ghi chép trong sổ tay của bà rồi quay qua nói với Harry. “Bùa phép, Phòng
chống nghệ thuật hắc ám, Dược thảo học, Biến hình… tất cả đều tốt. Ta phải nói, ta hài lòng với điểm Biến hình của trò, Potter à, rất hài lòng. Nhưng tại
sao trò không xin tiếp tục học môn Độc dược? Ta tưởng tham vọng của trò là trở thành một Tsg cơ mà?”
“Thưa giáo sư, đúng vậy. Nhưng cô đã nói với con là cần phải có điểm ‘Xuất sắc’ trong kỳ thi Pháp thuật thường đẳng.”
“Và trò cần điểm đó khi giáo sư Snape dạy bộ môn đó. Tuy nhiên, giáo sư Slughorn thì hoàn toàn vui vẻ chấp nhận học sinh vào lớp độc dược với điểm
‘Vượt quá kỳ vọng’ trong kỳ thi Pháp thuật thường đẳng. Vậy trò có muốn tiếp tục học môn độc dược không?”
“Dạ có,” Harry nói, “nhưng con đã không mua sách hay nguyên liệu hay bất cứ cái gì…”
“Ta giám chắc là giáo sư Slughorn có thể cho trò mượn một ít,” giáo sư McGonagall nói. “Rất tốt, Potter à, đây là thời khóa biểu của trò. À, nhân tiện, hai
mươi ứng cử viên tràn trề hy vọng đã ghi danh vào đội bóng Quidditch của nhà Gryffindor. Ta sẽ chuyển danh sách cho trò đúng thời hạn để trò có thể lên
lịch tuyển chọn khi nào rảnh rỗi.”
Vài phút sau, Ron cũng được thông qua những môn học tương tự như Harry, và cả hai cùng rời bàn ăn với nhau.
“Coi nè,” Ron khoái chínói, vừa chăm chú xem cái thời khóa biểu của nó, “bây giờ tụi mình có ba tiết trống… và một tiếng trống sau giờ giải lao… và sau
bữa ăn trưa… Xuất sắc.”
Tụi nó trở về phòng sinh hoạt chung trống vắng, ngoại trừ nửa tá học sinh năm thứ bảy, gồm cả Katie Bell, thành viên duy nhất còn sót lại của đội
Quidditch nhà Gryffindor đầu tiên mà Harry gia nhập hồi năm thứ nhất.
“Chị đã nghĩ là em thể nào cũng được cái đó, giỏi lắm,” Katie gọi với qua, chỉ vào cái huy hiệu đội trưởng đeo trên ngực áo Harry. “Nhớ cho chị biết bao
giờ em tuyển quân nhé!”
“Đừng giả nai đi,” Harry nói, “chị đâu cần thi tuyển nữa, em đã xem chị chơi suốt năm năm trời…”
“Em đừng bắt đầu kiểu đó,” Katie nói giọng cảnh cáo. “Bởi vì em biết quá, còn có người giỏi hơn chị rất nhiều. Từ trước tới nay các đội bóng giỏi
thường bị hỏng chỉ vìđội trưởng cứ giữ lại mấy gương mặt cũ, hay đưa bạn bè bồ bịch vô…”
Ron có vẻ hơi khó chịu và bắt đầu chơi với cái dĩa quăng có răng nanh mà Hermione đã tịch thu của một học sinh năm thứ tư. Cái dĩa bay vòng quanh
căn phòng sinh hoạt chung và tìm cách táp cái khăn trải bàn. Crookshanks dõi đôi mắt vàng khè theo cái đĩa và rít lên khi cái đĩa bay đến gần.
Một giờ sau tụi nó bất đắc dĩ rời khỏi căn phòng sinh hoạt chung tràn nắng ấm để đến lớp học Phòng chống nghệ thuật hắc ám ở dưới đó bốn lầu.
Hermione đã đứng sắp hàng đợi bên ngoài, ôm đầy tay những cuốn sách nặng ịch và tỏ vẻ như bị ngược đãi.
“Tụi này bị giao quá nhiều bài tập tiếng Runes,” cô nàng lo lắng nói khi Harry và Ron nhập bọn. “Một bài luận văn dài ba tấc tám, hai bài dịch, và mình
phải đọc hết mấy cuốn này vào thứ tư!”
“Đáng đời!” Ron ngáp.
“Bồ hãy đợi đấy,” cô nàng phẫn uất nói. “Mình cá là Thầy Snape cũng sẽ ra cả đống bài tập.”
Cánh cửa phòng học mở ra trong lúc Hermione đang nói, và Thầy Snape bước ra hành lang, gương mặt tai tái của thầy vẫn như từ trước đến giờ được
khuôn trong hai bức rèm tóc đen nhờn bóng vuốt tém qua hai bên má. Đám học sinh đang xếp hàng lập tức im lặng như tờ.
“Vào lớp,” thầy nói.
Harry nhìn quanh khi tụi nó bước vào phòng. Thầy Snape đã áp đặt cá tính thầy lên căn phòng; nó trở nên âm u hơn bình thường, vìcác tấm màn đã được
kéo lại để che cửa sổ, căn phòng chỉ được thắp sáng bằng ánh nến. Mấy bức tranh mới trang trí trên tường, nhiều bức vẻ cảnh người ta tỏ ra đau đớn,
bày ra trắng trợn những vết thương ghê rợn và những phần cơ thể bị biến dạng một cách kỳ lạ. Không đứa học trò nào nói gìkhi cả đám ngồi xuống, nhìn
quanh những bức tranh rùng rợn tối tăm.
“Ta chưa yêu cầu các trò lấy sách ra,” Thầy Snape nói, vừa đóng cửa và di chuyển đến sau bàn giáo viên, đứng quay mặt về phía lớp học; Hermione vội
vả nhét quyển Đối diện với Vô diện trở vô túi xách và nhét xuống gầm ghế. “Ta muốn nói đôi lời với các trò, và ta muốn các trò hết sức chăm chú lắng
nghe.”
Đôi mắt đen của thầy đảo qua những gương mặt ngước lên của lũ học sinh, nấn ná lâu hơn chừng một phần giây trên gương mặt Harry so với mặt của
những đứa khác.
“Tính đến nay các trò đã có năm giáo viên dạy bộ môn này, ta tin vậy.”
Ông tin vậy như thể ông không thấy tất cả họ đều đến rồi đi, ông Snape ạ, hy vọng ông sẽ là kẻ tiếp theo. Harry nghĩmột cách hằn học.
“Lẽ đương nhiên, tất cả những giáo sư này đều có phương pháp và ưu thế riêng. Trong bối cảnh rối rắm ấy ta sẽ rất ngạc nhiên nếu tất cả các trò xoay
sở theo kịp bài vở lớp Pháp thuật Tận sức, đều là những bào vở cao cấp.”
Thầy Snape bắt đầu đi quanh phòng học, nói bằng một giọng nhỏ hơn; cả lớp phải ngỏng cổ lên để theo ông.
“Nghệ thuật hắc ám,” Thầy Snape nói, “là phong phú, đa dạng, luôn luôn biến đổi và bất diệt. Chiến đấu với Nghệ thuật hắc ám cũng giống như chiến đấu
với một quái vật nhiều đầu, mà mỗi lần trên một cái cổ bị đứt đầu sẽ mọc lên ngay một cái đầu khác, dữ dội hơn, khôn ngoan hơn cái đầu trước. Các trò
đang chiến đấu với cái đó, cái bất định, biến hóa, không thể tiêu diệt được.”
Harry ngó chằm chằm Thầy Snape. Chắc chắn việc coi Nghệ thuật hắc ám như một kẻ thù nguy hiểm là một chuyện, còn nói về Nghệ thuật hắc ám với
một giọng trìu mến yêu thương, như Thầy Snape đang làm đây, lại là một chuyện khác.
“Sự phòng chống của các trò,” Thầy Snape nói tiếp, giọng lớn hơn một chút, “vì vậy phải linh hoạt và sáng tạo như chính cái nghệ thuật mà các trò muốn
tiêu diệt. Những bức tranh này” – thầy chỉ vài bức tranh khi bước ngang qua - “trình bày khá đúng về những gìxảy ra cho những ai bị trúng phải, thídụ, Lời
nguyền Hành hạ,” (thầy vẫy một bàn tay về phía một phù thủy rõ ràng đang rên xiết trong thống khổ), “cảm nhận Nụ hôn Giám ngục,” (một pháp sư nằm co
quắp, đôi mắt đờ đẫn, lún vô trong tường) “hay khiêu khích phải sự hung hăng của Âm binh,” (một vũng máu trên mặt đất).
“Vậy có ai từng nhìn thấy Âm binh chưa?” Parvati Patil cất lên giọng the thé. “Có đúng là có chúng không, có phải kẻ ấy đang sử dụng chúng không?”
“Chúa tể Hắc ám đã từng sử dụng Âm binh trong quá khứ,” Thầy Snape nói, “có nghĩa là các trò nên khôn ngoan mà nghĩ rằng ông ấy có thể sẽ sử dụng
chúng trở lại. Bây giờ…”
Thầy lại bắt đầu đi vòng qua phía bên kia phòng học để trở lại ban giáo viên, và một lần nữa, lũ học trò ngó theo thầy bước đi, vạt áo choàng phồng lên
phía sau lưng.
“…ta tin các trò là những người hoàn toàn mới mẻ trong việc sử dụng thần chú không lời. Vậy thuận lợi của thần chú không lời là gì?”
Bàn tay của Hermione giơ thẳng lên không trung. Thầy Snape thủng thẳng nhìn quanh xem còn ai nữa giơ tay, để biết chắc là chẳng còn sự lựa chọn nào
khác, trước khi sẵng giọng bảo:
“Tốt lắm… Cô Granger?”
“Đối thủ của ta không có được sự báo trước về loại Pháp thuật mà ta sắp thực hiện,” Hermione nói, “điều này cho ta một phần giây ưu thế.”
“Một câu trả lời hầu như sao y từng lời trong cuốn sách Thần chú Căn bản, lớp 6,” Thầy Snape nói chẳng nương nhẹ chút nào (ở góc phòng, Malfoy cười
khẩy), “nhưng đúng về căn bản. Phải, những pháp sư tiên tiến trong việc sử dụng pháp thuật mà không cần hô to thần chú đạt tới một trình độ đáng ngạc
nhiên trong cách ếm bùa của họ. Không phải tất cả các pháp sư đều có thể làm được điều này, đương nhiên; Đó là vấn đề tập trung và sức mạnh trí tuệ
mà một số…” ánh mắt lườm lườm của thầy lởn vởn một cách hiểm độc trên gương mặt Harry một lần nữa, “…một số người không có.”
Harry biết Thầy Snape đang nghĩ đến những buổi học Bế Quan bí thuật thảm hại năm ngoái. Nó không chịu tránh cái nhìn, mà trừng mắt chiếu tướng lại
Thầy Snape cho đến khi Thầy Snape quay mặt đi.
“Bây giờ các trò chia ra thành từng cặp,” Thầy Snape tiếp tục. “Mỗi người cố gắng ếm bùa người kia mà không nói. Người kia sẽ cố gắng hóa giải bùa
phép cũng trong im lặng. Thực hiện.”
Mặc dù Thầy Snape không biết chuyện Harry đã từng dạy cho một nửa lớp (tất cả những ai là thành viên của ĐQD) cách thức thực hiện một Bùa chắn
vào năm ngoái. Tuy nhiên, không ai trong số chúng từng ếm bùa mà không phát ra lời. Một số đáng kể vụ gian lận xảy ra; nhiều người chỉ thì thầm câu
thần chú thay vìhô to lên.
Thành đặc tính rồi, chỉ mười phút sau khi thực tập, Hermione đã tìm được cách hóa giải Bùa Chân dẻo được Neville ếm lầm rầm trong miệng cô bé mà
không cần thốt ra một lời nào, một kỳ công mà Hermione chắc chắn sẽ được bất cứ một giáo sư công bằng nào thưởng hai mươi điểm cho nhà
Gryffindor, Harry cay đắng nghĩ, nhưng Thầy Snape cứ phớt lờ đi. Thầy lướt ngang qua giữa hai đứa nó trong lúc tụi nó đang thực tập, trông rất giống một
con dơi khổng lồ như từ trước đến giờ, nấn ná xem Harry và Ron vất vả làm bài tập.
Ron, đứa được giao là kẻ ếm bùa Harry, tím bầm cả mặt mũi, môi mím chặt để tự ngăn mình lẩm nhẩm câu thần chú. Harry đã giơ cây đũa phép lên, sốt
ruột để chờ đợi hóa giải một bùa phép không có vẻ gìsẽ xảy ra.
“Thảm quá, Weasley à,” Thầy Snape nói, sau một lúc quan sát. “Đây… để tôi chỉ cho trò…”
Thầy xoay cây đũa phép về phía Harry nhanh đến nỗi Harry phản ứng theo bản năng; bao nhiêu ý tưởng về thần chú không lời bay biến đâu mất, nó hét
lên, “Tự vê!”
Bùa chắn của nó mạnh đến nỗi Thầy Snape bị tống một phát mất thăng bằng văng đụng vô một cái bàn. Cả lớp đều ngoảnh lại và giờ đây chăm chú nhìn
Thầy Snape đứng thẳng dậy, sửa tư thế cho đàng hoàng, quắc mắt lên nói:
“Trò có nhớ là ta bảo trò thực hành bùa phép không lời hay không, hả Potter?”
“Có,” Harry cứng cỏi đáp.
“Thưa ngài, có.”
“Không cần gọi tôi là ‘ngài’, thưa giáo sư.” Mấy lời này tuột khỏi miệng Harry trước khi nó ý thức là mình đang nói gì. Nhiều đứa há hốc mồm kinh ngạc,
trong đó có cả Hermione. Tuy nhiên, sau lưng Thầy Snape, Ron, Dean và Seamus nhe răng cười tán thưởng.
“Cấm túc, đêm thứ bảy, trong văn phòng ta,” Thầy Snape nói. “Ta không chấp nhận thói táo tợn của bất cứ ai, Potter à… cho dù đó là “Kẻ được chọn”.”
Một lát sau, khi đã được an toàn vào giờ ra chơi, Ron cười hể hả, “Hết sảy, Harry!”
“Thực tình là bồ không nên nói như vậy,” Hermione nói, cau mày với Ron. “Mắc cái gìmà bồ làm vậy hả?”
“Ổng tính ếm mình, nếu bồ đã không để ý thì mình nói cho mà biết!” Harry hầm hè nói. “Mình đã bị quá đủ trong những buổi học Bế Quan bí thuật rồi! Tại
sao ổng không dùng một con chuột bạch chẳng hạn? Mà cụ Dumbledore đang chơi trò gì không biết mà cứ để cho ông ta dạy môn Phòng chống nghệ
thuật hắc ám chứ? Mấy bồ có nghe ổng nói về Nghệ thuật hắc ám không? Ổng khoái nó. Tất cả cái mớ bất đinh, bất diệt…”
“Thôi,” Hermione nói, “Mình nghĩthầy cũng hơi giống bồ một tí.”
“Giống mình?”
“Ừ, khi bồ nói với tụi này việc đương đầu với Voldermort nó như thế nào. Bồ đã nói rằng không thể chỉ dùng một mớ bùa mê ngải lú, bồ nói phải là chính
mình với bộ óc của mình và gan dạ của mình – Đó, chẳng phải là những gì Thầy Snape nói sao? Rằng chính lòng can đảm và sự nhanh trí mwois thực sự
là cốt lõi.”
Harry nguôi giận đột ngột khi thấy Hermione đã coi lời nói của nó đáng học thuộc lòng như chữ nghĩa trong sách Thần chú Căn bản, nó không thèm cãi lại
nữa.
“Harry! Ê, Harry!”
Harry quay lại ngó; Jack Sloper, một trong những tấn thủ của đội bóng Quidditch nhà Gryffindor năm ngoái, đang vội vã chạy về phía nó, tay cầm một cuộn
giấy da.
“Gởi bồ,” Sloper hổn hển nói. “Nghe nhé, mình nghe nói bồ là đội trưởng mới. Chừng nào bồ cho chơi thử để tuyển cầu thủ?”
“Mình cũng chưa biết,” Harry nói, nghĩthầm là Sloper phải may mắn lắm mwois hòng được tuyển lại vô đội. “Mình sẽ cho bồ biết.”
“Ừ, phải. Mình hy vọng là sẽ diễn ra vào cuối tuần này…”
Nhưng Harry không còn lắng nghe nữa; nó vừa nhận ra nét chữ mảnh xiên xiên trên mảnh giấy da. Bỏ mặc Sloper đang nói giữa chừng câu, Harry vội vã
đi cùng Ron và Hermione, vừa đi vừa mở cuộn giấy da ra lại.
Harry thân mến,
Thầy muốn bắt đầu những buổi học riêng cho con vào thứ bảy này. Con vui lòng đến văn phòng của thầy vào 8 giờ tối. Hy vọng con vui thích ngày đầu tiên
trở lại trường.
Thân ái,
Albus Dumbledore
Tái bút: thầy khoái Nước chua.
“Thầy khoái Nước chua à?” Ron nói, nó đã đọc ké bức thư qua vai của Harry và coi bộ không hiểu.
“Đó là mật khẩu để vượt qua con thú đá canh gác bên ngoài văn phòng của thầy.” Harry nói nhỏ. “Ha! Thầy Snape sẽ chẳng vui nổi… Như vậy mình sẽ
không thể đến buổi cấm túc!”
Harry, Ron và Hermione bỏ cả buổi ra chơi để suy đoán xem cụ Dumbledore sẽ dạy Harry môn gì. Ron nghĩ rất có thể là những bùa phép pháp thuật kỳ lạ
mà bọn Tử thần thực tử không hề biết. Hermione nói những chuyện như vậy không hợp pháp, và cô bé nghĩ rất có thể cụ Dumbledore muốn dạy Harry
pháp thuật phòng vệ cao cấp. Sau giờ ra chơi, Hermione đi vô lớp Số học trong khi Harry và Ron trở lại phòng sinh hoạt chung, ở đó tụi nó đau khổ làm
bài tập của Thầy Snape. Bài tập này hóa ra phức tạp đến nỗi tụi nó vẫn chưa làm xong khi Hermione quay trở lại nhập bọn trong tiết trống sau buổi ăn
trưa, (mặc dù vậy cô bé đã khiến tiến trình được tăng tốc đáng kể). Tụi nó chỉ làm xong bài khi chuông reo báo buổi học hai tiết Độc dược bắt đầu, và cả
bọn giẫm trên lối đi quen thuộc xuống phòng học dưới tầng hầm, nơi vốn thuộc về Thầy Snape khá lâu.
Khi đi đến hành lang, tụi nó thấy chỉ có khoảng một tá học sinh tiếp tục môn độc dược ở cấp Tận sức. Crabbe và Goyle rõ ràng là đã không đạt được
điểm hạng cần thiết trong kỳ thi Pháp thuật thường đẳng, nhưng có bốn học sinh nhà Slytherin vượt qua được, gồm cả Malfoy. Bốn đứa của nhà
Ravenclaw cũng có mặt ở đó, một đứa bên nhà Hufflepuff là Ernie Macmillan, Harry thích Ernie bất chấp bộ dạng khoe mẽ của chàng ta.
“Harry,” Ernie nói với vẻ trang trọng rất kịch, và đưa tay ra khi Harry đến gần, “chẳng có được cơ hội nói chuyện trong lớp Phòng chống nghệ thuật hắc
ám hồi sáng này. Buổi học hay, theo tôi nghĩ, nhưng bùa chắn là món cũ rồi, dĩ nhiên là đối với bọn lính già ĐQD như chúng ta… và các bạn khỏe chứ,
Ron… Hermione?”
Tụi nó chưa kịp nói tiếng “khỏe” thì cánh cửa phòng học ở tầng hầm đã mở ra, và cái bụng bự của Thầy Slughorn đi trước, dẫn thầy ra cửa. Khi mọi
người đã lần lượt vô phòng, bộ ria hải mã vĩ đại của thầy bèn cong vảnh lên bên trên cái miệng cười toe toét, và thầy chào Harry và Zabini với sự nồng
nhiệt đặc biệt.
Tầng hầm đã tràn đầy khí và mùi kỳ dị, hiếm khi nào như vậy. Harry, Ron, và Hermione hít hửi một cách thích thú khi tụi nó đi ngang qua một cái vạc tổ
chảng đang sôi ục ục. Bốn đứa nhà Slytherin chọn một cái bàn ngồi chung với nhau, bốn đứa nhà Ravenclaw cũng vậy. Thành ra còn lại Harry, Ron, và
Hermione ngồi chung một bàn với Ernie. Tụi nó chọn cái bàn gần cái vạc màu vàng kim nhất. Cái vạc ấy đang tỏa ra một trong những mùi hương quyến
rũ nhất mà Harry từng được hít vào: chẳng biết bằng cách nào mùi hương ấy gợi nó nhớ đến bánh trái cây tẩm mật, mùi gỗ của cán chổi bay, và mùi hoa
gì đó mà nó nghĩ có thể nó đã ngửi được khi ở trang trại Hang Sóc. Nó nhận thấy nó đang hít thở từ từ và thật sâu làn khói của chất thuốc đó dường như
đang làm nó ngất ngây như say rượu. Khắp người nó tràn ngập cảm giác thỏa thuê; nó nhe răng cười với Ron, Ron cũng lờ đờ cười đáp lại nó.
“Xong rồi, xong rồi, xong rồi,” Thầy Slughorn nói, hình dáng đồ sộ của thầy dường như run rẩy qua những làn khílung linh. “các trò lấy cân ra, và bộ đồ pha
chế thuốc, đừng quên cuốn Chế tạo thuốc cao cấp…”
“Thưa thầy?” Harry giơ tay lên nói.
“Harry, gìđó con trai ta?”
“Con không có sách và cân hay bất cứ thứ gìcả - Ron cũng không – Chúng con không dè chúng con đủ điểm để lên cấp Tận sức, thầy hiểu…”
“A, phải rồi, giáo sư McGonagall đã lưu ý… đừng lo, con trai ta, đừng lo gì cả. Hôm nay con có thể dùng nguyên vật liệu pha chế lấy từ tủ dự trữ, và ta
chắc là có thể cho các con mượn vài cái cân, và chúng ta có một cái kho nhỏ những sách cũ ở đây. Các con có thể mượn xài đỡ cho đến khi các con viết
thư đặt mua sách ở tiệm Flourish và Blotts…”
Thầy Slughorn rảo bước tới một cái tủ đặt ở góc phòng, sau một lúc lục lọi, thầy lại hiện ra với hai bản Chế tạo thuốc cao cấp của Libatius Borage trông
hết sức te tua, thầy đưa cho Harry và Ron hai cuốn sách cùng với hai cái cân cũ xì.
“Bây giờ thì,” Thầy Slughorn nói, trở lại chỗ đứng trước lớp và hít hơi vào bộ ngực vốn đã phồng to rồi, đến nỗi mấy cái nút áo chẽn của thầy suýt đứt tung
ra, “thầy đã chuẩn bị vài món thuốc cho các con nhìn qua một cái, cho vui vậy mà. Những thứ này là những thứ mà các con nên biết chế tạo sau khi hoàn
tất bậc Tận sức. Các con ắt có nghe nói đến chúng.Ai có thể cho thầy biết cái này là cái gì.”
Thầy chỉ vào cái vạc gần bàn của đám Slytherin nhất. Harry hơi nhóng người lên một chút để xem cái chất lỏng trông giống như nước lã đun sôi bên trong
vạc.
Bàn tay vốn thực hành quá ư thường xuyên của Hermione giơ lên không khítrước bất kỳ ai khác; Thầy Slughorn chỉ vô cô bé.
“Đó là Chân dược, một chất độc không màu, không mùi có thể buộc người uống nói ra sự thật,” Hermione đáp.
“Giỏi lắm, giỏi lắm!” Thầy Slughorn vui vẻ nói. “Bây giờ,” thầy tiếp tục, chỉ vào cái vạc gần bàn Ravenclaw nhất, “cái món này đây khá nổi tiếng… cũng
được đề cao trong vài tờ rơi của Bộ dạo gần đây… Ai có thể…?”
Bàn tay Hermione lại một lần nữa giơ lên nhanh nhất.
“Thưa thầy, đó là Đa quả dịch,” cô bé nói.
Harry cũng đã nhận ra cái chất giống như bùn đang sủi tăm từ từ trong cái vạc thứ hai, nhưng nó không phật ý cái chuyện Hermione giành hết điểm trả lời
câu hỏi; nói cho cùng, cô nàng là người đã thành công trong việc chế tạo ra món thuốc đó vào năm thầy Snape hai.
“Xuất sắc! Xuất sắc! Bây giờ, đến món này đây… được, nói đi con.” Thầy Slughorn, lúc này trông có vẻ hơi sửng sốt khi thấy bàn tay của Hermione lại
một lần nữa vọt lên không trung.
“Đó là tình dược!”
“Đúng là nó. Nếu hỏi nữa thìcó vẻ ngu thiệt,” Thầy Slughorn nói, tỏ ra có ấn tượng mãnh liệt, “nhưng thầy chắc là con có biết nó có tác dụng gì?”
“Đó là thứ thuốc tình yêu mạnh nhất trên đời!” Hermione nói.
“Rất đúng! Ta đoán rằng con đã nhận ra nó nhờ vẻ lấp lánh ngọc trai đặc biệt của nó?”
“Và làn hơi bốc lên theo hình xoắn trôn ốc đặc thù,” Hermione hăng hái nói, “và nó được coi là có mùi khác nhau đối với mỗi người tùy theo cái gìhấp dẫn
chúng ta, và con thìngửi thấy mùi cỏ mới cắt và mùi giấy da mới và…”
Nhưng cô bé hơi ửng hồng rồi bỏ lửng câu nói.
“Cho thầy biết tên con được không, con thân mến?” Thầy Slughorn hỏi, phớt lờ vẻ thẹn thùng của Hermione.
“Thưa thầy, Hermione Granger.”
“Granger? Granger? Có thể con có bà con họ hàng gìvới Hecấm túcor Dagworth- Granger, người đã sáng lập Hội Dược sư phi thường nhất?”
“Dạ không, thưa thầy. Con không nghĩvậy. Con sanh ra là Muggle, thầy biết đấy.”
Harry thấy Malfoy chồm tới gần Nott và thì thầm cái gì đó; cả hai khúc khích cười, nhưng Thầy Slughorn chẳng tỏ vẻ mất hứng; ngược lại, thầy cười tươi
và nhìn từ Hermione sang Harry, người ngồi bên cạnh cô bé.
“À há! ‘Một trong những người bạn tốt nhất của con có gốc Muggle, và bạn ấy là học sinh giỏi nhất lứa tụi con!’ Thầy đoán rằng đây chính là người bạn
mà con nói đến, phải không Harry?”
“Thưa thầy, phải ạ,” Harry nói.
“Hay, hay, hãy nhận hai mươi điểm cho nhà Gryffindor, cô Granger nhé,” Thầy Slughorn ân cần nói.
Malfoy trông có vẻ hơi giống như cái lần Hermione thoi một đấm vô mặt nó. Hermione quay qua Harry với vẻ mặt rạng rỡ và thì thầm, “Có thật là bồ đã
nói với thầy rằng mình là học sinh giỏi nhất của lứa tụi mình không? Ôi, Harry!”
“Chà, có gì mà ấn tượng dữ dội về việc đó chứ?” Ron nói nhỏ, vì lý do gì đó anh chàng này hơi có vẻ khó chịu. “Bồ là học sinh giỏi nhất lứa tụi mình –
mình cũng sẽ nói với thầy như vậy nếu thầy hỏi mình!”
Hermione mỉm cười nhưng làm một cử chỉ “suỵt”, để tụi nó có thể nghe điều Thầy Slughorn đang nói. Ron có vẻ hơi cáu kỉnh.
“Tình dược không thực sự tạo ra tình yêu, dĩ nhiên. Không thể nào chế tạo hay giả tạo tình yêu. Không, thuốc này sẽ chỉ gây ra sự mê đắm hay ám ảnh
mãnh liệt. Nó có lẽ là thứ thuốc mạnh nhất và nguy hiểm nhất trong phòng này… Ừ, đúng vậy,” thầy nói, gật đầu một cách nghiêm trang về phía Malfoy và
Nott, cả hai đứa này đang khủng khỉnh cười với vẻ ngờ vực. “Khi các con từng trải đời nhiều như thầy rồi, các con sẽ không đánh giá thấp sức mạnh của
một tình yêu ám ảnh…”
“Và bây giờ,” Thầy Slughorn nói, “đã đến lúc chúng ta bắt đầu công việc.”
“Thưa thầy, thầy chưa nói cho chúng con biết cái gì trong cái vạc này,” Ernie Macmillan nói, vừa chỉ vào một cái vạc nhỏ màu đen đặt trên cái bàn của
Thầy Slughorn. Cái chất thuốc trong vạc đang bắn tung tóe ra chung quanh một cách vui mắt; nó có màu của kim loại vàng nấu chảy ra, và những giọt to
nhảy lăng quăng như cá vàng trên bề mặt, mặc dù không một giọt nào rơi ra ngoài vạc.
“À há,” Thầy Slughorn lại nói. Harry chắc chắn là Thầy Slughorn không hề quên món thuốc đó chút nào, nhưng thầy đã đợi cho có người hỏi mới nói để
đạt tới hiệu quả gây xúc động mạnh. “Ừ. Món đó. Chà, cái món đó, thưa quí cô và quí cậu, là món độc dược nho nhỏ đáng tò mò nhất có tên là Phúc lạc
dược. Thầy cá là...” thầy quay lại, mỉm cười, nhìn Hermione, cô nàng vừa để bật ra một tiếng kêu ngạc nhiên, “...con biết Phúc lạc dược có tác dụng gì
chứ, Granger?”
“Đó là một chất lỏng may mắn,” Hermione xúc động nói. “Nó làm cho người ta may mắn!”
Cả lớp dường như ngồi thẳng lưng hơn một tí. Bây giờ tất cả những gì thuộc về Malfoy mà Harry có thể nhìn thấy là cái chẩm đầu bóng mượt tóc của nó,
bởi vìcuối cùng nó đã phải dành nguyên vẹn sự chú ý cho Thầy Slughorn.
“Rất đúng, được thêm mười điểm nữa cho nhà Gryffindor. Đúng vậy, nó là một độc dược be bé tức cười, Phúc lạc dược,” Thầy Slughorn nói. “Đòi hỏi
hết sức khéo léo trong bào chế, và nếu dùng tầm bậy thìthiệt là tai họa. Tuy nhiên, nếu được bào chế đúng đắn, như món này ở đây, các con sẽ nhận thấy
mọi nỗ lực của mình đều có chiều hướng thành công... ít nhất cho đến khi tác dụng của thuốc tan đi.”
“Vậy tại sao không uống nó hoài hoài, thưa thầy?” Terry Boot háo hức hỏi.
“Bởi vì nếu uống quá liều, nó sẽ gây trạng thái chóng mặt, bồn chồn bất cẩn, và cả tin một cách nguy hiểm,” Thầy Slughorn nói. “Bổ quá hóa độc, con biết
đấy… cực kỳ độc khi dùng số lượng lớn. Nhưng dùng từng tíchút và chỉ thỉnh thoảng thôi thì…”
“Thưa thầy, thầy có bao giờ dùng không ạ? ” Michael Corner hỏi với vẻ vô cùng quan tâm.
“Hai lần trong đời thầy,” Thầy Slughorn nói. “Một lần khi thầy hai mươi bốn tuổi, một lần khi thầy năm mươi bảy tuổi. Hai muỗng canh uống vào bữa điểm
tâm. Hai ngày tuyệt vời.”
Thầy đăm đăm nhìn về cõi xa xôi nào đó mơ mộng. ầy có đóng kịch hay không, Harry nghĩ, nhưng quả là tác dụng tuyệt vời.
“Và đó,” Thầy Slughorn lại nói, hiển nhiên là đã trở lại mặt đất, “là cái mà thầy sẽ tặng như một phần thưởng cho buổi học này.”
Cả lớp im phăng phắc đến nỗi mỗi tiếng sủi bọt hay tiếng róc rách của các vạc thuốc chung quanh dường như được phóng đại lên gấp mười lần.
“Một chai nhỏ xíu Phúc lạc dược,” Thầy Slughorn nói, lấy từ trong túi ra một cái lọ thủy tinh tí hon có đóng nút bần trong miệng chai và giơ lên cho mọi
người cùng xem. “Đủ để may mắn trong mười hai tiếng đồng hồ. Từ sáng sớm đến khi trời tối, các con sẽ may mắn trong mọi cố gắng.”
“Bây giờ, thầy phải cho con lời khuyên là Phúc lạc dược là một chất bị cấm trong các cuộc thi đấu có tổ chức... những trận đấu thể thao chẳng hạn,
những kỳ thi, hay những cuộc bầu cử. Như thế người giành được cái lọ be bé này sẽ chỉ dùng nó trong một ngày bình thường mà thôi... và chiêm nghiệm
xem một ngày bình thường trở nên khác thường như thế nào!”
“Vậy thì,” Thầy Slughorn nói, thình lình nhanh nhảu hẳn lên, “làm thế nào các con giành được phần thưởng kỳ diệu này? À, bằng cách lật đến trang mười
hai của cuốn Bào chế thuốc cao cấp. Chúng ta hãy còn hơn một tiếng đồng hồ một tí, vừa đủ thời gian để các con cố gắng một cách đúng đắn thử chế
Liều thuốc của Tử thần sống. Thầy biết thuốc này hơi phức tạp hơn một tíso với những thứ các con thử chế trước đây, và thầy cũng không kỳ vọng bất cứ
ai chế được một liều thuốc hoàn hảo. Tuy nhiên, người làm được tốt nhất sẽ giành được giải thưởng là chú bé May mắn này đây. Bắt đầu đi!”
Tiếng rào rào nổi lên khi mọi người kéo cái vạc về phía mình, và một số tiếng lanh canh vang lên khi tụi nó bắt đầu chất trọng lượng lên mấy cái cân,
nhưng chẳng ai nói năng gì cả. Sự tập trung trong phòng gần như có thể sờ vào được. Harry nhìn thấy Malfoy nóng nảy lật khắp các trang sách của cuốn
Bào chế thuốc cao cấp, không có gì rõ ràng hơn cái sự Malfoy thực sự muốn có một ngày may mắn. Harry cúi nhanh xuống cuốn sách tả tơi mà Thầy
Slughorn cho nó mượn.
Nó bực mình nhận thấy chủ nhân trước đây của cuốn sách đã ghi nguệch ngoạc khắp các trang sách, đến nỗi lề sách cũng đen thui như phần có chữ in.
Cúi xuống thấp hơn để cố giải đoán công thức pha chế (ngay cả ở phần này, chủ nhân trước đây cũng đã ghi chú và bôi xóa) Harry vội vã đi về phía cái tủ
chứa nguyên liệu để tìm những thứ nó cần. Khi lao trở lại với cái vạc của nó, nó thấy Malfoy đang cố cắt rễ cây Nữ lang nhanh hết cỡ.
Mọi người không ngừng liếc chừng xung quanh coi nhưng người khác trong lớp đang làm gì; đây vừa là thuận lợi vừa là bất lợi đối với môn độc dược,
ấy là khó mà giữ công việc của mình được kín đáo. Trong vòng mười phút, toàn bộ phòng học tràn ngập hơi nước màu xanh lơ. Hermione, dĩ nhiên,
dường như tiến được xa nhất. Thuốc của cô nàng đã tương tự như một “chất lỏng màu nho xanh mịn màng” mà sách cho là đã đạt được tới giai đoan
nửa đường lý tưởng.
Sau khi bằm xong mớ rễ thuốc của mình, Harry lại cúi thấp hơn xuống cuốn sách của nó. Thiệt là điên lên được, khi phải cố và giải đoán những hướng
dẫn bên dưới tất cả những ghi chú ngu ngốc của vị chủ nhân trước đây, gã này vì lý do nào đó đã không đồng ý với yêu cầu xắt nhuyễn đậuAn thần và đã
viết lại hướng dẫn khác.
Nghiền nát bằng sống dao găm. Cho ra nhiều dịch hơn cắt.
“Thưa thầy, con nghĩthầy có biết ông nội con, ông Abraxas Malfoy?”
Harry ngước nhìn lên; Thầy Slughorn đang đi ngang qua bàn của bọn Slytherin.
“Đúng,” Thầy Slughorn nói, không thèm nhìn Malfoy, “thầy rất thương tiếc khi nghe tin ông ấy mất, mặc dù dĩ nhiên điều đó không đến nỗi bất ngờ, bị bện
đậu rồng vào cái tuổi của ông ấy…”
Và thầy bước đi. Harry lại cúi xuống cái vạc của mình, cười khoái trá. Nó có thể nói rằng Malfoy đã mong ước được đối xử như Harry hay Zabini; có thể
Malfoy còn hy vọng được đối xử thiên vị cái kiểu mà nó đã biết đòi hỏi ở Thầy Snape. Có vẻ như Malfoy sẽ không thể trông cậy vào cái gì ngoài tài năng
để giành được giải thưởng cái lọ Phúc lạc dược.
Đậu an thần tỏ ra là một thứ rất khó cắt. Harry quay sang hỏi Hermione.
“Mình có thể mượn con dao bạc của bồ không?”
Cô bé gật đầu một cách sốt ruột, không rời mắt khỏi cái món thuốc của mình, cái món đó đang chuyển sang màu tím thẫm, mặc dù theo như trong sách
thìlúc này nó phải có màu tím hoa cà phơn phớt.
Harry nghiền đậu của nó bằng sống dao găm. Trước sự sửng sốt của nó, mớ đậu lập tức ứa ra nhiều dịch tới nỗi là nó phải ngạc nhiên là mớ đậu khô
quắt queo ấy có thể chứa được từng ấy nước.
Vội vàng múc dịch đậu vô vạc, nó thấy, hết sức kinh ngạc, món thuốc của nó lập tức đổi ra đúng màu tím hoa cà phơn phớt như miêu tả trong sách giáo
khoa.
Nỗi bực mình đối với chủ nhân trước của cuốn sách tan biến ngay tức thì, Harry bây giờ liếc tới dòng hướng dẫn thứ hai. Theo như cuốn sách, nó phải
khuấy ngược chiều kim đồng hồ cho đến khí thuốc trở nên trong như nước. Còn theo lời thêm vào của vị chủ nhân trước, thì cứ sau bảy vòng khuấy
ngược chiều kim đồng hồ, nó phải thêm vào một vòng khuấy theo chiều kim đồng hồ. Liệu vị chủ nhân trước có đúng đến hai lần không?
Harry khuấy ngược chiều kim đồng hồ, nín thở, rồi khuấy xuôi chiều kim đồng hồ một lần. Hiệu quả ngay tức thì. Món thuốc đổi màu hồng nhạt.
“Bồ làm cách nào mà được như vậy?” Hermione vặn hỏi, cô nàng đã đỏ mặt tía tai, và tóc thì càng lúc càng xù ra trong làn nước bốc lên từ cái vạc của
mình; Món thuốc của Hermione vẫn tím ngắt.
“Thêm một vòng khuấy theo chiều kim đồng hồ…”
“Không, không, sách bảo ngược chiều kim đồng hồ mà!” Cô nàng cự nự lại.
Harry nhún vai và tiếp tục việc nó đang làm. Bảy lần khuấy ngược chiều kim đồng hồ, một lần khuấy xuôi chiều kim đồng hồ, nghỉ một chút… Bảy lần
khuấy ngược chiều kim đồng hồ, một lần khuấy xuôi chiều kim đồng hồ…
Bên kia cái bàn, Ron đang lầm rầm nguyền rủa liên tu bất tận; món thuốc của nó trông giống như nước cam thảo. Harry liếc nhìn xung quanh. Trong tầm
nhìn của nó thìkhông có món thuốc nào của đứa nào đổi sang màu lờn lợt như thuốc của nó. Nó cảm thấy phấn chấn, một cảm giác chắc chắn chưa từng
có trước đây trong phòng học ở tầng hầm này.
“Và… Hết giờ!” Thầy Slughorn reo lên. “Vui lòng ngừng khuấy!”
Thầy Slughorn di chuyển chầm chậm giữa các bàn, dòm vô mấy cái vạc. Thầy không nhận xét gì cả, nhưng thỉnh thoảng khuấy món thuốc nào đó một cái,
hay hửi một cái. Cuối cùng thầy đi tới cái bàn mà Harry, Ron, Hermione và Ernie đang ngồi. Thầy mỉm cười tội nghiệp cho cái chất đen xì như nhựa
đường trong cái vạc của Ron. Thầy bỏ qua món pha chế màu xanh lam của Ernie. Món thuốc của Hermione khiến thầy gật gù chấp nhận. Kế đến thầy
nhìn thấy món thuốc của Harry, và một vẻ sung sướng không tin được lan khắp gương mặt thầy.
“Người chiến thắng hoàn toàn!” Thầy reo lên với cả tầng hầm. “Xuất sắc, xuất sắc, Harry! Mèn ơi, rõ ràng là con được thừa hưởng tài năng của mẹ con.
Lily, mẹ con là một tay khéo léo tinh xảo về Độc dược! Vậy thì, đây, thưởng cho con – một lọ Phúc lạc dược, như đã hứa, và sử dụng nó cho tốt!”
Harry nhẹ nhàng nhét cái lọ tí hon vào túi áo trong của nó, cảm thấy một sự kết hợp kỳ cục giữa niềm vui sướng trước cái vẻ giận dữ trên mặt mấy đứa
nhà Slytherin và nỗi áy náy tội lỗi trước vẻ mặt thất vọng của Hermione. Ron thìcó vẻ ngố ra.
“Bồ làm cách nào mà được hả?” Nó thìthào hỏi Harry khi tụi nó cùng rời khỏi tầng hầm.
“Mình cho là may mắn thôi,” Harry nói, bởi vìMalfoy có thể nghe lỏm.
Tuy nhiên, khi tụi nó đã ngồi gọn lỏn một cách an toàn ở bàn ăn nhà Gryffindor, Harry cảm thấy đủ an toàn để kể cho hai bạn nghe. Gương mặt Hermione
trở nên đanh lại theo từng lời Harry nói ra.
“Bồ cho là mình gian lận hay sao chớ?” Nó kết thúc, bực mình vìcái vẻ mặt của Hermione.
“Này, cái đó đâu hẳn là thành tích của chính bồ, đúng không?” Cô bé đáp không nhân nhượng.
“Nó chỉ làm theo những chỉ dẫn khác hơn những chỉ dẫn của chúng ta mà thôi” Ron nói, “Đâu có gìtrầm trọng ghê gớm đâu? Nhưng nó dám liều và được
thưởng.” Ron thở ra một hơi dài. “Lẽ ra Thầy Slughorn có thể đưa cho mình cuốn sách đó, nhưng mà hỡi ôi, mình đã nhận được cuốn sách chẳng có ma
nào thèm viết gìvô hết ráo. Lại còn bị mửa vô nữa chứ, căn cứ vào vết tích trên trang năm mươi hai, nhưng…”
“Khoan đã,” một giọng nói vang lên sát bên tai trái của Harry và nó bắt được một thoáng bất ngờ của cái mùa như hương hoa mà nó đã ngửi thấy lúc ở
dưới tầng hầm. Nó ngoảnh nhìn lại thìthấy Ginny đã đến nhập bọn với tụi nó.
“Em nghe có đúng không? Anh đã nhận lệnh từ cái gìđó của ai đó ghi trong một cuốn sách hả anh Harry?”
Trông cô bé sợ hãi và tức giận. Harry biết ngay là cô bé đang nghĩgì.
“Không có gì đâu,” nó nói giọng cam đoan, hơi hạ thấp tông xuống. “Chẳng giống như… em biết đấy… cuốn nhật ký của Riddle đâu. Nó chỉ là một cuốn
sách giáo khoa cũ có ghi chú của ai đó.”
“Nhưng anh lại làm theo những ghi chú đó à?”
“Anh chỉ thử vài mánh hướng dẫn ghi bên lề, thiệt tình, Ginny à, chẳng có gìbuồn cười…”
“Ginny có lý,” Hermione nói, đầu ngẩng lên tức thì. “Chúng ta nên kiểm tra để biết chắc cuốn sách đó không có gì kỳ quái. Mình muốn nói là, tất cả những
hướng dẫn tức cười ấy, ai biết đâu?”
“Hừ!” Harry nổi sùng lên khi Hermione rút cuốn sách Bào chế thuốc cao cấp ra khỏi túi xách của nó và giơ cây đũa phép của cô nàng lên.
“Tiết lộ cho riêng ta!” Hermione hô thần chú, gõ mạnh cây đũa phép lên bìa trước cuốn sách. Chẳng có gìđáng kể xảy ra cả. Cuốn sách chỉ đơn giản nằm
ỳ ra đó, trông cũ kỹ, dơ hầy, và góc sách bị quăn quéo.
“Xong chưa?” Harry cáu kình hỏi. “Hay là mấy bồ muốn chờ xem coi nó có làm vài cú trả đủa?”
“Coi bộ ổn,” Hermione nói, vẫn trừng mắt nhìn cuốn sách với vẻ nghi ngờ. “Ýmình là nó quả thực có vẻ như... một cuốn sách giáo khoa mà thôi.”
“Tốt. Vậy cho mình lấy lại nó.” Harry nói, chộp lấy cuốn sách trên bàn, nhưng cuốn sách vuột khỏi tay nó, rớt xuống sàn, mở tanh banh. Chẳng có ai kahcs
nhìn tới. Harry cúi xuống để thu hồi cuốn sách, và khi làm vậy, nó nhìn thấy ở tuốtcạnh dưới bìa sau của cuốn sách có khắc một hàng chữ cùng kiểu chữ
viết tay nhỏ, ngoằn ngèo như chữ ghi những lời hướng dẫn bên trong – lời hướng dẫn đã giúp nó giành được giải thưởng là cái lọ Phúc lạc dược, lúc
này đây đang được giấu an toàn bên trong một đôi vớ cất trong rương. Dòng chữ ghi:
Cuốn sách này là Tài sản của Hoàng tử Lai.
Chương 10
Ngôi nhà của Gaunt
Trong những buổi học đc tiếp theo trong tuần, Harry tiếp tục làm theo những hướng dẫn của vị Hoàng Tử lai ở chỗ nào chúng được ghi khác với hướng
dẫn trong sách của Libatius Borage, với kết quả là đến buổi học thứ tư Thầy Slughorn đã hết sức khoái cái khả năng của Harry, nói rằng thầy hiếm khi
được dạy học trò nào tài năng như vậy. Cả Ron lẫn Hermione đều không vui lắm về chuyện này. Mặc dù Harry đã đề nghị xài chung cuốn sách với hai
đứa nó, nhưng Ron gặp nhiều khó khăn hơn Harry trong việc giải đoán chữ viết tay, mà nó không thể cứ bảo Harry đọc to lên giùm, nếu không muốn bị
nghi ngờ. Trong khi đó, Hermione vẫn kiên quyết cày bừa với cái mà cô nàng gọi là hướng dẫn “chính qui”, nhưng càng lúc cô nàng càng tỏ ra nóng nảy
khi những hướng dẫn chính quy này đưa tới kết quả tồi tệ hơn hướng dẫn của Hoàng tử.
Harry ngờ ngợ tự hỏi vị Hoàng Tử lai là ai. Mặc dù sô lượng bài tập mà tụi nó được giao đã khiến Harry không có thì giờ đọc hết toàn bộ quyển Chế tạo
thuốc cao cấp, nó cũng đã lật sơ qua hết sách đủ để thấy là hầu như không có trang nào mà Hoàng tử không ghi chú thêm điều này điều nọ, mà không
phải tất cả ghi chú đều liên quan đến việc bào chế thuốc. Thỉnh thoảng có những lời chỉ bảo về cái gì đó giống như bùa phép mà Hoàng tử đã tự mình
sáng chế ra.
“Hay chính là Công chúa,” Hermione gắt gỏng nói, khi nghe lỏm Harry chỉ cho Ron xem mấy cái đó trong phòng sinh hoạt chung vào buổi chiều thứ bảy.
“Rất có thể đó là một cô gái. Mình thấy nét chữ viết tay giống chữ viết của con gái hơn chữ của con trai.”
“Người đó được gọi là Hoàng Tử lai mà,” Harry nói. “Từ hồi nào giờ có bao nhiêu cô gái được gọi là Hoàng Tử?”
Hermione dường như không trả lời được câu hỏi này. Cô nàng chỉ càu nhàu và giật phắt lại bài luận văn của mình về “Những nguyên tắc của Tái vật chất
hóa” ra khỏi tay Ron, anh chàng này đang cố thử đọc bài viết ngược từ dưới lên trên.
Harry ngó đồng hồ rồi vội vã nhét cuốn sách Chế tạo thuốc cao cấp cũ kỹ vô trong túi xách của nó.
“Năm phút nữa tám giờ, mình phải đi thôi, kẻo trễ buổi học với thầy Dumbledore.”
“Ối!” Hermione kêu lên ngạc nhiên, ngẩng đầu lên tức thì. “Chúc may mắn nha! Tụi này sẽ thức đợi, tụi này muốn nghe thầy dạy bồ môn gì!”
“Hy vọng buổi học OK,” Ron nói, và hai đứa nó ngó theo Harry chui qua cái lỗ chân dung mà đi.
Harry đi qua những hành lang vắng vẻ, tuy vậy nó cũng phải vội vã bước tránh ra sau một bức tượng khi giáo sư Trelawney xuất hiện ở một góc hành
lang, lẩm bẩm một mình khi xào một bộ bài trông dơ hết chỗ nói, rồi vừa đi vừa xem.
“Hai bích: xung đột,” bà lẩm nhẩm khi đi ngang qua chỗ Harry cúi lom khom ẩn núp. “Bảy bích: một điềm xấu. Mười bích: Bạo tan. Bồi bích: Một chàng trai
trẻ ngăm đen có thể bị rắc rối, một kẻ không ưa người chất vấn...”
Bỗng bà đứng sựng lại, ngay bên cạnh bức tượng Harry đang ẩn núp.
“Chà, điều đó không thể đúng được,” bà nói, vẻ khổ sở, và Harry nghe bà xào lại bộ bài một cách quyết liệt rồi lại tiếp tục bước đi, chẳng lưu lại gì phía
sau ngoại trừ một hơi nhẹ rượu nâu vẫn dùng để nấu ăn. Harry chờ đến khi chắc chắn là bà đã đi khỏi mới vội vã bước tiếp cho đến khi tới được hành
lang tầng thứ bảy, nơi có mỗi một bức tượng đá thú đứng dựa tường.
“Nước chua,” Harry nói, và bức tượng thú đá nhảy qua một bên, bức tường đằng sau nhẹ nhàng tách ra làm hai, và một cái cầu thang xoắn bằng đá tự
chuyển động lộ ra, Harry bèn bước lên cầu thang để được đưa theo những vòng tròn êm ái lên đến cánh cửa có cái búa gõ bằng đồng dẫn vào văn
phòng cụ Dumbledore.
Harry gõ cửa.
“Vào đi,” cụ Dumbledore nói.
“Con chào thầy,” Harry nói khi bước vào văn phòng thầy hiệu trưởng.
“À, chào con, Harry. Ngồi xuống đi,” cụ Dumbledore mỉm cười nói, “thầy hy vọng con đã có một tuần lễ thú vị trong tuần đầu tiên quay lại trường?”
“Dạ, cám ơn thầy,” Harry nói.
“Ắt hẳn con bận lắm, đã bị nợ một buổi cấm túc rồi!”
“Ơ...,” Harry mới mở miệng nói lọng ngọng, nhưng cụ Dumbledore không tỏ vẻ nghiêm khắc lắm.
“Thầy vừa dàn xếp với giáo sư Snape để cho con chịu cấm túc vào thứ bảy tuần tới thay vìtối nay.”
“Dạ được,” Harry nói, trong đầu nó đang có nhiều vấn đề cấp bách hơn là vụ cấm túc với Thầy Snape, và giờ đây nó len lén nhìn quanh để xem có dấu
hiệu nào về cái mà cụ Dumbledore dự định dạy nó vào tối hôm nay không. Văn phòng hình tròn này trông vẫn như từ trước tới giờ; những dụng cụ bàng
bạc tinh xảo đặt trên mấy cái bàn cao khẳng khiu, nhả khói và kêu vo vo; chân dung của các vị hiệu trưởng tiền nhiệm ngủ gật trong các khung tranh và
con chim Phượng hoàng lộng lẫy của cụ Dumbledore – con Fawkes – vẫn đậu trên nhành cây của nó phía sau cánh cửa, ngắm nhìn Harry với vẻ thích thú
rạng rỡ. Thậm chícảnh vật trông không có vẻ gìlà cụ Dumbledore đã dọn dẹp chút đỉnh để có chỗ cho hai người cùng thực hành Pháp thuật.
“Vậy là, Harry,” cụ Dumbledore nói, bằng giọng bàn công việc, “thầy chắc rằng con mấy bữa nay đang thắc mắc thầy dự định làm gì với con trong
những... thầy muốn tìm từ gìcho hay hơn... những buổi học này?”
“Dạ thưa thầy, phải ạ.”
“Thế này, thầy đã quyết định là đã đến lúc con cần biết một số thông tin, một khi con đã biết cái gìkhiến Chúa tể Voldermort cố tìm cách giết con cách đây
mười lăm năm,” cụ ngưng một lúc.
“Thầy nói vào cuối niên học vừa rồi rằng thầy sẽ nói với con mọi điều,” Harry nói. Khó mà không nhận thấy trong giọng nói của nó có một chút trách hờn.
Rồi nó nói thêm ở cuois câu, “thưa thầy.”
“Và thầy đã làm như vậy,” cụ Dumbledore điềm tĩnh nói. “Thầy đã nói với con mọi điều thầy biết. Từ điểm này trở đi, chúng ta sẽ rời khỏi cái nền tảng
chắc chắn của sự thật mà cùng nhau du hành băng qua những bãi lầy tăm tối của ký ức để tiến vào rừng rậm của những giả thuyết rối rắm nhất. Từ đây
trở đi, Harry à, thầy có thể sai lầm khủng khiếp như Humphrey BelcHermione, người đã tin lúc bấy giờ là thời điểm chín mùi để làm ra vạc nấu phó mát.”
“Nhưng thầy tin là thầy đúng chứ?” Harry nói.
“Đương nhiên là thầy tin, nhưng như thầy đã chứng minh cho con thấy, thầy cũng phạm sai lầm như mọi người bình thường. Thực ra, bỏ quá cho thầy, do
có tríthông minh hơn nhiều người, sai lầm của thầy do vậy càng lớn hơn nhiều.”
“Thưa thầy,” Harry ngập ngừng nói, “điều thầy sắp nói với con có liên quan gìtới lời Tiên tri không? Điều đó có giúp cho con... sống sót không?”
“Nó liên quan rất nhiều đến lời Tiên tri,” cụ Dumbledore nói, thản nhiên như thể Harry mới hỏi cụ về thời tiết những ngày sắp tới, “và thầy chắc chắn là hy
vọng rằng nó sẽ giúp con sống sót.”
Cụ Dumbledore đứng dậy và đi vòng quanh cái bàn làm việc, ngang qua Harry, nó bồn chồn xoay mình trên ghế để nhìn theo cụ đang cúi xuống một cái tủ
phía sau cánh cửa. Khi cụ Dumbledore đứng thẳng dậy, cụ cầm một cái chậu nông quen thuộc bằng đá có mấy dấu khắc chạm kỳ quái quanh miệng. Cụ
đặt cái Tưởng ký lên bàn trước mặt Harry.
“Trông con có vẻ lo lắng.”
Harry quả thực từ nãy giờ vẫn ngó chừng cái Tưởng ký với chút ngán sợ. Kinh nghiệm trước đây của nó với cái dụng cụ kỳ quái lưu trữ và tiết lộ suy nghĩ
và ký ức ấy, là tuy có thu được thêm nhiều hiểu biết, nhưng cũng rất ư khó chịu. Lần cuối cùng nó mắc mứu với nội dung của cái chậu đó, là nó đã nhìn
thấy quá nhiều so với ước mongcủa nó. Nhưng cụ Dumbledore đang mỉm cười.
“Lần này, con cùng vào Tưởng ký với thầy... và, bất thường hơn nữa, được phép hẳn hoi.”
“Thưa thầy, chúng ta đi đâu ạ?”
“Một chuyến du ngoạn xuống con đường mòn ký ức của Bob Ogden,” cụ Dumbledore nói, vừa lấy trong túi ra một cái chai bằng pha lê chứa một chất
màu trắng ánh bạc có xoáy.
“Bob Ogden là ai ạ?”
“Ông ấy làm việc cho Bộ thi hành Luật Pháp thuật,” cụ Dumbledore nói. “Ông ấy mất cách đây ít lâu sau khi thầy tìm ra tung tích ông ấy và thuyết phục ông
giãi bày những hồi ức cho thầy. Chúng ta sẽ tháp tùng ông ấy trong một vụ thăm viếng mà ông ấy đã thực hiện khi thi hành công vụ. Harry à, nếu con
đứng…”
Nhưng cụ Dumbledore đang gặp khó khăn trong việc rút cái nút chai ra : bàn tay bị thương của cụ dường như cứng đơ và đau đớn lắm.
“Thưa thầy, cho phép con… ?”
“Không hề gì, Harry à…”
Cụ Dumbledore chĩa cây đũa phép của mình vào cái chai và cái nút bật ra ngay.
“Thưa thầy... làm sao mà bàn tay của thầy bị thương vậy?” Harry lại hỏi, vừa nhìn mấy ngón tay thâm đen với một cảm giác vừa sợ hãi vừa xót thương.
“Bây giờ không phải lúc kể câu chuyện đó rồi Harry à. Chưa đến lúc. Chúng ta có hẹn với Bob Ogden.”
Cụ Dumbledore rót cái chất óng ánh bạc trong chai vô cái Tưởng ký, cái chất ấy không ra lỏng mà cũng chẳng phải khí, vừa xoắn tít vừa lung linh hư ảo.
“Con vào trước đi,” cụ Dumbledore nói, ra dấu về phía cái chậu. Harry cúi khom tới trước, hít một hơi thở sâu, sâu, và nhúng cái mặt mình vô trong cái
chất óng ánh bạc đó. Nó cảm thấy hai chân nó nhấc hổng khỏi sàn văn phòng; nó đang rơi, rơi xuyên qua bóng tối cuộn xoáy, và rồi, hết sức dột ngột, nó
chớp mắt trong ánh nắng chói chang. Trước khi mắt nó quen lại với ánh sáng, cụ Dumbledore đã đáp xuống bên cạnh nó.
Hai thầy trò đang đứng trên một con đường ở thôn quê, hai bên đường là những giậu cây cao xum xuê, dưới vòm trời mùa hạ sáng trong và xanh như
sắc hoa xin-đừng-quên-tôi. Đứng phía trước hai thầy trò, cách chừng ba thước, một người đàn ông lùn và mập đeo một cặp kính dày cui thật to khiến cho
đôi mắt ông ta nhỏ lại như hai đốm mắt ruồi. Ông ta đang xem một cột gỗ chỉ đường được cắm nhô ra khỏi bụi cây gai ở phía tay trái của con đường.
Harry biết đây hẳn là ông Ogden; ông ta là người duy nhất có mặt ở đấy, và ông ta cũng đang mặc cái kiểu quần áo kỳ cục mà các pháp sư ít kinh
nghiệm thường chọn mặc để trông có vẻ giống Muggle: trong trường hợp này là một cái áo khoác thầy tu và một đôi ghệt bên ngoài một cái áo bơi một
mảnh có sọc. Tuy nhiên trước khi Harry có đủ thì giờ để ghi nhận ngoại hình quái đản của ông, ông Ogden đã bắt đầu bước đi thật nhanh xuống con
đường nhỏ.
Cụ Dumbledore và Harry đi theo. Khi họ đi ngang qua một tấm bảng gỗ chỉ đường, Harry nhìn lên hai mũi tên của cái bảng. Một cái chỉ ngược hướng con
đường nó vừa đi qua có ghi: “Hangleton Lớn, 5 dặm”. Mũi tên kia chỉ theo sau lưng ông Ogden có ghi “Hangleton Nhỏ, 1 dặm”.
Hai thầy trò đi bộ qua một quãng đường ngắn mà không thấy gì cả ngoại trừ mấy giậu cây bên đường, bầu trời xanh trên đầu và cái dáng khoác áo thầy
tu bảnh tẻng phía trước. Thế rồi con đường quanh qua bên trái và biến tướng, chạy xuống một sườn đồi rất dốc, khiến cho hai thầy trò bỗng đứng trước
một cảnh trí bất ngờ của cả một thung lũng nằm phía trước. Harry nhìn thấy một ngôi làng, chắc chắn là làng Hangleton Nhỏ, nép mình giữa hai ngọn đồi
cao, có thể thấy rõ cả nhà thờ và nghĩa địa của làng. Bên kia thung lũng, nằm trên sườn đồi đối diện, là một biệt thự xinh xắn, chung quanh có những thảm
cỏ trải rộng xanh mượt như nhung.
Ông Ogden đã chuyển sang bước nhanh một cách bất đắc dĩ vì con đường chạy xuống quá dốc. Cụ Dumbledore sải dài bước chân hơn nữa, và Harry
phải lật đật chạy theo cụ cho kịp. Nó nghĩ làng Hangleton Nhỏ ắt phải là đích đến cuối cùng của thầy trò nó và nó thắc mắc, như đã thắc mắc vào cái đêm
thầy trò nó đi tìm Thầy Slughorn, là tại sao thầy trò họ lại phải tiếp cận từ một khoảng cách xa như vậy. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau nó khám phá ra rằng
mình đã nhầm lẫn khi nghĩ rằng thầy trò nó đang đi đến ngôi làng. Con đường uốn cong về bên phải và khi vòng qua khúc quanh rồi, thầy trò nó mới kịp
nhìn thấy một góc vạt áo thầy tu của ông Ogden biến mất trong một khaorng hở của giậu cây.
Cụ Dumbledore và Harry đi theo ông ta vào một con đường đất hẹp chạy giữa những hàng giậu cao hơn, dày hơn cả những hàng giậu thầy trò nó đã bỏ
lại phía sau. Con đường khúc khủy, gồ ghề, lởm chỏm đá và đầy ổ gà, cũng chạy xuống dốc đồi như con đường lúc nãy, và dường như dẫn đến một lùm
cây âm u lui xuống phía dưới một chút. Quả nhiên, con đường mòn chẳng mấy chốc mở ra một khu đất trồng cây, và cụ Dumbledore cùng Harry dừng lại
phía sau ông Ogden, ông này đã đứng yên và rút ra cây đũa phép.
Mặc cho bầu trời không một áng mây, đám cây già trước mặt thầy trò Harry vẫn tỏa bóng râm âm u, sâu và mát, và chỉ cần vài giây mắt Harry đã phân
biệt được một tòa nhà nửa ẩn nửa hiện giữa những thân cây mọc lộn xộn. Đối với Harry, đây dường như là một địa điểm lạ lùng để chọn xây nhà, hoặc là
một quyết định quái đản khi để cho lũ cây mọc um tùm chung quanh, che khuất tất cả ánh sáng và cảnh trícủa thung lũng bên dưới. Nó thắc mắc là liệu có
ai ở trong ngôi nhà đó không; mấy bức tường rêu phong và nhiều miếng ngói đã rớt khỏi mái nhà, có thể thấy những mảnh ngói vụn vung vãi đó đây. Cây
tầm ma mọc khắp chung quanh, ngọn cây vươn tới tận cửa sổ, những cái cửa sổ nhỏ xíu và bám đầy bụi bặm. Tuy nhiên, vừa khi nó kết luận là chẳng ai
có thể sống ở đó, thì một trong mấy cái cửa sổ mở tung ra kèm theo tiếng loảng xoảng, và một làn hơi nước hay khói bốc ra từ cái cửa sổ nhỏ đó, như
thể có ai đó đang nấu nướng.
Ông Ogden lặng lẽ di chuyển về phía trước, và Harry thấy dường như ông hơi thận trọng. Khi bóng cây âm u đã che phủ lên người, ông ta lại dừng chân,
đăm đăm nhìn vào cửa chính, trên cánh cửa đó ai đã đóng đinh một con rắn chết.
Chợt có tiếng sột soạt và một tiếng nổ giòn, rồi một người đàn ông mặc toàn giẻ rách rớt xuống từ trên một ngọn cây gần đó, đáp xuống trên đất trên hai
chân ngay trước mặt ông Ogden. Ông Ogden nhảy lùi ra sau nhanh đến nỗi giẫm lên đuôi vạt áo khoác của chính mình và té bổ ngửa.
“Không ai mời ông.”
Người đàn ông đứng trước mặt họ có mái tóc dày bám đầy bụi đến nỗi khó mà nói được nó vốn màu gì. Răng hắn ta sún gần hết. Mắt hắn ta nhỏ, đen và
ngó chòng chọc về hai hướng ngược nhau. Đáng ra trông thế phải vui nhộn, nhưng hắn lại không hề như vậy; kết quả thiệt là dễ sợ, và Harry chẳng trách
gìông Ogden phải lùi lại liên tiếp nhiều bước trước khi mở miệng nói được.
“Ơ... Xin chào. Tôi là nhân viên của Bộ Pháp thuật...”
“Không ai mời ông.”
“Ơ... Tôi xin lỗi... Tôi không hiểu ý ông,” ông Ogden nói, vẻ căng thẳng.
Harry nghĩ ông Ogden cực kỳ tối dạ; theo ý Harry thì người lạ mặt kia bày tỏ rất rõ ràng, đặc biệt khi hắn ta vung cây đũa phép trong một tay, còn tay kia
thìnắm một con dao ngắn đẫm máu.
“Con hiểu hắn nói gì, ta chắc vậy, phỉa không Harry?” Cụ Dumbledore nói khẽ.
“Dạ, dĩnhiên rồi,” Harry nói, hơi lúng túng. “Tại sao ông Ogden không thể hiểu...?”
Nhưng khi mắt Harry đụng phải con rawsn chết neo trên cánh cửa, nó bỗng hiểu ra.
“Hắn nói Xà ngữ?”
“Giỏi lắm,” cụ Dumbledore nói, vừa gật đầu, mỉm cười.
Gã đàn ông ăn mặc te tua lúc này đang tiến về phía ông Ogden, tay cầm dao, tay cầm cây đũa phép.
“Thế này nhé...” Ông Ogden bắt đầu nói, nhưng đã quá trễ: Một tiếng nổ to vang lên, và ông Ogden đã nằm quay lơ trên mặt đất, tay bụm chặt lấy mũi
trong khi một dòng nước màu vàng nhơn nhớt lờm lợm xịt ra từ những kẽ ngón tay ông.
“Morfin!” Một giọng hét to vang lên.
Một lão già vội vã chạy ra khỏi căn nhà, đóng mạnh cánh cửa chính sau lưng, khiến cho con rắn chết lắc lư một cách đau khổ. Người này lùn hơn người
xuất hiện trước đó và có một kích thước quái dị. Hai vai lão ta rất rộng và hai cánh tay rất dài, hợp với đôi mắt nâu sáng quắc, mái tóc ngắn rậm rì, và
gương mặt nhăn nhúm, tạo cho lão ta cái dáng vẻ của một con khỉ già hùng mạnh. Lão già chạy ra và đứng lại bên cạnh cái gã cầm dao, lúc này gã đang
sặc vìcười khi nhìn cảnh ông Ogden nằm trên mặt đất.
“Ở Bộ hả?” Lão già ngó xuống ông Ogden hỏi.
“Đúng!” Ông Ogden tức giận nói, vừa chấm chấm vết máu mủ trên mặt. “Và, tôi đoán, ông là ông Gaunt?”
“Đúng vậy,” lão Gaunt nói. “Nó đánh trúng mặt ông hả?”
“Phải, nó đánh!” Ông Ogden càu nhàu.
“Lẽ ra ông nên báo trước sự có mặt của ông chứ hả?” Lão Gaunt nói giọng công kích. “Đây là tư gia mà. Đâu có thể cứ bước đại vô đây mà không tính
trước chuyện con trai tôi tự vệ.”
“Tự vệ lại cái gìhả trời?” Ông Ogden nói, vừa lồm cồm đứng dậy.
“Mấy người ưa kiếm chuyện. Bọn xâm nhập gia cư. Dân Muggle và đồ cặn bã.”
Cái mũi của ông Ogden vẫn còn đang xịt ra thành dòng cái chất vàng vàng như mủ, ông bèn chĩa cây đũa phép vào mũi mình, và dòng mủ đó ngừng ngay
lập tức.
Lão Gaunt nói qua khóe miệng với Morfin.
“Đi vô nhà. Không được cãi.”
Lần này, do đã có chuẩn bị, Harry nhận ra Xà ngữ; thậm chí trong lúc nó vừa nghe hiểu điều lão già đang nói, nó vẫn nhận ra được tiếng rít khè khè quái
gỡ, là thứ âm thanh duy nhất mà ông Ogden có thể nghe ra. Morfin dường như muốn cãi lại, nhưng cha gã đã quắc mắt đe dọa khiến gã phải thay đổi ý
kiến, lếch thếch bỏ vào trong nhà, dáng đi tròng trành hết sức kỳ cục, và đóng sập cánh cửa lại sau lưng, khiến cho con rắn chết lại buồn bã đong đưa.
“Ông Gaunt à, tôi đến đây chính là để gặp con trai ông,” ông Ogden nói, vừa chùi vết mủ cuối cùng dính trên áo khoác. “Đó là Morfin, đúng không?”
“Ừ, đó là Morfin,” lão già đáp giọng dửng dưng. “Ông có thuần huyết không?” Lão ta hỏi, bỗng nhiên đâm hung hăng.
“Điều đó không quan trọng,” ông Ogden lạnh lùng nói, và Harry cảm thấy niềm kính trọng đối với ông Ogden tăng lên. Nhưng dường như lão Gaunt lại
cảm thấy khác.
Lão ta lừ mắt nhìn vào mặt ông Ogden và lẩm bẩm, bằng cái giọng rõ ràng có thể coi là xúc phạm, “Giờ tôi lại nghĩ về chuyện đó đây, tôi đã từng thấy
mấy cái mũi như mũi ông ở dưới làng kia.”
“Tôi không nghi ngờ chuyện đó, nếu con trai ông được thả lỏng để quậy người ta,” ông Ogden nói. “Có lẽ chúng ta có thể tiếp tục cuộc thảo luận bên
trong nhà chứ hả?”
“Bên trong?”
“Vâng, thưa ông Gaunt. Tôi vừa mới nói với ông. Tôi đến đây về chuyện Morfin. Chúng tôi đã gởi một cú...”
“Tôi không xài cú,” lão Gaunt nói. “Tôi không mở thư.”
“Vậy thì ông khó lòng mà phàn nàn được là ông chẳng được báo trước về việc khách viếng thăm,” ông Ogden nói một cách chua chát. “Tôi đến đây vì
một vụ vi phạm nghiêm trọng trong Luật Pháp thuật, vụ này xảy ra tại đây và sáng sớm ngày hôm nay...”
“Được rồi, được rồi, được rồi!” Lão Gaunt rống lên. “Vậy thìmời vô cai nhà thương điên của tôi, và nó sẽ cho ông biết tay!”
Ngôi nhà dường như gồm có ba phòng nhỏ xíu. Hai cánh cửa mở ra căn phòng chính, vừa dùng làm nhà bếp đồng thời là phòng khách. Morfin đang ngồi
trên một cái ghế bành dơ không chịu nổi bên cạnh một ngọn lửa đang bốc khói, văn vẹo một con rắn còn sống nhăn giữa mấy ngón tay mập mạp và ư ử
ngâm nga với con rắn bằng Xà ngữ:
Rít đi, rít đi, rắn nhí,
Trườn trên sàn
Mi hãy biết điều với Mòin
Nếu không hắn đóng đinh mày lên cửa.
Có tiếng xô xtas ì xèo ở góc phòng bên cạnh cái cửa sổ mở, và Harry nhận ra là còn một người khác nữa trong phòng, một cô gái mặc một cái áo đầm
tả tơi màu xám y như màu bức tường đá đầy bụi bặm sau lưng cô. Cô gái đang đứng bên cạnh một cái nồi đang bốc hơi trên một cái bếp đen thui cáu
bẩn, và đang hục hặc với cái kệ chất nồi chảo trông hết sức nhớp nháp. Mái tóc của cô ta buông rũ xuống, xơ xác, và cô có một bộ mặt hơi nặng nề, bèn
bẹt, tai tái. Đôi mắt của cô, cũng giống như mắt người anh, nhìn chòng chọc về hai hướng ngược nhau. Trông cô có vẻ sạch sẽ hơn hai người đàn ông
một tí, nhưng Harry nghĩnó chưa bao giờ trông thấy một người nào trông thảm hại đến như vậy.
“Con gái tôi, Merope,” lão Gaunt miễn cường giới thiệu, khi ông Ogden tò mò nhìn về phía cô gái.
“Chào cô,” ông Ogden nói.
Cô gái không đáp lại, nhưng sợ sệt liếc cha mình một cái rồi quay lưng lại mọi người và tiếp tục khua khoắng đám nòi chảo trên cái kệ đằng sau lưng.
“Thế này, ông Gaunt à,” ông Ogden nói, “để đi thằng vào vấn đề, chúng tôi có lý do để tin là con trai ông, Morfin, đã biểu diễn pháp thuật trước mặt một
Muggle hồi khuya hôm qua.”
Một tiếng xoảng điếc lỗ tai vang lên. Merope vừa làm rớt một trong mấy cái nồi.
“Lượm nó lên!” Lão Gaunt gầm lên với cô gái. “Cứ thế, bừa bãi trên sàn như mấy tên Muggle bẩn thỉu, cây đũa phép của mày dùng để làm gì hả, cái đồ
bịch rác vô tích sự?”
“Xin ông Gaunt!” Ông Ogden nói với giọng bị sốc, khi Merope, sau khi đã lượm cái nồi lên, hoảng sợ đến tím tái, lại buông tay để rớt cái nồi xuống một
lần nữa, đã run rẫy rút cây đũa phép của cô ra khỏi túi, chỉ vào cái nồi, lầm bầm một câu thần chú líu ríu không ai nghe được, khiến cái nồi bay vọt ngang
căn phòng, tông vô bức tường đối diện, bể làm hai.
Morfin phát ra một trận cười điên dại. Lão gaunt gào lên, “Gắn lại, đồ bị thịt vô dụng, gán nó lại!”
Merope luýnh quýnh trượt ngang căn phòng, nhưng trước khi cô ta kịp giơ cây đũa phép của mình lên, ông Ogden đã giơ cây đũa phép của ông lên và
kiên quyết hô “Chữa lành”. Cái nồi tự liền lại tức thì.
Mất một lúc, lão Gaunt có vẻ như sắp quát vào mặt ông Ogden nhưng rồi dường như nghĩlại: thay vìvậy, lão quay qua giễu cợt con gái của mình:
“hên cho mày là cái ông tử tế của Bộ đang ở đây, hả? Có thể ông ta sẽ đem mày thoát khỏi tay tao, có thể ông ta không chê thứ á phù thủy nhớp nhúa...”
Không nhìn ai mà cũng không cảm ơn ông Ogden, Merope lượm cái nồi lên, rồi đặt nó trở lại trên kệ bằng đôi tay run rẩy. Xong cô ta đứng thật yên lặng,
lưng dựa vào bức tường giữa cái cửa sổ cáu bẩn và cái bếp lò, như thể cô chẳng mong ước gì hơn là lún vào trong bức tường đá đó mà biến mất cho
rồi.
“Ông Gaunt à,” ông Ogden lại bắt đầu nói. “Như tôi đã nói: lý do việc thăm viếng của tôi là...”
“Tôi nghe ông nói lần đầu rồi!” lão Gaunt nạt ngang. “Vậy thìsao? Morfin tiện tay quay một tên Muggle một tí... vậy thìsao nào?”
“Morfin đã vi phạm Luật Pháp thuật,” ông Ogden nghiêm nghị nói.
“Morfin đã vi phạm Luật Pháp thuật,” lão Gaunt nhại lại giọng ông Ogden, làm cho nó trịnh trọng và ngân nga. Morfin lại cười khằng khặc. “Nó đã dạy cho
tên Muggle bẩn thỉu một bài học, chuyện đó bây giờ là bất hợp pháp à?”
“Vâng,” ông Ogden nói. “Tôi e là như vậy.”
Ông rút từ túi áo trong ra một cuộn giấy da và mở ra.
“Vậy thì, cái gìđó, bản án của nó đó hả?” lão Gaunt nói, giọng cất cao giận dữ.
“Đây là trát đòi hầu tòa của Bộ...”
“Trát! Trát? Ông tưởng ông là ai mà dám ra trát đòi con trai tôi đi bất cứ đâu hả?”
“Tôi là Trưởng Đội Thi hành Luật Pháp thuật,” ông Ogden nói.
“Và ông tưởng bọn ta là đồ cặn bã hả?” Lão Gaunt gào lên, lúc này đã tiến tới trước mặt ông Ogden, chĩa một ngón tay có móng vàng khè vào ngực ông
ta. “Đồ cặn bã chạy quắn đít lên khi Bộ ra lệnh à? Ông có biết ông đang nói chuyện với ai đây không, hả đồ Máu Bùn nhãi nhép bẩn thỉu?”
“Tôi có cảm giác là mình đang nói chuyện với ông Gaunt,” ông Ogden nói, có vẻ đề phòng, nhưng vẫn kiên quyết.
“Đúng vậy!” Lão Gaunt rống lên. Trong một thoáng, Harry đã tưởng lão Gaunt làm một động tác tay tục tĩu, nhưng nó kịp nhận ra lão ta chỉ giơ cho ông
Ogden xem một chiếc nhẫn cẩn đá đen xấu xí mà lão đeo ở ngón tay giữa. Lão ta quơ quơ ngón tay đeo nhẫn trước mắt ông Ogden. “Thấy cái này
không? Thấy không? Biết là cái gì không? Biết xuất xứ của nó không? Nó thuộc về gia đình tôi hàng thế kỷ rồi, gia đình chúng tôi lâu đời như thế đó, và
hoàn toàn thuần huyết suốt từ xưa đến nay! Biết người ta từng ra giá với tôi bao nhiêu cho cái này không, với huy hiệu dòng họ Peverell khắc trên mặt đá
đen?”
“Tôi không biết,” ông Ogden nói, chớp chớp mắt khi chiếc nhẫn được gívô sát mũi ông chừng ba phân, “và chuyện đó đi lạc đề khá xa, ông Gaunt à. Con
trai ông đã phạm...”
Hú lên một tiếng giận dữ, lão Gaunt chạy về phía cô con gái. Tzrong một nửa giây, Harry tưởng đâu lão ta sắp bóp họng Merope khi lão vung tay lên cổ
họng cô ta; nhưng ngay sau đó, lão lôi cô ta về phía ông Ogden bằng một sợi dây chuyền vàng đeo quanh cổ cô.
“Thấy cái này không?” Lão ta gầm lên với Ogden, lắc lắc một cái mề đay vàng khá nặng vào mặt ông, trong khi Merope ú a ú ớ, miệng mồm há hốc ra để
thở.
“Tôi thấy, tôi thấy!” ông Ogden vội vàng nói.
“Của Slytherin!” Lão Gaunt gào lên. “Của Salazar Slytherin! Chúng tôi là cháu chắt thừa kế chính thống của cụ, ông nói sao về chuyện này hả?”
“Ông Gaunt, con gái của ông kìa!” ông Ogden lo lắng nhắc chừng, nhưng lão Gaunt đã buông Merope ra; cô bèn lê lết tránh xa ông bố, quay trở lại cái
góc của mình, xoa xoa cái cổ và hớp lấy hớp để không khí.
“Thế đấy!” Lão Gaunt nói giọng đắc thắng, như thể vừa chứng minh xong một điểm mấu chốt phức tạp vượt xa tất cả mọi tranh luận. “Ông liệu hồn đừng
có mà đi nói chuyện với chúng tôi như thể chúng tôi là bùn đất dính dưới giày của ông! Hàng bao thế hệ thuần huyết, tất cả đầu là phù thủy… Tôi dám nói
là nhiều hơn số ông tính ra!”
Và lão giẫm giẫm cái sàn chỗ ông Ogden đứng. Morfin lại cười sằng sặc. Merope không nói gì, chỉ co rúc bên cạnh cửa sổ, đầu cúi gục và gương mặt
giấu trong mái tóc rũ xuống.
“Ông Gaunt à,” ông Ogden kiên trì nói, “tôi e là cả tổ tiên của ông lẫn tổ tiên tôi không liên quan gì tới vấn đề trước mắt. Tôi đến đây bởi vì Morfin, Morfin
và người Muggle mà cậu ấy trù ẻo hồi khuya hôm qua. Theo thông tin của chúng tôi” – ông Ogden liếc nhìn xuống cuộn giấy da của mình - “thì Morfin đã
ếm một bùa hay ngải lên người Muggle nói trên, khiến người đó phát ban vô cùng đau đớn.”
Morfin cười hinh hích.
“Im đi, con,” lão Gaunt gầm gừ bằng Xà ngữ, và Morfin lại nín khe.
“Nếu nó có làm vậy thìđã sao nào?” lão Gaunt ngang ngược nói với ông Ogden, “Tôi đoán ông đã chùi dùm cái mặt dơ của tên Muggle đó rồi chứ, và cả
trínhớ của thằng đó để tống…”
“Đó đâu phải là vấn đề phải không ông Gaunt?” ông Ogden nói. “Đây là một cuộc tấn công không do khiêu khích trong một trường hợp không có sự
phòng vệ…”
“Hừ, tôi đã thấy rõ ông là một kẻ khoái Muggle ngay từ lúc mới gặp ông,” lão Gaunt khinh khỉnh nói, và lại giẫm giẫm lên sàn nhà một lần nữa.
“Cuộc tranh luận này chẳng đưa chúng ta tới đâu cả,” ông Ogden quả quyết nói. “Có thể thấy rõ ràng qua thái độ của con trai ông là cậu ta không hề cảm
thấy hối hận về hành động của mình.” Ông liếc xuống cuộn giấy da một lần nữa. “Morfin sẽ ra tòa vào ngày mười bốn tháng chín để trả lời về sự cáo buộc
đã dùng pháp thuật trước mặt một Muggle và khiến cho Muggle đó bị tổn thương và đau khổ…”
Ông Ogden ngừng lại. Có tiếng vó ngựa lọc cọc, nhạc ngựa leng keng, và tiếng cười to vọng vào khuôn cửa sổ mở. Dường như con đường quanh co
dẫn vào làng chạy rất sát chòm cây bao bọc ngôi nhà. Lão Gaunt đứng bất động, lắng nghe, hai mắt lão mở to. Morfin rít lên và quay mặt về phía phát ra
âm thanh, có vẻ thèm thuồng. Merope ngẩng đầu lên. Harry thấy gương mặt cô ta trắng như bột.
“Chao ôi, một cảnh ngứa mắt gì đâu!” Giọng một cô gái vang lên, nghe rõ qua khung cửa sổ mở như thể cô ta đang đứng trong cùng một căn phòng với
họ. “ba anh không thể cho dọn dẹp cái chòi nát đó sao, anh Tom?”
“Cái đó đâu phải của nhà anh,” giọng một chàng trai trẻ. “Mọi thứ bên kia thung lũng đều thuộc về gia đình anh, nhưng cái chòi đó thuộc về một lão bá vơ
tên là Gaunt và con cái lão. Thằng con khùng lắm, chắc em có nghe mấy chuyện người ta đồn đãi trong làng…”
Cô gái phá ra cười. Tiếng nhạc ngựa leng keng và tiếng vó ngựa lộc cộc vang lên càng lúc càng to hơn. Morfin làm như thể muốn nhảy ra khỏi cái ghế
bành nó đang ngồi.
“Ngồi yên!” Cha nó nói bằng Xà ngữ, giọng răn đe.
“Anh Tom à,” giọng cô gái lại vang lên, bây giờ nghe rõ đến nỗi hẳn là họ đang ở bên cạnh căn nhà, “có thể em nhầm – nhưng có ai đó đã đóng đinh một
con rắn lên cửa, phải không?”
“Úi trời ơi, em nói đúng!” giọng chàng trai nói. “Chắc là thằng con trai, anh đã nói với em là thằng đó khùng mà. Đừng nhìn nó, Cecilia, cưng của anh.”
Tiếng nhạc ngựa leng keng và tiếng vó ngựa lộc cộc bây giờ lại nghe nhỏ dần.
“Cưng của anh,” Morfin thìthầm bằng Xà ngữ, nhìn cô em gái. “Hắn gọi con đó là “Cưng của anh”. Vậy là đằng nào đi nữa hắn cũng không thèm mày.”
Merope trắng nhợt đến nỗi Harry cảm thấy chắc là cô ta sắp xỉu.
“Chuyện gìhả?” Lão Gaunt nói sẵng giọng, cũng bằng Xà ngữ, hết nhìn con trai tới nhìn sang con gái. “Mày nói cái gìhả, Morfin?”
“Nó khoái ngó thằng Muggle đó,” Morfin nói, một vẻ đồi bại hiện ra trên gương mặt khi hắn nhìn chòng chọc cô em gái, cô ta tỏ ra khiếp sợ cực kỳ. “Luôn
luôn ở trong vườn mỗi khi thằng ấy đi ngang, dòm hắn qua giậu cây, có không? Và tối hôm qua…”
Merope ngắc ngứ lắc đầu vẻ van xin, nhưng Morfin vẫn nói tiếp một cách tàn nhẫn, “đeo ở cửa sổ chờ hắn đánh xe ngựa về nhà, có không?”
“Đeo ở cửa sổ để ngóng một thằng Muggle à?” Lão Gaunt rít lên trong miệng.
Cả ba cha con nhà Gaunt hầu như quên béng sự có mặt của ông Ogden, ông này tỏ vẻ vừa ngơ ngáo vừa bực bội trước đợt rít khè và nghiến ngót mới
mà ông không hiểu gìráo.
“Có đúng không?” Lão Gaunt hỏi bằng một giọng lạnh băng, tiến một hai bước về phía cô con gái đang khiếp đảm. “Con gái của ta, dòng dõi thuần khiết
của Salazar Slytherin – mà si mê một thằng Muggle máu bùn nhơ nhuốc à?”
Merope lắc đầu như điên, ép sát mình vào tường, dường như không thể thốt nên lời.
“Nhưng mà con trị hắn rồi, Bố!” Morfin cười khằng khặc. “Con đã trị hắn khi hắn đi ngang qua đây và hắn hết còn đẹp trai khi ban cua nổi khắp mình mẩy,
há Merope?”
“Mày, đồ á phù thủy nhãi ranh gớm ghiếc, đồ phản bội huyết thống bẩn thỉu!” Lão Gaunt rống lên, mất hết bình tĩnh, và hai bàn tay lão siết quanh cổ họng
cô con gái.
Cả Harry và ông Ogden cùng lúc hét lên: “Đừng!” Ông Ogden giơ cây đũa phép lên và hô, “Buông ra!”
Lão Gaunt bị văng ngược ra sau, cách xa cô con gái; lão ta vấp vào một cái ghế và té chỏng gọng. Rống lên một tiếng giận dữ, Morfin nhảy bọt ra khỏi
ghế nhào vô ông Ogden, vung vẩy con dao đẫm máu trong tay và phóng bừa bãi bùa phép từ cây đũa phép của gã.
Ông Ogden chạy thí mạng. Cụ Dumbledore ra dấu rằng hai thầy trò cũng nên chạy theo và Harry vâng lời, tiếng gào thét của Merope còn vang vọng trong
lỗ tai nó.
Ông Ogden chạy khỏi con đường mòn, hai tay vòng lên che đầu, và phóng ra con đường chính, đâm sầm vô một con ngựa nâu lông mượt do một chàng
trẻ tuổi tóc đen đẹp trai cỡi. Cả chàng ta và cô gái xinh đẹp cỡi con ngựa xám bên cạnh đều phá ra cười ngặt nghẽo trước cảnh tượng ông Ogden đâm
sầm vô hông con ngựa rồi lồm cồm đứng dậy chạy bán mạng ngược lên con đường, cái áo khoác thầy tu phất phơ che trùm từ đầu đến chân.
“Thầy nghĩ điều đó là đủ rồi, Harry à,” cụ Dumbledore nói. Cụ nắm lấy cùi chỏ Harry và kéo mạnh. Tích tắc sau, cả hai thầy trò lại bay vọt lên xuyên qua
bóng tối một cách nhẹ tênh, cho đến khi cả hai đáp xuống, đứng đối diện nhau, trong văn phòng của cụ Dumbledore lúc này đã mờ tối.
“Cô gái ở trong cái chòi có bị chuyện gì không?” Harry hỏi ngay, trong khi cụ Dumbledore thắp thêm đèn bằng một cái phẩy nhẹ cây đũa phép. “Cai cô
tên Merope, hay tên gìgìđó?”
“À, cô ta sống sót,” cụ Dumbledore nói, vừa ngồi xuống sau bàn làm việc và ra dấu cho Harry cũng ngồi xuống. “Ông Ogden độn thổ trở về Bộ và chỉ
trong vòng mười lăm phút sau đã trở lại với quân tiếp viện. Morfin và cha nó cố gắng chống trả, nhưng cả hai bị chế ngự, bị đưa ra khỏi chòi, và sau đó
bị Tòa án Pháp thuật kết án. Morfin, vì vốn có tiền án về tấn công Muggle, nên đã bị kêu án ba năm ở nhà ngục Azkaban. MarVoldermorto, kẻ đã gây
thương tích cho ông Ogden và nhiều nhân viên khác của Bộ Pháp thuật thìbị tù sáu tháng.”
“MarVoldermorto à?” Harry ngạc nhiên lặp lại cái tên.
“Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói, mỉm cười xác nhận. “Thầy hài lòng là con theo kịp câu chuyện.”
“Vậy lão già đó là…?”
“Ông ngoại của Voldermort, đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “MarVoldermorto cùng con trai Morfin và con gái Merope là hậu duệ cuối cùng của dòng họ
Gaunt, một dòng họ pháp sư rất lâu đời nổi tiếng về tánh khí hung tợn và bất thường truyền qua nhiều thế hệ do tập quán kết hôn với bà con họ hàng.
Thiếu hiểu biết cộng với kiểu cách quí tộc phô trương đưa tới hậu quả là của nả dòng họ đã bị hoang phí qua nhiều thế hệ trước khi MarVoldermorto
chào đời. Như con thấy đấy, ông ta sống trong cảnh nghèo nàn dơ dáy, tánh khí thô lỗ, và cực kỳ kiêu căng tự đại, với vài di sản của dòng họ mà ông ta
nâng niu như con trai mình, và hơn cả con giá mình.”
“Vậy Merope,” Harry chồm tới trước trên ghế của nó và nhìn đăm đăm cụ Dumbledore, “vậy Merope là… Thưa thầy, có phải điều đó có nghĩa cô ấy là…
mẹ của Voldermort?”
“Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Và ngẫu nhiên chúng ta cũng đã thoáng thấy cha của Voldermort. Thầy không biết con có để ý hay không?”
“Có phải người Muggle mà Morfin đã tấn công không, thưa thầy? Người đàn ông cõi ngựa ấy?”
“Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói, tươi cười. “Phải, đó là Tom Riddle cha, cậu Muggle đẹp trai thường cỡi ngựa ngang qua căn chòi của gia đình Gaunt,
người mà Merope phải lòng si mê đắm đuối.”
“Và cuối cùng họ cưới nhau à?” Harry nói với vẻ không tin được, không thể tưởng tượng hai người không giống nhau chút nào ấy lại có thể yêu nhau.
“Thầy nghĩcon quên mất,” cụ Dumbledore nói, “rằng Merope là một phù thủy. Thầy không tin rằng quyền năng pháp thuật của cô ta có thể bộc lộ ưu thế tối
đa khi còn bị cha mình khủng bố. Một khi MarVoldermorto và Morfin đã ở yên trong nhà tùAzkaban, một khi cô ta được tự do một mình lần đầu tiên trong
đời, thì thầy tin chắc, cô ta có thể bung ra để cho khả năng của mình phát triển hết mức và âm mưu một kế hoạch thoát khỏi cuộc sống vô vọng mà cô ta
đã phải chịu đựng suốt mười tám năm… Con có thể nghĩ ra biện pháp nào mà Merope có thể dùng để khiến Tom Riddle quên đi người bạn tình Muggle,
và phải lòng cô ta không?”
“Lời nguyền Độc đoán?” Harry suy đoán. “Hay là Tình dược?”
“Giỏi lắm. Về phần thầy thìthầy thiên về giả thuyết cô ta đã dùng một loại tình dược. Thầy chắc rằng như vậy sẽ lãng mạn hơn đối với cô ta, và thầy không
nghĩ cô ta gặp khó khăn lắm trong việc mời Riddle một ly nước, vào một ngày nóng bức nào đó, khi Riddle đang cỡi ngựa về nhà một mình. Dù trường
hợp nào xảy ra đi chăng nữa, thì chỉ trong vài tháng sau cái cảnh mà chúng ta vừa chứng kiến, ngôi làng Hangleton Nhỏ được thưởng thức một vụ xì
căng đan khủng khiếp. Con có thể tưởng tượng thiên hạ đàm tiếu như thế nào khi con trai ông điền chủ trốn đi xây tổ uyên ương với Merope, con gái một
kẻ bá vơ. Nhưng cái vụ tai tiếng chấn động cả làng ấy chẳng có nghĩa lý gìđối với MarVoldermorto. Ông ta từ nhà ngục Azkaban trở về, những mong thấy
cô con gái của mình ngoan ngoãn chờ mình về với bữa ăn nóng dọn sẵn trên bàn. Nhưng thay vìvậy ông ta chỉ nhìn thấy một lớp bụi dày ba phân phủ trên
bức thư vĩnh biệt giải thích việc cô con gái đã làm.
Từ tất cả những gì mà thầy có thể khám phá ra, thì kể từ lúc đó trở đi, ông ta không bao giờ nhắc tới sự tồn tại của cô con gái nữa. Cơn khủng hoảng về
sự bỏ trốn của cô con gái có lẽ đã góp phần làm cho ông ta chết sớm – hoặc cũng có thể ông ta chết vì không biết tự nấu ăn cho mình. Nhà ngục
Azkaban đã làm cho MarVoldermorto thực sự suy yếu, và ông ta đã không sống được cho đến lúc nhìn thấy Morfin trở về căn chòi.”
“Còn Merope? Cô ấy… cô ấy cũng chết sớm, phải không ạ? Chẳng phải là Voldermort được nuôi lớn lên trong một viện mồ côi sao?”
“Thực ra, đúng như vậy,” cụ Dumbledore nói. “Ở đây chúng ta phải giả thiết một số thứ, mặc dù thầy nghĩ cũng không khó khăn lắm để loại trừ dần nhằm
biết được điều gì đã xảy ra. Con thấy đó, trong vòng vài tháng trốn đi xây tổ uyên ương với nhau, Tom Riddle lại tái xuất hiện ở ngôi nhà trong trang trại ở
làng Hangleton Nhỏ mà không dắt vợ cùng về. Chuyện đồn đại lan nhanh khắp trong vùng là anh ta nói gìđó về “bùa mê ngải lú” và bị “hớp hồn”. Điều anh
ta muốn nói, thầy đoán chắc, là việc anh ta đã trải qua cơn mê ám rồi tỉnh ra, tuy nhiên thầy dám nói là anh ta không muốn nói thẳng ra những từ đó vì sợ
bị coi là điên. Tuy nhiên, khi dân làng nghe anh ta nói thế, họ cũng đoán được là Merope đã dối gạt Tom Riddle, đã giả vờ như sắp có con, và vì vậy mà
anh ta đã phải cưới cô ta.”
“Nhưng cô ấy có con thực mà.”
“Ấy là mãi một năm sau khi họ cưới nhau. Tom Riddle đã bỏ rơi vợ khi cô ấy đang có mang.”
“Có chuyện gìtrục trặc à?” Harry hỏi. “Tại sao tình dược hết hiệu nghiệm?”
“Lại suy đoán nữa thôi,” cụ Dumbledore nói, “nhưng thầy tin là Merope, kẻ yêu chồng tha thiết, không thể chịu đựng hơn nữa cảnh nô dịch chồng bằng
phương tiện pháp thuật. Thầy tin là cô ta đã tự nguyện ngưng cho chồng uống tình dược. Có thể, vốn mê muội, cô ta đã tin rằng giờ đây anh ta hẳn là đã
đáp lại tình yêu của cô. Có thể cô ta nghĩ anh ta sẽ ở lại vì đứa con. Nếu vậy thì cô đã tính toán sai lầm trong cả hai trường hợp. Anh ta đã bỏ rơi cô ta,
không bao giờ gặp lại cô ta, và không bao giờ bận tâm tìm hiểu coi con trai mình ra sao.”
Bầu trời bên ngoài đã đen như mực và những ngọn đèn trong văn phòng cụ Dumbledore dường như chiếu sáng rạng rỡ hơn trước đó.
“Thầy nghĩhôm nay như vậy là đủ rồi, Harry à,” cụ Dumbledore nói, sau một lúc im lặng.
“Dạ, thưa thầy,” Har nói.
Nó đứng lên, nhưng chưa rời phòng.
“Thưa thầy… biết tất cả những điều này về quá khứ của Vol có quan trọng không?”
“Thầy nghĩlà rất quan trọng,” cụ Dumbledore nói.
“Và nó… có liên quan gìđến lời Tiên tri không ạ?”
“Nó có mọi thứ liên quan đến lời Tiên tri.”
“Dạ,” Harry bối rối, nhưng cũng tin vậy.
Harry quay lưng bước đi, chợt một câu hỏi nảy ra, nó bèn quay lại.
“Thưa thầy, con có được phép kể cho Ron và Hermione mọi điều mà thầy vừa nói với con không?”
Cụ Dumbledore cân nhắc ngó nó một lúc, rồi nói, “Được, thầy nghĩ cậu Weasley và cô Granger đã chứng tỏ là những người đáng tin cậy. Nhưng Harry à,
thầy muốn đề nghị con hãy yêu cầu các trò ấy đừng kể lại cho bất kỳ ai khác nghe bất cứ điều gì về chuyện này. Sẽ chẳng hay ho gì nếu tin đồn lan ra là
thầy biết được hay đoán được nhiều ít thế nào những bímật của Chúa tể Voldermort.”
“Thưa thầy, không đâu. Con sẽ bảo đảm là chỉ có Ron và Hermione thôi ạ. Chúc thầy ngủ ngon.”
Nó lại quay lưng đi, và khi gần như đã ở ngưỡng cửa thìnón thấy cái vật đó. Nằm trên một trong mấy cái bàn nho nhỏ cao cẳng khẳng khiu bị đặt lên quá
nhiều thứ dụng cụ bằng bạc, là một chiếc nhẫn vàng cẩn mặt đá đen to, nứt nẻ, xấu xí.
“Thưa thầy,” Harry nói, vừa trố mắt nhìn chiếc nhẫn. “Cái nhẫn đó…”
“Sao?” Cụ Dumbledore nói.
“Thầy đã đeo nó khi chúng ta đến thăm giáo sư Slughorn đêm đó.”
“Đúng vậy,” cụ Dumbledore đồng ý.
“Nhưng chẳng phải… Thưa thầy, không phải đó cũng là chiếc nhẫn mà lão MarVoldermorto Gaunt đã đưa cho ông Ogden xem à?”
Cụ Dumbledore cúi đầu. “Chính chiếc nhẫn đó.”
“Nhưng mà làm sao…? Lâu nay thầy vẫn có nó sao?”
“Không, thầy chỉ mới thu được nó gần đây thôi,” cụ Dumbledore nói. “Thực ra thìchỉ vài ngày trước khi thầy đến đón con ở nhà dìdượng con.”
“Thưa thầy, vậy là vào khỏang thời gian thầy bị thương ở tay, phải không ạ?”
“Ừ, vào khoảng đó Harry à.”
Harry ngập ngừng. Cụ Dumbledore đang mỉm cười.
“Thưa thầy, chính xác là làm thế nào mà…?”
“Trễ quá rồi Harry à! Con nên nghe câu chuyện này vào lúc khác. Chúc con ngủ ngon.”
“Dạ, chúc thầy ngủ ngon.”
Chương 11
Trợ thủ Hermione
Như Hermione đã tiên đoán, những tiết trống của năm thứ sáu không phải là những giờ xả hơi sung sướng như Ron tưởng, mà là thời gian để gồng
mình làm cho kịp cả núi bài tập mà tụi nó bị giao về nhà làm. Tụi nó không chỉ học như thể ngày nào cũng có tiết kiểm tra, mà chính những buổi học cũng
trở nên căng thẳng hơn trước. Harry hầu như không hiểu tới một nửa những gìgiáo sư McGonagall nói với tụi nó vào những ngày này; ngay cả Hermione
cũng phải một hai lần xin cô nhắc lại lời hướng dẫn. Khó tin nhưng có thật, và khiến Hermione thêm ấm ức, ấy là môn Độc dược đã trở thành môn Harry
học giỏi nhất, nhờ vị Hoàng Tử lai.
Thầy cô bây giờ đòi hỏi học trò phải dùng thần chú không lời không chỉ trong môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám, mà cả trong môn Bùa phép và Biến
hình. Harry thường ngó qua mấy đứa bạn cùng lớp trong phòng sinh hoạt chung hay vào giờ ăn, thấy mặt mày tụi nó tím tái và căng thắng như thể xài quá
liều Ai-không-ị; nhưng Harry cũng hiểu đó là do tụi nó đã phải vật vã để có một câu thần chú linh nghiệm mà không cần phải niệm ra miệng oang oang.
Cho nên ra khỏi lâu đài đến nhà kiếng quả là được xả hơi; tụi nhỏ phải xử lý những thứ cây cỏ nguy hiểm hơn bao giờ hết trong môn Dược thảo, nhưng ít
nhất thìtụi nó còn được phép chửi bậy vung vít nếu con Vòi độc bất ngờ vồ chúng từ đằng sau.
Một hậu quả của khối bài làm khổng lồ và những giờ thực tập muốn điên món thần chú không lời là Harry, Ron và Hermione cho tới giờ vẫn chưa có thì
giờ đi thăm bác Hagrid. Bác ấy đã còn đến ăn ở bàn của giáo ban – một dấu hiệu chẳng lành; và có vài dịp tụi nó đi ngang qua bác trong hành lang hay
ngoài sân trường, thật khó hiểu, bác đã làm như không để ý thấy tụi nó hoặc không nghe tụi nó chào.
“Tụi mình phải đi và giải thích thôi,” Hermione nói, khi cô nàng ngước lên nhìn cái ghế khổng lồ bỏ trống của bác Hagrid ở bàn ăn giáo ban vào bữa điểm
tâm ngày thứ bảy tuần sau đó.
“Tụi mình có buổi kiểm tra chọn đội tuyển Quidditch sáng nay mà!” Ron nói. “Và tụi mình còn phải thực tập cái bùa Rót nước của thầy Flitwick! Với lại,
giải thích cái gì? Làm thế nào mà tụi mình có thể nói với bác là tụi mình ghét cái môn vớ vẩn của bác chớ?”
“Tụi mình đâu có ghét!” Hermione nói.
“Nói về phần mình thôi, mình không đời nào quên được mấy con Đuôi nổ.” Ron rầu rĩ nói. “Và bây giờ mình nói cho bồ biết, tụi mình khó mà thoát lắm. Bồ
chưa nghe bác ấy triền miên nói về chú em óc bã đậu của bác ấy đấy thôi. Tụi mình sẽ phải dạy Grawp cách cột dây giày nếu ở lại lớp học ấy.”
“Mình ghét cái việc tránh nói chuyện với bác Hagrid,” Hermione nói, tỏ ra buồn giận hết sức.
“Tụi mình sẽ đi thăm bác ấy sau buổi tập Quidditch,” Harry cam kết với cô bé. Nó cũng đang nhớ bác Hagrid, mặc dù cũng giống như Ron, nó nghĩ rằng
tụi nó sướng hơn nhiều nếu không có Grawp chen vô đời. “Nhưng việc thi tuyển có thể kéo dài hết buổi sáng, số người xin vô đội tuyển đông lắm.” Harry
cảm thấy hơi lo lắng về việc đương đầu với cuộc thử thách đầu tiên của chức Đội trưởng. “Mình chẳng biết tại sao đội bỗng nhiên nổi tiếng như vậy.”
“Ôi, thôi mà, Harry,” Hermione nói, đột ngột mất kiên nhẫn. “Không phải đội Quidditch nổi tiếng, mà chính là bồ! Bồ chưa bao giờ hấp dẫn hơn lúc này, và
thành thật mà nói, cũng chưa bao giờ hợp thời trang hơn lúc này.”
Ron thồn vào miệng một miếng cá tổ chảng. Hermione để dành cho nó một cái nhìn khinh bỉ trước khi quay trở lại với Harry.
“Bây giờ mọi người đều biết bồ đã nói sự thật, đúng không? Cả cái thế giới Pháp thuậth đã phải thừa nhận là bồ nói đúng về vụ Voldermort trở lại và
rằng bồ đã thực sự chiến đấu với hắn hai lần trong hai năm qua và đều thoát chết cả hai lần. Và giờ đây họ gọi bồ là “Kẻ được chọn”... Thôi, đừng giả
nai nữa, chẳng lẽ bồ không hiểu tại sao người ta khoái bồ à?”
Harry nhận thấy Đại sảnh đường sao mà bỗng nhiên nóng bức quá, cho dù trên trần trông vẫn có vẻ mưa và mát.
“Và bồ đã trải qua tất cả sự ngược đãi của Bộ khi họ tìm cách biến bồ thành một kẻ dở hơi và nói láo. Bồ vẫn còn có thể thấy vết tích trên mu bàn tay bồ,
chỗ mà cái mụ ác độc ấy đã bắt bồ phải viết lên bằng chính máu bồ, nhưng dù vậy bồ vẫn quyết trung thành với câu chuyện của bồ...”
“Bồ vẫn còn có thể thấy chỗ mà những bộ óc đó túm lấy mình ở Bộ, nhìn nè,” Ron nói, lật lật ống tay áo nó lên.
“Và nó cũng chẳng đau đớn gìnên bồ mới cao thêm ba tấc nội trong một mùa hè,” Hermione nói nốt, phớt lờ Ron.
“Mình thuộc loại mình dây mà,” Ron nói tưng tửng.
Bọn bưu cú đến, bay sà xuống qua những khung cửa sổ bị mưa tạt, rảy lên mọi người những giọt nước mưa tí ti. Hầu hết mọi người đều nhận được
nhiều thư hơn mọi khi; các bậc phụ huynh lo lắng rõ ràng là muốn nghe tin về con cái ở trường và đổi lại muốn báo tin cho chúng biết ở nhà mọi việc vẫn
tốt đẹp. Harry chẳng nhận được thư từ gìkể từ ngày khai trường; Người duy nhất thường viết thư cho nó giờ đây đã chết và mặc dù nó từng hy vọng thầy
Lupin sẽ thỉnh thoảng viết thư cho nó, nhưng cho tới giờ thì nó hoàn toàn thất vọng. Vì vậy giờ đây nó hết sức ngạc nhiên khi thấy con Hedwig trắng như
tuyết lượn vòng vòng trong đám cú xám và cú nâu. Hedwig đáp xuống trước mặt nó, mang theo một gói to vuông vức. Chỉ tích tắc sau, một gói y chang
như vậy đáp xuống ngay trước mặt Ron, xiểng liểng bên dưới con cú tíhon đã kiệt sức của nó, con Pigwidgeon.
“A!” Harry nói, vừa mở cái gói ra, để lộ một bản mới toanh của cuốn Chế tạo thuốc cao cấp vừa được nhà sách Flourish và Blotts gởi tới.
“Thế là tốt,” Hermione vui hẳn lên. “Bây giờ bồ có thể trả lại cuốn sách ghi chú nhăng nhít kia.”
“Bồ điên sao?” Harry nói. “Mình sẽ giữ lại nó! Này nhé, mình đã tính kỹ rồi...”
Nó rút bản cũ xì của cuốn Chế tạo thuốc cao cấp ra khỏi túi xách và dùng cây đũa phép của nó gõ lên sách, đồng thời lầm rầm “Rời rớt ra!” Cái bìa rời ra
ngay. Nó cũng làm y như vậy với cuốn sách mới toanh (Hermione trông như bị xúc phạm). Xong nó đổi hai cái bìa lại với nhau, rồi gõ đũa phép lên từng
cuốn, nói “Sửa lại!”
Thế là bản của Hoàng tử nằm đó, ngụy trang thành một cuốn sách mới bóc tem, còn bản của nhà sách Flourish và Blotts nằm kia, trông rõ là đồ xài qua
rồi.
“Mình sẽ trả lại Thầy Slughorn cuốn sách mới, thầy không thể phàn nàn, nó giá chín Galleon chứ bộ.”
Hermione mím chặt môi lại, tỏ vẻ tức giận và không thể chấp nhận được, nhưng cô nàng đã bị con cú thứ ba đáp xuống ngay trước mặt thu hút sự chú ý.
Con cú này mang đến tờ Nhật báo Tiên Tri ra ngày hôm đó. Cô nàng vội vàng mở báo ra và liếc qua trang nhất.
“Có ai mình quen bị chết không?” Ron hổi bằng cái giọng tuyệt đối vô tư; Mỗi lần Hermione mở báo ra nó đều hỏi cùng một câu hỏi đó.
“Không, nhưng có thêm nhiều vụ giám ngục tấn công,” Hermione nói. “Và một vụ bắt giữ.”
“Xuất sắc, ai vậy?” Harry nói, nghĩngay đến mụ Bellatrix Lestrange.
“Stan Shunpike,” Hermione nói.
“Stan Shunpike, người soát vé trên phương tiện vận chuyển Pháp thuậth phổ biến, Xe buýt Hiệp sĩ– đã bị bắt vìtình nghi liên quan đến hoạt động Tử thần
thực tử. Ông Shunpike, 21 tuổi, đã bị câu lưu vào khuya hôm qua sau một cuộc lục soát bất ngờ tại tư gia ông ta ở Clapham...”
“Stan Shunpike mà là một Tử thần thực tử à?” Harry nói, vừa nhớ lại chàng trai trẻ mặt đầy tàn nhang mà nó đã gặp cách đây ba năm. “Không đời nào!”
“Có thể anh ta bị ếm phải lời nguyền Độc đoán,” Ron nói ra vẻ biết điều. “Mình đâu có biết được.”
“Coi bộ không phải vậy,” Hermione nói, cô nàng vẫn tiếp tục đọc báo. “Bài báo này nói Shunpike bị bắt khi anh ta bị nghe lỏm đang nói về những kế
hoạch bí mật của bọn Tử thần thực tử trong một quán nhậu,” cô nàng ngẩng đầu lên với nét mặt băn khoăn. “Nếu bị ếm lời nguyền Độc đoán thì anh ta
khó mà có thể đi loanh quanh tán dóc về kế hoạch của bọn chúng, đúng không?”
“Nghe có vẻ như anh ta chỉ làm ra vẻ ta đây hiểu biết nhiều,” Ron nói. “Có phải anh ta là kẻ đã tuyên bố sẽ làm Thủ tướng Bộ Pháp thuật khi anh ta cố tan
tỉnh mấy cô tiên nhíđó không?”
“Ừ, chính anh ta,” Harry nói. “Mình không biết họ đang diễn trò gìmà lại nhắm vô Stan.”
“Có lẽ họ đang muốn làm ra vẻ như thể họ đang làm gì đó,” Hermione nói, cau mày lại. “Người ta đang hoảng sợ mà... Mấy bồ có biết là cha me hai chị
em sanh đôi Patil muốn đem con về nhà không? Và Eloise Midgen thìđã nghỉ học. Cha của nó đã đến đón nó về tối hôm qua.”
“Cái gì!” Ron nói, trợn tròn mắt nhìn Hermione. “Nhưng trường Hogwarts mới gọi là an toàn hơn ở nhà họ, nhất định an toàn hơn! Chúng mình có Thần
Sáng bảo vệ, rồi tất cả những bùa chú bảo vệ đặc biệt, và chúng mình còn có thầy Dumbledore nữa!”
“Mình không nghĩ là tụi mình luôn luôn có thầy bên cạnh,” Hermione nói rất nhỏ, liếc nhìn qua đầu tờ Nhật báo Tiên Tri về hướng bàn ăn giáo viên. “Mấy bồ
không để ý sao? Cả tuần nay chỗ ngồi của thầy thường xuyên để trống như ghế của bác Hagrid.”
Harry và Ron nhìn lên dãy bàn của giáo ban. Chiếc ghế của thầy hiệu trưởng quả thật để trống. Bây giờ Harry mới sực nghĩ ra, nó đã không gặp lại thầy
Dumbledore kể từ buổi học riêng cách đây một tuần lễ.
“Mình nghĩthầy đã rời khỏi trường để đi làm gìđó cho Hội,” Hermione nói rất nhỏ. “Ýmình nói là... tình hình có vẻ nghiêm trọng, đúng không?”
Harry và Ron không trả lời, nhưng Harry biết là cả ba đứa tụi nó đều đang suy nghĩgiống nhau. Đã xảy ra một sự cố khủng khiếp vào ngày hôm trước, khi
người ta gọi HannahAbbott ra khỏi lớp Dược thảo để báo tin là mẹ của nó đã chết khi được phát hiện ra. Từ bữa đó tụi nó đã không nhìn thấy Hannah
nữa.
Khi rời khỏi bàn nhà Gryffindor khoảng năm phút sau để đi ra sân đấu Quidditch, tụi nó đi ngang qua Lavender Brown và Parvarti Patil. Nhớ lại điều
Hermione vừa nói về chuyện cha mẹ hai chị em sinh đôi Patil muốn các con rời khỏi trường Hogwarts, Harry không ngạc nhiên khi nhìn hai cô bạn chí
thân đang thủ thỉ với nhau, có vẻ buồn rầu lắm. Cái khiến nó ngạc nhiên là khi Ron đi ngang tầm hai cô nàng, Parvati bỗng nhiên huých cùi chỏ Lavender
một cái, cô nàng này quay đầu lại và nở một nụ cười toe toét với Ron. Ron chớp chớp mắt với cô nàng, rồi đáp lại bằng một nụ cười ngượng ngập.
Bước chân của cậu chàng bỗng nhiên trở nên khệnh khạng. Harry rnagiáo sư nhịn cười, khi chợt nhớ lại là Ron cũng đã từng nín cười khi nghe chuyện
Malfoy đạp bể mũi Harry; Tuy nhiên, Hermione tỏ vẻ lạnh lùng và đi tách xa tụi nó suốt con đường đến sân vận động qua màn mưa phùn lạnh lẽo mịt mờ,
rồi bỏ đi tìm một chỗ trên khán đài mà không thèm chúc Ron may mắn.
Như Harry đã dự đoán, buổi tập thử để chọn đội tuyển đã kéo dài gần hết buổi sáng. Dường như một nửa học sinh của nhà Gryffindor có mặt, từ những
học sinh năm thứ nhất lo âu nắm chặt một mớ những cây chổi bay cũ dễ sợ của trường, đến đám đàn anh năm thứ bảy, có một anh chàng đô con, mái
tóc thô xoắn như dây kẽm gai mà Harry nhận ra ngay từ trên tàu lửa Tốc hành Hogwarts.
“Tụi mình đã gặp nhau trên tàu, trong toa của lão Sluggy,” anh chàng nói một cách tự tin, trong lúc bước ra khỏi đám đông để bắt tay Harry. “Mình là
Cormac McLaggen, Thủ môn.”
“Năm ngoái anh không dự cuộc tuyển chọn thì phải?” Harry hỏi, lưu ý đến bề ngang của McLaggen và nghĩ anh chàng này có thể phòng chắn đến ba cọc
gôn mà không cần phải di chuyển.
“Mình nằm bệnh thất trong lúc có cuộc thi chọn,” McLaggen nói, với vẻ hơi nổ. “Ăn hết nửa ký trứng Cà nhỏng trong một vụ cá cược.”
“Hay,” Harry nói. “Thôi... anh đợi ở đây nhé...“ Nó chỉ về phía rìa của sân đấu, gần chỗ Hermione đang ngồi. Nó nghĩ nó vừa nháng thấy một thoáng bực
mình lướt qua gương mặt McLaggen và nó tự hỏi liệu McLaggen có đang trông chờ được đối xử ưu tiên bởi vì cả hai đứa nó đều là học trò cưng của
“lão Sluggy” không. Harry quyết định bắt đầu bằng bài kiểm tra cơ bản, yêu cầu tất cả ứng viên vào đội tuyển chia thành những nhóm mười người bay
quanh sân đấu một vòng. Đây là một quyết định hay: nhóm 10 người đầu tiên gồm những học sinh năm thứ nhất, và không còn gì rõ ràng hơn cái việc là
chúng chưa từng bay bao giờ. Chỉ có mỗi một thằng nhóc là xoay sở trụ lại được trên cán chổi lâu hơn vài giây, và thằng bé ngạc nhiên đến nỗi đâm
ngay vào một trong mấy cái cọc gôn.
Nhóm thứ hai gồm mười cô gái ngốc nghếch mà Harry chưa từng gặp bao giờ, mấy cô bé này chỉ đổ ra cười khúc khích và níu chặt lấy nhau kho Harry
thổi còi. Trong số này có Romilda Vane. Khi Harry bảo các cô rời khỏi sân đấu, các cô đi ra với vẻ không phấn khởi lắm, rồi ra chỗ ngồi trên khán đài để
vặn hỏi ý kiến của người khác.
Nhóm thứ ba thì mới bay được nửa vòng đã té dồn cục. Nhóm thứ tư thì hầu hết ra sân mà không có chổi bay. Nhóm thứ năm hóa ra lại là học sinh bên
nhà Hufflepuff.
“Nếu ở đây có ai không phải học sinh nhà Gryffindor,” Harry gào lên, nó bắt đầu bực mình thực sự, “thìlàm ơn rời khỏi sân đấu giùm!”
Tạm ngưng một lát, rồi hai thằng nhóc nhà Ravenclaw vừa chạy như điên ra khỏi sân đấu vừa rú lên cười.
Sau hai tiếng đồng hồ, nhiều lời kêu ca, và nhiều cơn thịnh nộ, một vụ tai nạn chổi bay hiệu Sao chổi Hai sáu chục và nhiều cái răng mẻ, Harry kiếm được
cho mình ba Truy thủ là Katie Bell, người trở lại đội tuyển sau một cuộc tập thử xuất sắc; một khám phá mới là Demelza Robin, người đặc biệt giỏi luồn
lách tránh mấy trái Bludger; và Ginny Weasley, người đã bay trội hơn tất cả những đối thủ khác và ghi cho mình mười bảy điểm vô gôn. Tuy hài lòng với
sự tuyển chọn của mình, Harry vẫn phải tự mình gào thét với nhiều kẻ phàn nàn đến khản cả giọng và bây giờ đang không khổ chịu đựng một trận chiến
với những ứng viên Tấn thủ bị loại.
“Đó là quyết định cuối cùng của tôi và nếu bạn không chịu tránh ra cho các ứng viên Thủ môn thìtôi sẽ ếm xìbùa cho mà coi,” nó rống lên.
Không người nào trong hai Tấn thủ mà nó chọn có được sự xuất sắc của cựu Tấn thủ Fred và George, nhưng nó vẫn tưong đối hài lòng với hai đứa sau:
Jimmy Peakes, một thằng lùn năm thứ ba có bộ ngực rộng, thằng này xoay sở sao đó mà làm nổi lên hawnrm một cục u bự bằng cái trứng ngay sau
chẩm đầu của Harry bằng một cú đấm Bludger tàn bạo; và Ritchie Coote, người trông yếu ớt như cỏ, nhưng nhắm rất ư trúng đích. Hai đứa mới tuyển
này giờ đây nhập vô bọn Katie, Demelza và Ginny trên khán đài để xem cuộc tuyển chọn thành viên cuối cùng của đội.
Harry đã thận trọng chừa cuộc tuyển chọn thủ môn đến lúc cuối cùng, hy vọng lúc đó sân vận động đã vơi bớt người đi và những người có liên quan trong
cuộc tuyển chọn cũng đã bớt phần nào áp lực. Nhưng thiệt không may, nguyên đám ứng cử viên bị loại và một số người nữa đã kéo xuống sau bữa
điểm tâm kéo dài, giờ đây tất cả nhập vô đám đông, khiến cho lượng khán giả càng đông hơn bao giờ hết. Khi mỗi thủ môn bay lên cột gôn, đám đông
rống lên, kẻ hoan hô, kẻ đả đảo, cùng điếc tai như nhau. Harry liếc về phía Ron. Ron luôn luôn có vấn đề căng thẳng thần kinh; Harry đã hy vọng là nhờ
thắng được trận chung kết hồi năm ngoái mà Ron khỏi được chứng lo hoảng đó, nhưng dường như chẳng ăn thua gì: Ron đang chuyển sang màu xanh
tái mét mong manh.
Không ai trong số năm ứng viên đầu tiên cứu được cột gôn quá hai phen. Đáp lại sự thất vọng ghê gớm của Harry, Cormac McLaggen đã cứu được
bốn trong năm trái phạt đền. Tuy nhiên, trái cuối cùng, anh ta vọt về hướng hoàn toàn ngược lại; đám đông phá ra cười nhạo báng và McLaggen trở lại
mặt đất đứng nghiến răng.
Ron có vẻ như sắp ngất khi trèo lên cây chổi bay Quét sạch Mười một.
“May mắn nhé!” Một tiếng kêu vang lên từ khán đài. Harry ngoái nhìn lại, tưởng sẽ thấy Hermione, nhưng hóa ra là Lavender Brown. Harry thiệt tình muốn
giấy mặt vô hai bàn tay, như cô nàng sẽ làm thế một lát sau, tuy nhiên vì nghĩ mình là đội trưởng, mình nên tỏ ra dày dạn hơn, thế là nó quay lại xem Ron
tập tử.
Nhưng nó chẳng cần lo lắng: Ron cứu được một hơi một, hai, ba, bốn, năm trái phạt đền. Sướng quá, và khó khăn lắm mới không hùa theo đám đông
hoan hô rần rần, Harry quay lại nói với McLaggen rằng, thiệt là không may, Ron đã đánh bại anh ta, nhưng nó nhận thấy ngay gương mặt McLaggen lúc
ấy đỏ au và chỉ cách mặt nó có vài phân. Nó vội vã lùi lại.
“Em gái nó đã không chơi hết sức,” McLaggen hằm hè nói. Một mạch máu nổi cộm trên thái dương của anh chàng phập phồng y như mạch máu trên
vầng trán của dượng Vernon mà Harry thường được chiêm ngưỡng. “Con nhỏ để cho anh nó phá bóng dễ ợt.”
“Tầm bậy,” Harry lạnh lùng nói. “Đó là trái mà Ron sém nữa bắt hụt.”
McLaggen dấn một bước tiến gần Harry hơn, lần này Harry đứng yên tại chỗ.
“Cho tôi thử một lần nữa.”
“Không,” Harry nói. “Anh đã thử rồi.Anh đã cứu được bốn trái. Ron cứu được năm. Ron là thủ môn, nó thắng một cách công bằng và rõ ràng. Tránh ra.”
Nó thoáng nghĩ McLaggen có thể thụi nó lắm, nhưng anh chàng chỉ làm mình nguôi giận bằng cái nhăn mặt cực kỳ xấu xí rồi hầm hầm bỏ đi, gầm gừ điều
gìđó nghe như hăm dọa trời xanh.
Harry quay lại thấy đội tuyển mới của nó đang nhìn nó tươi cười.
“Giỏi lắm,” nó khào khào nói. “Các bạn bay hay lắm…”
“Bồ chơi thiệt xuất sắc, Ron à!”
Lần này thì đúng là Hermione đang từ khán đài chạy về phía tụi nó; Harry nhìn thấy Lavender đi ra khỏi sân đấu, taqy nắm tay Parvati, trên mặt có một vẻ
hơi quạu. Ron trông có vẻ cực kỳ hài lòng với chính mình và thậm chícòn có vẻ cao hơn bình thường khi nó nhe răng cười với cả đội và với Hermione.
Sau khi định giờ cho buổi tập dượt toàn đội lần thứ nhất vào thứ năm tới, Harry, Ron và Hermione tạm biệt những người khác trong đội và đi về phía căn
chòi của bác Hagrid. Một mặt trời ướt lem nhem đang cố gắng ngoi ra khỏi những đám mây và cuối cùng trời cũng đã tạnh mưa phùn. Harry cảm thấy
đói cực kỳ; nó hy vọng ở nhà bác Hagrid có cái gìđó để ăn.
“Mình cứ tưởng sắp để vuột trái phạt đền thứ tư chứ,” Ron đang vui vẻ nói. “Một cú sút quỹ quyệt của Demelza, mấy bồ có nhận thấy không, nó hơi xoáy
một chút…”
“Có, có chứ, bồ đã chơi tuyệt cú mèo,” Hermione nói, có vẻ khoái.
“Đằng nào thìmình cũng giỏi hơn McLaggen,” Ron nói bằng một giọng vô cũng thảo mãn. “Mấy bồ có tháy anh ta nhào ra hướng tầm bậy khi chụp trái thứ
năm không? Trông như thể anh ta bị Khiến…”
Harry ngạc nhiên khi thấy Hermione ửng đỏ cả mặt khi nghe những lời này. Ron chẳng để ý gì cả; nó quá bận miêu tả với từng chi tiết trìu mến về những
trái phạt đền khác của nó.
Con bằng mã Buckbeak bị cột phía trước căn chòi của bác Hagrid. Nó mổ mổ cái mỏ sắc như dao lam kh thấy bọn Harry. Nó mổ mổ cái mỏ sắc như
dao lam khi thấy bọn Harry đến gần và nó xoay cái đầu khổng lồ về phía tụi nhỏ.
“Ô, ghê quá,” Hermione lo sợ nói. “Nó cũng hơi dễ sợ, đúng không?”
“Dỗ nó đi, bồ đã từng cỡi nó mà, phải không?” Ron nói. Harry bước tới trước và cúi thấp chào con bằng mã, mắt nó nhìn mắt con vật chăm chăm không
hề chớp. Sau vài giây, Buckbeak cũng khuỵu chân xuống chào đáp lại.
“Mày khỏe không?” Harry hỏi bằng giọng nhỏ nhẹ, vừa di chuyển tới trước để vuốt ve cái đầu phủ lông vũ của con bằng mã. “Nhớ chú ấy hả? Nhưng mày
ở đây với bác Hagrid cũng ổn hả?”
“Ôi!” một giọng nói to vang lên.
Bác Hagrid đang rảo bước đi nhanh quanh góc căn chòi của bác, đeo một cái tạp dề bông to tổ chảng và xách một bịch khoai tây. Con chó săn vĩ đại
của bác, con Fang, quấn quít bên chân bác; Con Fang phát sủa inh lên và phóng vọt tới trước.
“Tránh xa con chó! Nếu không nó táp mất ngón tay ràng chịu... Ủa. Thìra tụi bay.”
Fang đang nhảy chồm chồm lên Hermione và Ron, tìm cách liếm vành tai tụi nó. Bác Hagrid đứng lại nhìn tụi nó chừng một phần giây, rồi quay lưng và sải
chân bước nhanh vô trong căn chòi, đóng sầm cánh cửa lại sau lưng.
“Ôi thôi!” Hermione nói, có vẻ xúc động mạnh.
“Đừng lo chuyện đó,” Harry nói giọng quả quyết. Nó đi tới cánh cửa và gõ thiệt mạnh. “Bác Hagrid! Mở cửa ra, tụi con muốn nói chuyện với bác!”
Chẳng nghe động tĩnh gìbên trong.
“Nếu bác không mở cửa ra, tụi con sẽ tông sập cửa!” Harry nói, vừa rút cây đũa phép ra.
“Harry!” Hermione nói, nghe hơi hoảng. “Bồ không thể…”
“Có chứ, mình dư sức!” Harry nói. “Đứng lùi lại...”
Nhưng trước khi nó nói thêm được điều gì thì cánh cửa đã lại mở tung ra như Harry thừa biết là nó nhất định sẽ phải mở, và bác Hagrid đứng đó, bất
chấp đang đeo tạp dề bông, trừng mắt ngó xuống nó, đầy vẻ đe dọa.
“Ta là một giáo viên!” Bác gầm lên với Harry. “Một giáo viên, Potter à! Sao cậu dám đe dọa phá sập cửa nhà ta hả !”
“Dạ xin lỗi, thưa ngài,” Harry nói, nhấn mạnh vào mấy chữ cuối trong khi nhét cây đũa phép vô trong tấm áo chùng.
Bác Hagrid có vẻ choáng váng. “Từ lúc nào trò bày đặt gọi ta là ‘ngài’ hả ?”
“Từ lúc nào thày bày đặt gọi con là ‘Potter’ hả ?”
“Ôi, thôi, lanh quá trời,” bác Hagrid càu nhàu. “Rất là vui. Vậy là con lanh hơn bác hả ? Được thôi, vô đây vậy, đồ nhóc con bội nghĩa…“
Lầu bầu gìđó nghe không rõ, bác đứng qua một bên để cho tụi nó bước vào. Hermione vội rón rén bước theo sau Harry, có vẻ hơi sợ.
“Sao?” Bác Hagrid gắt gỏng hỏi, khi Harry, Ron và Hermione ngồi xuống quanh cái bàn gỗ vĩ đại, con Fang lập tức nằm gác đầu lên gối Harry và nhễu
dãi tèm lem tấm áo chùng của nó.
“Chuyện gìđây ? Thương hại bác hả ? Cho rằng bác cô đơn hay gìgìhả ?”
“Đâu có,” Harry nói ngay. “Tụi con muốn gặp bác.”
“Tụi con nhớ bác !” Hermione run run nói.
“Nhớ bác hả?” Bác Hagrid khụt khịt mũi. “Ờ, được.”
Bác bước uỳnh uỵch khắp căn chòi, pha trà trong cái ấm đồng vĩ đại, lẩm nhẩm luôn miệng. Cuối cũng bác dằn xuống bàn trước mặt tụi nó ba cái tách
bự bằng cái xô chứa một thứ nước trà màu nâu gụ và một cái dĩa bánh cứng như đá. Harry đói đến nỗi thèm ăn ngay cả món bánh bác Hagrid làm, nên
nó lấy ngay một cái.
“Bác Hagrid à,” Hermione rụt rè nói, sau khi bác Hagrid cùng ngồi xuống bàn với tụi nó và bắt đầu gọt vỏ khoai tây với một vẻ thô bạo khiến tụi nó có cảm
tưởng là mỗi củ khoai tây đã làm điều gìđó rất ư tầm bậy đối với bác. “Bác biết cho, tụi con thiệt tình muốn học tiếp môn Chăm sóc sinh vật huyền bí.”
Bác Hagrid khịt mũi một cái nữa rõ to. Harry có phần tin là mấy con ma xó đã nhập vô mấy củ khoai tây, và thâm tâm nó mừng là tụi nó không bị ở lại ăn
tối…
“Thiệt mà !” Hermione nói. “Nhưng tụi con chẳng đứa nào sắp xếp được thời khóa biểu!”
“Ừ. Được thôi,” bác Hagrid lại nói.
Có một tiếng gì lép nhép rất buồn cười khiến tụi nó quay đầu lại nhìn: Hermione ré lên một tiếng nho nhỏ, và Ron nhảy vọt ra khỏi chỗ ngồi và lật đật đi
vòng qua cái bàn tránh xa cái thùng gỗ khổng lồ đặt nơi góc chòi mà bây giờ tụi nó mới để ý tới. Cái thùng đó đầy nhóc một thứ gì giống như những con
gioig dài ba tấc, nhớt nhợt, trắng bệch, và loi ngoi quằn quại.
“Cái gìvậy, bác Hagrid?” Harry hỏi, cố gắng làm ra vẻ hứng thú hơn là ghê tởm, nhưng đồng thời lại bỏ cái bánh đá của nó xuống.
“Chỉ là mấy con gioig khổng lồ,” bác Hagrid nói.
“Mấy con đó lớn lên thành…?” Ron hỏi, coi bộ còn sờ sợ.
“Chúng không lớn lên thành cái gìhết,” bác Hagrid nói. “Bác sắp đem nó nuôi Aragog.”
À hết sức bất ngờ bác òa ra khóc.
“Bác Hagrid!” Hermione kêu lên, đứng phắt dậy, vội vã chạy một vòng dài quanh cái bàn để tránh cái thùng giòi, đến bên bác Hagrid, vòng tay qua đôi vai
đang run run của bác. “Có chuyện gìvậy bác?”
“Chuyện… nó…” Bác Hagrid nức nở, đôi mắt đen nâu của bác ràn rụa nước mắt trong khi bác lau mặt bằng cái tạp dề bông. “Chẳng là… Aragog… bác
nghĩnó đang hấp hối… Nó đã bệnh suốt màu hè rồi nó khá lên… bác không biết bác sẽ làm gìnếu nó… bác và nó đã bầu bạn với nó biết bao lâu…”
Hermione vỗ nhẹ vai bác Hagrid, có vẻ như hoàn toàn mất hết lời lẽ để nói. Harry biết cảm giác của cô bé, Nó đã từng biết bác Hagrid đưa gấu nhồi
bông cho một con rồng nhí hung hăng chơi, từng thấy ác ngâm nga hát cho những con bọ cạp khổng lồ có vòi độc và càng bén, từng cố gắng dỗ dành
người em khác cha khổng lồ cục súc, nhưng đây có lẽ là điều khó hiểu nhất trong những nỗi đam mê quái vật của bác: con nhện khổng lồ biết nói,
Aragog, con vật sống sâu tuốt trong Rừng Cấm, con vật mà Ron và Harry đã thoát được trong đường tơ kẽ tóc hồi bốn năm trước.
“Có… có chuyện gìtụi con có thể giúp được không?” Hermione nói, phớt lờ những cái nhăn mặt và lắc đầu như điên của Ron.
“Bác nghĩ là không, Hermione à,” bác Hagrid thổn thức, cố gắng ngăn dòng nước mắt tuôn như lũ của bác. “Nghĩ coi, bầy còn lại… gia đình của
Aragog… bây giờ nó bệnh, tụi nó giở chứng… hơi cứng đầu…”
“Dạ, con nghĩtụi con có biết chút chút mặt đó của tụi nó rồi,” Ron nói nhỏ.
“…Bác nghĩ ngoài bác ra không ai an toàn đến được gần bầy đó lúc này,” bác Hagrid nói nốt, hỉ mũi thiệt mạnh vô cái tạp dề rồi ngước nhìn lên. “Nhưng
cũng cám ơn con đã có lòng, Hermione à… Điều đó an ủi dữ lắm…”
Sau đó, không khí nhẹ đi đáng kể, bởi vì mặc dù cả Harry và Ron đều không tỏ vẻ sốt sắng đem lũ giòi khổng lồ đi nuôi một con nhện khổng lồ khát máu,
bác Hagrid dường như vẫn coi là tụi nó có thiện chílàm chuyện đó, và bác trở lại là con người bình thường của chính bác.
“À, bác vẫn biết là tụi bay khó mà nhét bác vô đâu trong cái thời khóa biểu của tụi bay,” bác nói mộc mạc, vừa rót thêm trà cho tụi nó. “Ngay cả nếu như
tụi bay có xin xài phép Đổi giờ đi nữa…”
“Tụi con không thể làm vậy được nữa,” Hermione nói. “Tụi con đã làm tan nát hết toàn bộ kho dự trữ phép Đổi giờ của Bộ Pháp thuật lúc tụi con ở đó hồi
mùa hè. Chuyện đó có đăng trên Nhật báo Tiên Tri.”
“Ờ, vậy thì,” bác Hagrid nói, “tụi bay chẳng còn cách nào… Bác thiệt là tiếc bác đã… tụi bay biết… bác đã lo lắng quá về Aragog… và bác cứ thắc mắc
không biết giáo sư Grubbly-Plank có dạy qua…”
Về chuyện này cả ba đứa tụi nó tuyên bố dứt khoát và láo toét rằng giáo sư Grubbly-Plank, người đã dạy thay bác Hagrid mấy buổi, là một giáo viên
khủng khiếp, kết quả là vào lúc bác Hagrid vẫy tay tiễn tụi nó ra khỏi căn chòi vào lúc hoàng hôn, bác đã tỏ ra rất hồ hởi phấn khởi.
“Mình đang đói chết đi được,” Harry nói, khi cánh cửa đã đóng sau lưng và tụi nó vội vã chạy băng qua sân trường tối om và hoang vắng; nó đã đầu hàng
cái bánh đá sau khi nghe một tiếng rắc xui xẻo vang lên từ một trong những cái răng hàm của nó.
“Và tối nay mình còn phải cấm túc với Thầy Snape nữa, mình chẳng có thìgiờ đâu để ăn tối…”
Khi về đến tòa lâu đài, tụi nó bắt gặp Cormac McLaggen đi vào Đại sảnh đường. Anh chàng cố gắng hai lần mới qua được cửa; lần thứ nhất anh ta bị
đẩy bật ra ngoài. Ron cứ ngoác miệng ra cười hả hê và rảo bước đi theo sau anh ta vào sảnh đường, nhưng Harry nắm cánh tay Hermione và giữ cô bé
lại.
“Chuyện gì?” Hermione hỏi giọng thủ thế.
“Nếu bồ hỏi mình,” Harry nói nhỏ, “McLaggen trông có vẻ như bị Khiến hồi sáng này. Và lúc đó anh ta đứng ngay phía trước chỗ bồ ngồi.”
Hermione đỏ mặt.
“Ừ, thì thôi vậy. Mình đã làm chuyện đó,” cô bé thì thầm, “nhưng lẽ ra bồ nên nghe cái cách anh ta nói về Ron và Ginny! Với lại, anh ta có tánh khí cà chớn,
bồ thấy anh ta phản ứng như thế nào khi không được tuyển rồi đó… Bồ đâu có muốn có một người như vậy trong đội tuyển của bồ đâu.”
“Không,” Harry nói. “Không, mình cho đúng là thế thật. Nhưng như vậy là không trung thực, phải không, Hermione?”
“Thôi, im đi,” Hermione nạt ngang khi thấy Harry cười điệu.
“Hai bồ đang làm gìvậy?” Ron hỏi, xuất hiện trở lại nơi khung cửa vào Đại sảnh đường, trông có vẻ nghi ngờ.
“Không có gìhết,” Harry và Hermione cùng nói, và hai đứa vội vã đi theo Ron.
Mùi thịt bò nướng làm bao tử Harry quặn đau vì đói, nhưng tụi nó còn chưa kịp bước chân tới cái bàn ăn của nhà Gryffindor thì giáo sư Slughorn đã hiện
ra trước mặt, chắn ngang đường đi.
“Harry, Harry, đúng chóc người mà thầy đang hy vọng gặp!” Thầy thân mật nói oang oang, vừa vuốt vuốt hai chót ria hải mã và ểnh ểnh cái bụng bự tổ
chảng. “Thầy đã hy vọng gặp được con trước bữa ăn chiều! Con thấy sao nếu thay vì ăn bữa ciều này, con qua phòng thầy ăn tối. Thầy mở một bữa tiệc
nho nhỏ, chỉ có vài ngôi sao đang lên. McLaggen sẽ đến và Zabini, cô Melinda Bobbin quyến rũ – thầy không biết con có biết cô ta không? Gia đình cô
bé làm chủ hàng loạt các tiệm bào chế thuốc... và, dĩnhiên, thầy rất hy vọng cô Granger sẽ dành cho thầy cái hân hạnh được đón tiếp.”
Thầy Slughorn khẽ nghiêng mình chào Hermione khi kết thúc câu nói. Làm như thể Ron chẳng hề có mặt ở đó; Thầy Slughorn chẳng buồn ngó tới nó.
“Thưa thầy, con không thể đến được.” Harry nói ngay. “Con bị cấm túc với Thầy Snape.”
“Ối con ơi!” Thầy Slughorn nói, mặt thầy xịu xuống một cách khôi hài. “Con ơi con, thầy trông mong vào con lắm lắm, Harry à! Được rồi, thê này, thầy sẽ
chỉ phải nói một lời với Thầy Snape và giải thích tình huống. Thầy tin là thầy sẽ có thể thuyết phục thầy ấy hoãn lại cái vụ cấm túc cho con. Ừ, thầy sẽ gặp
lại hai con sau nhé!” Nói rồi thầy lăng xăng đi ra khỏi Đại sảnh đường.
“Thầy ấy đừng có hòng mà thuyết phục được Thầy Snape,” Harry nói, ngay khi Thầy Slughorn đã đi đủ xa để không còn nghe được điều nó nói. “Vụ cấm
túc này đã được hoãn một lần; Thầy Snape chịu hoãn vìthầy Dumbledore, nhưng thầy ấy sẽ chẳng đời nào làm điều đó vìbất cứ ai khác.”
“Ôi, mình ước gìbồ có thể đi dự tiệc, mình không muốn đi một mình!” Hermione nói một cách lo lắng; Harry biết là cô nàng đang nghĩđến McLaggen.
“Mình chắc là bồ sẽ không lẻ loi đâu. Ginny có lẽ cũng được mời,” Ron ngắt ngang, nó dường như không lấy làm hân hạnh được Thầy Slughorn lờ tịt đi.
Sau bữa ăn tối tụi nó trở về tháp Gryffindor. Căn phòng sinh hoạt chung đông đúc, bởi vìgiờ này hầu hết mọi người đều đã ăn tối xong, nhưng tụi nó cũng
kiếm được một cái bàn trống và ngồi xuống; Ron, mặt ủ mày ê từ lúc gặp Thầy Slughorn đến giờ, ngồi khoanh tay ngước mặt nhìn lên trần nhà. Hermione
với lấy tờ báo Tiên tri Buổi chiều ai đó bỏ lại trên một cái ghế.
“Có gìmới không?” Harry hỏi.
“Thực ra không...” Hermione dã mở tờ báo ra và liếc vào trang trong. “Ôi, xem này, ba của bồ trên báo nè, Ron... Bác không sao cả...” cô bé nhanh nhẩu
nói thêm, bởi vì Ron dáo dác nhìn quanh cảnh giác. “Báo chỉ nói là bác ấy vừa đến thăm nhà Malfoy. ’Cuộc lục soá nơi cư trú của Tử thần thực tử lần thứ
hai này dường như không đưa tới kết quả nào. Ông Arthur Weasley của SỞ Dò tìm và Tịch thu Bùa chú phòng vệ giả mạo nói là đội của ông hành động
dựa trên một chỉ điểm đáng tin cậy.”
“Ừ, cảnh báo của mình đó!” Harry nói. “Mình đã nói với bác ấy ở Nhà ga Ngã tư vua về vụ Malfoy và cái món đồ mà nó cố gắng ép ông Borgin sửa chữa!
Chà, nếu cái đó không có ở nhà nó, thìắt là nó đã đem theo cái đó vô trường Hogwarts...”
“Nhưng làm sao mà nó làm được chứ, Harry?” Hermione nói, vừa đặt tờ báo xuống với vẻ ngạc nhiên. “Tất cả chúng ta đều bị lục soát khi đến trường,
đúng không?”
“Mấy bồ bị lục soát hả?” Harry hỏi, giật mình sửng sốt. “Mình đâu có bị!”
“Ừ không, dĩ nhiên là bồ không bị, mình quên là bồ đến trễ... Thì vậy đó, thầy Filch rà khắp tất cả tụi này bằng phép Dò tìm bí mật khi tụi này vừa bước
chân vào tiền sảnh. Bất cứ vật thể Hắc ám nào cũng sẽ bị tìm thấy, bằng chứng là Crabbe có một cái đầu lâu teo tóp bị tịch thu. Thành ra bồ thấy đó,
Malfoy không thể nào đem vào trường cái gìnguy hiểm!”
Lúng túng mấtmột lúc, Harry ngắm Ginny đùa chơi với con Bông Thoa Arnold một hồi trước khi tìm được lối thoát khỏi thế bí.
“Vậy thìai đó đã gửi cho nó bằng bưu cú,” Harry nói. “Má nó hay ai đó.”
“Tất cả bưu cú cũng bị kiểm tra,” Hermione nói. “Thầy Filch đã nói với tụi mình như thế khi thầy rà cái phép Dò tìm bí mật bất cứ nơi nào thầy có thể rà
được.”
Thực sự cứng họng phen này, Harry không kiếm ra được lời nào để nói. Dường như chẳng có cách nào mà Malfoy có thể đem một vật thể Hắc ám nguy
hiểm vô trường được. Nó nhìn sang Ron với chút hy vọng, anh chàng này vẫn đang ngồi khoanh tay, chăm chú nhìn sang Lavender Brown.
“Bồ có thể nghĩxem Malfoy có cách nào...?”
“Ôi, dẹp đi, Harry,” Ron nói.
“Nghe đây, đâu phải lỗi mình đâu nếu Thầy Slughorn mời Hermione và mình tới bữa tiệc nhảm nhícủa ổng, tụi này đâu có muốn đi, bồ biết mà!” Harry nói,
cơn sùng bố nổ ra.
“Ừ, bởi vìtôi chẳng được mời tới bữa tiệc nào hết,” Ron nói, lại đứng dậy, “Rôi nghĩtôi sẽ đi ngủ.”
Nó đùng đùng đi về phía cửa vào phòng ngủ nam, bỏ mặc Harry và Hermione trố mắt nhìn theo.
“Harry ơi!” Truy thủ mới Demelza Robin bỗng nhiên xuất hiện bên vai nó. “Mình đem cho bồ một lời nhắn nè.”
“Của giáo sư Slughorn hả?” Harry hỏi, ngồi thẳng dậy tràn trề hy vọng.
“Không... của giáo sư Snape,” Demelza nói. Trái tim Harry tụt xuống. “Thầy nói là bồ phải đến văn phòng thầy vào lúc tám giờ rưỡi tối nay để cấm túc...
ơ... bất kể bồ nhận được bao nhiêu lời mời mọc tiệc tùng. Và thầy muốn bồ biết là bồ sẽ phải lựa mấy con Nhu trùng thúi ra khỏi đám trung lành, để dùng
trong môn Độc dược và... thầy nói khỏi cần đem theo găng tay bảo hộ.”
“Được,” Harry nói gọn. “Cảm ơn nhiều nhé, Demelza.”
Chương 12
Bạc và Ngọc
Cụ Dumbledore đang ở đâu và cụ đang làm gì? Harry chỉ thoáng thấy thầy hiệu trưởng có vài lần trong mấy tuần lễ sau đó. Cụ hiếm khi xuất hiện trong
những bữa ăn, và Harry chắc chắn Hermione đúng khi cho rằng cụ đã rời khỏi trường nhiều lần liên tiếp và mỗi lần kéo dài trong nhiều ngày. Có phải cụ
Dumbledore đã quên những buổi học mà cụ dự định dạy riêng Harry? Cụ Dumbledore đã nói rằng những buổi học ấy sẽ đưa tới điều gì đó liên quan tới
lời tiên tri; Harry khi ấy đã cảm thấy được bảo bọc, được an ủi... và giờ đây nó cảm thấy hơi bị bỏ rơi.
Khoảng giữa tháng mười là thời điểm chuyến du ngoạn đầu tiên đến làng Hogsmeade của học sinh Hogwarts trong niên học. Harry đã băn khoăn liệu
những chuyến đi này có còn được phép không, trong bối cảnh những biện pháp an ninh quanh trường ngày càng thêm chặt chẽ, nhưng nó vui mừng thấy
là tụi nó cứ việc đi; được ra khỏi tòa lâu đài vài tiếng đồng hồ luôn luôn là điều hay.
Harry thức sớm vào buổi sáng ngày đi du ngoạn, một buổi sáng xem ra bão bùng mưa gió, và giết thời giờ trong khi chờ đến bữa điểm tâm bằng cách
đọc cuốn Bào chế thuốc cao cấp. Nó ít khi nào nằm nướng trên giường đọc sách giáo khoa; một loại hành vi mà như Ron phát biểu rất ư đúng, là không
đứng đắn đối với tất cả mọi người, ngoại trừ Hermione, cô nàng này đơn giản là khác người ở chỗ đó. Tuy nhiên Harry cảm thấy rằng cuốn Bào chế
thuốc cao cấp của Hoàng Tử lai khó có thể coi là một cuốn sách giáo khoa. Harry càng nghiền ngẫm cuốn sách, càng nhận ra có nhiều điều trong đó
không chỉ là những gợi ý rất tiện lợi và những mánh pha chế thuốc nhan khiến nó có được uy tín sáng chói trong mắt Thầy Slughorn; mà còn có những
bùa ngải hay thần chú nho nhỏ có vẻ hoang đường được ghi bên lề sách mà Harry chắc rằng chính Hoàng tử tự phát minh ra, căn cứ vào nét gạch xóa và
sửa chữa.
Harry đã thử vài bùa chú tự chế của Hoàng tử. Có một cái bùa khiến cho móng chân mọc nhanh phát sợ (nó đã thử ếm Crabà Béoe trong hành lang,
được kết quả thú vị); một phép tà ma làm dính lưỡi vô vòm họng (nó đã xài tới hai lần trên thầyArgus Filch lúc thầy không để ý), và được quần chúng tán
thưởng; và, có lẽ thần chú đắc dụng hơn hết thảy là Bịt tai – một thần chú làm ù tai bất cứ ai ở gần bằng một âm thanh vo vo không thể nhận biết được,
để cho tụi nó có thể nói chuyện lâu trong lớp mà không bị nghe lỏm. Người duy nhất không thấy những bùa chú này thú vị là Hermione, từ đầu đến cuối cô
nàng giữ vững vẻ mặt kiên quyết không tán thành và không chịu nói chuyện nếu Harry xài tới thần chú Bịt tai lên bất cứ ai xung quanh.
Ngồi dậy trên giường, Harry lật cuốn sách nghiêng sang một bên để nghiên cứu kỹ hơn những ghi chú, hướng dẫn về một thần chú có vẻ đã gây rắc rồi
cho Hoàng Tử. Có nhiều dấu gạch xóa và sửa chữa, nhưng cuối cùng, bị dồn nhét vô góc trang, là mấy chữ ghi ẩu:
Khinh thân (kptl)
Trong khi gió và mưa đá không ngừng quật rầm rầm lên cửa sổ, và Neville ngáy như sấm, Harry đăm đăm nhìn mấy mẫu tự trong ngoặc đơn. Kptl... ắt là
viết tắt của chữ ’không phát thành lời’. Harry không chắc nó có thể thực hiện được thần chú đặc biệt này không; nó vẫn còn gặp khốn đốn với thần chú
không lời, một điều mà Thầy Snape cứ hở ra là chỉ trích trong mỗi buổi học Phòng chống nghệ thuật hắc ám. Nhưng mặt khác, cho đến giờ Hoàng Tử lai
đã chứng tỏ là một thầy giáo có hiệu quả hơn Thầy Snape rất nhiều.
Không nhắm cây đũa phép của nó vô cái gìcụ thể, mà chỉ phất nhẹ lên một cái, nó nói thầm trong đầu Khinh thân.
“Aaaaaaaaa!”
Một tia sáng nhá lên và căn phòng vang đầy âm thanh: mọi người bị đánh thức bởi tiếng rú mà Ron vừa thốt ra. Harry làm văng đi cuốn Bào chế thuốc
cao cấp trong cơn hoảng hốt; Ron treo lủng lẳng giữa không trung trong tư thế đầu chúc xuống cẳng chỏng lên như thể bị một cái móc vô hình kéo nó lên
bằng mắt cá chân.
“Xin lỗi!” Harry hét, trong khi Dean và Seamus rống lên cười, và Neville lồm cồm bò dậy trên sàn sau khi té ra khỏi giường. “Chờ đó... mình sẽ thả bồ
xuống...”
Nó mò tìm lại cuốn sách thuốc và vội vã lật khắp các trang trong cơn hoảng hốt, cố gắng tìm đúng trang vừa rồi, cuối cùng tìm ra và suy đoán cái chữ ri rí
không đọc nổi ghi bên dưới câu thần chú: vừa vái quỷ thần cho đúng đó là câu trừ tà, Harry vừa nghĩ Phóng thân! bằng tất cả sức mạnh của nó. Một tia
sáng nữa lại nhá lên, và Ron rớt xuống thành một đống trên giường.
“Xin lỗi,” Harry lặp lại một cách yếu ớt, trong khi Dean và Seamus tiếp tục cười rống lên.
“Ngày mai,” Ron nói bằng một giọng ráng nhịn, “mình muốn bồ để đồng hồ báo thức gọi mình dậy hơn là làm thế này.”
Vào lúc tụi nó đã ăn mặc chỉnh tề, quấn quanh mình nhiều lớp áo len đan tay của bà Weasley và đem theo áo khoác, khăn quàng cổ cùng găng tay, cơn
hoảng hồn của Ron đã qua đi và nó quyết định là câu thần chú mới của Harry có tính giải trí rất ư cao; thật ra, nó đã lập tức mua vui cho Hermione bằng
câu chuyện đó khi tụi nó ngồi vô bàn ăn điểm tâm.
“...và một tia sáng khác nhá lên và mình lại rớt xuống giường!” Ron nhe răng cười, vừa tự lấy cho mình món xúc xích.
Hermione chẳng nứt ra được một nụ cười trong suốt câu chuyện tiếu lâm, và giờ đây lại quay bộ mặt quở trách lạnh tanh về phía Harry.
“Có phải đó là một câu thần chú khác nữa trong cuốn sách độc dược của bồ không?” Cô nàng hỏi.
Harry cau mày nhìn Hermione.
“Bồ luôn luôn nhảy tới kết luận dở nhất chứ gì?”
“Mà phải không?”
“Thì… ừ, phải, nhưng mà sao?”
“Vậy là bồ đã quyết định làm thử bùa phép viết tay bíẩn để xem chuyện gìxảy ra?”
“Nếu nó được viết tay thìcó làm sao đâu?” Harry nói, không thích trả lời phần còn lại của câu hỏi.
“Bởi vì có thể nó không được Bộ Pháp thuật công nhận,” Hermione nói. Khi Ron và Harry trợn tròn mắt, cô nàng nói thêm. “Và cũng bởi vì mình bắt đầu
nghĩtính cách của vị Hoàng Tử này hơi láu cá.”
Cả Harry và Ron đều thét lên không cho Hermione nói nữa.
“Một trò vui thôi mà!” Ron nói, vừa trút ngược chai tương cà chua lên cái xúc xích. “Chỉ là trò nghịch ngợm mua vui thôi mà Hermione à!”
“Treo ngược người ta lên bằng mắt cá chân à?” Hermione nói. “Ai lại bỏ thìgiờ và công sức để nghĩra những bùa chú như vậy chứ?”
“Anh Fred và George,” Ron nhún vai nói. “Đó là kiểu chơi của mấy ảnh. Và ơ…”
“Ba mình,” Harry nói. Nó chỉ mới sực nghĩra.
“Cái gì?” Ron và Hermione cùng nói.
“Ba mình đã từng xài thần chú này,” Harry nói. “Mình… Thầy Lupin có kể mình nghe.”
Phần cuối câu nói này không đúng; Thực ra, Harry đã nhìn thấy cha nó dùng thần chú này ếm Thầy Snape, nhưng nó chưa bao giờ nói với Ron và
Hermione về chuyến du ngoạn đặc biệt ấy trong cái chậu Tưởng Ký. Tự nhiên giờ đây nó bỗng nghĩ đến một điều kỳ diệu có thể là sự thật. Biết đâu vị
Hoàng Tử Lai đó có thể là…?
“Có thể ba của bồ đã từng xài nó, Harry à,” Hermione nói, “nhưng bác ấy không phải là người duy nhất. Chúng ta từng thấy cả đống người xài nó, ấy là
nhắc lại kẻo bồ quên. Treo người ta lủng lẳng trên không trung. Làm cho họ trôi lờ lững, mê ngủ, vô dụng.”
Harry đăm đăm nhìn Hermione. Lòng nặng trĩu, nó cũng nhớ lại hành vi của bọn Tử thần thực tử ở trận Cúp thế giới Quidditch. Ron đỡ gạt cho nó.
“Chuyện đó khác,” Ron hùng hổ nói. “Chúng lạm dụng bùa phép. Harry và ba nó chỉ đùa cho vui. Bồ không thích Hoàng Tử lai, Hermione à,” nó nói thêm,
nghiêm nghị chĩa một thỏi xúc xích vào cô bé, “bởi vìngười đó giỏi hơn bồ môn độc dược…”
“Chuyện đó không mắc mớ gì chuyện này!” Hermione nói, hai má ửng đỏ. “Mình chỉ cho rằng thực hiện bùa phép khi bản thân thậm chí còn không biết
bùa phép ấy dùng để làm gì thì thiệt là vô trách nhiệm, và đừng nói tới ‘Hoàng tử’ như thể đó là danh hiệu của hắn, mình dám cá đó chỉ là một hỗn danh
ngu ngốc, và theo mình, hắn chẳng có vẻ gìlà người tử tế lắm!”
“Mình không hiểu bồ suy diễn điều đó từ đâu ra,” Harry nóng nảy nói. “Nếu người đó là một mầm non Tử thần thực tử thì y đã chẳng khoe khoang việc y
mang dòng máu ‘lai’, đúng không?”
Ngay cả khi nói như vậy, Harry vẫn nhớ ra là cha nó thuần huyết, nhưng nó gạt bỏ ý tưởng đó ra khỏi đầu; nó sẽ nghĩvề chuyện đó sau…
“Bọn Tử thần thực tử không thể nào thuần huyết hết. Chẳng còn mấy pháp sư thuần huyết trên đời nữa,” Hermione bướng bỉnh nói. “Mình cho là hầu hết
bọn chúng đã lai nhưng làm bộ thuần huyết. Chúng chỉ ghét kẻ thuần Muggle thôi, nên chúng sẽ vui mừng để cho bồ và Ron nhập bọn.”
“Không đời nào có chuyện chúng để cho mình làm một Tử thần thực tử!” Ron nói giọng căm phẫn, một miếng xúc xích văng ra khỏi cái nĩa mà nãy giờ nó
dứ dứ vô mặt Hermione, miếng xúc xích văng trúng đầu Ernie Macmillan. “Cả nhà mình đều là những kẻ phản bội huyết thống cả! Đối với bọn Tử thần
thực tử thìđiều đó cũng xấu xa ngang với kẻ thuần Muggle!”
“Và chúng muốn kết nạp mình đấy chứ,” Harry mỉa mai. “Tụi này sẽ là bồ bịch chícốt nếu lăm lăm khử mình.”
Câu này làm Ron bật cười; ngay cả Harry cũng nở nụ cười bất đắc dĩ, và Ginny xuất hiện làm thay đổi đề tài câu chuyện.
“Anh Harry nè, em được giao nhiệm vụ đưa cho anh cái này.”
Đó là một cuộn giấy da có ghi tên Harry trên đó bằng nét chữ mảnh xiên xiên quen thuộc.
“Cám ơn, Ginny… buổi học tiếp theo với thầy Dumbledore!” Harry nói với Ron và Hermione, vừa mở cuộn giấy da và đọc nhanh nội dung bên trong. “Tối
thứ hai!” Nó bỗng nhiên cảm thấy thư thái vui vẻ. “Muốn đi với bọn anh đến làng Hogsmeade không, Ginny?”
“Em sẽ đi với anh Dean… có thể sẽ gặp các anh ở đó,” cô bé trả lời, vừa bước đi vừa vẫy tay chào tụi nó.
Thầy Filch đang đứng ở cửa chính bằng gỗ sồi như thông lệ, kiểm tra tên họ những người được phép đi chơi làng Hogsmeade. Thủ tục lâu lắc hơn bình
thường vìthầy Filch kiểm tra mỗi người bằng phép Dò tìm bímật của thầy.
“Nếu tụi con lén đem đồ hắc ám RA thì có vấn đề gì?” Ron nói và ngó cái phép Dò tìm bí mật thon dài với vẻ ngán ngẩm. “Rõ ràng là thầy nên kiểm tra cái
mà tụi con đem VÔ mới phải chứ?”
Má của nó bèn được rà thêm vài cái nữa bằng Phép dò, và khi cả bọn đã bước ra ngoài trời mưa gió lạnh tê rồi nó vẫn còn nhăn nhó.
Cuộc đi bộ đến làng Hogsmeade chẳng thú vị gì cả. Harry quấn khăn quàng cổ quanh phần dưới khuôn mặt; phần mặt lộ ra chẳng mấy chốc nhức buốt
và tê dại. Con đường đến làng đông đúc bọn học sinh cúi gập người đi ngược gió rét buốt. Hơn một lần Harry tự hỏi giá mà tụi nó cứ ở trong pháp sưhc
ấm áp thì có phải hay hơn không, và khi rốt cuộc tới được làng Hogsmeade và nhìn thấy tiệm Giỡn Zonko đã bị đóng ván niêm phong, thì Harry càng tin
chắc rằng chuyến đi chơi này sẽ chẳng vui thú gì. Ron chỉ bằng bàn tay đeo găng dày cui, về phía tiệm Công tước Mật, thiệt phước đức là tiệm mở cửa,
và Harry cùng Hermione lếch thếch theo chân Ron vô cái tiệm bánh kẹo đông đúc.
“Cám ơn quỷ thần,” Ron rùng mình khi tụi nó được bao bọc trong không khíấm áp thơm mùi kẹo ú.
“Harry, con trai của ta!” Một giọng nói oang oang vang lên đằng sau tụi nó.
“Thôi rồi,” Harry lầm bầm. Ba đứa tụi nó quay lại thì thấy giáo sư Slughorn. Thầy đang đội một cái nón da lông thú vĩ đại và một cái áo khoác ngoài cũng
có cổ lật bằng da lông thú đúng điệu với cái nón, thầy cầm một bịch to kẹo khóm trong, và chiếm hết ít nhất một phần tư chỗ trong tiệm kẹo.
“Harry, tính tới nay con đã bỏ lỡ hết ba buổi tiệc nhỏ của thầy!” Thầy Slughorn nói, thân mật thụi nhẹ lên ngực nó. “Không được đâu, con trai ơi, thầy đã
quyết định mời cho được con! Cô Granger đây thích những buổi tối đó lắm, phải không con gái?”
“Dạ,” Hermione nói, vô phương cứu bồ. “Những buổi đó thiệt tình...”
“Vậy sao con không cùng đi hả, Harry?” Thầy Slughorn vặn hỏi.
“Dạ, thưa thầy, con phải luyện tập Quidditch,” Harry nói, quả thực nó đã cố tình lên lịch luyện tập đúng cái ngày mà Thầy Slughorn gởi cho nó cái thiệp mời
nho nhỏ buộc nơ tím. Chiến lược này khiến cho Ron không bị ra rìa, và tụi nó thường được bữa no cười với Ginny, tưởng tượng ra cảnh Hermione bị
nhốt chung phòng với McLaggen và Zabini.
“Ừ, thầy đương nhiên mong con thắng trận đấu đầu tiên sau tất cả những luyện tập vất vả ấy chớ!” Thầy Slughorn nói. “Nhưng một chút giải lao chẳng
chết ai cả. Thôi thìtối thứ hai nhé, không lẽ con muốn luyện tập trong thời tiết này...”
“Thưa thầy, con không thể, con có... ơ... hẹn với giáo sư Dumbledore vào buổi tối đó.”
“Lại xui xẻo nữa!” Thầy Slughorn đột ngột la lên. “À, thôi... con không xù thầy mãi được đâu nhé, Harry!”
Và phẩy tay một cái điệu nghệ, thầy ìạch đi ra khỏi tiệm, chẳng để mắt tới Ron như thể nó chỉ là một mớ kẹo dán bày trên quầy.
“Mình không thể tin là bồ lại lách được một bữa tiệc nữa,” Hermione lắc đầu nói. “Bồ biết không, mấy bữa tiệc đó cũng không đến nỗi nào... đôi khi họ
cũng nhộn lắm...” Nhưng cô bé chợt nhìn thấy vẻ mặt của Ron. “Ô, nhìn kìa... họ có viết đường thượng hạng... mấy cây viết đó ngậm được mấy tiếng đồng
hồ lận!”
Mừng là Hermione đã đổi đề tài, Harry bèn làm ra vẻ khoái mấy cây viết đường cực lớn loại mới đó hơn cả bình thường, nhưng Ron vẫn tiếp tục ủ dột và
chỉ nhún vai khi Hermione hỏi nó muốn đi đâu nữa.
“Tụi mình đi tới quán Ba cây chổi đi,” Hả nói. “Ở đó sẽ ấm áp.”
Tụi nó lại quấn khăn quàng quanh mặt và rời khỏi tiệm bánh kẹo. Sau cái ấm áp ngọt ngào của tiệm kẹo Công tước Mật thì ngọn gió rét mướt chẳng
khác gì lưỡi dao cứa vào mặt tụi nó. Đường phố không tấp nập lắm; chẳng mấy ai lê la tán dóc, ai cũng vội vã tiến về nơi họ muốn đến. Ngoại trừ hai
người đàn ông chỉ ở phía trước tụi nó một chút, đứng ngay bên ngoài tiệm Ba cây chổi. Một người rất cao và ốm; liếc qua hai tròng mắt kính ròng ròng
nước mưa, Harry nhận ra đó là người pha rượu làm việc trong một quán rượu khác ở làng Hogsmeade, quán Đầu heo. Khi Harry, Ron và Hermione đến
gần hơn, người pha rượu kéo chặt tấm áo khoác quanh cổ rồi bước đi, bỏ lại người đàn ông lùn hơn lóng ngóng với cái gì đó trong tay. Tụi nó chỉ còn
cách ông ta chừng mấy bước chân thìHarry nhận ra ông ta là ai.
“Mundungus!”
Người đàn ông thấp bè bè, chân vòng kiềng, tóc dài vàng hoe rối bời ấy giật mình làm rớt một cái vali cổ xưa, khiến nó bật mở ra, làm rớt ra những thứ
trông như thể toàn bộ hàng hóa của một tiệm bán đồ lạc son.
“Ủa, chào Arry,” lão Mundungus FletcHermione nói, với bộ tịch vả lả hết sức đang ngờ. “Thôi, đừng để tui làm mất thìgiờ cậu.”
Và lão bắt đầu quơ quào trên mặt đất để thu hồi những thứ vốn chứa trong cái vali cổ với vẻ lật đật của người muốn bỏ đi ngay.
“Bác bán những thứ này hả?” Harry hỏi, vừa quan sát lão Mundungus chộp vội những món đồ tạp pín lù trông phát gớm lăn lóc trên mặt đất.
“Ờ, vâng, phải vơ vét kiếm sống thôi,” lão Mundungus nói. “Đưa giùm cái đó!”
Ron đã cúi xuống và lượm lên một cái gìđó bằng bạc.
“Khoan đã,” Ron nói chậm rãi. “Cái này trông quen quen...”
“Cám ơn cậu!” Lão Mundungus nói, giật cái cốc bạc ra khỏi tay Ron và nhét nó trở vô cái vali. “Thôi, hẹn gặp lại sau nhe... Ối!”
Harry đã kẹp cổ họng lão Mundungus tấn lão vào bức tường quán rượu. Giữ chặt lão bằng một tay, Harry rút cây đũa phép của nó ra.
“Harry!” Hermione ré lên.
“Lão hôi của ở nhà chú Sirius hả,” Harry nói, nó ép lão Mundungus sát đến nỗi mũi nó gần chamk mũi lão, và nó hít phải cái mùi khó chịu của thuốc lá và
rượu. “Cái đó có khắc huy hiệu của dòng họ Black.”
“Tui... đâu có... cái gì...?” Lão Mundungus lắp bắp, lão từ từ tím tái đi.
“Lão đã làm gìhả, trở lại ngôi nhà vào cái đêm chú ấy chết để vơ vét của nả nơi ấy hả?” Harry gầm gừ.
“Tui... đâu có...”
“Đưa nó cho tôi!”
“Harry, bồ không nên!” Hermione kêu lên the thé, trong khi lão Mundungus bắt đầu tái nhợt đi.
Một tiếng nổ đùng và Harry cảm thấy hai tya nó bị hất ra khỏi cổ họng lão Mundungus. Thở hổn hển và lắp ba lắp bắp, lão Mundungus chụp cái vali rớt
dưới đất, rồi – CẠCH – lão đã độn thổ.
Harry chửi thề khản giọng, xoay vòng vòng tại chỗ để tìm xem lão Mundungus đã biến đi đâu.
“TRỞ LẠIĐÂY, QUÂN ĂN CẮP...!”
“Chẳng ích gì đâu, Harry,” cô Tonks đột ngột xuất hiện, mái tóc xù của cô ướt nhẹp nước mưa. “Lão Mundungus có lẽ bây giờ đã đến London rồi. Kêu
gào chẳng ăn thua gìđâu.”
“Lão chôm đồ của chú Sirius! Lão chôm!”
“Ừ, nhưng dù vậy,” cô Tonks nói, có vẻ hoàn toàn không bận tâm về cái thông tin đó, “em không nên đứng trong mưa lạnh như vầy.”
Cô nhìn tụi nó đi qua cánh cửa của quán Ba Cây chổi. Khi nó đã ở trong quán rồi, Harry lại òa ra, “Lão chôm đồ của chú Sirius!”
“Mình biết, Harry à, nhưng làm ơn đừng có la to, người ta đang nhìn kìa,” Hermione thìthầm. “Ngồi xuống đi, mình đi lấy cho bồ ly nước nhé.”
Harry vẫn còn tức xìkhói khi Hermione trở lại bàn tụi nó vài phút sau đó mang theo ba chai bia bơ.
“Hội không thể kiểm soát được lão Mundungus sao?” Harry vặn hỏi hai đứa kia bằng giọng thìthào uất ức. “Chẳng lẽ cứ thứ gìkhông dán chặt xuống đất
là họ không ngăn nổi lão ăn cắp mỗi khi lão đến Tổng hành dinh à?”
“Suỵt!” Hermione tha thiết nói, vừa nhìn quanh để biết chắc là không có ai đang lắng nghe; Có một cặp chiến tướng ngồi gần đó đang ngó Harry chằm
chằm coi bộ thích thú lắm và Zabini đang thơ thẩn đứng dựa cột cách đó không xa.“Harry à, mình cúng bức mình lắm, mình biết đồ lão ăn cắp chính là đồ
của bồ...”
Harry mở nắp chai bia bơ; nó nhất thời quên béng đi chuyện nó là chủ nhân ông của số mười hai đường Grimmauld.
“Ừ, đồ của mình!” Nó nói. “Hèn gì lão chẳng vui vẻ gì khi thấy mình! Được, mình sẽ kể cho thầy Dumbledore biết chuyện gì đang xảy ra, chỉ có thầy mới
dọa được lão Mundungus.”
“Ýhay đó,” Hermione thìthầm, rõ ràng mừng là Harry đang bình tĩnh lại. “Ron, bồ ngó cái gìmà đăm đắm vậy?”
“Đâu có,” Ron nói, vội vàng rời mắt khỏi quầy rượu, nhưng Harry biết tỏng cậu chàng đang cố gắng đá lông nheo với người phụ nữ pha rượu có thân
hình nảy nở quyến rũ, bà Rosmerta, lâu nay cậu chàng hằng ấp ủ chút lả lướt với bà ta.
“Mình đoán chừng “Đâu có” đang ra sau quán lấy thêm rượu mạnh,” Hermione chua chát nói.
Ron phớt lờ câu chế giễu này, hớp từng ngụm bia bơ trong sự im lặng mà hiển nhiên là cậu chàng cho là đứng đắn. Harry thìđang nghĩđến chú Sirius, và
chú đã ghét cay ghét đắng mấy cái cốc bạc ấy như thế nào. Hermione gõ gó mấy ngón tay trên mặt bàn, mắt cô nàng cứ chấp chới phóng từ Ron đến
quầy rượu. Đúng lúc Harry uống cạn chai bia bơ của nó, Hermione nói, “tụi mình kể như choi đã rồi, vậy trở về trường chứ?”
Hai đứa kia gật đầu. Chuyến đi chơi này chả vui gì hết và tụi nó càng nấn ná chơi lâu thì thời tiết càng xấu thêm. Một lần nữa tụi nó kéo áo khoác choàng
quanh người cho chặt, quấn lại khăn quàng cổ, đeo găng tay vào, rồi đi theo Katie Bell và một cô bạn ra khỏi quán, đi ngược lên Đường Chính. Trong lúc
cả đám lê bước ngược dốc con đường trở về trường Hogwarts trong cơn mưa lạnh buốt, Harry nghĩvơ vẩn đến Ginny. Tụi nó đã không gặp Ginny, Harry
thầm nghĩ, chắc hẳn vìcô bé và Dean đang hú híấm cúng trong quán trà của bà Puddifoot, nơi những lứa đôi hạnh phúc thường lui tới. Lòng buồn bực nó
cúi đầu tránh ngọn mưa tuyết quất xoáy vào người và lê bước đi tiếp.
Chỉ một lát sau Harry bắt đầu nhận thấy giọng của Katie Bell và cô bạn theo chiều gió bay tới tai nó càng lúc càng to hơn và gay gắt hơn. Harry nheo mắt
nhìn hình thù mờ mờ của hai người đó. Hai cô gái đang cãi nhau về vật gì đó mà Katie đang cầm trong tay. “Không mắc mớ gì tới bồ, Leanne à!” Harry
nghe Katie nói.
Tụi nó đi tới một khúc quanh của con đường, cơn mưa tuyết trở nên nhanh và dày làm mờ kính của Harry. Vừa lúc nó giơ bàn tay đeo găng lên chùi kính,
Leanne chụp lấy cái gói mà Katie đang cầm; Katie giật trở lại và cái gói rớt xuống mặt đường.
Lập tức Katie bốc lên không trung, không phải cái kiểu treo giò lơ lửng buồn cười như Ron đã bị, mà được nhấc bổng lên một cách duyên dáng, hai tay
giang ra như thể cô nàng sắp bay. Nhưng có cái gì đó không ổn, cái gì đó kỳ quái... Tóc Katie bị luồng gió mạnh quất bay quanh mình, nhưng hai mắt cô
giá nhắm nghiền và gwong mặt thìhoàn toàn không biểu lộ cảm xúc gìcả. Harry, Ron, Hermione và Leanne đều đã ngừng bước đứng nhìn.
Thế rồi, khi cách mặt đất gần hai thước, Katie phát ra một tiếng gào khủng khiếp. Hai mắt cô mở bừng ra, nhưng cho dù cái mà cô đang nhìn thấy là cái
gì, hay cô đang cảm thấy cái gì đi chăng nữa, thì rõ ràng cía đó cũng đang gây cho cô nỗi đau đớn khủng khiếp. Katie cứ gào thét rồi gào thét; Leanne
cũng bắt đầu gào lên rồi chụp lấy cổ chân Katie, cố gnawgiáo sư kéo cô trở xuống mặt đất. Harry, Ron và Hermione chạy nhòa tới trước để giúp sức,
nhưng ngay khi tụi nó hè nhau nắm lấy chân Katie, cô rớt luôn xuống đầu tụi nó. Harry và Ron tìm cách đỡ Katie nhưng cô quằn quại dữ quá nên tụi nó
khó có thể giữ được. Tụi nó đành hạ Katie xuống đất từ từ. Cô nằm trên mặt đất vật vã gào la, dường như chẳng nhận ra đứa nào trong đám tụi nó.
Harry nhìn quanh; quang cảnh dường như hoang vắng.
“Ở yên đó!” Nó hét to trong tiếng gió hú để bảo những đứa khác, “Mình đi kêu cứu!”
Nó bắt đầu phóng chạy về trường; nó chưa từng nhìn thấy ai có cử chỉ như cử chỉ vừa rồi của Katie và nó không thể nghĩ ra nguyên nhân là cái gì; nó húc
vô một khúc quanh của con đường và đâm sầm vô một cái gìtựa như một con gấu vĩđại đứng trên hai chân sau.
“Bác Hagrid!” Nó thở hổn hển, loi ngoi ra khỏi giậu cây mà nó đã té vô.
“Harry!” Bác Hagrid kêu lên, băng tuyết bám trên chân mày và bộ râu của bác, và bác đang mặc cái áo khoác to, lùi xùi bằng da hải ly. “Vừa mới đi thăm
Grawp, chú nó lúc này khá đến nỗi con sẽ...”
“Bác Hagrid, ở đằng kia có người bị thương, hay bị ếm, hay bị gìđó...”
“Cái gì?” Bác Hagrid nói, cúi xuống thấp để nghe Harry nói trong tiếng gió rú gào.
“Có người bị ếm!” Harry rống lên.
“Ếm hả? Ai bị ếm... không phải Ron chứ? Hay Hermione?”
“Không, không phải tụi nó, mà là Katie Bell... lối này...”
Hai bác cháu cùng chạy ngược lại theo con đường. Chẳng mấy chốc họ đã nhìn thấy một nhóm người vây quanh Katie, cô gái vẫn còn vật vã và gào thét
trên mặt đất; Ron, Hermione và Leanne đều đang cố gắng dỗ yên cô.
“Lùi ra!” Bác Hagrid la lên. “Để bác coi con bé!”
“Nó bị cái gìđó!” Leanne nức nở. “Con không biết cái gì...”
Bác Hagrid trợn mắt ngó Katie chừng một giây, rồi không nói một lời, bác cúi xuống, quắp katie trong tay, và chạy về phía tòa lâu đài. Trong vòng vài giây
tiếng gào thét thảm thiết của Katie xa dần rồi tắt lịm, chỉ còn lại tiếng gầm rú của gió.
Hermione vội đi tới vòng tay ôm cô bạn của Katie, cô này đang khóc nức nở.
“Bồ là Leanne hả?”
Cô gái gật đầu.
“Chuyện đã xảy ra thình lình hay là...?”
“Chuyện xảy ra khi cái gói đó bị xé ra,” Leanne thổn thức, vừa chỉ vào một cái gói giấy nâu nằm trên mặt đất lúc này đã sũng nước và bị xé mở ra để lộ ra
ánh lấp lánh màu xanh biếc. Ron cúi xuống, tay nó vừa giơ ra, nhưng Harry chụp tay nó lại và kéo nó lùi ra sau.
“Đừng đụng tới!”
Nó ngồi thụp xuống. Có thể thấy một chuỗi đeo cổ bằng ngọc lộng lẫy thò ra khỏi lớp giấy.
“Mình đã từng nhìn thấy cái này trước đây,” Harry nói, chăm chú nhìn vật ấy. “Nó đã được trưng bày trong tiệm Borgin và Burkes cách nay khá lâu. Cái
nhãn có ghi là nó đã bị ếm bùa. Ắt hẳn là Katie đã đụng vào nó.” Harry ngước lên nhìn Leanne, cô bé đã bắt đầu run bần bật không sao kiềm chế được,
“Làm sao mà Katie lại có vật này?”
“Ôi, đó là lý do tụi này gây gỗ với nhau. Nó vô nhà vệ sinh trong quán Ba Cây chổi rồi trở lại cầm theo cía này nói rằng đó là một món quà bất ngờ dành
cho ai đó ở trường Hogwarts mà nó phải trao lại. Khi nói vậy trông nó rất buồn cười... Ôi không, Ooi không, mình cá là nó đã bị ếm Bùa Độc đoán, vậy
mà mình không nhận thấy!”
Leanne lại run lẩy bẩy, nức nở trở lại. Hermione vỗ nhè nhẹ vào vai cô bạn.
“Bạn ấy có nói là ai đã đưa cái này cho bạn ấy không, Leanne?”
“Không... Nó không chịu nói... và mình nói nó ngu quá và bảo nó đừng đem cái đó vô trường, nhưng nó chẳng chịu nghe và... và rồi mình thử giật cái đó ra
khỏi tay nó... và... và...”
Leanne rống lên một tiếng khóc tuyệt vọng.
“Tụi mình nên trở về trường thôi,” Hermione nói, cánh tay nó vẫn vòng quanh vai Leanne. “Tụi mình sẽ biết được bạn ấy giờ ra sao. Đi thôi...”
Harry ngập ngừng một chút, rồi rút tấm khăn quàng cổ đang quấn quanh mặt nó ra và, phớt lờ cái miệng há hốc của Ron, nó cẩn thận trùm lên chuỗi ngọc
và lượm lên.
“Tụi mình cần đưa cho bà Pomfrey coi cái này,” nó nói.
Khi đi theo Hermione và Leanne ngược lên con đường về trường, Harry suy nghĩ dữ dội. Tụi nó vừa mới đi vào sân trường thì nó mở miệng nói ngay,
không thể giữ riêng trong đầu suy nghĩấy lâu hơn nữa.
“Malfoy biết về chuỗi ngọc này. Trong một dịp cách đây bốn năm ở tiệm Borgin và Burkes, trong lúc ẩn núp để tránh mặt cha con nó, mình đã nhìn thấy nó
ngắm nghía cái này kỹ lắm. Cái này là cái mà nó mua vào cái ngày tụi mình theo dõi nó! Nó nhớ ra cái này và trở lại để mua!”
“Mình... mình không biết, Harry à,” Ron ngập ngừng nói. “Cả đống người đi tới tiệm Borgin và Burkes... và chẳng phải cô gái kia nói rằng Katie nhận nó
trong phòng vệ sinh nữ sao?”
“Bạn ấy nói Katie cầm theo cái này khi trở lại từ nhà vệ sinh, không nhất thiết Katie nhận cái này ngay trong nhà vệ sinh...”
“Cô McGonagall kìa!” Ron cảnh báo.
Harry ngước nhìn lên. Quả đúng, giáo sư McGonagall đang vội vã bước xuống những bực thềm đá đi xuyên qua mưa tuyết để đón tụi nó.
“Bác Hagrid nói bốn trò đã thấy những gìxảy ra cho Katie Bell... Mời các trò lên văn phòng của tôi ngay tức thì! Trò đang cầm vật gìđó, Potter?”
“Cái vật mà bạn ấy đã chạm vô,” Harry nói.
“Úy mèn ơi,” giáo sư McGonagall nói, có vẻ lo sợ khi nhận chuỗi hạt từ tay Harry. “Khỏi, khỏi, thầy Filch à, chúng nó đi cùng tôi!” Bà vội vã nói thêm khi
thầy Filch hăm hở bước lệt sệt ngang qua tiền sảnh với cái Phép Dò bí mật của thầy giơ cao. “Hãy đem xâu chuỗi này đưa giáo sư Snape ngay tức thì,
nhưng phải tuyệt đối không đụng tới nó, cứ quấn nó trong cái khăn quàng cổ!”
Harry và mấy đứa kia đi theo giáo sư McGonagall lên cầu thang vô văn phòng bà. Những cánh cửa sổ bị mưa tuyết tạt vào đang kêu lạch xạch trong
khung, và căn phòng lạnh lẽo bất chấp tiếng lửa reo trong lò sưởi. Giáo sư McGonagall đóng cửa và lướt vòng qua bàn làm việc của bà để đối diện
Harry, Ron, Hermione, và cô bé Leanne vẫn còn thổn thức.
“Thế nào?” bà nói ngay. “Chuyện gìđã xảy ra?”
Ngắc nga ngắc ngứ va phải ngừng lại nhiều lần để ráng nín khóc, Leanne kể cho giáo sư McGonagall nghe Katie đã vô nhà vệ sinh trong quán Ba Cây
chổi và trở ra cầm theo một cái gói không rõ gốc tích, Katie đã tỏ ra hơi kỳ quái như thế nào, và tụi nó đã cãi nhau ra sao về việc dại dột nhận lời giao
những đồ vật mình không biết rõ, cuộc cãi vã lên tới đỉnh điểm khi xảy ra giành giật cái gói đồ, khiến nó bị rách toạc ra. Kể tới đây, Leanne quá xúc động,
không cond nghe được thêm tiếng nào của cô bé nữa.
“Được rồi,” giáo sư McGonagall nói, giọng ân cần. “Trò đi lên bệnh thất đi, Leanne, và xin bà Pomfrey cho thuốc gìđó mà an thần.”
Khi Leanne đã ra khỏi phòng, giáo sư McGonagall quay sang Harry, Ron và Hermione.
“Chuyện gìxảy ra khi Katie chạm vào xâu chuỗi?”
“Bạn ấy bay lên không trung,” Harry nói, trước khi Ron hay Hermione có thể mở miệng, “và rồi gào thét, rồi rớt xuống. Thưa cô, con có thể gặp giáo sư
Dumbledore được không ạ?”
“Thầy hiệu trưởng đi vắng đến thứ hai, Potter à,” giáo sư McGonagall nói, vẻ mặt ngạc nhiên.
“Đi vắng à?” Harry lặp lại một cách tức tối.
“Phải, đi vắng, Potter à!” Giáo sư McGonagall nói giọng đanh lại. “Nhưng nếu con muốn nói bất cứ điều gìvề sự khủng khiếp này thìcon có thể nói với ta,
ta chắc chắn như vậy!”
Harry ngập ngừng một thoáng. Giáo sư McGonagall không làm cho người ta tự tin lắm; Cụ Dumbledore tuy nghiêm nghị về nhiều mặt, nhưng vẫn không
tỏ ra coi thường một giả thuyết cho dù hoang đường thế nào đi chăng nữa. Tuy nhiên đây là một vấn đề sỗng chết và không phải là lúc lo ngại bị cười
nhạo.
“Thưa giáo sư, con nghĩDraco Malfoy đưa cho Katie chuỗi hạt đó.”
Bên này nó, Ron xoa xoa cái mũi bối rối; bên kia nó, Hermione nhấp nhổm như thể cô nàng muốn tự mình nhích ra xa Harry một chút.
“Đó là một lời cáo buộc rất nghiêm trọng, Potter à,” giáo sư McGonagall nói, sau khi lặng đi vìsửng sốt. “Con có bằng chứng nào không?”
“Dạ, không, nhưng,” Harry đáp, và nó kể cho bà nghe về việc đi theo Malfoy đến tiệm Borgin và Burkes với cuộc đối thoại giữa Malfoy và ông Borgin mà
tụi nó nghe lỏm được.
Khi nó nói xong, giáo sư McGonagall có vẻ hơi lúng túng.
“Malfoy đem cái gìđó đến tiệm Borgin và Burkes để sửa chữa à?”
“Thưa cô không phải, nó chỉ muốn ông Borgin chỉ cho cách sửa chữa vật ấy thôi, nó không đem theo vật ấy. Nhưng đó không phải điểm mấu chốt, vấn đề
là cùng lúc đó nó mua một cái gìđó, và con tin cái đó là xâu chuỗi...”
“Con đã nhìn thấy Malfoy rời khỏi tiệm với một xâu chuỗi tương tự à?”
“Thưa cô không phải, nó bảo ông Borgin giữ cái đó lại trong tiệm cho nó...”
“Nhưng Harry à,” Hermione chen vào, “ông Borgin đã hỏi nó có muốn đem cái đó đi không, và Malfoy nói là không...”
“Bởi vìnó không muốn đụng đến cái đó, rõ ràng quá mà!” Harry tức giận nói.
“Chính xác nó nói là “Tôi mà đem cái đó xuống phố thìtrông như thế nào?”” Hermione nói.
“Ôi, Ron,” Hermione kêu lên chán nản, “cái đó sẽ được gói ghém kỹ lưỡng, như thế nó sẽ không phải đụng vô, và cũng dễ dàng giấu bên trong áo khoác,
để không ai nhìn thấy cái đó! Mình nghĩ cái mà Malfoy muốn gửi lại tiệm Borgin và Burkes rất ồn ào hoặc rất cồng kềnh, một cái gì đó nó biết là sẽ thu hút
sự chú ý nếu nó mang xuống phố - và dẫu thế nào đi nữa,” Hermione nói tiếp, giọng to hơn, trước khi Harry có thể chen vào, “mình đã hỏi ông Borgin về
xâu chuỗi, các bạn không nhớ sao? Khi mình đi vô tiệm để thử tìm hiểu xem Malfoy đã nhờ ông Borgin giữ lại cho nó cái gì, mình đã nhìn thấy xâu chuỗi ở
đó. Và ông Borgin chỉ nói giá cả, ông không hề nói là nó đã được bán rồi hay gìgì...”
“Ôi, bồ rất ư lộ liễu, ông ta nhận ra ngay trong vòng năm giây là bồ đang âm mưu gì đó, dĩ nhiên ông ta không nói cho bồ biết... Với lại, Malfoy có thể yêu
cầu gởi món đồ đó cho nó bởi vì...”
“Thôi đủ rồi!” Giáo sư McGonagall nói, vẻ giận dữ, khi Hermione mở miệng toan phản đối. “Potter à, tôi cám ơn trò đã kể cho tôi nghe điều này, nhưng
chúng ta không thể cáo buộc Malfoy chỉ vì cậu ta đã vô một cửa hàng nơi có lẽ đã bán ra xâu chuỗi ấy. Điều tương tự có thể xảy ra cho hàng trăm
người...”
“...con tính nói vậy đó...” Ron lẩm bẩm.
“...và trong trường hợp nào đi nữa, chúng ta cũng đã áp dụng những biện pháp an ninh rất nghiêm ngặt ở đây trong niên học này. Tôi không tin là xâu
chuỗi có thể được đem vô trường mà không ai biết...”
“Nhưng...”
“...và hơn nữa,” giáo sư McGonagall nói, với cái vẻ dứt khoát đáng sợ, “Malfoy không có mặt trong làng Hogsmeade ngày hôm nay.”
Harry há hốc mồm nhìn giáo sư, xìhơi ra.
“Thưa cô, làm sao cô biết được?”
“Bởi vì trò ấy bị ct ở chỗ tôi. Trò ấy đã không làm xong bài tập biến hình hai lần liên tiếp. Thôi thế, cám ơn trò đã kể cho tôi nghe về sự nghi ngờ của trò,
Potter à,” bà nói khi đi ngang qua tụi nó, “nhưng tôi cần lên bệnh thất để thăm Katie Bell. Mong các trò hưởng một ngày tốt đẹp.”
Bà mở cửa văn phòng. Tụi nó không có lựa chọn nào khác hơn là lần lwotj đi ngang qua bà mà không được nói thêm lời nào.
Harry rất giận hai đứa bạn đã về phe giáo sư McGonagall; dù vậy, nó cảm thấy phải dằn lòng để tham gia cuộc tranh luận khi tụi nó bắt đầu cãi nhau về
việc đã xảy ra.
“Vậy bồ đoán xem Katie được bảo phải giao xâu chuỗi cho ai?” Ron hỏi, khi tụi nó trên cầu thang lên pháp sưhc.
“Quỷ thần nào biết được,” Hermione nói. “Nhưng cho dù đó là ai thì cũng khó lòng thoát được. Không ai có thể mở cái gói đó ra mà không chạm vào xâu
chuỗi.”
“Rất nhiều người có thể là mục tiêu,” Harry nói. “Cụ Dumbledore chẳng hạn – bọn Tử thần thực tử chỉ mong khử cụ, cụ chắc phải là một trong những mục
tiêu đầu tiên của tụi nó. Hay Thầy Slughorn... Cụ Dumbledore cho là Voldermort thực sự mong muốn chiêu nạp thầy và chúng không thể hài lòng nổi khi
thầy về phe với cụ. Hay là...”
“Hay là bồ,” Hermione nói, có vẻ bồn chồn.
“Không lẽ nào,” Harry nói, “nếu gửi cho mình thì Katie chỉ cần quay lại trên đường và đưa nó cho mình, đúng không? Malfoy theo sau chị ấy suốt quãng
đường từ quán Ba Cây chổi đi ra. Trao cái gói quà đó ở bên ngoài trường Hogwarts nghe có lý hơn nhiều, khi mà thầy Filch rà soát hết thảy mọi người
đi ra đi vào trường. Mình thắc mắc tại sao Malfoy lại bảo Katie đem cái gói đó vô tòa lâu đài?”
“Harry, Malfoy không có mặt ở Hogsmeade!” Hermione nói, giẫm chân vìtức tối.
“Vậy thì nó phải nhờ tới một kẻ đồng lõa,” Harry nói. “Crabà Béoe hay Goyle... hay, thử nghĩ xem, một tên Tử thần thực tử nào đó, nếu bây giờ nó đã gia
nhập bọn chúng thìnó có cả khối đồng bọn chícốt hơn cả Crabbe và Goyle.”
Ron và Hermione đưa mắt nhìn nhau, ngụ ý rõ ràng: vô phương cãi nhau với thằng này.
“Súp Đăng quang,” Hermione hô lên dứt khoát khi tụi nó đi tới chỗ Bà Béo.
Bức chân dung lẳng qua một bên để cho chúng chui vô pháp sưhc. Căn phòng đầy nhóc và bốc mùi quần áo ướt: nhiều người dường như vừa từ
Hogsmeade trở về sớm vì thời tiết xấu quá. Tuy nhiên, chẳng nghe ai xì xầm sợ hãi hay suy đoán gì: rõ ràng là cái tin về chuyện xui xẻo của Katie chưa
kịp lan truyền.
“Thực ra, nếu bồ chịu dừng lại và suy nghĩ về chuyện đó, bồ sẽ thấy cuộc tấn công cũng không khôn khéo lắm,” Ron nói, vừa làm một điều không bình
thường là tống một nhóc năm thứ nhất ra khỏi cái ghế bành êm ái cạnh lò sưởi để tự mình ngồi xuống. “Chuyện trù ếm còn chưa vô được tới tòa lâu đài.
Bồ không thể gọi đó là một trò có hiệu quả.”
“Bồ nói đúng,” Hermione nói, vừa đá Ron ra khỏi cái ghế bành để nhường trở lại cho thằng nhóc năm thứ nhất. “Vụ đó không được tính toán kỹ cho lắm.”
“Nhưng Malfoy trở thành một trong những nhà mưu tính vĩđại nhất thế giới từ hồi nào hè?” Harry hỏi.
Cả Ron lẫn Hermione đều không trả lời nó.
Chương 13
Riddle bíẩn
Kattie được chuyển qua bệnh viện Thánh Mungo chuyên Điều trị thương tích và Bệnh tật pháp thuật vào ngày hôm sau, vào lúc đó thì tin cô bé bị ếm ma
thuật đã lan ra khắp trường, mặc dù chi tiết khá rối rắm và ngoại trừ Harry, Ron, Hermione, Leanne, có vẻ không ai biết rằng bản thân Katie không phải là
mục tiêu được nhắm tới.
“Ôi, dĩ nhiên Malfoy thì biết chứ,” Harry nói với Ron và Hermione, hai đứa này cứ tiếp tục chính sách mới của tụi nó là giả điếc mỗi khi Harry nhắc tới lý
thuyết Malfoy-là-một-Tử-thần-thực-tử.
Harry đã lo lắng không biết cụ Dumbledore có từ đâu đó trở về đúng hẹn cho buổi học tối thứ hai không, nhưng bởi vì chẳng nhận được thông báo nào
hoãn lại, nên nó tự trình diện trước văn phòng cụ Dumbledore vào lúc tám giờ đúng, gõ cửa, và được mời vào. Kia cụ Dumbledore ngồi đó, trông mệt
mỏi khác thường; bàn tay của cụ vẫn cháy khô đen đúa như lâu nay, nhưng cụ mỉm cười khi ra dấu cho Harry ngồi xuống. Cái chậu tưởng Ký lại được
đặt trên bàn, hắt những đốm sáng óng ánh bạc lên trần.
“Con đã khá bận rộn trong thời gian thầy đi vắng,” cụ Dumbledore nói. “Ta tin là con đã chứng kiến tai nạn của Katie.”
“Dạ, thưa thầy. Bạn ấy sao rồi ạ?”
“Vẫn chưa được khỏe lắm, mặc dù trò ấy khá may mắn. Trò ấy dường như chỉ chạm nhẹ vào xâu chuỗi với một diện tích da rất nhỏ bị tiếp xúc; có một cái
lỗ nhỏ xíu trên găng tay trò ấy. Nếu trò ấy mà đeo xâu chuỗi ấy vô, thậm chí nếu trò ấy cầm xâu chuỗi mà không đeo găng tay, thì trò ấy đã chết rồi, có thể
ngay lập tức. May thay giáo sư Snape đã hành động kịp thời để ngăn chặn không cho bùa ếm đó phát tán nhanh chóng...”
“Sao lại ông ấy?” Harry hỏi ngay. “Sao không phải là bà Pomfrey?”
“Láo xược,” một giọng nói nhỏ vang lên từ một trong những bức chân dung trên tường, và cụ Phineas Nigellus Black, ông cố tổ của chú Sirius, ngóc đầu
lên khỏi hai cánh tay, hình như vẫn được cụ coi như cái gối kê đầu để ngủ. “Ta không đời nào cho phép một học sinh hỏi vặn vẹo trong trường Hogwarts
thời mà ta còn điều hành.”
“Vâng, cám ơn cụ Phineas,” cụ Dumbledore dỗ yên. “Giáo sư Snape biết nhiều hơn bà Pomfrey về Nghệ thuật hắc ám, Harry à. Dù sao đi nữa thì nhân
viên bệnh viện Thánh Mungo đang gửi tường trình hàng giờ cho thầy, và thầy hy cọng Katie sẽ sớm bình phục hoàn toàn.”
“Thưa thầy, thầy đi đâu hồi cuối tuần rồi ạ?” Harry hỏi, bất chấp một cảm giác mạnh mẽ là có thể nó đang liều mạng, một cảm giác dường như được cụ
Phineas Nigellus chia sẻ, cụ huýt gió khe khẽ.
“Bây giờ thìthầy không tiện nói,” cụ Dumbledore nói. “Tuy nhiên, khi nào đúng lúc thìthầy sẽ nói cho con biết.”
“Thầy sẽ nói hả?” Harry hấp tấp nói.
“Ừ, thầy định vậy,” cụ Dumbledore nói, vừa rút trong túi áo ra một cái chai mới chứa những ký ức lóng lánh bạc và mở nút chai bằng một cái gõ của cây
đũa phép.
“Thưa thầy,” Harry lại ngập ngừng nói, “con đã gặp lão Mundungus ở Hogsmeade.”
“À phải, thầy đã biết về việc Mundungus nhẹ tay nẫng tài sản thừa kế của con,” cụ Dumbledore nói, hơi cau mày. “Lão ta đã lặn mất tiêu từ lúc con bắt
quả tang lão bên ngoài quán Ba Cây chổi; Thầy nghĩ lão sợ giáp mặt thầy. Tuy nhiên, con có thể yên tâm là lão sẽ không thể nào ăn cắp thêm bất cứ cái
gìnữa trong tài sản trước đây của chú Sirius.”
“Lão già lai ghẻ lở ấy ăn cắp của gia truyền của dòng họ Black à?” Cụ Phineas Nigellus nói, cụ điên tiết lên, và chuồn ra khỏi cái khung tranh của mình,
chắc chắn là để về thăm cái chân dung của cụ ở số mười hai đường Grimmauld.
“Thưa thầy,” Harry nói, sau một khoảng ngắn nín thinh. “Giáo sư McGonagall có nói với thầy điều con đã thưa với cô ấy sau khi Katie bị thương không?
Về Draco Malfoy ấy ạ?”
“Có, cô ấy có nói với thầy về sự nghi ngờ của con,” Cụ Dumbledore nói.
“Và thầy có...?”
“Thầy sẽ tiến hành những biện pháp thích đáng để điều tra bất cứ ai có nhúng tay vào tai nạn của Katie,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng điều thầy bận tâm
lúc này, Harry à, là bài học của chúng ta.”
Harry cảm thấy hơi bực mình về chuyện này: nếu buổi học của thầy trò nó quan trọng như thế, tại sao buổi học thứ nhì lại cách xa buổi học thứ nhất dữ
vậy? Tuy nhiên, nó không nói gì thêm về Draco Malfoy, mà chỉ ngồi nhìn khi cụ Dumbledore rót cái ký ức mới vào trong cái Tưởng Ký, và bưng cái chậu
đá giữa hai bàn tay với những ngón tay rất dài, cụ bắt đầu xoay cái chậu đá một lần nữa.
“Thầy biết chắc con vẫn nhớ rằng chúng ta đã rời câu chuyện về thuở ban đầu của Chúa tể Voldermort ở chỗ chàng Muggle trẻ tuổi đẹp trai Tom Riddle
đã bỏ rơi cô vợ phù thủy Merope, để trở về nhà mình ở làng Hangleton Nhỏ. Merope bị bỏ lại một mình ở London, bụng mang dạ chửa đứa bé sau này
sẽ trở thành Chúa tể Voldermort.”
“Thưa thầy, làm sao thầy biết là cô ấy ở London?”
“Bởi vì có chứng cớ của ông Caractacus Burke,” cụ Dumbledore nói, “ông này, do một ngẫu nhiên kỳ lạ, đã giúp thành lập chính cái tiệm xuất xứ của xâu
chuỗi mà chúng ta vừa thảo luận.”
Cụ sàng đãi nội dung của cái Tưởng Ký như Harry đã từng thấy cụ sàng đãi trước đây, rất giống cách những người thợ mỏ vàng sàng đãi quặng để tìm
vàng. Dâng lên trên cái khối óng ánh bạc đang xoay tít là một người đàn ông từ từ xoay vòng vòng trong cái Tưởng Ký, ban đầu bạc trắng như ma nhưng
rắn chắc hơn dần, với một mái tóc phủ kín cả mắt.
“Vâng, chúng tôi có được nó trong một trường hợp lạ lùng. Một phù thủy trẻ đem nó đến trước lễ Noel, ôi, cách đây nhiều năm rồi. Cô ta nói cô ta cần
vàng ghê lắm, chà, điều đó rất hiển nhiên. Cô ta ăn mặc rách rưới và coi bộ chẳng bao lâu nữa... sẽ có em bé. Cô ta nói sợi dây chuyền là của dòng họ
Slytherin. Ối, lúc nào tôi cũng nghe những câu chuyện tương tự như vậy, “Ôi, đây là di vật của dòng họ Merlin, đây là cái bình trà cưng của ngài.” Nhưng
khi tôi nhìn kỹ nó, thìnó có dấu hiệu của Ngài Slytherin hẳn hoi, và chỉ cần vài phép bùa chú đơn giản là tôi biết được đồ thật. Dĩnhiên điều đó khiến nó vô
giá. Cô ta lại dường như không biết chút gìgiá cả của vật đó. Vui vẻ mà nhận mười Galleon đánh đổi vật đó. Món hời nhất mà tôi từng mua!”
Cụ Dumbledore lắc cái chậu Tưởng Ký một cái thiệt mạnh và ông Caractacus Burke lặn trở xuống mớ ký ức xoay tít, chỗ mà ông ta đã từ đó hiện ra.
“Ông ta chỉ trả cô ấy mười Galleon thôi à?” Harry phẫn nộ nói.
“Ông Caractacus Burke không nổi tiếng lắm về tính hào phóng,” cụ Dumbledore nói. “Vậy là chúng ta biết, lúc gần sanh, Merope đã một mình ở London
và cần vàng ghê gớm, cần đến nỗi phải bán đi tài sản có giá trị duy nhất, sợi dây chuyền vốn là một trong những di sản gia truyền quý báu của Marvolo.”
“Nhưng cô ta có thể phù phép mà!” Harry sốt ruột nói. “Cô ta có thể tự kiếm đồ ăn và mọi thứ cho mình bằng Pháp thuật, đúng không ạ?”
“À,” cụ Dumbledore nói, “có lẽ cô ta có thể làm vậy. Nhưng thầy tin – và một lần nữa thầy chỉ đoán mà thôi, nhưng thầy tin là thầy đúng – rằng khi bị chồng
bỏ, Merope đã thôi dùng Pháp thuật. Thầy nghĩcô ta không muốn là phù thủy nữa. Dĩnhiên, cũng có thể tình yêu không được đáp lại của cô ta và nỗi tuyệt
vọng kèm theo đã làm cạn kiệt sức mạnh của cô; điều đó có thể xảy ra lắm. Đằng nào đi nữa, như con sắp sửa thấy đây, Merope từ chối giơ cây đũa
phép lên, cho dù để cứu chính mạng sống của mình.”
“Cô ta thậm chíkhông sống vìđứa con mình sao?”
Cụ Dumbledore nhướn chân mày lên, “Con còn có thể cảm thấy thương xót Chúa tể Voldermort ư?”
“Không,” Harry nói nhanh, “nhưng cô ta có thể lựa chọn, đúng không, chẳng giống như mẹ của con....”
“Mẹ của con cũng có quyền lựa chọn,” cụ Dumbledore nhẹ nhàng nói. “Đúng vậy, Merope Riddle đã chọn cái chết bất chấp đứa con trai đang cần đến cô
ta, nhưng đừng phán xét cô ta khắc nghiệt quá, Harry à. Cô ta đã suy yếu đi rất nhiều vì nỗi đau khổ kéo dài và cô ta chưa bao giờ có được lòng can
đảm như mẹ con. Và bây giờ nếu con chịu đứng yên...”
“Chúng ta sẽ đi đâu?” Harry hỏi, khi cụ Dumbledore đến đứng cạnh nó trước cái bàn.
“Lần này,” cụ Dumbledore nói, “chúng ta sẽ đi vào ký ức của thầy. Thầy nghĩ con sẽ thấy ký ức của thầy phong phú, chi tiết và chính xác mỹ mãn. Mời con
đi trước, Harry...”
Harry cúi xuống cái Tưởng Ký; mặt nó chạm vào bề mặt mát lạnh của ký ức và rồi nó rơi xuyên qua bóng tối một lần nữa... Vài giây sau, chân nó chạm
mặt đất cứng; nó mwor mắt ra và thấy nó với cụ Dumbledore đang đứng trên một đường phố London cổ kính và khá náo nhiệt.
“Thầy kia kìa,” cụ Dumbledore hớn hở nói, vừa chỉ về phía trước nơi một dáng người cao đang băng qua đường trước chiếc xe ngựa kéo chở sữa.
Chòm râu và mái tóc dài của chàng trai Albus Dumbledore trẻ tuổi này màu nâu vàng. Sau khi qua tới lề đường mà hai thầy trò nó đang đứng, cậu ta rảo
bước đi dọc theo lề đường, thu hút những cái liếc mắt tò mò nhờ bộ đồ nhung màu mận được may cắt đỏm dáng mà cậu ta đang mặc.
“Thưa thầy bộ đồ đẹp quá,” Harry buột miệng nói không kềm lại được, nhưng cụ Dumbledore chỉ chắt lưỡi khoái trá đi theo hình bóng trẻ tuổi của mình
cách một khoảng ngắn, cuối cùng ngàng qua hai cánh cổng sắt để vào một khoảnh sân trống trải phía trước một tòa nhà vuông vức khá kiên cố có hàng
rào song sắt cao bao quanh. Thầy Dumbledore trẻ leo lên những bậc thềm dẫn đến cửa chính và gõ một lần. Chỉ một hai tích tác sau, cánh cửa được
một cô gái chếch nhác đeo tạp dề mở ra.
“Chào cô. Tôi có hẹn với bà Cole, người mà theo tôi nghĩlà quản lý ở đây?”
“À,” cô gái nói, trông rõ vẻ bối rối vìbộ dnagj kỳ cục của thầy Dumbledore. “Ưm... chỉ chút xíu... BÀ COLE!” Cô ta ngoái đầu ra sau rống lên.
Harry nghe một giọng nói ở xa quát to điều gìđó để đáp trả. Cô gái quay lại thầy Dumbledore nói: “Mời vào, bà ấy ra ngay.”
Thầy Dumbledore trẻ bước vào một hành lang lát gạch đen trắng; toàn cảnh nơi ấy trông sơ sài nhưng sạch như li như lau. Harry và cụ Dumbledore đi
theo. Trước khi cánh cửa đóng lại sau lưng họ, một người đàn bà da bọc xương vẻ mặt phiền muộn lật đật đi về phía họ. Bà ta có một gương mặt sắc
cạnh có vẻ lo âu nhiều hơn là ác độc, bà ta vừa đi về phía thầy Dumbledore vừa ngoái đầu ra sau nói với một người giúp việc đeo tạp dề khác.
“...và đem i-ốt lên lầu cho Martha, Billy Stubbs cứ gỡ ghẻ của nó và Eric Whalley thì rỉ mủ ra khắp khăn trải giường – bệnh trái rạ trên hết mọi thứ,” bà ta
không nói với người nào cụ thể, và rồi bà gặp phải thầy Dumbledore và bà đứng lặng người giữa lối đi, có vẻ kinh ngạc như thể thấy một con hươu cao
cổ vừa mới bước qua ngưỡng cửa nhà bà.
“Chào bà,” thầy Dumbledore nói, giơ một bàn tay ra. Bà Cole chỉ há hốc mồm.
“Tên tôi là Albus Dumbledore. Tôi đã gửi cho bà một lá thư xin được gặp và bà đã tử tế mời tôi đến đây vào ngày hôm nay.”
Bà Cole chớp mắt. Dường như quyết định rằng thầy Dumbledore không phải là một ảo giác, bà nói giọng yếu ớt, “À phải. Thôi... thôi thì... Anh nên đi vào
phòng của tôi. Vâng.”
Bà dẫn thầy Dumbledore vào một căn phòng nhỏ có vẻ như nửa là phòng khách nửa là phòng làm việc. Nó cũng sơ sài như hành lang và bàn này ghế nọ
không đồng bộ. Bà mời thầy Dumbledore ngồi xuống một cái ghế ọp ẹp và tự bà cũng ngồi xuống phía sau một cái bàn làm việc bừa bộn lộn xộn, trố mắt
nhìn thầy lo lắng.
“Tôi đến đây, như tôi đã viết cho bà trong lá thư, để thảo luận về Tom Riddle và thu xếp tương lai cho cậu bé,” thầy Dumbledore nói.
“Ông là thân nhân của nó à?” Bà Cole hỏi.
“Không, tôi là một giáo viên,” thầy Dumbledore nói. “Tôi đến đây để đề nghị Tom vào học ở trường của tôi.”
“Vậy trường của ông là trường gì?”
“Tên trường là Hogwarts,” thầy Dumbledore nói.
“Và vìsao ông lại quan tâm đến Tom?”
“Chúng tôi tin là cậu bé có những phẩm chất mà chúng tôi đang tìm kiếm.”
“Có phải ý ông nói là nó xin được học bổng? Nó làm sao mà xin được? Nó chưa bao giờ nộp đơn xin cái nào.”
“À, tên của cậu bé đã được ghi sẵn trong trường từ khi mới được sinh ra...”
“Ai ghi danh cho nó? Cha mẹ nó à?”
Chắc chắn bà Cole là một người đàn bà sắc sảo phiền phức. Dường như thầy Dumbledore cũng nghĩ như vậy, bởi vì giwof đây Harry thấy thầy rút nhẹ
cây đũa phép ra khỏi túi của bộ đồ nhung đồng thời cầm lên một tờ giấy trắng bóc trên bàn của bà Cole.
“Đây,” thầy Dumbledore nói, vẫy cây đũa phép một cái khi thầy đưa miếng giấy cho bà Cole, “tôi nghĩcái này sẽ khiến cho mọi thứ được rõ ràng.”
Mắt bà Cole lé đi rồi ngay lại khi bà chăm chú nhìn vào tờ giấy trắng một hồi.
“Có vẻ hoàn toàn hợp lệ,” bà nói vẻ yên tâm, đưa lại tờ giấy. Kế đến bà ngó thấy một chai rượu gin và hai cái ly mà chắc chắn là không hề tồn tại trước
đó vài giây.
“Ơ... cho phép tôi được mời anh một ly rượu gin nhé?” bà nói bằng một giọng cực kỳ tao nhã.
“Cám ơn bà nhiều lắm,” thầy Dumbledore nói, tươi cười.
Bà Cole chẳng mấy chốc đã tỏ rõ bà không phải tay mơ về chuyện uống rượu gin. Rót cho cả hai người những ly rượu đầy ắp, bà uống một hơi cạn ly
của bà. Chép môi sảng khaois một cách thẳng thắn, bà mỉm cười với thầy Dumbledore lần đầu tiên, và thầy không chần chừ gì mà không tận dụng ngay
cơ hội thuận lợi này.
“Tôi đang tự hỏi liệu bà có thể kể cho tôi nghe tiểu sử của tom Riddle không? Tôi nghĩcấu ấy chào đời ở viện mồ côi này thìphải?”
“Đúng vậy,” bà Cole nói, tự rót thêm rượu gin cho mình. “Tôi nhớ chuyện đó rõ như bất cứ chuyện nào khác, bởi vìtôi cũng chỉ mới bắt đầu làm việc ở đây
vào lúc đo. Đêm giao thừa lạnh thấu xương, anh biết đấy, tuyết rơi dữ lắm. Đêm quái quỉ. Và cô gái ấy, không lớn tuổi hơn tôi lắm vào lúc đó, lê lết bước
lên bực thềm cửa chính. Ôi, cô ta chẳng phải người đầu tiên. Chúng tôi đưa cô vào, và trong vòng một giờ đồng hồ sau cô ấy sanh ra đứa bé.”
Bà Cole gật gù một cách đầy ấn tượng và làm thêm một ngụm gin thiệt to nữa.
“Cô ấy có nói điều gìtrước khi chết không?” Thầy Dumbledore hỏi. “Điều gìvề cha của đứa bé chẳng hạn?”
“À, có đấy, như vẫn thường xảy ra,” bà Cole nói, lúc này bà ta dường như đang cao hứng, với ly rượu gin trong tay và một thính giả háo hức muốn nghe
bà kể chuyện. “Tôi nhớ cô ấy nói với tôi: “tôi hy vọng bé giống cha bé” và tôi không nói dối đâu nhé, cô ấy hy vọng như thế là đúng, bởi vì cô ấy xấu ơi là
xấu – và rồi cô ấy bảo tôi đặt tên cho bé là Tom, theo tên ba của bé, và Marvolo, theo tên bố cô ta –vâng, tôi biết, tên buồn cười nhỉ? Chúng tôi đã thắc
mắc phải chăng cô ấy đến từ một gánh xiếc – và cô ấy nói họ của đứa bé kia là Riddle. Và cô ấy chết ngay sau đó, không thốt thêm lời nào.”
“Thế là chúng tôi đặt tên cho đứa bé ý như lời cô ấy dặn, dường như điều đó quan trọng đối với cô gái tội nghiệp ấy, nhưng chẳng thấy Tom hay Marvolo
hay bất cứ Riddle nào đó đến đây tìm đứa bé, cũng chẳng có thân nhân nào cả, thành ra đứa bé ở lại viện mồ côi, và đã ở đây từ bấy đến giờ.”
Gần như lơ đãng, bà Cole lại tự chuốc cho mình một ly rượu gin đầy ắp khác. Hai đốm hồng hồng đã hiện trên đôi gò má cao của bà. Rồi bà nói, “Nó là
một thằng bé lạ lắm.”
“Vâng,” thầy Dumbledore nói. “Tôi tin là cậu ấy có thể khác thường.”
“Hồi còn sơ sinh nó cũng đã lạ rồi. Nó hầu như không khóc bao giờ, ông hiểu chứ. Và rồi, khi lớn thêm một tí, nó... kỳ quái lắm.”
“Kỳ quái như thế nào?” Thầy Dumbledore nhã nhặn hỏi.
“Chà, nó...”
Nhưng bà Cole chợt ghìm lại, và ánh mắt dò hỏi qua ly rượu gin của bà về phía thầy Dumbledore không mơ hồ hay vớ vẩn chút nào.
“Ông nói là chắc chắn nó được nhận vô trường của ông hả?”
“Chắc chắn,” thầy Dumbledore nói.
“Và không có điều gìtôi nói ra có thể thay đổi điều đó chứ?”
“Không,” thaayd Dumbledore nói.
“Dù gìđi nữa ông cũng đem thằng bé đi chứ?”
“Dù gìđi nữa,” thầy Dumbledore trang nghiêm lặp lại.
Bà Cole liếc thầy một cái như thể cân nhắc xem có thể tin được thầy hay không. Dường như bà quyết định là có thể tin, bởi vì bỗng nhiên bà nói thiệt
nhanh, “Nó khiến những đứa trẻ khác sợ chết khiếp.”
“Có phải bà muốn nói cậu ấy là kẻ hiếp đáp trẻ khác?” thầy Dumbledore hỏi.
“Tôi nghĩchắc là nó có bắt nạt,” bà Cole nói, hơi cau mày, “nhưng rất khó mà bắt nó tại trận. Có những chuyện ngẫu nhiên... những chuyện quái quỉ...”
Thầy Dumbledore không thúc giục bà Cole nói, nhưng Harry có thể thấy là thầy đang khoái nghe. Bà ta lại hớp thêm một ngụm rượu gin nữa và đôi má
hồng của bà ta càng hồng ửng lên.
“Con thỏ của Billy Stubbs... Chà, Tom nói là nó không làm chuyện đó và tôi thấy nó không thể nào làm nổi chuyện đó, nhưng dù có như thế, thì thỏ đâu có
tự mình treo lên xà ngang hả?”
“Không, tôi không nghĩvậy,” thầy Dumbledore khẽ nói.
“Nhưng tôi mà biết nó làm cách nào mà leo được lên xà để làm chuyện đó thì cho tôi chết toi đi cho rồi. Tôi chỉ biết là nó và Billy đã cãi nhau ngày hôm
trước. Và rồi...” Bà Cole lại ực thêm một hớp rượu gin nữa, lẫn này lại để nhểu một tí rượu xuống cằm, “...trong một dịp đi dã ngoại mùa hè... chúng tôi
đưa bọn trẻ đi chơi ở thôn quê hay bờ biển, anh biết đấy, mỗi năm một lần... Chà, từ chuyến đi đó về sau Amy Benson và Dennis cứ dở tỉnh dở ngây,
điều duy nhất mà chúng tôi có thể moi được từ hai đứa nó là tụi nó đã đi vô một cái hang với Tom Riddle. Có thể là tụi nó chỉ đi thám hiểm, nhưng tôi tin
chắc là có chuyện gìđó đã xảy ra trong hang. Và, ôi thôi, có rất nhiều chuyện, những chuyện quái gở...”
Bà ngó chừng thầy Dumbledore một lần nữa, và mặc dù hai má bà đã đỏ bừng, cái nhìn chòng chọc của bà vẫn nghiêm chỉnh. “Tôi cho là sẽ không có
nhiều người tiếc nuối khi thấy nó ra đi đâu.”
“Tôi chắc bà cũng hiểu rằng chúng tôi sẽ không giữ luôn cậu bé?” thầy Dumbledore nói, “Cậu bé sẽ trở về đây, ít nhất thìcũng vào mỗi mùa hè.”
“Ồ, thôi cũng được, thế còn hơn bị que sắt rỉ nện vô mũi,” bà Cole nói, hơi bị nấc cục. Bà đứng lên, và Harry rất có ấn tượng khi thấy bà hết sức vững
vàng, mặc dù chai rwouj gin giwof đây đã vơi hết hai phần ba. “Tôi đoán là anh muốn gặp nó?”
“Rất muốn,” thầy Dumbledore nói, và thầy cũng đứng dậy.
Bà Cole dẫn thầy đi ra khỏi văn phòng và đi lên một cầu thang bằng đá, vừa ra lệnh, vừa khiển trách những người giúp việc và lũ trẻ con khi bà đi ngang
qua họ. Harry thấy tất cả lũ trẻ mồ côi đều mặc cùng một loại áo dài xám xịt. Trông chúng cũng được chăm sóc tương đối tốt, nhưng không thể chối rằng
đó là một nơi khắc nghiệt cho trẻ con lớn lên.
“Chúng ta đến nơi rồi,” bà Cole nói, khi họ quẹo qua chân cầu thang của tầng thứ hai và dừng lại bên ngoài cánh cửa thứ nhất trong một hành lang dài.
Bà ta gõ lên cửa hai lần rồi bước vô phòng.
“Tom à? Con có khách. Đây là ông Dumbledoreberton... Xin lỗi, Dunderbore. Ông ấy đến để nói với con... Thôi, ta sẽ để cho ông ấy nói.”
Harry và hai Dumbledore đi vô phòng, và bà Cole đóng cửa phòng lại sau lưng họ. Đó là một căn phòng nhỏ trơ trụi hầu như không có gì ngoại trừ một
cái tủ áo cũ và một cái khung giường sắt. Một cậu bé đang ngồi trên một đống mền xám, chân duỗi thẳng ra phía trước, tay cầm một cuốn sách.
Chẳng có dấu vết gì của dòng họ Gaunt trên gương mặt của Tom Riddle. Merope đã đạt được ước nguyện lúc lâm chung: cậu bé là hình ảnh thu nhỏ của
người cha đẹp trai, khá cao so với tuổi mười một, tóc đen và làn da tai tái. Mắt cậu bé hơi nheo lại khi ngắm cái bộ dạng kỳ quái của thầy Dumbledore.
Hai bên im lặng một lúc.
“Chào Tom,” thầy Dumbledore nói, vừa đi tới và giơ tay ra.
Cậu bé do dự, rồi nắm lấy bàn tay người khách, hai người bắt tay nhau. Thầy Dumbledore kéo một cái ghế bằng gỗ cứng đến ngồi bên cạnh Riddle,
khiến cho hai người trông hơi giống cảnh một bện nhân và khách thăm trong bệnh viện.
“Tôi là giáo sư Dumbledore.”
“Giáo sư?” Riddle lập lại. Nó tỏ vẻ lo lắng. “Có giống như “bác sĩ” không? Ông đến đây để làm gì? Có phải là bà ấy kêu ông tới khám tôi không?”
Cậu bé chỉ về phía cánh cửa mà bà Cole vừa đóng lại khi bỏ đi.
“Không, không,” thầy Dumbledore mỉm cười, nói.
“Tôi không tin ông,” Riddle nói. “Bà ấy muốn để tôi khám bệnh, đúng không? Nói thiệt đi!”
Cậu bé nói ba tiếng cuối với một sức mạnh dứt khoát gần như khích động. Đó là một mệnh lệnh và nó vang lên như thể trước đây cậu bé đã ra lệnh như
vậy nhiều lần. Mắt cậu bé mở to và cậu nhìn trừng trừng thầy Dumbledore, thầy không đáp lại mà chỉ tiếp tục mỉm cười thoải mái. Vài giây sau Riddle
ngưng chiếu tướng, mặc dù cậu trông có vẻ lo lắng hơn.
“Ông là ai?”
“Tôi vừa nói với em. Tôi là giáo sư Dumbledore và tôi làm việc ở một trường học có tên là Hogwarts. Tôi đến đây để mời em về học ở trường tôi – là
trường mới của em, nếu em muốn học ở đó.”
Phản ứng của Riddle trước việc này đáng ngạc nhiên nhất. Nó nhảy ra khỏi giường và lùi xa thầy Dumbledore, vẻ mặt giận dữ.
“Ông ddnwgf hòng lừa tôi! Chỗ ông đến là nhà thương điên chứ gì? Giáo sư hả, ừ, dĩ nhiên... Này, tôi không đi đâu, hiểu không? Con mèo già ấy mới là
kẻ nên vô nhà thương điên. Tôi không hề làm bất cứ điều gìnhỏ Amy Benson hay Dennis Bishop, và ông có thể hỏi chúng, chúng sẽ kể cho ông nghe!”
“Tôi không đến từ nhà thương điên,” thầy Dumbledore kiên nhẫn nói. “Tôi là một giáo viên và, nếu em ngồi xuống bình tĩnh lại,tôi sẽ kể em nghe về trường
Hogwarts. Dĩnhiên nếu em không muốn đi học ở trường đó thìkhông ai cưỡng ép em.”
“Họ cứ thử cưỡng ép xem,” Riddle chế nhạo.
“Hogwarts,” thầy Dumbledore nói tiếp, như thể thầy không hề nghe mấy lời vừa rồi của Riddle, “là một trường học dành cho những người có năng khiếu
đặc biệt...”
“Tôi không điên!”
“Tôi biết em không điên. Hogwarts không phải là trường học cho người điên. Đó là trường học Pháp thuật.”
Im lặng. Riddle đã đông cứng, mặt nó vô hồn, mắt nó đảo qua đảo lại giữa hai con mắt của Dumbledore, như thể tìm cách bắt quả tang một trong hai con
mắt đó nói dối.
“Pháp thuật?” Nó thìthầm lập lại.
“Đúng vậy,” thầy Dumbledore nói.
“Đúng là... đúng là pháp thuật là cái mà tôi có thể làm?”
“Cái em có thể làm là những cái gì?”
“Đủ thứ,” Riddle thì thào. Một nguồn cảm xúc sôi nổi trào dâng lên tới cổ nó, lan đến hai má hõm của nó; trông nó như đang lên cơn sốt. “Tôi có thể khiến
đồ vật di chuyển mà không cần phải đụng tới chúng. Tôi có thể khiến thú vật làm những gìtôi muốn chúng làm, mà không cần huấn luyện chúng. Tôi có thể
khiến chuyện xui xẻo xảy ra cho người ta nếu họ làm tôi bực mình. Tôi có thể khiến họ đau đớn nếu tôi muốn.”
Hai chân Riddle đang run. Nó té nhào tới trước và lại ngồi dậy trên giường, đăm đăm nhìn hai bàn tay của nó, đầu nó cúi xuống như thể đang cầu nguyện.
“Tôi biết tôi khác người,” nó thìthầm với mấy ngón tay run rẩy của mình. “Tôi biết tôi đặc biệt. Luôn luôn, tôi biết có cái gìđó.”
“Ừ, em hoàn toàn đúng,” thầy Dumbledore nói, thầy không còn mỉn cười nữa mà chăm chú nhìn Riddle. “Em là một pháp sư.”
Riddle ngẩng đầu lên. Mặt nó biến đổi: một niềm vui cuồng nhiệt hiện lên mặt nó, nhưng không hiểu vì sao điều đó không làm cho gương mặt nó đẹp trai
hơn, mà ngược lại, nét mặt khéo tạc của nó dường như hung dữ hơn, biểu lộ vẻ tàn bạo hơn.
“Ông cũng là pháp sư hả?”
“Phải, tôi cũng là pháp sư.”
“Chứng minh đi,” Riddle nói ngay, cũng bằng cái giọng ra lệnh mà nó đã dùng khi bảo “nói thiệt đi!”
Thầy Dumbledore nhướn đôi chân mày, “Nếu em chịu đi học ở trường Hogwarts, tôi giao ước...”
“Dĩnhiên em đồng ý!”
“Vậy thìem phải xưng hô với tôi là “Thưa thầy” hay “Thưa ngài.””
Nét mặt Riddle đanh lại trong một thoáng ngắn ngủi trước khi nó nói với một cái giọng không thể cho là lễ phép được, “Tôi xin lỗi, thưa ngài. Ýem nói là...
xin vui lòng, thưa thầy, xin thầy biểu diễn cho em xem...?”
Harry chắc là thầy Dumbledore sẽ phải từ chối, ràng thấy sẽ nói với Riddle rằng sẽ có khối thì giờ cho những cuộc biểu diễn thực hành ở trường
Hogwarts, ràng hiện giờ họ đang ở trong một tòa nhà đầy những dân Muggle và vìvậy phải cẩn thận. Nhưng nó hết sức ngạc nhiên thấy thầy Dumbledore
rút ra cây đũa phép từ túi áo bên trong của cái áo lớn, chĩa nó vào cái tủ quần áo xập xệ ở góc phòng, và vẫy một cái không có chủ đích.
Cái tủ áo bùng cháy.
Riddle nhảy dựng lên; Harry khó lòng trách nó rú lên trong cơn kinh hoàng và tức giận; tất cả tài sản quí giá nhất của nó hẳn là để ở trong tủ cả. Nhưng
vừa đúng lúc Riddle quay lại sừng sộ với thầy Dumbledore, ngọn lửa biến mất, để lại cái tủ áo hoàn toàn nguyên vẹn.
Riddle hết trợn mắt ngó cái tủ lại ngó tới thầy Dumbledore; bỗng nhiên, nó chỉ vào cây đũa phép, vẻ mặt ham hố. “Em có thể kiếm một cây như vậy ở
đâu?”
“Đừng sốt ruột,” thầy Dumbledore nói. “Tôi nghĩcó cái gìđó đang tìm cách ra khỏi tủ áo của em.”
Và quả nhiên, có thể nghe được tiếng lục cục yếu ớt vang lên bên trong tủ. Lần đầu tiên Riddle tỏ vẻ hoảng sợ.
“Mở cửa ra,” thầy Dumbledore nói.
Riddle ngập ngừng, rồi băng ngang căn phòng và mở tung cánh cửa tủ áo. Một hộp giấy bồi nhỏ đang lắc lư và kêu lục cục như thể có nhiều con chuột
điên mắc bẫy bên trong hộp.
“Đem nó ra,” thầy Dumbledore nói.
Riddle bưng cái hộp tưng tưng ấy xuống. Nó có vẻ mất tinh thần.
“Trong hộp đó có cái gìem không nên giữ lại không?” thầy Dumbledore hỏi.
Riddle ném cho thầy Dumbledore một ánh amwts dài, trong trẻo, đắn đo. “Dạ, thưa thầy, em nghĩlà có.” Cuối cùng nó nói, bằng một giọng nói không biểu
cảm lắm.
“Mở nó ra,” thầy Dumbledore nói.
Riddle mở nắp hộp và lấy từng món đồ trong hộp ra đặt lên giường mà không nhìn ngắm chúng. Harry, những tưởng là cái gì đó lý thú lắm, lại thấy một
mớ vật dụng thường ngày nho nhỏ: trong mớ đó có một cái đồ chơi trẻ con, một cái vòng bằng bạc, và một cái kèn ooc. Được ra khỏi cái hộp, mớ đồ vật
ngừng run rẩy và nằm im trên lớp chăn mỏng.
“Em nên đem trả chúng lại cho chủ của chúng kèm theo lời xin lỗi,” thầy Dumbledore điềm tĩnh nói, vừa cất cây đũa phép trở vô trong túi áo. “Thầy sẽ biết
em có làm đúng như vậy hay không. Và em coi chừng: ăn cắp không được tha thứ ở trường Hogwarts đâu.”
Riddle không tỏ ra một chút bối rối nào. Nó vẫn đăm đăm nhìn thầy Dumbledore một cách lạnh lùng và cân nhắc. Cuối cùng nó nói bằng một giọng không
âm sắc, “Dạ, thưa thầy.”
“Ở trường Hogwarts,” thầy Dumbledore nói tiếp, “các thầy cô sẽ dạy em không những cách sử dụng Pháp thuật mà cả cách kiềm chế Pháp thuật. Lâu
nay em vẫn dùng năng lực của em – thầy chắc là tình cờ thôi – theo cái cách mà ở trường Hogwarts không day và cũng không chấp nhận. Em không phải
là người đầu tiên, cũng không phải là người cuối cùng, để cho năng lực huyền bí của mình thoát vòng kiềm tỏa. Nhưng em nên biết là trường Hogwarts
có thể đuổi học sinh, và Bộ Pháp thuật... Ừ, có mộ bộ như vậy, sẽ trừng phạt những kẻ vi phạm luật một cách nghiêm khắc. Tất cả pháp sư mới phải
chấp nhận tôn trọng luật của chúng ta, khi gia nhập thế giới Pháp thuật.”
“Dạ, thưa thầy,” Riddle lại nói.
Không thể đoán được là Riddle đang nghĩ gì; gương mặt nó vẫn cứ trơ trơ khi nhặt cái kho tàng nho nhỏ những đồ ăn cắp của nó bỏ trở vô cái thùng
giấy. Làm xong nó quay sang thầy Dumbledore nói trơ tráo, “Em không có tiền.”
“Điều đó giải quyết dễ thôi,” thầy Dumbledore nói, rút trong túi áo ra một bao tiền bằng da. “Trường Hogwarts có quỹ dành cho những học sinh nào cần
trợ giúp để mua sách vở và quần áo. Có thể em phải mua lại sách thần chú cũ và những thứ khác không được mới nguyên, nhưng...”
“Thầy mua sách thần chú ở đâu?” Riddle chen ngang, nó đã nhận túi tiền nặng mà không hề cảm ơn thầy Dumbledore, và bây giờ nó đang kiểm tra đồng
Galleon bằng vàng dày.
“Ở Hẻm Xéo,” thầy Dumbledore nói. “Thầy có đây danh mục Sách giáo khoa và học cụ em cần dùng ở trường. Thầy có thể giúp em tìm được mọi thứ...”
“Thầy sẽ đi với em à?” Riddle hỏi, ngước lên nhìn.
“Đương nhiên, nếu em...”
“Em không cần thầy.” Riddle nói. “Em quen tự mình làm mọi chuyện, em luôn đi khắp London một mình. Làm thế nào đi tới Hẻm Xéo... thưa thầy?” Nó
thêm hai tiếng cuối khi bắt gặp ánh mắt thầy Dumbledore.
Harry nghĩ thầy Dumbledore sẽ nhất định đòi đi cùng Riddle, nhưng một lần nữa nó bị ngạc nhiên. Thầy Dumbledore đưa Riddle cái phong bì đựng danh
sách những thứ cần dùng ở trường, và sau khi hướng dẫn chính xác cho Riddle đường đi từ Viện mồ côi đến Hẻm Xéo, thầy nói, “Em sẽ nhìn thấy nó,
mặc dù dân Muggle chung quanh em – tức là những người không có năng lực pháp thuật – không nhìn thấy. Hãy tìm ông Tom – người pha rượu, cũng dễ
nhớ vìtrùng tên với em...”
Riddle giựt giựt cơ mặt một cách khó chịu như thể cố xua đuổi một con ruồi cà chớn.
“Em không thích cái tên Tom à?”
“Có cả đống người tên Tom,” Riddle lẩm bẩm. Đột nhiên, như thể nó không cách nào nén câu hỏi xuống được nữa, như thể câu hỏi vọt ra bất chấp muốn
của nó, nó hỏi: “Ba của em có phải là pháp sư không? Họ nói với em ông ấy cũng tên là Tom Riddle.”
“Thầy e là thầy không biết,” thầy Dumbledore nói, giọng dịu dàng.
“Má em không thể nào có pháp thuật, chứ nếu có thì bà đâu bị chết,” Riddle nói, tự nói với mình hơn là nói với thầy Dumbledore. “Chắc phải là ba. Vậy –
khi nào em có đủ đồ đạc –khi nào em đến cái trường Hogwarts đó?”
“Tất cả chi tiết đều có trên trang giấy da thứ hai trong phong bì gửi cho em đó,” thầy Dumbledore nói. “Em sẽ rời Nhà ga Ngã tư vua vào ngày mồng một
tháng chín. Vé tàu lửa cũng ở trong phong bì.”
Riddle gật đầu. Thầy Dumbledore đứng dậy và giơ tay ra một lần nữa. Bắt tay thầy, Riddle nói, “em có thể nói chuyện với rắn. EM biết điều này khi tụi em
đi dã ngoại ở miền quê. Chúng kiếm em, húyt gió gọi em. Điều đó bình thường đối với một pháp sư không?”
Harry đã thấy là Riddle đã nhịn tới lúc đó mới kể ra năng lực kỳ lạ nhất của mình; nhất định là để gây ấn tượng.
“Điều đó không bình thường,” thầy Dumbledore nói, sau một chút ngập ngừng, “nhưng không phải là chuyện chưa từng nghe nói.”
Giọng thầy bình thường nhưng ánh mắt thầy tò mò dò xét gương mặt Riddle. Hai người – một người đàn ông và một cậu bé – đứng chăm chú nhìn nhau
một lúc. Rồi hai bàn tay rời nhau; thầy Dumbledore đi ra cửa.
“Tạm biệt nhé, Tom. Thầy sẽ gặp lại em ở trường Hogwarts.”
“Thầy nghĩ vậy là được rồi,” cụ Dumbledore tóc bạc bên cạnh Harry nói, và vài giây sau, hai thầy trò lại một lần nữa nhẹ tênh bay xuyên bóng tối, đáp
xuống văn phòng hiện thời, đứng đối diện nhau.
“Ngồi xuống,” cụ Dumbledore nói khi đáp xuống bên cạnh Harry.
Harry vâng lời, đầu óc vẫn còn đầy ắp những hình ảnh nó vừa mới xem.
“Hắn tin điều đó nhanh hơn con - con nói là khi thầy bảo hắn là một pháp sư,” Harry nói. “Khi bác Hagrid nói với con, thoạt đầu con không tin.”
“Đúng vậy, Riddle hoàn toàn sẵn sàng tin rằng hắn “đặc biệt” như chữ hắn dùng,” cụ Dumbledore nói.
“Vậy thầy có biết...?” Harry hỏi.
“Lúc đó thầy có biết là thầy đã gặp pháp sư Hắc ám nguy hiểm nhất của mọi thời đại hay không à?” cụ Dumbledore nói. “Không. Thầy không hề biết sau
này y sẽ lớn lên thành Chúa tể Hắc ám. Tuy nhiên, thầy chắc chắn có chú đến y. Thầy trở về trường Hogwarts với định sẽ để mắt tới cậu học trò này, dù
gìđi chăng nữa thìđó cũng là điều thầy rất nên làm, bởi vìy cô độc, không bạn bè, nhưng điều này thầy cảm thấy nên làm vìlợi ích của những người khác
nữa.
Năng lực của y, như con đã nghe, phát triển một cách đáng ngạc nhiên so với một pháp sư trẻ và – vừa thú vị vừa đáng sợ - y đã khám phá rằng y có
cách điều khiển chúng và bắt đầu sử dụng chúng có thức. Và như con đã thấy, chúng không phải là những thí nghiệm tùy tiện hay gặp ở những pháp sư
trẻ: y đã dùng Pháp thuật để chống lại người khác, để đe dọa, trừng phạt, hay để chế ngự. Những câu chuyện nhỏ về con thỏ bị treo trên xà ngang hay cô
bé và cậu bé nọ bị dụ vô hang là cho thấy rõ nhất... Tôi có thể khiến họ đau đớn nếu tôi muốn...”
“Và hắn là kẻ hiểu Xà ngữ,” Harry nói chêm vô.
“Phải, quả thật: một năng lực hiếm thấy, và là một năng lực được coi là có liên hệ với Nghệ thuật hắc ám, mặc dù như chúng ta đều biết, trong số những
người tốt và người vĩ đại cũng có nhiều người hiểu Xà ngữ. Thật ra, khả năng nói với rắn của y không làm cho thầy khó chịu bằng bản năng tàn ác, kín
đáo, và thống trị rất hiển nhiên ở y.
Thời gian lại chơi khăm thầy trò ta nữa rồi,” cụ Dumbledore nói, vừa chỉ ra bầu trời tối thui bên ngoài cửa sổ. “Nhưng trước khi chúng ta tạm biệt nhau,
thầy muốn lưu con một số đặc điểm của những cảnh mà chúng ta vừa chứng kiến, bởi vì những đặc điểm đó có nhiều nghĩa đối với những vấn đề mà
chúng ta sẽ thảo luận trong những buổi học sau này.
Trước tiên, thầy hy vọng con có để phản ứng của Riddle khi thầy nói đến một người có cùng tên “Tom” với y.” Harry gật đầu.
“Qua đó y biểu lộ sự khinh miệt bất cứ cái gì khiến liên hệ với người khác, bất cứ cái gì làm cho y bình thường. Ngay cả khi ấy, y đã ao ước khác
thường, xa cách, khét tiếng. Ythay đổi tên y, như con biết, trong vòng vài năm sau buổi nói chuyện đó và tạo ra cái mặt nạ “Chúa tể Voldermort” mà y đeo
khá lâu.
Ta tin là con cũng để thấy Tom Riddle là kẻ rất tự phụ, bí ẩn, và rõ ràng là không có bạn bè? Y không cần giúp đỡ hay đồng hành trong chuyến đi đến
Hẻm Xéo. Y thích hành động một mình. Gã Voldermort trưởng thành cũng y như vậy. Con sẽ nghe nhiều Tử thần thực tử tuyên bố rằng chúng là thân tín
của y, rằng chỉ có mỗi mình chúng gần gũi với y, thậm chíhiểu y. Chúng chỉ nói dối. Chúa tể Voldermort không bao giờ có một người bạn, thầy cũng không
tin y muốn có bạn bao giờ.
“Và cuối cùng – thầy hy vọng con không đến nỗi quá buồn ngủ mà không chú đến điều này, Harry à – Thằng bé Tom Riddle thích thu thập chiến tích. Con
đã thấy cái hộp đựng những thứ đồ ăn cắp mà y giấu trong phòng. Những thứ đó đã được lấy từ những nạn nhân mà y đã bắt nạt, những kỷ vật, nếu con
muốn gọi vậy, của những trò pháp thuật đặc biệt khó chịu. Hãy nhớ cái khuynh hướng giống chim ác là này, đặc biệt, sẽ quan trọng về sau này. Và bây
giờ thìtới giờ đi ngủ thật rồi.”
Harry đứng dậy. Khi nó Khi nó đi ngang qua căn phòng, mắt nó lại nhìn lên cái bàn nhỏ nơi nó đã nhìn thấy chiếc nhẫn của Marvolo Gaunt lần trước,
nhưng chiếc nhẫn không còn ở đó nữa.
“Gìđó, Harry?” cụ Dumbledore hỏi, vìthấy Harry bỗng nhiên đứng lại.
“Cái nhẫn biến mất rồi,” Harry nói, nhìn quanh quất. “Nhưng con nghĩthầy có thể có cái kèm acmonia hay cái gìđó.”
Cụ Dumbledore nhướn mắt qua tròng kính hình nửa vầng trăng, cười toe toét với nó.
“Tinh ranh đấy, Harry à, nhưng cái kèn acmonia thìchỉ mãi là cái kèn acmonia.”
Và kèm theo chú thích bíẩn đó, cụ vẫy tay chào Harry, nó tự hiểu là mình đã bị đuổi ra.
Chương 14
Phúc lạc dược
Harry có lớp Dược thảo học vào tiết đầu buổi sáng hôm sau. Trong bữa điểm tâm nó đã không thể kể cho Ron và Hermione nghe về buổi học tối hôm
trước với thầy Dumbledore vì sợ bị nghe lén, nhưng bù lại nó cung cấp đầy đủ chi tiết cho tụi kia khi cả bọn băng qua mảnh vườn rau đến khu nhà lồng
kiếng. Ngọn gió tàn khốc hồi cuối tuần rốt cuộc đã lịn đi; màn sương mù kỳ lạ lại trùm lên cảnh vật, và tụi nó mất nhiều thời gian hơn bình thường mới tìm
ra được đúng căn nhà kiếng.
“Mèn ơi, dễ sợ, Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy thời niên thiếu,” Ron nói khẽ khi tụi nó ổn định chỗ ngồi quanh một gốc cây Bẫy – Lèo đầy u nần – đề tài
nghiên cứu của kỳ học này – và bắt đầu đeo găng tay bảo hộ vô. “Nhưng mà mình vẫn không hiểu tại sao thầy Dumbledore lại cho bồ xem tất cả những
chuyện đó. Ýmình là, chuyện đó hay thiệt và vân vân... nhưng mà thầy muốn gì?”
“Ai mà biết,” Harry vừa nói vừa gắn miếng bảo hộ răng lợi. “Nhưng thầy nói nó quan trọng và sẽ giúp mình sống sót.”
“Mình thấy hay thiệt chứ,” Hermione nghiêm túc nói. “Chắc chắn là cố gắng biết được càng nhiều càng tốt về Voldermort thìrất khôn ngoan. Chứ không thì
làm sao bồ biết được nhược điểm của hắn?”
“Thế bữa tiệc vừa rồi của Thầy Slughorn ra sao?” Harry hỏi một cách khó khăn qua miếng bảo vệ răng lợi.
“Ồ, kể ra cũng vui lắm,” Hermione vừa đeo kính bảo hộ vừa nói. “Ý mình là, thầy hơi bị nói dài nói dai về những thành tích lừng lẫy, và tất nhiên thầy xun
xoe McLaggen vìnó quen biết lớn, nhưng thầy đã cho tụi này ăn ngon đã đời và thầy còn giới thiệu tụi này với Gwenog Jones nữa.”
“ Gwenog Jones hả?” Ron nói, hai mắt nó mở lớn đằng sau cặp kính bảo hộ. “ Gwenog Jones? Đội trưởng đội Holyhead Harrypies hả?”
“Đúng vậy,” Hermione nói. “Theo mình nghĩthìcô ta hơi bị tự phụ, nhưng mà...”
“Đằng kia nói dóc đủ rồi nghe!” Giáo sư Sprout rầy bằng giọng dứt khoát, vừa lướt thật nhanh đến bên tụi nó, vẻ mặt nghiêm khắc. “Các trò còn lẹt đẹt
tuốt đằng sau mọi người, ai cũng đã bắt đầu rồi, và Neville đã hái được trái đầu tiên!”
Tụi nó nhìn quanh; quả thực, Neville đang ngồi đằng kia với đôi môi ứa máu và nhiều vết cào xước ghê rợn dọc theo một bên gương mặt, tay thì nắm
chặt một vật màu xanh bự bằng trái nho đang phập phồng.
“Dạ, thưa cô, tụi con bắt đầu ngay bây giờ!” Ron nói, và khi bà Sprout quay đi, nó nói thêm, “lẽ ra nên xài Phép-trùm-kín-mít, Harry hả.”
“Không, không nên chút nào!” Hermione nói và ngay lập tức vẻ mặt dữ tợn, như mọi lần, khi đụng chuyện dính dàng tới Hoàng Tử lai và bùa phép của
hắn. “Thôi, làm đi... tụi mình bắt đầu đi...”
Cô nàng đưa mắt nhìn hai đứa kia ngại ngùng; hai đứa nó bèn hít một hơi thật sâu rồi bổ nhào xuống gốc cây u nần nằm giữa tụi nó.
Gốc cây bừng sống dậy tức thì; từ phía trên cùng của gốc cây phóng ra những thân dây leo đầy gai giống như cây gai bụi, quất vun vút vào không trung.
Một dây bự quấn vào mái tóc Hermione, và Ron chống trả lại nó bằng một cái kéo chuyên cắt cành; Harry lừa được hai nhánh dây leo vô bẫy và thắt gút
chúng lại với nhau; Giữa những nhánh cây như vòi bạch tuột này hở ra một cái lỗ; Hermione dũng cảm thọc tay vô cái lỗ này, thế là cánh tay cô nàng bị
mắc kẹt đến tận cùi chỏ; Harry và Ron vừa kéo vừa vặn vẹo mấy sợi dây leo, buộc cái lỗ mở ra lần nữa, và Hermione rút được cánh tay của mình ra, mấy
ngón tay nắm chặt một cái giống như cái mà Neville đã hái được. Ngay lập tức, mấy cọng dây leo đầy gai tự thu gọn vào gốc cây, và cái gốc cây sần sùi
lại nằm ìra đó trông chẳng khác nào một khối gỗ chết.
“Mấy bồ biết không, mai mốt mình có vườn riêng, mình chẳng đời nào trồng cái đồ quỷ này trong vườn hết,” Ron nói, vừa đẩy cặp kính bảo hộ lên tuốt trên
trán vừa lau mồ hôi rịn ra trên mặt.
“Đưa mình cái chén,” Hermione nói, tay nắm chặt trái đậu phập phồng vừa giơ thẳng cánh tay ra xa; Harry chuyền tới một cái chén và cô nàng thả trái đậu
vô đó với một vẻ ghê tởm trên mặt.
“Đừng trù trừ, vắt nó ngay, chúng ngon nhất khi còn tươi!” Giáo sư Sprout chỉ đạo.
“Dù sao đi nữa,” Hermione nói, tiếp tục câu chuyện bị gián đoạn như thể chưa hề bị gốc cây ấy quật cho một trận, “Thầy Slughorn cũng sắp tổ chức một
bữa tiệc Giáng sinh, Harry à, phen này bồ đừng hòng đánh bài chuồn nữa bởi vìthầy đã thực sự biểu mình kiểm tra xem bồ rảnh buổi tối nào, cho nên bồ
cứ yên chílà bữa tiệc Giáng sinh sẽ tổ chức đúng vào ngày bồ có thể tham dự.”
Harry rên lên. Cùng lúc Ron đứng dậy, nó đang cố gắng bóp nát trái đậu ở trong chén ra bằng cách ấn cả hai bàn tay lên trái đậu và đè nghiến xuống
bằng hết sức mình. Nó tức giận nói, “Lại một bữa tiệc nữa dành cho học trò cưng của Thầy Slughorn hả?”
“Ừ, chỉ trong vòng câu lạc bộ Slug mà thôi,” Hermione nói.
Trái đậu bay vọt ra khỏi mấy ngón tay Ron, đụng vào kiếng của tòa nhà, dội trở lại, trúng ngay chẩm đầu của giáo sư Sprout, làm văng đi cái nón cũ kỹ vá
víu của bà. Harry rượt theo trái đậu, tóm nó lại; Khi nó quay về chỗ cũ thìHermione đang nói, “Này nhé, mình không hề đặt ra cái tên “câu lạc bộ Slug”...”
“Câu lạc bộ Slug,” Ron lặp lại với cái điệu cười khinh khỉnh đáng bì với Malfoy. “Nghe phát chướng, mà thôi, mình hy vọng bồ khoái bữa tiệc. Sao bồ
không cặp luôn với McLaggen, để Thầy Slughorn phong luôn bồ với hắn làm Vua Slug và Hoàng hậu Slug...”
“Tụi này được phép dẫn theo bạn,” Hermione nói, chẳng biết vì l do gì mà đỏ nhừ cả mặt mũi, “và mình đã tính rủ bồ đi, nhưng nếu bồ cho là chuyện vớ
vẩn thìmình sẽ không làm phiền bồ đâu!”
Harry bỗng nhiên ước gì trái đậu đã bay xa hơn một chút, để nó khỏi phải ngồi đây với đôi bạn này. Bị hai bạn làm ngơ, Harry vớ cái chén đựng trái đậu
và bắt đầu tìm cách tách vỏ đậu ra bằng những phương pháp mạnh mẽ nhất và ồn ào nhất mà nó có thể nghĩ ra; nhưng thiệt xui xẻo, nó vẫn phải nghe
từng lời trong câu chuyện của hai đứa kia.
“Bồ tính rủ mình đi hả?” Ron hỏi, giọng khác đi liền.
“Ừ,” Hermione tức giận nói. “Nhưng rõ ràng là bồ muốn mình cặp với McLaggen hơn...”
Hai đứa cùng nín thinh trong khi Harry tiếp tục dùng cái bay dộng vô trái đậu ngoan cố.
“Không, mình đâu có muốn...” Ron nói, giọng nhỏ rí.
Harry dộng hụt trái đậu, cái bay va trúng vô chén làm cái chén bể tan tành.
“Chữa lành,” nó hấp tấp nói ngay, vừa dùng cây đũa phép khều khều mấy cái miểng chén, chúng bèn vọt trở lại vị trí cũ và liền lại y như trước. Tuy nhiên
vụ bể chén dường như nhắc nhở Ron và Hermione nhớ ra sự hiện diện của Harry. Hermione đâm ra sượng sùng và lập tức lật rối tinh beng cuốn sách
Cây ăn thịt trên thế giới để tìm ra cách vắt nước đậu Bẫy Lèo cho đúng; Ron ngược lại, coi bộ ngượng nghịu nhưng vui ra mặt.
“Đưa cái đó lại đây, Harry,” Hermione nói gấp. “Sách nói tụi mình nên đâm nó bằng cái gìđó nhọn...”
Harry đưa cho Hermione cái chén đựng trái đậu; cả nó và Ron đều đeo lại kính bảo hộ lên mắt và bổ nhào xuống gốc cây một phen nữa. Trong lúc vật lộn
với một nhánh dây leo đầy gai lăm le siết họng, Harry nghĩ, thực ra thì nó cũng không đến nỗi ngạc nhiên lắm; nó đã có linh cảm mơ hồ là điều này có thể
xảy ra, sớm hơn hay muộn hơn thôi. Nhưng nó không biết chắc là nó sẽ có cảm nghĩ thế nào về chuyện đó... Nó và Cho bây giờ nhìn nhau đã thấy
ngượng ngùng, đừng nói chi mở miệng chuyện trò với nhau; Nếu Ron và Hermione bắt đầu hẹn hò với nhau rồi sau đó chia tay nhau, thì sẽ ra sao? Liệu
tình bạn của tụi nó có còn hay không? Harry nhớ lại mấy tuần lễ mà hai đứa tụi nó không thèm nói chuyện với nhau hồi còn học năm thứ ba; nó đã không
vui sướng gì khi phải làm cái chuyện bắc cầu cho hai đứa nó xáp trở lại. Mà rồi, nếu hai đứa nó không chia tay thì sao? Nếu tụi nó kết nhau như anh Bill
và chị Fleur thìsao, và lúc đó sự có mặt của người thứ ba chẳng khác nào kỳ đà cản mũi, liệu nó có bị ra rìa vĩnh viễn không?
“Tóm được rồi!” Ron hét lên, kéo ra khỏi gốc cây một trái đậu thứ hai vừa đúng lúc Hermione tìm được cách tách vỏ được trái thứ nhất, thế là cái chén
đầy những hột đậu ngọ nguậy như những con trùn xanh lá cây.
Phần còn lại của buổi học qua đi mà không ai nhắc nhở gìđến tiệc tùng của Thầy Slughorn nữa. Mặc dù Harry để ý quan sát hai đứa bạn rất kỹ trong mấy
ngày tiếp theo, nhưng Ron và Hermione dường như chẳng khác xưa lắm, ngoại trừ cái chuyện tụi nó tỏ ra lịch sự với nhau hơn. Harry đồ chừng nó phải
chờ để coi chuyện gì xảy ra dưới ảnh hưởng của bia bơ trong căn phòng Thầy Slughorn có đèn thắp mờ mờ vào đêm mở tiệc. Còn trong lúc này thì nó
có những mối lo cấp bách hơn.
Katie Bell vẫn còn nằm trong bệnh viện Thánh Mungo, không có mấy triển vọng xuất viện sớm, điều này có nghĩa là đội bóng Gryffindor đầy hứa hẹn mà
Harry đã bỏ công luyện tập công phu kể từ tháng Chín đến giờ đâm ra thiếu mất một Truy thủ. Nó cứ chần chừ việc trám chỗ Katie với hy vọng cô sẽ trở
lại đội, nhưng trận đấu khai mạc giữa đội nó và đội Slytherin đang tới gần, và nó rốt cuộc đành phải chấp nhận cái thực tế là Katie không thể về kịp để
dự cuộc thi đấu.
Harry không nghĩ là nó có thể gồng mình làm thêm một cuộc thi đấu thử nữa cho tất cả học sinh nhà Gryffindor để tuyển chọn một Truy thủ bổ sung. Một
hôm, với cõi lòng nặng nề, mà duyên cớ chẳng dính dáng gì tới Quidditch, Harry chặn đường Dean sau buổi học môn Biến Hình. Hầu hết những học sinh
khác trong lớp đã ra về, mặc dù cả đống chim vàng líu lo vẫn còn bay vòng vòng quanh phòng học. Toàn bộ lũ chim ấy là sáng tác của Hermione; không
một ai khác có thể phù phép thành công dù chỉ biến từ không khíra một cọng lông vũ.
“Bồ còn hứng chơi ở vị tríTruy thủ không?”
“Cái gì...? Còn chứ, dĩ nhiên!” Dean hồi hộp nói. Harry nhìn qua vai Dean, thấy Seamus Finnegan liệng sách vô cặp, vẻ mặt chua chát. Một trong những l
do khiến Harry ngại ngùng mời Dean vào đội bóng là nó biết Seamus sẽ không vui. Nhưng mặt khác, nó phải làm điều gì đó có lợi nhất cho đội, mà
Dean thìbay trội hơn Seamus trong kỳ thi đấu tuyển chọn cầu thủ.
“Vậy thì, bồ vô đội,” Harry nói. “Tối nay có một buổi tập lúc bảy giờ đúng.”
“Được,” Dean nói. “Đã quá, Harry! Mèn ơi, mình phải nói cho Ginny biết ngay mới được!”
Anh chàng vọt ngay ra khỏi phòng, bỏ lại Harry và Seamus với nhau, một khoảnh khắc không dễ chịu chút nào, lại bị khó chịu hơn khi bầy chim én vàng
của Hermione cứ bay vi vút phía trên đầu tụi nó và một con ị luôn một cái trên đầu Seamus.
Seamus không phải là người duy nhất bất bình về việc chọn người thay thế Katie. Tiếng xì xào vang khắp phòng sinh hoạt chung về chuyện Harry giờ đây
đã chọn hai đứa bạn cùng lớp vô đội tuyển. Nhưng vì Harry đã từng chịu đựng những lời đồn đại ì xèo còn tệ hơn chuyện này trong đời học sinh của nó,
nên nó cũng chẳng bực tức gì cho lắm, dù vậy, áp lực phải thắng trong trận đấu sắp tới với đội tuyển Slytherin vẫn gia tăng. Nếu đội Gryffindor thắng,
Harry biết là cả Nhà sẽ quên ngay chuyện họ đã phê phán nó và sẽ thề thốt rằng họ luôn luôn biết đội nhà là một đội tuyệt vời. Nếu tụi nó thua... Chà, Harry
chua chát nghĩ, nó còn phải chịu đựng những lời xìxầm tệ hơn nhiều...
Khi nhìn Dean bay vào buổi tối hôm đó, Harry chẳng có lý do gì để hối tiếc sự chọn lựa của nó; Dean chơi nhịp nhàng với Ginny và Demelza. Hai tấn thủ
Peakes và Coote thìluôn tấn tới trong luyện tập. Vấn đề duy nhất là Ron.
Từ lâu Harry đã biết Ron là một cầu thủ không ổn định, nó bị chứng căng thẳng thần kinh và thiếu tự tin, lại không may, cái viễn cảnh lù lù của trận đấu khai
mạc mùa bóng dường như khơi lên tất cả những nỗi bất an trước đây của nó. Sau khi để lọt nửa tá gôn, hầu hết do Ginny tấn công, kỹ thuật của nó càng
lúc càng trở nên lung tung beng cho đến khi nó kết thúc bằng một cú thụi ngay miệng Demelza Robin.
“Xin lỗi nha, Demelza, chỉ là tai nạn tình cờ, anh thiệt tình xin lỗi!” Ron hét vói theo cô bé trong khi cô nàng lảo đảo đáp xuống đât, nhểu máu khắp nơi.
“Anh chỉ...”
“...hoảng sợ,” Ginny giận dữ nói, cô bé vừa đáp xuống bên cạnh Demelza, và nói, “Chữa lành chữa lặn.”
“Và Ginny này, đừng gọi Ron là đồ đần độn, em không phải là đội trưởng...”
“Thôi đi, anh có vẻ quá bận đến nỗi không có thìgiờ gọi anh ta là đồ đần độn nên em nghĩphải có ai đó gọi giùm...”
Harry ráng nín cười.
“Các bạn, bay lên không, chúng ta tiếp tục...”
Nhìn chung đó là một trong những buổi tập tệ nhất của tụi nó trong suốt học kỳ, tuy thế Harry cảm thấy rằng thành thật không phải là chính sách tốt nhất khi
mà tụi nó đang đến sát ngày thi đấu.
“Giỏi lắm, các bạn à, mình tin chúng ta sẽ đè bẹp đội Slytherin,” nó hùng hồn nói, và các Tấn thủ cùng Truy thủ rời phòng thay ddood tương đối hài lòng
với bản thân.
“Mình đã chơi dở như một bịch cứt rồng,” Ron nói bằng một giọng không thực thà lắm khi cánh cửa được đóng mạnh lại sau lưng Ginny.
“Đâu có, bồ chơi đâu có dở,” Harry kiên quyết nói. “Bồ là thủ môn giỏi nhất mà mình đã tuyển được, Ron à. Vấn đề duy nhất của bồ là tinh thần.”
Nó tiếp tục lên dây cót thần kinh cho Ron suốt trên đường trở về tòa lâu đài, và khi tụi nó lên tới tầng lầu thứ hai, thì Ron đã tỏ ra hơi hơi phấn khởi hơn.
Tuy nhiên, lúc Harry đẩy tấm thảm thêu để mở lối đi tát thông thường của tụi nó về tháp Gryffindor, thì hai đứa nó bắt gặp Dean và Ginny đang quấn lấy
nhau trong vòng tay ôm chặt, hôn nhau tha thiết như thể bị dán dính vào nhau.
Dường như có cái gì bự chảng đầy vảy vuốt đột ngột nảy sinh trong bao tử Harry, quào bấu ruột gan nó: máu nóng dường như chảy tràn não nó, khiến
cho tất cả nghĩsuy đều biến mất, thay vào đó là một mong muốn man rợ ếm xìbùa Dean thành mứt dẻo. Trong khi đấu tranh với cơn điên bất ngờ này, nó
nghe giọng nói Ron như vẳng từ đâu xa lắm.
“Úy mèn ơi!”
Dean và Ginny rời ra và nhìn quanh.
“Gìthế?” Ginny nói.
“Anh không muốn bắt gặp chính em gái của mình hôn hít người ta nơi công cộng!”
“Hành lang này vốn vắng vẻ cho đến khi anh xông vô!” Ginny nói.
Dean tỏ ra bối rối. Nó nở một nụ cười đnagiáo sư ngờ với Harry nhưng Harry không thèm đáp lại, trong khi con quái vật mới xuất hiện bên trong Harry
đang gầm lên đòi đuổi ngay Dean ra khỏi đội bóng.
“Ơ... thôi đi, Ginny,” Dean nói, “tụi mình trở về phòng sinh hoạt chung...”
“Anh đi đi!” Ginny nói. “Em muốn nói một tiếng với ông anh yêu dấu của em!”
Dean bỏ đi, trông có vẻ như anh chàng chẳng tiếc nuối gìcái cảnh đã bỏ lại sau.
“Được,” Ginny nói, hất mái tóc dài đỏ rực ra khỏi gương mặt và trừng mắt nhìn Ron, “chúng ta hãy giải quyết vụ này một lần và vĩnh viễn. Em cặp bồ với ai
hay làm gìvới người ta không mắc mớ gìđến anh hết, anh Ron à...”
“Có chứ!” Ron nói, giận dữ không kém. “Bộ em tưởng anh muốn người ta nói em gái của anh là một...”
“Một cái gì?” Ginny hét lên, rút cây đũa phép của cô bé ra. “Chính xác là một cái gìhả?”
“Ron không có ý gìđâu, Ginny...” Harry tự động can ngăn, mặc dù con quái vật vẫn đang gào thét tán thành lời của Ron.
“Ồ, ảnh có ý đấy chứ!” Cô bé nói, vừa trừng mắt nhìn Harry. “Chỉ vì ảnh chưa từng được hôn hít ai trong đời, chỉ vì cái hôn ngọt ngào nhất mà ảnh nhận
được từ trước cho tới giờ là của dìMuriel...”
“Câm miệng lại!” Ron gào lên, bỏ qua giai đoạn đỏ mặt, chuyển thẳng sang tím mặt.
“Không!” Ginny cũng gào lên, không còn tự chủ nữa. “Em đã nhìn thấy cảnh anh với con mẹ Nhớt, mỗi lần anh nhìn thấy ả là anh hy vọng ả hôn lên má anh
một cái, thiệt là thảm hại! Nếu anh có bồ bịch, được hôn hít thỏa thuê, anh sẽ bớt bận tâm quá đáng về chuyện mà ai ai cũng làm!”
Ron cũng đã rút cây đũa phép của nó ra; Harry vội bước ra đứng giữa hai anh em chúng.
“Mày không hiểu điều mà mày đang nói!” Ron gầm lên, cố gắng gạt Harry ra để nhắm cho trúng Ginny, trong khi Harry đứng án ngay trước mặt cô bé và
dang rộng hai tay. “Chẳng qua tao không làm chuyện đó nơi công cộng!“
Ginny rú lên cười nhạo báng, vừa cố đẩy Harry qua một bên.
“Vậy anh từng hôn hít con Pigwidgeon hả? Hay là anh có tấm hình của dìMuriel nhét dưới gối?”
“Mày...”
Một vệt sáng màu cam bay vèo ngay dưới nách trái Harry và trượt Ginny trong vài phân; Harry đẩy Ron vô sát tường.
“Đừng có ngu...”
“Anh Harry hôn hít Cho Chang!” Ginny hét, giọng cô bé nghẹn ngào. “Và chị Hermione hôn hít Viktor Kum, chỉ có anh, anh Ron, là làm như thể đó là
chuyện đáng tởm, mà chẳng qua vìkinh nghiệm của anh chỉ bằng tới kinh nghiệm của một đứa con nít mười tuổi!”
Và nói tới đó, cô bé đùng đùng bỏ đi. Harry vội buông Ron ra; vẻ mặt anh chàng này bừng bừng sát khí. Cả hai đứa nó đứng đó, thở hồng hộc, cho đến
khi bà Norris, con mèo của thầy giám thị Filch, xuất hiện ở góc hành lang, phá vỡ sự căng thẳng.
“Đi thôi,” Harry nói, khi tiếng chân lệt xệt của thầy Filch vọng đến tay tụi nó.
Tụi nó vội vã đi ngược lên cầu thang và dọc theo một hành lang lầu bảy.
“Này, tránh đường!” Ron nạt một cô gái nhỏ khiến cô bé nhảy dựng lên vìkinh sợ và làm rớt một chai nòng nọc.
Harry khó lòng chú ý đến tiếng thủy tinh bể tan; nó cảm thấy hoang mang, chóng mặt; có lẽ bị sét đánh cũng na ná như vầy. Nó tự nhủ, chẳng qua vì đó là
em gái của Ron, mình không thích nhìn thấy cô bé hôn Dean bởi vìcô bé là em của Ron...
Nhưng đầu óc nó cứ tự động diễn cái cnahr tỏng hành lang vắng vẻ đó, như là chính nó hôn Ginny thay vì... Con quái vật bên trong nó rên ư ử... nhưng rồi
nó lại thấy tiếp cảnh Ron kéo toạc tấm màn bằng thảm thêu ra và chĩa cây đũa phép vô người nó, thét lên cái gì đó nghe như “phụ lòng tin” ... “tưởng đâu
là bạn mình”...
Khi hai đứa đi gần tới Bà béo, Ron đột ngột hỏi, “Bồ có nghĩlà Hermione từng hôn hít Krum không?”
Harry giật mình, đầy mặc cảm tội lỗi và vội chuyển trí tưởng tượng của nó ra khỏi cái hành lang nơi mà Ron không xông vào, nơi chỉ có nó và Ginny với
nhau mà thôi...
“Cái gì?” Nó bối rối nói. “À... ơ...”
Câu trả lời chân thực là “có”, nhưng nó không muốn nói ra. Tuy nhiên, Ron dường như suy luận ra điều xấu nhất từ vẻ mặt của Harry.
“Súp Đăng quang,” Ron rầu rĩnói với Bà béo, rồi tụi nó trèo qua lỗ chân dung vào phòng sinh hoạt chung.
Hai đứa nó đều không đá động gì tới Ginny hay Hermione nữa; thật ra thì buổi tối đó tụi nó cũng chẳng nói chuyện với nhau nhiều, chỉ lặng lẽ lên giường
ngủ, mỗi đứa chìm trong suy nghĩcủa riêng mình.
Harry nằm thao thức một lúc lâu, ngó trao tráo cái vòm giường có bốn cột và cố gắng tự thuyết phục mình rằng tình cảm nó dành cho Ginny chỉ là tình anh
em. Chẳng phải trong suốt mùa hè tụi nó đã cùng chơi Quidditch, trêu ghẹo Ron, được những mẻ cười đã đời về anh Bill và nàng Nhớt, cùng chung sống
với nhau như anh em một nhà hay sao? Hay không phải vậy? Nó đã biết Ginny nhiều năm nay... Đương nhiên là nó muốn bảo bọc cô bé... ddwwong
nhiên là nó nên chăm sóc giữ gìn cho cô bé... muốn xé đôi Dean vìdám hôn cô bé... không... nó cần kiềm chế cái tình cảm anh em đặc biệt đó...
Ron ngáy lên một tiếng khò khò.
Cô bé là em của Ron, Harry kiên quyết tự nói với mình. Em của Ron. Cô bé ở ngoài vòng chơi. Nó không thể liều đánh đổi tình bạn với Ron cho bất cứ
cái gì. Nó vò cái gối của mình thành một cục méo mó không thoải mái chút nào rồi chờ giấc ngủ đến, cố gắng hết sức không cho suy nghĩ của nó đi lêu
bêu đâu đó gần Ginny.
Sáng hôm sau, Harry thức giấc cảm thấy hơi đờ đẫn và bối rối vì một loạt chiêm bao. Trong những giấc chiêm bao đó, Ron vác gậy Tấn thủ rượt nó chạy
thục mạng. Nhưng đến trưa thì nó vui vẻ kể chuyện đó cho chàng Ron thực nghe, anh chàng này chẳng những phớt lờ cả Ginny và Dean, mà còn đối xử
ghẻ lạnh với Hermione khiến cô nàng bị tổn thương và hoang mang chẳng hiểu vì đâu. Đã vậy, sau một đêm ngủ ngon, Ron dường như đâm ra dễ quạu
và lúc nào cũng chực nổ ra như con trùn Đuôi Nổ. Harry phải bỏ ra cả ngày để cố gắng giảng hòa giữa Ron và Hermione mà chẳng ăn thua gì; cuối cùng,
Hermione bỏ đi ngủ trong cơn giận điên người, còn Ron cũng tếch về phòng ngủ nam sinh sau khi điên tiết chửi mấy đứa năm thứ nhất về tội ngó cậu ta.
Mấy ngày sau, Harry thất vọng nhận thấy cơn hung hăng của Ron chẳng hề tiêu tan đi. Nhưng tệ hơn nữa là cơn quạu đó trùng với sự sa sút kỹ năng giữ
gôn của Ron, và điều này khiến nó càng thêm hung hăng, đến nỗi trong suốt buổi tập dợt Quidditch cuối cùng trước trận đấu ngày thứ bảy, nó chẳng bắt
được trái banh nào mà các Truy thủ nhắm vado nó, lại còn quát tháo mọi người dữ đến nỗi Demelza Robin phát khóc.
“Anh im đi, để cho bạn ấy yên,” Peakes hét, nó chỉ cao bằng hai phần ba Ron, nhưng phải ghi nhận là nó đang cầm một cây gậy to đùng.
“ĐỦ RỒI!” Harry rống lên, nó vừa nhìn thấy Ginny lướt về phía Ron, và nhớ ra cô bé nổi tiếng về độc chiêu ếm Bùa Ba bị, nó vội phóng lên can thiệp trước
khi sự việc đi quá đà.
“Peakes, đi gom lại mấy trái Bludger. Demelza, bình tĩnh lại, bữa nay em chơi hay lắm, Ron...” nó đợi cho đến khi những người khác trong đội đi xa ngoài
tầm tai mới nói, “Bồ là bạn chíthân của mình, nhưng nếu cứ tiếp tục đối xử với những người khác như vầy thìmình sẽ phải tống bồ ra khỏi đội thôi.”
Nó thực sự thoáng nghĩ là Ron có thể nhảy vô đập nó, nhưng lại xảy ra một chuyện còn tồi tệ hơn: Ron dường như buông xuôi trên cây chổi bay. Ron mất
hết tinh thần chiến đấu và nói, “Mình rút lui. Mình thảm quá.”
“Bồ không thảm hại và bồ cũng không rút lui!” Harry nói vẻ dữ dằn, tay nắm ngực áo Ron. “Khi bồ chơi đúng phong độ thì bồ giữ được tất cả, bồ chỉ bị
vấn đề tinh thần mà thôi!”
“Bồ nói mình là đồ tâm thần hả?”
“Ừ, có lẽ vậy!”
Hai đứa trừng mắt ngó nhau một lúc, rồi Ron lắc đầu mệt mỏi. “Mình biết bồ chẳng còn thì giờ để tìm một thủ môn mới, cho nên ngày mai mình vẫn chơi,
nhưng nếu tụi mình thua, và chắc là tụi mình sẽ thua, thìmình sẽ tự rút ra khỏi đôi,”
Harry nói gì chăng nữa thì cũng không thay đổi được gì. Nó đã cố gắng kích động lòng tự tin của Ron trong suốt bữa ăn tối, nhưng Ron quá bận gắt gỏng
và càu nhàu với Hermione nên chẳng buồn để ý.
Harry vẫn kiên trì thuyết phục trong phòng sinh hoạt chung buổi tối hôm đó, nhưng sự khẳng định của nó rằng đội bóng sẽ tiêu tùng nếu Ron rút ra không
được vững vàng lắm, bởi vì cái thực tế là toàn đội đang ngồi chúm chụm nhau trong một góc xa xa, rõ ràng là đang xì xèo về Ron và liếc cho thằng này
những ánh mắt khó chịu. Cuối cùng Harry thử nổi sung lên một lần nữa để kích Ron phải có thái độ phản công, và cả thái độ bảo vệ khung thành (nó hy
vọng thế), nhưng chiến thuật này cũng không có vẻ thành công hơn chiến thuật động viên cỗ vũ cho lắm; Ron đi ngủ vẫn với tâm trạng buồn bã thất vọng.
Harry lại nằm thao thức hồi lâu trong bóng tối. Nó chẳng muốn thua trong trận đấu sắp tới; không chỉ vì đó là trận đầu tiên nó sẽ chơi trong vai trò đội
trưởng, mà còn vì nó quyết định phải chiến thắng Draco Malfoy trong môn Quidditch ngay cả trong trường hợp nó không thể chứng minh được sự nghi
ngờ của nó đối với Malfoy. Nhưng nếu Ron cứ chơi như trong mấy trận tập dượt vừa qua thìcơ hội chiến thắng thiệt là mỏng manh.
Giá mà nó có thể làm cái gì đó khiến cho Ron bình tĩnh tự tin lại... khiesn Ron chơi đúng phong độ ngon lành nhất của mình... cái gì đó đảm bảo cho Ron
có một ngày thực sự tuyệt vời...
Và câu trả lời chợt bật ra trong một cú nháng rực rỡ bất ngờ đầy ngẫu hứng.
Bữa điểm tâm sáng hôm sau là chuyện khích bác thông thường; đội Slytherin huýt gió, la chộ um xùm khi mỗi thành viên của đội Gry đi vào Đại sảnh
đường. Harry ngó lên trần nhà và thấy một bầu trời xanh nhạt trong veo: một điềm lành.
Đám cổ động viên ở bàn ăn nhà Gryffindor, một khối đỏ và vàng kim vững chắc, rộ lên khi Harry và Ron đến gần. Harry toét miệng cười và đưa tay vẫy
vẫy; Ron nhếch mép một cách yếu ớt và lắc đầu.
“Phấn khởi lên, Ron!” Lavender kêu. “Em biết anh sẽ xuất sắc!” Ron phớt lờ cô bé.
“Trà không ?” Harry hỏi Ron. “Hay cà phê ? hay nước bí?”
“Gìcũng được,” Ron ủ rũ nói, vừa uể oải cắn một miếng bánh mìnướng.
Vài phút sau Hermione đến, cô bé đã pơhats ngán kiểu cư xử khó ưa của Ron dạo gần đây nên không thèm ngồi chung bàn với hai đứa nó nữa, nhưng
giữa đường đi lên bàn ăn phái trên, cô bé dừng chân.
“Hai bồ cảm thấy sao ?” Cô bé bgaapj ngừng hỏi, hai mắt ngó cái chẩm đầu của Ron.
“Khỏe,” Harry nói, nó đang tập trung vào chuyện đưa cho Ron một ly nước bí. “Của bồ nè, Ron. Uống hết đi.”
Ron vừa mới đưa ly lên tới miệng thìHermione kiên quyết nói.
“Đừng uống, Ron !”
Cả Harry và Ron ngước nhìn lên Hermione.
“Tại sao đừng ?” Ron nói.
“Bồ vừa bỏ cái gìđó vô trong ly nước.”
“Bồ nói gì?” Harry nói.
“Bồ nghe rõ mà. Mình thấy. Bồ vừa rót cái gìđó vô trong ly nước của Ron. Bồ còn đang cầm cái chai trong tay kìa !”
“Mình chẳng hiểu bồ đang nói về cái gì,” Harry nói, vội vã nhét cái chai nhỏ vô trong túi áo.
“Rom, mình khuyên bồ đừng nên uống cái đó !” Hermione lại nói, tỏ vẻ lo sợ, nhưng Ron đưa ly lên, uống một cái ực hết trơn, và nói, “Đừng sai biểu mình
nữa, Hermione à.”
Cô nàng có vẻ bị xúc phạm. Cúi thấp xuống để cho chỉ một mình Harry có thể nghe lọt tai, cô nàng nói rít qua kẽ răng, “Bồ đáng bị đuổi học vì chuyện đó.
Mình không bao giờ có thể tin là bồ làm chuyện đó, Harry à !”
“Coi, ai đang nói vậy cà,” nó thìthào đáp lại. “Gần đây có ếm bùa lú lẫn cho ai hả ?”
Hermione đùng đùng bỏ đi khỏi cái bàn của hai đứa nó. Harry nhìn theo cô nàng đi mất mà không hề hối tiếc. Hermione chưa bao giờ thực sự hiểu công
việc Quidditch nghiêm trọng nhường nào. Rồi nó quay lại nhìn Ron, anh chàng còn đang chóp chép liếm môi.
“Gần tới giờ rồi,” Harry nói vẻ vô tư.
Lớp cỏ phủ sương giá kêu lạo xạo dưới chân khi hai đứa nó cùng rảo bước đến sân vận động.
“Ừ,” Ron nói, trông nó nhợt nhạt và có vẻ bệnh.
Ginny và Demelza đã mặc đồng phục chơi Quidditch của tụi nó và chờ đợi trong phòng thay đồ.
“Hoàn cảnh thi đấu coi bộ lý tưởng,” Ginny nói, phớt lờ Ron. “Và đoán thử coi? Tay Vaisey Truy thủ đội Slytherin ấy… hắn bị dộng một trái Bludger vô đầu
trong buổi tập dợt của tụi nó ngày hôm qua, hắn đau quá nên bữa nay không thi đấu được! Nhưng tuyệt hơn nữa là… Malfoy cũng không thi đấu vìbệnh !”
“Cái gì?” Harry nói, xoay người hẳn lại để trợn mắt nhìn cô bé. “Nó bệnh hả ? Nó bị bệnh gìvậy ?”
“Ai biết, nhưng điều đó thiệt là hên cho tụi mình,” Ginny hớn hở nói. “Họ thế Harper vô chỗ nó ; tay này cũng năm với em và đần.”
Harry mỉm cười đáp lại một cách mập mờ, nhưng khi mặc vào bộ áo chùng đỏ tía rồi, đầu óc nó không còn tha thiết tới Quidditch nữa. Malfoy trước đây
đã từng nại cớ bị thương không thể chwoi trong một trận đấu, và nhân cớ đó nó đã mánh mung sao cho cả trận phải sắp lịch lại vào thời điểm thuận lợi
hơn cho đội Slytherin. Tại sao bây giờ nó lại vui vẻ để cho đứa khác chơi thế nó ? Nó bị bệnh thực hay chỉ giả đò ?
“Mờ ám quá hả ?” Harry nói nhỏ với Ron. “Malfoy mà không thi đấu à ?”
“Mình thấy vậy là may mắn đó chớ,” Ron nói, trông có vẻ sống động hơn một chút. “Và Vaisey cũng ở ngoài sân luôn, nó là thằng ghi bàn giỏi nhất, mình
không thể mơ gìhơn... Ái chà!” Nó bồng nhiên kêu lên, ngây người ra trong tư thế đang đeao găng thủ môn được nửa chừng, nhìn sững Harry.
“Gìvậy?”
“Mình... bồ...” Ron hạ thấp giọng đột ngột, trông nó vừa sợ vừa hồi hộp. “Nước mình uống... món nước bícủa mình... bồ đã...?”
Harry nhướn chân mày lên, nhưng không nói gìngoại trừ câu: “Năm phút nữa tụi mình sẽ bắt đầu, bồ nên mang giầy bốt vô.”
Hai đứa đi ra sân đấu giữa tiếng hoan hô và la chộ rân trời. Ở một đầu sân vận động rợp toàn màu đỏ và vàng kim; đầu kia là một biển màu xanh lá và
trắng bạc. Nhiều học sinh nhà Hufflepuff và Ravenclaw cũng chia hai phe: giữa tất cả những tiếng reo hò và vỗ tay, Harry có thể nghe rõ ràng tiếng rống từ
cái nón đầu sư tử trứ danh của Luna Lovegood.
Harry bước tới bên trọng tài, bà Hooch, người đang đứng trong tư thế sẵn sàng thả những trái banh ra khỏi lồng.
“Các đội trưởng, bắt tay,” bà nói, và bàn tay Harry bị nghiến đau điếng trong bàn tay của đội trưởng mới nhà Slytherin, Urquhart.
“Leo lên chổi. Chờ còi thổi... ba... hai... một...”
Tiếng còi vang lên, Harry và những đứa khác đạp mạnh xuống mặt đất đông cứng, và tụi nó bay lên.
Harry bay lượn vòng quanh vành đai sân đấu, nhìn quanh quất tìm kiếm trái banh Snitch đồng thời canh chừng Harper, tay này đang bay hình chữ chi tuốt
phía dưới nó. Bỗng nhiên một giọng nói khác hẳn giọng bình luận viên mọi khi vang lên nghe chói lói lỗ tai.
“Đấy, họ đã bắt đầu, và tôi cho rằng tất cả chúng ta đều ngạc nhiên khi thấy đội bóng mà Potter thành lập trong năm nay. Căn cứ vào cách chơi ba trợn
của Ron Weasley ở vị trí thủ môn hồi năm ngoái, nhiều người nghĩ rằng có lẽ anh ta phải ra khỏi đội thôi, nhưng dĩ nhiên, là bồ bịch thân thiết với đội
trưởng cũng có lợi...”
Những lời bình này được đón nhận bàng những tràng vỗ tay và hò reo vang lên từ khán đài cánh Slytherin. Cỡi trên cây chổi bay, Harry vươn cổ ngoái
nhìn về vị trí của bình luận viên. Một tay cao nhòng, da bọc xương, có cái mũi hỉnh đang đứng đó, nói qua cái loa huyền bí vốn trước đây thuộc về Lee
Jordan; Harry nhận ra hắn là Zacharias Smith, một cầu thủ của đội Hufflepuff, kẻ mà nó không ưa chút nào.
“A, đợt tấn công đầu tiên của đội Slytherin vào cột gôn, Urquhart đang lao xuống sân đấu và...”
Bao tử Harry lộn tùng phèo.
“...Weasley đã bắt được bóng, chu choa ơi, tôi nghĩcậu chàng đôi khi cũng hên...”
“Đúng vậy, Smith à, cậu ta đang hên,” Harry lẩm bẩm, nhoẻn miệng cười một mình, đồng thời nó lao vào giữa những Truy thủ giương mắt nhìn xung quanh
tìm kiếm vết tích của trái banh Snitch rất khó truy bắt.
Trận đấu trôi qua được gần nửa tiếng đồng hồ, đội Gryffindor dẫn trước sáu không, Ron đã cứu cột gôn mấy bàn thực sự ngoạn mục, có vài bàn được
cứu bằng chót găng tay của nó, và Ginny đã ghi được bốn trong sáu điểm của đội Gryffindor. Điều này đã khóa họng hết sức hiệu nghiệm anh chàng
ZacHarryia, khiến anh ta hết la lối lạc đề về chuyện hai anh em nhà Weasley được tuyển vô đội chỉ vì Harry khoái tụi nó. Anh ta bèn chuyển tông, nhắm vô
Peakes và Coote.
“Dĩnhiên, Coote không thực sự có vóc dáng của một tấn thủ,” ZacHarryia cao giọng, “Tấn thủ nhìn chung cần nhiều cơ bắp hơn...”
“Đấm một trái Bludger vô mõm nó!” Harry bảo Coote khi bay ngang qua nó, nhưng Coote miệng cười toe toét, lại chọn Harper để nện cho trái Bludger kế
tiếp, tay Harper này vừa bay ngược hướng qua Harry. Harry hết sức khoái khi nghe một tiếng hự đã lỗ tai, nghĩa là trái Bludger đã đánh trúng mục tiêu.
Có vẻ như đội Gryffindor không thể nào chơi dở đi được. Tụi nó cứ ghi hết bàn này đến bàn khác, trong khi ở đầu kia sân đấu, Ron bảo vệ các cột gôn
khá dễ dàng. Bây giờ nó đã thực sự mỉm cười, và khi đám đông hoan hô một pha cứu gôn thành công của nó bằng giọng đồng ca bài hát phổ biến cũ
rích Weasley là vua chúng mình, nó còn giả bộ điều khiển ban đồng ca từ trên cao.
“Bữa nay nó tưởng nó là cái gì đặc biệt lắm hả?” Một giọng nói cạnh khóe vang lên, và Harry suýt nữa bị đấm văng ra khỏi cây chổi bay khi Harper đung
thiệt mạnh vô nó một cách có tính toán. “Đồ phản bội huyết thống...”
Lúc đó bà Hooch đang quay lưng lại phía tụi nó, và mặc dù cổ động viên Gryffindor bên dưới đang hò hét giận dữ, khi bà Hooch quay lại thì Harper đã
nhanh chóng chuồn mất. Vai đau buốt, Harry rượt theo Harper, quyết tâm nện trả đũa...
“Và tôi cho rằng Harper của đội Slytherin vừa nhìn thấy trái banh Snitch!” Zacharias Smith gào lên trong loa. “Đúng rồi, chắc chắn là anh đã nhìn thấy cái
gìđó mà Potter không thấy!”
Smith đúng thiệt là một thằng ngu, Harry nghĩ, chẳng lẽ thằng này không thấy hai đứa nó đụng nhau sao? Nhưng ngay sau đó, bao tử nó dường như rớt
từ trên trời xuống – Smith nói đúng và Harry đã nhầm: Harper không hề phóng vọt lên một cách ngẫu nhiên; nó đã thấy cái mà Harry không thấy: trái banh
Snitch đang bay cực nhanh ngay phía trên đầu tụi nó, lấp lánh sáng rực trên nền trời xanh trong.
Harry tăng tốc vọt lên cao; gió hú ù ù bên tai nó khiến cho tất cả âm thanh bình luận của Smith và tiếng ồn ào của đám đông đều bị nhấn chìm, nhưng
Harper vẫn còn ở phía trước nó, và đội Gryffindor chỉ mới vượt trước một trăm điểm; nếu Harper tới trước và đội Gryffindor thua... và giờ đây Harper chỉ
còn cách trái banh mấy tấc, tay nó đang vươn ra...
“Ối, Harper!” Harry gào lên tuyệt vọng. “Malfoy trả mày bao nhiêu để thi đấu thay cho nó hả?”
Nó không biết cái gì khiến cho nó nói điều đó, nhưng Harper giựt thột; nó lóng ngóng cố chụp trái banh Snitch, nhưng để banh tuột khỏi mấy ngón tay, và
theo đà lao tới, nó vượt qua khỏi trái banh. Harry bèn thực hiện một động tác vĩđại chụp lấy trái banh nhỏ xíu đang vùng vẫy, và tóm được.
“DÔ!” Harry gào to. Xoay chổi vòng lại, nó đâm sầm trở xuống mặt đất, tay giơ cao trái banh Snitch. Khi đám đông nhận ra điều gì đã xảy ra, một tiếng
gầm nổ ra, lớn đến nỗi gần như át cả tiếng còi báo hiệu trận đấu kết thúc.
“Ginny, em đi đâu đó?” Harry gào theo. Nó nhận ra mình bị mắc kẹt giữa cái ôm chầm tập thể giữa không trung với những người khác trong đội, nhưng
Ginny thì lướt qua tụi nó, tiếp tục lao nhanh tới trước cho đến khi tông một cái rầm vô cái bục dành cho bình luận viên. Trong khi đám đông rú to và ré lên
cười, toàn đội Gryffindor đáp xuống bên cạnh đống gỗ bể tanh banh đè lên thân anh chàng Zacharias đang yếu ớt cựa quậy: Harry tỉnh bơ nói với giáo
sư McGonagall đang nổi giận, “Thưa cô, con quên thắng lại, con xin lỗi vậy.”
Harry bật cười, tách ra khỏi những người khác trong đội, ôm lấy Ginny, rồi buông ra thiệt là nhanh. Tránh ánh mắt đăm đăm của cô bé, Ron vỗ lên lưng
Ron cỗ vũ, tất cả hiềm khích cũ được bỏ qua, toàn đội Gryffindor nắm tay nhau rời khỏi sân đấu, vừa gởi những cái hôn gió đến cổ động viên.
Không khítrong phòng thay đồ thiệt là tưng bừng. “Seamus nói tiệc đã bày trên phòng sinh hoạt chung!” Dean hồ hởi nói. “Đi thôi, Ginny, Demelza!”
Ron và Harry là hai đứa cuối cùng rời phòng thay đồ. Tụi nó sắp sửa đi ra thìHermione đi vào. Cô nàng đang vặn vẹo tấm khăn quàng cổ Gryffindor trong
tay, có vẻ buồn giận nhưng kiên quyết. “Harry, mình muốn nói với bồ một lời.” Cô nàng hít vô một cái thiệt sâu. “Lẽ ra bồ không nên làm vậy. Bồ đã nghe
Thầy Slughorn nói rồi đó, nó bất hợp pháp.”
“Vậy bồ định làm gì, tố cáo tụi này à?” Ron hỏi gặng lại.
“Hai bồ đang nói về cái gìvậy?” Harry hỏi, vừa quay ra treo cái áo chùng của nó lên để hai đứa kia không thấy nó nhe răng cười.
“Bồ biết quá rõ tụi này đang nói về cái gìmà!” Hermione ấm ức nói. “Bồ pha thuốc may mắn vô nước bícủa Ron trong bữa điểm tâm! Phúc lạc dược!”
“Đâu có, mình không hề làm vậy,” Harry nói, quay lại để đối mặt với hai đứa nó.
“Có, Harry, bồ có làm, và vìvậy mà mọi thứ diễn ra suôn sẻ, cầu thủ đội Slytherin không thể tham dự trận đấu, và Ron cứu được tất cả các cột gôn!”
“Mình không hề pha gì vô hết!” Harry nói, cười toét cả miệng. Nó thọc tay vô túi áo khoác lấy ra một cái chai nhỏ xíu mà Hermione đã nhìn thấy trong tay
Harry vào buổi sáng. Cái chai vẫn đầy ắp thuốc vàng óng và nút chai vẫn còn gắn chặt bằng sáp. “Mình muốn Ron tưởng vậy, nên khi thấy bồ nhìn, mình
giả bộ như rót vô ly của nó.”
Nó nhìn Ron, “Bồ cứu được mọi cột gôn bởi vìbồ có cảm giác may mắn. Nhưng bồ đã thành công nhờ vào chính tài sức của bồ.”
Nó lại nhét cái chai vô túi áo.
“Thiệt tình là không có gì hết trong món nước bí của mình hả?” Ron nói, hơi ngẩn ngơ. “Nhưng mà thời tiết thì tốt… và Vaisey không thể thi đấu… mà thiệt
là mình không hề được uống thuốc hên sao?”
Harry lắc đầu. Ron há hốc mồm nhìn nó một lát, rồi quay lại Hermione, nhái giọng cô bé. “Bồ bỏ Phúc lạc dược vô trong nước uống của Ron hồi sáng này,
Ron cứu được tất cả các cột gôn! Thấy chưa! Mình có thể cứu gôn mà không cần trợ lực, Hermione à!”
“Mình không hề nói bồ không thể… Ron à, chính bồ cũng tưởng là bồ được uống thuốc mà!”
Nhưng Ron đã bước ngang qua mặt cô nàng đi ra cửa với cây chổi bay vác trên vai.
“Ở,” Harry nói để phá tan sự im lặng đột ngột; nó đã không dè kế hoạch của nó lại bị phản thùng như vậy. “Vậy… Tụi mình có nên đi ăn tiệc không?”
“Bồ đi đi!” Hermione nói, chớp chớp mắt để ngăn lệ rơi. “Lúc này mình phát chán Ron rồi, mình không biết mình đã làm gì…”
Và cô nàng cũng đùng đùng đi ra khỏi phòng thay đồ.
Harry bước chầm chậm lên sân trường, về phía tòa lâu đài, ngang qua đám đông, nhiều người hét lên chúc mừng nó, nhưng nó có một cảm giác nặng nề
là bị thất vọng; nó đã tưởng chắc là nếu Ron thắng trận đấu này, thìRon và Hermione sẽ lập tức trở lại là bạn bè như xưa. Nó không biết làm cách nào để
có thể giải thích với Hermione, rằng cái điều mà Hermione khiến cho Ron bị tổn thương chính là việc cô nàng đã hôn Viktor Krum, cho dù thời điểm xảy
ra cái tội đó đã từ lâu quá rồi.
Harry không gặp được Hermione trong bữa tiệc mừng chiến thắng của nhà Gryffindor. Lúc nó đến thì bữa tiệc đang hồi tưng bừng náo nhiệt nhất. Sự
xuất hiện của nó lại làm nổi lên một tràng vỗ tay và hoan hô mới, và chẳng mấy chốc nó bị một đám người vây quanh chúc tụng. Vừa mới cố gắng rứt ra
khỏi anh em nhà Creevey cứ đòi phân tích từng pha một của trận đấu, thì lại có một đám con gái cứ bu quanh, chơm chớp mắt và cười ồ với cả những
lời bình ít thú vị nhất của nó, nên nó coi bộ mất khá lâu mới có thể tìm ra Ron. Cuối cùng, nó tự giải vây cho mình thoát khỏi Romilda Vane, cô nàng này
gợi ý trắng trợn là muốn đi cùng Harry đến bữa tiệc Giáng sinh của Thầy Slughorn. Khi nó lách được đến gần cái bàn để thức uống, nó đi thẳng tới gặp
Ginny, con Bông Thoa LùnArnold đang cỡi lên vai cô bé, và con mèo Crookshanks đang kêu meo meo bên gót chân Ginny đầy hy vọng.
“Kiếm anh Ron hả?” Cô bé hỏi, nở nụ cười ngạo nghễ. “Anh ta ở đằng kia kìa, đồ đạo đức giả thối tha ấy.”
Harry ngó về phía cái góc phòng mà cô bé chỉ. Ở đó, giơ mình ra trước mắt cả căn phòng, Ron đang đứng, quàng tay quanh Lavender Brown sát đến nỗi
khó mà biết tay ải tay ai.
“Trông như thể anh ta đang cạp cái mặt chị ta hả?” Ginny nói với vẻ thất vọng não nề. “Nhưng em cho rằng anh ấy cần phải tinh luyện lại kỹ thuật thế nào
đó. Trân đấu hay lắm, anh Harry à.”
Ginny vỗ nhẹ lên cánh tay Harry; nó cảm thấy bồi hồi trong dạ, nhưng rồi cô bé bỏ đi để lấy cho mình một chai bia bơ. Crookshanks lon ton chạy theo sau
cô bé, đôi mắt vàng khè của nó cứ trừng trừng ngó conArnold.
Harry quay lưng lại phía Ron, anh chàng này không có vẻ gì sẽ sớm tỉnh cơn mê, vừa lúc cái lỗ chân dung đóng lại. Với một cảm giác nôn nao, nó tưởng
như nhìn thấy một mái tóc nâu dầy bồng bềnh thoáng phất qua tầm mắt.
Nó lao tới trước, lãnh tránh Romilda Vane một lần nữa, và đẩy cái lỗ chân dung Bà béo ra. Hành lang bên ngoài dường như vắng ngắt.
“Hermione ơi?”
Nó tìm thấy Hermione trong phòng học không khóa đầu tiên mà nó thử vào. Cô bé đang ngồi bên bàn giáo viên, một mình, nếu không kể bầy chim yến
vàng đang bay quanh trên đầu; hẳn nhiên là Hermione đã úm ba la ra chúng từ trong không khí. Harry không thể không ngưỡng mộ tác phẩm bùa chú của
Hermione trong hoàn cảnh như thế này.
“À, chào Harry,” cô bé bói giọng dễ quạu. “Mình đang thực tập.”
“Ừ… chúng… ơ… đẹp thiệt…” Harry nói.
Nó chẳng biết nói gìvới Hermione nữa. Nó còn đang tự hỏi không biết Hermione có kịp để ý thấy Ron không, hay cô bé rời khỏi phòng chỉ vìbữa tiệc um
sùm quá, thìHermione bỗng nói, giọng lanh lảnh cao một cách bất thường, “Ron dường như khoái chúc tụng.”
“Ơ… vậy hả?” Harry nói.
“Đừng làm bộ như bồ không hiểu nó,” Hermione nói. “Nó cũng chả thèm giấu diếm…?”
Cánh cửa phía sau tụi nó chợt mở tung ra. Harry kinh hãi thấy Ron bước vào, cười cợt, kéo tay Lavender.
“Ủa,” nó nói, đứng khựng lại khi nhìn thấy Harry và Hermione.
“Í!” Lavender kêu lên, và cô nàng lui ra khỏi phòng, khúc khích cười. Cánh cửa đóng mạnh sau lưng cô ta.
Căn phòng chợt im lặng căng thẳng ngột ngạt dễ sợ. Hermione trừng mắt nhìn Ron, anh chàng này lại cố tránh ánh mắt cô bé, nhưng gượng nói với bộ
điệu vừa tỏ ra ta đây anh hùng vừa lọng ngọng lớ quớ, “Chào, Harry! Không biết bồ đi đâu mất tiêu!”
Hermione trượt khỏi cái bàn. Bầy chim vàng tiếp tục ríu rít bay vòng vòng trên đầu nên trông cô bé giống như một mô hình hệ thái dương bằng lông vũ lạ
lùng.
“Bồ không nên để Lavender chờ đợi ở bên ngoài,” Hermione lặng lẽ nói. “Bạn ấy có thể thắc mắc bồ đi đâu.”
Cô bé thẳng lưng đi chậm rãi về phía cánh cửa. Harry liếc nhìn Ron, anh chàng này có vẻ như thở phào nhẹ nhõm là đã không xảy ra chuyện gìtồi tệ hơn.
Bỗng một tiếng hô the thé vang lên từ ngưỡng cửa, “Công kích!”
Harry quay phắt lại để thấy Hermione đang chĩa cây đũa phép vào Ron, vẻ mặt cô nàng hoang dại: bầy chim nhanh như một loạt đạn vàng bay vun vút về
phía Ron, anh chàng thét rống lên, giơ hai tay che mặt, nhưng bầy chim vẫn tấn công, mổ, rỉa, và quào từng thẻo da thịt nhỏ xíu mà chúng có thể đụng tới.
“Tránh xa ta!” Ron thét lên, nhưng Hermione quẳng cho nó ánh mắt cuối cùng tràn đầy cơn phẫn nộ bất dung thứ, rồi vặn cửa mở ra và biến mất sau cánh
cửa. Harry tưởng như nó nghe được một tiếng khóc nấc trước khi cánh cửa đóng sầm lại.
Chương 15
Phép thề bất khả bội
Một lần nữa tuyết lại bay xoáy vào những cửa sổ bám đầy băng giá; Lễ Giáng sinh đến nhanh. Bác Hagrid đã một mình vác cả mười hai cây thông Giáng
sinh vào Đại sảnh đường; những chuỗi kim tuyến và giấy hoa trang tríđã được treo quấn quít quanh lan can các cầu thang; những cây nến mãi mãi không
tắt tỏa ánh sáng từ bên trong những chiếc nón sắt của những bộ áo giáp, và từng chùm dây tầm gởi treo lủng lẳng cách từng khoảng đều dọc những
hành lang. Tụi con gái có xu hướng tụ tập thành đám đông bên dưới những chùm cây tầm gửi mỗi khi Harry đi ngang qua, điều này gây tắc nghẽn các
hành lang; nhưng may thay những cuộc đi rong buổi tối thường xuyên của Harry đã giúp nó có một kiến thức phi thường về những ngõ ngách bímật trong
tòa lâu đài, nhờ vậy nó thường không mấy khó khăn chọn được những lối đi không có dây tầm gửi để đi lại giữa các lớp học.
Ron, có lẽ một khi đã nhận ra việc bắt buộc phải lẩn tránh lòng vòng này là nguyên do đáng để nó ganh tị hơn là để vui nhộn, đã rống lên cười. Mặc dù
Harry khoái anh chàng Ron đùa giỡn cười cợt này hơn cái mẫu người hung hãn quạu đeo rầu rĩ mà nó đã phải chịu đựng suốt mấy tuần lễ trước, nhưng
để có được chàng Ron tiến bộ này nó đã phải trả một cái giá đắt. Trước tiên, Harry phải chịu đựng sự hiện diện thường xuyên của Lavender Brown, cô
nàng này dường như coi bất cứ khoảnh khắc nào không được ôm hôn Ron kể như khoảnh khắc đó bỏ đi; và kế đến, Harry nhận thấy một lần nữa nó lại
là người bạn tốt nhất của hai con người không có vẻ gìsẽ nói chuyện lại với nhau.
Bàn tay và cánh tay của Ron vẫn còn đầy những vết quào vết đứt do bị bầy chim của Hermione tấn công, nên giọng nó vừa phân trần vừa phẫn uất.
Nó nói với Harry, “Nó không thể trách móc gìcả. Nó hôn hít Krum. Vậy thìnó sẽ thấy có người muốn hôn hít mình chớ. Ôi, xứ sở tự do mà. Mình không làm
cái gìbậy bạ cả.”
Harry không trả lời, nhưng giả đò như đang say mê đọc cuốn sách mà tụi nó được giao đọc cho xong trước buổi học Bùa chú sáng hôm sau (cuốn Tinh
chất: Một cuộc tìm kiếm). Vìnó đã quyết định duy trìtình bạn với cả Ron và Hermione, nó dành phần lớn thìgiờ ngậm chặt miệng lại.
“Mình đâu đã hứa hẹn gì với Hermione đâu hè?” Ron làu bàu. “Nghĩa là, ừ thì, mình có định đi với nó đến bữa tiệc Giáng sinh của Thầy Slughorn, nhưng
mà nó chưa bao giờ nói... chỉ là bạn bè... mình là người tự do mà...”
Harry lật một trang trong cuốn Tinh chất, biết là Ron đang quan sát nó. Giọng của Ron nói láp váp một hồi thành tiếng lầm bầm, khó mà nghe được trong
tiếng củi cháy kêu rất to trong lò sưởi, mặc dù Harry một lần nữa nghĩlà nó nghe lọt mấy tiếng “Krum” và “không thể trách móc”.
Thời khóa biểu của Hermione đầy ắp đến nỗi Harry chỉ có thể nói chuyện đàng hoàng với cô bé vào buổi tối, khi Ron, dù trong tình huống nào cũng vậy,
đã quyện chặt với Lavender đến nỗi chẳng buồn để ý chuyện Harry đang làm. Hermione không chịu ngồi trong Pháp sưhc khi có mặt Ron ở đó, vì vậy
Harry thường gặp cô bé trong thư viện, nghĩa là tụi nó chỉ có thể thìthầm khi trò chuyện.
“Nó hoàn toàn tự do hôn bất cứ ai nó thích,” Hermione nói, trong lúc người quản thủ thư viện, bà Pince, lảng vảng ở mấy kệ sách sau lưng tụi nó. “Mình
thiệt tình chỉ có thể quan tâm tới mức đó thôi.”
Cô bé giơ cây viết lông ngỗng lên chấm một cái lê chữ “i’, mạnh bạo đến nỗi đục một cái lỗ trên tờ gd. Harry không nói gì cả. Nó nghĩ chẳng bao lâu nữa
giọng nói của nó sẽ biến mất vì hết chuyện xài tới. Nó cúi xuống thấp hơn trên cuốn Bào chế thuốc cao cấp và tiếp tục ghi chú về món Vĩnh Phúc dược,
thỉnh thoảng ngừng lại để suy đoán những bổ sung hữu ích của Hoàng tử vào văn bản của Libatius Borage.
“Và nhân đây,” Hermione nói, sau một chút ngập ngừng, “bồ cần phải cẩn thận.”
“Lần cuối cùng nhe,” Harry nói, giọng hơi khào khòa sau ba khắc đồng hồ im lặng, “Mình sẽ không trả lại cuốn sách này đâu. Mình đã học ở Hoàng Tử lai
nhiều hơn những gìThầy Snape hay Thầy Slughorn đã dạy mình trong...”
“Mình không nói về cái gọi là Hoàng tử ngu ngốc đó của bồ,” Hermione nói, vừa nhìn cuốn sách cảu Harry một cách khó chịu như thể nó đã hỗn láo với cô
bé. “Mình đang nói về chuyện trước đó. Trước khi mình đến đây, mình đi vô nhà vệ sinh nữ, trong đó có khoảng một tá các cô nàng, kể cả Romilda Vane,
đang thử tính xem làm cách nào lén bỏ tình dược cho bồ. Cả đám đều đang hy vọng chài được bồ để bồ rủ đi dự bữa tiệc Giáng sinh của Thầy Slughorn,
và cả đám cũng đã mua tình dược của anh Fred và anh George, và mình e rằng mấy thứ thuốc đó có thể có công hiệu...”
“Vậy tại sao bồ không tịch thu mấy thứ đó?” Harry hỏi gặng lại. Kể cũng lạ thường khi một người mắc chứng mê tuân thủ nội qui như Hermione mà chịu
bỏ qua thời cơ quyết định này.
“Chúng không đem theo tình dược vô nhà vệ sinh,” Hermione nói giọng miệt thị. “Chúng chỉ bàn bạc mưu mẹo với nhau thôi. Bởi vì mình không tin là
Hoàng Tử lai,” (cô nàng lại liếc cuốn sách một cách khinh bỉ) “có thể bịa ra một thứ thuốc giải tức thì cho một tá tình dược khác nhau, mình thà là mời
phứt ai đó đi với bồ, để cho mấy đứa khác ngừng tơ tưởng viễn vông là chúng vẫn còn có một cơ hội. Tối mai là mở tiệc, chúng đang quýnh lên.”
“Chẳng có ai mà mình muốn mời cả,” Harry lầm bầm, nó vẫn còn cố gắng không suy nghĩ về Ginny nhiều hơn mức chẳng đặng đừng, bất chấp thực tế là
cô bé cứ bất ngờ hiện ra trong những giấc mơ của nó bằng nhiều cách khiến nó vô cùng biết ơn là Ron không thể thực hiện phép Đọc tư tưởng.
“Thôi thì, chỉ cần chú ý cái gìbồ uống, bởi vìcoi bộ Romilda Vane dám làm lắm,” Hermione nói dứt khoát.
Cô bé kéo mạnh cuồn gd đang viết dở dang bài lv về Số học và tiếp tục dùng cây viết lông ngỗng híhoáy làm bài. Harry ngắm Hermione mà đầu óc phiêu
bạt ở đâu đâu.
“Xímột chút,” nó chậm rãi nói. “Mình tưởng là thầy Filch đã ngăn cấm mọi thứ mua ở tiệm tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley mà?”
“Nhưng ai mà bận tâm đến những cấm kỵ của thầy Filch chứ?” Hermione nói, vẫn tập trung vào bài luận của mình.
“Nhưng mình tưởng tất cả lũ cú đều bị lục soát? Vậy làm sao mà tụi con gái có thể đem tình dược vào trường được chứ?”
“Anh Fred và anh George đã gửi chúng dưới dạng ngụy trang là nước hoa và thuốc ho. Đó là bộ phận Dịch vụ đặt hàng qua Bưu cú của mấy ảnh.”
“Bồ biết nhiều về dịch vụ đó há.”
Hermione ngó Harry một cách kinh tởm như cái kiểu cô nàng đã nhìn cuốn Bào chế thuốc cao cấp của nó:
“Dịch vụ đó đều được ghi ở phía sau mấy cái chai mà mấy ảnh đưa cho Ginny và mình coi hồi hè,” cô bé lạnh lùng nói, “Mình không đi loanh quanh bỏ
thuốc vô đồ uống của người khác... hay giả bộ làm vậy... cách nào cũng tệ hại như nhau.”
“Ừ, thôi bỏ qua đi,” Harry nói nhanh. “Vấn đề là thầy Filch đang bị đánh lừa, đúng không? Tụi con gái đang nhận được đồ gởi vô trường dưới cái vỏ ngụy
trang là thứ khác. Vậy thìtại sao Malfoy không thể đem xâu chuỗi đó vô trường được chứ?”
“Ôi, Harry, đừng nói chuyện đó nữa.”
“Nhưng mà, tại sao đừng?” Harry hỏi gặng lại.
“Bởi vì,” Hermione thở dài, “Phép dò Bí mật dò ra những thứ bị quỷ ếm, và những bùa chú giấu diếm, đúng không? Phép đó được dùng để tìm ra những
đồ vật Hắc ám và Pháp thuật Hắc ám. Chỉ cần vài giây thôi là nó dò ra những thứ tà ma có tác động mạnh, như cáo ở trong xâu chuỗi chẳng hạn. Nhưng
những thứ vớ vẩn bỏ nhầm chai sẽ không được dò ra – với lại, tình dược không phải là hắc ám mà cũng không nguy hiểm...”
“Bồ nói thì dễ lắm,” Harry lẩm bẩm, nghĩ đến Romilda Vane. “...Vậy là vấn đề phụ thuộc vào thầy Filch, là người sẽ phán quyết một cái gì đó có phải là
thuốc ho hay không, mà ông ấy lại không phải là một Pháp sư giỏi lắm, mình không tin là thầy có thể phân biệt được độc dược này với...”
Hermione bỗng nín khe; Harry cũng nghe âm thanh đó. Có ai đó đang đi tới gần tụi nó từ phía sau, giữa những kệ sách tối hù. Tụi nó chờ, và chỉ tích tắc
sau, bộ mặt hao hao chim kền kền của bà Pince hiện ra ở góc kệ sách, hai má bà hõm sâu, da bà trông như tấm gd, và cái mũi dài khoằm khoằm của
bà bị ngọn đèn bà đang cầm rọi sáng một cách trơ trẽn.
“Thư viện đóng cửa,” bà nói. “Phiền các trò trả lại đúng chỗ bất cứ thứ gìcác trò đã mượn – Thằng đồi trụy kia, trò đã làm gìcuốn sách đó hả?”
“Đâu phải sách của thư viện, sách của tôi mà!” Harry vội vàng nói, cầm lấy ngay cuốn Bào chế thuốc cao cấp ra khỏi mặt bàn khi bà ta nhòa tới chụp
cuốn sách bằng bàn tay giống y chang móng vuốt kền kền.
“Hư hỏng!” Bà rít lên. “Tục tĩu, nhơ nhuốc!”
“Chỉ là một cuốn sách có ghi chú trong đó thôi mà!” Harry nói, giằng cuốn sách khỏi bàn tay nắm chặt của bà Pince.
Trông bà Pince như thể sắp xông vô tịch thu. Hermione vội vnagf gói ghém đồ đạc cảu mình lại, níu lấy cánh tay Harry, lôi nó đi trong tư thế lưng đâu lưng.
“Bà ấy sẽ cấm bồ vô thư viện nếu bồ không cẩn thận. Mắc gìbồ phải đem theo cuốn sách ngu độn ấy?”
“Hermione à, đâu phải lỗi tại mình mà bà ta la lối khùng điên đâu. Hay bồ có nghĩ là bà ấy nghe lóm bồ nói xấu thầy Filch không? Mình luôn cho rằng giữa
hai người đó có chuyện gìđó...”
“Ờ há.”
Sung sướng vì có thể nói chuyện bình thường trở lại, hai đứa đi dọc theo những hành lang vắng vẻ có đèn thắp sáng, bàn cãi om sòm là liệu bà Pince và
thầy Filch có bímật yêu nhau không.
“Lòe loẹt,” Harry nói với Bà Béo, đó là mật khẩu mới.
“Trò cũng thế,” Bà Béo đáp với một nụ cười gian xảo và quăng mình ra để đón nhận hai đứa nó vào phòng.
Đúng ngay lúc nó vừa chui ra khỏi lỗ chân dung, Romilda Vane nói, “Chào anh Harry! Muốn làm một ly nước sâm không?”
Hermione quay qua nhìn Harry với ánh mắt “Thấy chưa? Đã bảo mà!”
“Không, cám ơn,” Harry nói nhanh. “Tôi không thích nước sâm lắm.”
“Thì cứ uống đại đi mà,” Romilda nói, nhét vô tay nó một cái hộp. “Vạc socola, có tẩm rượu đế lửa đấy. Ông của em gởi cho em, nhưng em không thích
lắm.”
“Ờ... được... cám ơn nhiều.” Harry nói, nó không biết gìkhác nữa. “Ơ... tôi đang phải đi lại đằng này với...”
Nó lật đật đi theo Hermione, giọng nhỏ dần một cách yếu ớt.
“Đã bảo mà,” Hermione nói như kết luận, “Ngay khi bồ mời ai đó rồi, tụi nó sẽ buông tha bồ ngay và bồ có thể...
Nhưng khuôn mặt cô bé bỗng nhiên ngây ra; cô nàng vừa nhìn thấy Ron và Lavender, hai đứa quấn lấy nhau trên cũng một chiếc ghế bành.
“Thôi, ngủ ngon nha Harry,” Hermione nói, mặc dù lúc đó chỉ mới bảy giờ tối, vậy mà cô bé bỏ đi về phòng ngủ nữ sinh không nói thêm một lời nào nữa.
Khi đi ngủ, Harry tự dỗ dành mình là chỉ còn phải ráng lên lớp thêm một ngày nữa, ráng thêm bữa tiệc Giáng sinh của Thầy Slughorn nữa, là xong; sau đó
nó và Ron sẽ cùng nhau đi về trang trại Hang Sóc. Giờ đây hầu như vô phương giảng hòa giữa Ron và Hermione trước khi kỳ nghỉ lễ bắt đầu, nhưng có
lẽ, biết đâu, kỳ nghỉ sẽ giúp hai đứa nó bình tĩnh lại, nghĩchín chắn hơn về cách cư xử của mình...
Nhưng những hy vọng của Harry không cao lắm, đã vậy còn bị tụt xuống thấp hơn sau khi trải qua buổi học Biến hình với cả hai đứa nó vào ngày hôm
sau. Tui nó vừa mới lao vô cái đề tài cực kỳ khó là biến hình người; đứng trước gương, tụi nó được giao phải đổi màu lông mày của chính mình.
Hermione cười đầy gian ác trước nỗ lực đầu tiên hết sức thê thảm của Ron, trong lần cố gắng này, chẳng biết Ron làm sao mà lại tự gắn cho mình một
bộ ria vểnh như cái ghi đông xe đạp trông hết sức ngoạn mục; Ron bèn trả đũa bằng cách nhại lại một cách chính xác và thô bỉ điệu bộ Hermione nhấp
nhổm trên ghế mỗi lần giáo sư McGonagall nêu ra một câu hỏi, khiến cho Lavender và Parvati thấy buồn cười hết sức, và khiến cho Hermione chỉ chực
òa khóc một phen nữa. Cô bé chạy ào ra khỏi lớp học ngay khi chuông vừa reng, bỏ lại một nửa đồ đạc của mình; Harry cho rằng lúc này Hermione cần
bạn hơn Ron nhiều, nên vội vàng quơ hốt đồ đạc còn lại của Hermione và chạy theo cô bé.
Cuối cùng nó theo dấu Hermione đến tận nhà vệ sinh nữ ở tầng dưới. Hermione từ trong đó hiện ra, có Luna Lovegood đi kèm, vừa lơ đãng vỗ nhè nhẹ
lên lưng cô bé.
“Ủa, chào anh Harry,” Luna nói. “Anh có biết là một trong hai bộ lông mày của anh màu vàng chói không?”
“Chào Luna. Hermione à, bồ bỏ quên mấy thứ này...”
Nó đưa trả mấy cuốn sách cho cô bé.
“Ờ phải,” Hermione nói, giọng còn thổn thức, lấy lại đồ đạc và quay lưng đi ngay để giấu cái hình ảnh chùi nước mắt bằng cái bao đựng viết chì. “Cám ơn
nha, Harry. Thôi, mình phải đi đây...”
Và cô bé vội vàng bỏ đi, chẳng để cho Harry có chút thìgiờ nào nói đôi lời an ủi, mặc dù nó cũng thừa nhận là nó không thể nghĩra lời nào.
“Chị ấy hơi buồn khổ,” Luna nói. “Lúc đầu em tưởng là con ma Myrtle Khóc nhè ở trong đó, nhưng hóa ra là chị Hermione. Chị ấy nói gì đó về anh Ron
Weasley...”
“Ừ, hai đứa nó giận nhau,” Harry nói.
“Đôi khi anh ấy nói chuyện tiếu ghê hả?” Luna nói khi hai đứa cùng đi xuống hành lang với nhau. “Nhưng anh ấy có vẻ hơi ác một chút. Năm ngoái em để
ý thấy vậy.”
“Anh cũng nghĩ vậy,” Harry nói. Luna đang bộc lộ cái sở trường hay dùng tới của cô nàng là nói trắng ra những sự thất mất lòng; Nó chưa từng gặp ai
giống như cô bé này cả.
“Vậy là em qua được một học kỳ tốt đẹp hả?”
“Ừ, suôn sẻ,” Luna nói. “Hơi cô đơn vì không có ĐQD. Nhưng Ginny vẫn luôn tử tế. Hôm kia bạn ấy bắt hai thằng ranh trong lớp Biến hình của tụi em
không được gọi em là “Khùng” nữa.”
“Em có muốn đi dự tiệc Giáng sinh ở chỗ Thầy Slughorn với anh tối nay không?”
Lời nói vọt ra khỏi miệng Harry trước khi nó kịp chặn chúng lại; nó nghe mình thốt ra những lời đó như thể một người xa lạ nào đó đang nói.
Luna trợn hai con mắt to lồ lộ nhìn Harry kinh ngạc.
“Bữa tiệc ổ chỗ Thầy Slughorn hả? Với anh à?”
“Ừ,” Harry nói, “tụi này được mời một người bạn cùng đến dự tiệc, cho nên anh nghĩcó thể em thích... ý anh muốn nói...” Nó muốn bày tỏ thật rõ ràng ý đồ
cảu mình. “Ýanh là, chỉ như bạn bè, em hiểu chứ. Nhưng nếu em không muốn...”
Nó đã phần nào hy vọng cô bé không muốn.
“Ôi, em muốn đi với anh như bạn bè lắm chứ!” Luna nói, nở nụ cười tươi tắn mà nó chưa bao giờ thấy trên gương mặt cô bé trước đây. “Từ trước tới
giờ chưa từng có ai mời em đi dạ tiệc, như một người bạn! Có phải anh nhuộm lông mày để đi dự tiệc không? Em có nên nhuộm lông mày của em
không?”
“Không,” Harry kiên quyết nói,“ cái đó do nhầm lẫn mà.Anh sẽ nhờ Hermione sửa lại cho anh. Vậy anh sẽ gặp em ở tiền sảnh vào tám giờ tối nay nhé.”
“À HÁ!” một tiếng thét vang trên đầu hai đứa nó khiến cả hai thất kinh hồn vía; cả hai đứa đã không để ý là tụi nó vừa đi ngang qua phía dưới Peeves,
con ma này đang treo chổng ngược dưới một chùm đèn và đang cười với tụi nó một cách hết sức nham hiểm.
“Bô Xímời Khùng Khùng đi dự dạ tiệc! Bô Xíiu Khùng Khùng! Bô Xíiiiiiiiiiiiuuuuuuuuuu Khùng Khùng!”
Và con ma bay véo đi, vừa cười khúc khích vừa ré lên, “Thằng Bô Xíyêu con Khùng!”
“Giá mà giữ kín được những chuyện này,” Harry nói. Và vừa hay, chẳng mấy chốc cả trường đều đã biết là Harry Potter sẽ đưa Luna Lovegood đến dự
dạ tiệc ở chỗ Thầy Slughorn.
“Bồ không thể dẫn theo ai cũng được!” Ron nói vẻ không thể tin nổi lúc tụi nó đang ăn bữa chiều. “Ai cũng được! Vậy là bồ chọn Khùng Lovegood?”
“Anh Ron, đừng gọi bạn ấy như vậy!” Ginny nạt ngay, cô bé dừng lại sau lưng Harry trên lối đi tới chỗ bạn mình. “Anh Harry, em rất vui là anh sẽ đưa bạn
ấy đi dạ tiệc, bạn ấy háo hức lắm.”
Và cô bé đi xuống phía cuối bàn ngồi cùng Dean. Harry cố gắng cảm thấy hài lòng là Ginny đã vui khi nó định đưa Luna đi dự tiệc, nhưng nó chẳng làm
sao hài lòng cho được. Ở tuốt đầu kia của cái bàn, Hermione đang ngồi một mình, nghịch món thịt hầm của cô nàng. Harry để ý thấy Ron len lén nhìn
Hermione.
“Bồ có thể nói xin lỗi,” Harry đề nghị thẳng thừng.
“Cái gì, để bị một bầy hoàng yến khác đánh cho te tua hả?” Ron làu bàu.
“Bồ nhại bạn ấy để làm gì?”
“Ai biểu nó cười nhạo râu của mình!”
“Mình cũng cười vậy, đó là chuyện ngu nhất mình từng thấy.”
Nhưng Ron không có vẻ chịu nghe nữa; Lavender vừa đến cùng với Parvati. Tự chen vô giữa Harry và Ron, Lavender vòng hai cánh tay quanh cổ Ron.
“Chào anh Harry,” Parvati nói, cô này cũng như Harry, có vẻ hơi ngượng ngùng và ngao ngán cách cư xử của hai người kia.
“Chào,” Harry nói, “khỏe không? Vậy là bạn ở lại trường Hog? Tôi nghe nói ba má bạn muốn bạn rời trường.”
“Tôi tìm cách năn nỉ ba má tôi bỏ ý định đó trong lúc này,” Parvati nói. “Vụ Katie thực sự làm cho họ hoảng, nhưng từ đó đến giờ chẳng xảy ra thêm
chuiyeenj gìnữa...A, chào Hermione!”
Parvati cười tươi hết chỗ nói. Harry có thể nói là Parvati cảm thấy có lỗi vì đã cười nhạo Hermione trong lớp học Biến hình. Nó quay đầu lại và thấy
Hermione cũng đang cười đáp lại, tươi không kém, thậm chícó thể rạng rỡ hơn nữa. Đôi khi con gái thiệt là kỳ lạ.
“Chào Parvati!” Hermione nói, hoàn toàn lờ đi Ron và Lavender. “Bồ có đi dự dạ tiệc của Thầy Slughorn tối nay không?”
“Không được mời,” Parvati rầu rĩnói. “Nhưng mà mình muốn đi lắm, nghe coi bộ vui nhộn đây... Bồ sẽ đi dự mà, phải không?”
“Ừ, mình hẹn với Cormac lúc tám giờ, tụi này sẽ...”
Một âm thanh vang lên nghe như tiếng ống bơm rút ra khỏi một cái chậu bị nghẹt và Ron chườn mặt ra. Hermione làm như thể cô nàng không hề nghe
thấy hay thấy gìhết.
“...tụi này sẽ đi dự tiệc với nhau.”
“Cormac à?” Parvati nói. “Bồ muốn nói là Cormac McLaggen hả ?”
“Đúng vậy,” Hermione nói một cách duyên dáng. “Người suýt chút nữa – cô nàng nhấn mạnh vào mấy chữ này – trở thành thủ môn của đội Gryffindor.”
“Vậy là bồ cặp với anh ta à ?” Parvati trợn to mắt hỏi.
“Ờ… phải… chứ bồ không biết sao?” Hermione nói, vừa khúc khích cười không giống kiểu Hermione chút nào.
“Không!” Parvati nói, tỏ ra hết sức hào hứng về câu chuyện tào lao này. “Ái chà, bồ khoái cầu thủ Quid nhỉ? Trước tiên là Krum, kế đến là McLaggen…”
“Mình khoái cầu thủ Quid giỏi thực sự kìa,” Hermione chỉnh lại nhận xét của cô bạn, vẫn mỉm cười. “Thôi, hẹn gặp sau nhé… Phải đi để chuẩn bị cho buổi
dạ tiệc…”
Hermione bỏ đi. Ngay lập tức Lavender và Parvati chụm đầu lại với nhau để bàn bạc về diễn biến mới toanh này, với tất cả mọi thông tin mà họ từng
nghe về McLaggen, và tất cả mọi điều mà họ từng suy đoán về Hermione. Ron có vẻ ngẩn ngơ một cách lạ lùng và chẳng nói năng gì cả. Harry cũng lặng
thinh mà ngẫm nghĩsự sâu sắc mà con gái có được khi muốn trả thù.
Tám giờ tối hôm đó Harry ra đến tiền sảnh thì thấy một đám con gái đông khác thường đang túm tụm ở đó, tất cả đều dường như căm phẫn trừng mắt
ngó nó tiến đến cạnh Luna. Cô bé này mặc một bộ váy áo lấm tấm kim tuyến bạc, bộ váy áo này đã khiến những người đứng ngó rúc rích cười đã đời,
nhưng thực ra trông cô bé rất xinh. Mà dù thế nào thìHarry cũng mừng là cô bé không đeo tòng teng đôi bông tai củ cải, hay đeo lủng lẳng xâu chuỗi bằng
nút chai bia bơ, hay là cặp Kính Chiếu yêu.
“Chào em,” Harry nói. “Vậy tụi mình đi được chưa?”
“Ồ, được chứ,” cô bé vui vẻ nói. “Bữa tiệc ở đâu?”
“Trong văn phòng Thầy Slughorn,” Harry nói, dẫn cô bé xuống cầu thang đá hoa cương, xa khỏi những tiếng xì xầm và những cái nhìn trơ tráo. “Em có
nghe nói là sẽ có một con ma cà rồng đến dự không?”
“Ông Rufus Scrimgeour hả?” Luna hỏi.
“Anh… cái gì?” Harry nói. Nó bối rối. “Em định nói ông Bộ trưởng Pháp thuật hả?”
“Đúng vậy, ông ta là một con ma cà rồng,” Luna nói đơn giản. “Ba em có viết một bài báo dài về chuyện đó khi ông Scrimgeour mới thay thế ông
Cornelius Fudge, nhưng ba em bị ai đó ở Bộ ép không cho in. Rõ ràng là họ không muốn sự thật bị lộ ra!”
Harry nghĩ ông Rufus Scrimgeour không thể nào là một con ma cà rồng được, nhưng nó đã quen với việc Luna lặp lại những quan điểm kỳ quái của ba
mình như thể là chuyện thật, nên nó không đáp lời cô bé. Hai đứa nó đã đi đến gần vp Thầy Slughorn và cứ mỗi bước tụi nó tới thì âm thanh những tràng
cười, tiếng ca hát và chuyện trò náo nhiệt càng lớn hơn.
Cho dù vốn được xây dựng như vậy, hoặc vì Thầy Slughorn đã dùng mánh khóe Pháp thuật mà biến ra như vậy, vp Thầy Slughorn cũng rộng hơn phòng
làm việc thông thường của các giáo sư khác rất nhiều. Trần và tường phòng được treo mắc những màn trướng màu xanh ngọc, đỏ tía và vàng chóe, để
tạo cảm giác như thể mọi người đang ở bên trong một căn lều vĩ đại. Căn phòng đông đúc và ngột ngạt tắm đẫm ánh sáng đỏ phát ra từ một cây đèn
bằng vàng được trang trí hết sức công phu thòng xuống từ giữa trần nhà. Trên cái trần đó những nàng tiên thật đang chấp chới bay, mỗi nàng một đốm
sáng rực rỡ. Tiếng hát vang được hòa theo bằng tiếng gì nghe như đàn măng-đô-lin vọng ra từ một góc xa xa; một đám khói thuốc lá mù mịt lơ lững trên
đầu một nhóm nhiều chiến tướng cao tuổi đang say sưa bàn luận, và một số gia tinh đang léo nhéo xin đường giữa một rừng đầu gối, bị che khuất đươi
những cái mâm bạc đựng đồ ăn thức uống mà chúng đang đội, khiến cho mấy cái mâm đó giống như những cái bàn di động.
Gần như ngay khi Harry và Luna vừa chen lọt qua cửam Thầy Slughorn đã la oang oang, “Harry, chàng trai của ta! Hãy lại đây, có rất nhiều người thầy
muốn giới thiệu với con!”
Thầy Slughorn đội một cái nón nhung có tua rua hài hòa với bộ áo khoác xì-mốc-kinh của thầy. Nắm chặt cánh tay Harry đến mức thầy có thể cùng độn thổ
với nó, Thầy Slughorn dẫn nó vô bữa tiệc một cách trang trọng, còn nó thìnắm chặt tay Luna kéo cô bé theo cùng.
“Harry, thầy muốn con làm quen với Eldred Worple, một cựu học sinh của thầy, tác giả quyểnAnh em cốt nhục: Đời tôi giữa những con ma cà rồng – và,
dĩnhiên, cả Sanguini, ban của ông ấy.”
Worple là một người đeo kiếng, chắc khỏe, tuy nhỏ con. Ông ta chụp tay Harry và lắc lấy lắc để một cách nhiệt thành; con ma cà rồng Sanguini, cao
nhòng hốc hác, hai mắt quầng thâm, chỉ gật đầu. Con ma có vẻ buồn chán. Một đám con gái nhốn nháo đang đứng gần y, tỏ vẻ hiếu kỳ và kích động.
“Chào Harry Potter, tôi rất hân hạnh!” Ông Worple nói, nhướn đôi mắt cận thị lên nhìn tận mặt Harry. “Mới hôm kia tôi còn nói với Thầy Slughorn như vầy,
Đâu rồi cái tiểu sử của Harry Potter mà tất cả chúng ta đều đang chờ đợi?”
“Ơ,” Harry nói, “ông chờ thiệt hả?”
“Đúng là khiêm tốn y như thầy Horace miêu tả!” Ông Worple nói. “Nhưng nói nghiêm túc nhé,” ông bỗng nhiên thay đổi thái độ, trở nên thực tế, “tôi sẽ
sung sướng nếu được viết cuốn tiểu sử đó – người ta đang thèm muốn được biết nhiều hơn về cậu, cậu bé à, rất thèm muốn! Nếu cậu chuẩn bị dành
sẵn cho tôi vài cuộc phỏng vấn, để coi, mỗi cuộc chừng bốn năm tiếng đồng hồ, thì chúng ta có thể hoàn tất quyển sách trong vòng vài tháng. Và tôi cam
đoan với cậu phần cậu không phải gắng sức gì cho lắm – cứ hỏi Sanguini đây xem có đúng thế không – Sanguin, ở lại đây!” Ông Worple nói thêm, đột
ngột nghiêm nghị, bởi vì con ma cà rồng đang nhích gần về phía đám con gái gần đó, trong mắt lộ ra sự đói khát. “Đây, ăn đỡ cái bánh nướng này,” ông
Worple nói, chộp một cái bánh từ cái mâm của một con gia tinh bưng ngang qua nhét vào tay Sanguini, rồi mới chuyển sự quan tâm của mình trở lại với
Harry.
“Cậu bé thân mến của tôi à, cậu không biết cậu sẽ làm ra được bao nhiêu vnagf đâu...”
“Tôi tuyệt nhiên không thích thú gì cả,” Harry nói dứt khoát, “và tôi vừa mới thấy một người bạn, xin lỗi ông nhé.” Nó kéo Luna đi theo nó chen vào đám
đông; nó quả thực vừa nhìn thấy mái tốc nâu dài mất hút giữa hai người có vẻ là thành viên ban nhạc Quái Tỷ Muội.
“Hermione! Hermione!”
“Harry! Úi trời ơi, bồ ở đây! Chào Luna!”
“Chuyện gìđã xảy ra cho bồ vậy?” Harry hỏi, bởi vìtrông Hermione rõ ràng phờ phạc như thể cô nàng vừa vùng vẫy vượt ra khỏi một bụi cây Rắn Quỉ.
“Ôi, mình vừa mới chạy thoát – ý mình là, mình vừa bỏ Cormac dưới đám tầm gửi,” Hermione giải thích, trong khi Harry tiếp tục nhìn cô bé dò hỏi.
“Cho đáng đời bồ cặp với hắn,” nó gay gắt nói với cô bé.
“Mình nghĩhắn sẽ làm Ron khó chịu nhất,” Hermione thản nhiên nói. “Mình cân nhắc một lúc về ZacHarryias Smith, nhưng mình nghĩnói chung...”
“Bồ tính rủ Smith hả?” Harry nói, dịu lại.
“Ừ, mình đã tính vậy, và mình đang nghĩphải chi mình chọn anh ta, so với McLaggen thìGrawp cũng trông còn ra vẻ quân tử hơn. Tụi mình đi lối này, có thể
nhìn thấy hắn đến, hắn cao quá chừng...”
Ba đứa nó len lỏi đi tới đầu kia của căn phòng, hớt mấy ly rượu mật ong trên đường đi, nhận ra hơi trễ là giáo sư Trelawney đang đứng đó một mình.
“Chào cô,” Luna lễ phép chào giáo sư Trelawney.
“Chào trò, cục cưng ạ,” giáo sư Trelawney nói, chú mục vào Luna với ít nhiều khó khăn. Một lần nữa Harry có thể ngửi được mùi rượu nâu. “Dạo gần đây
ta ít thất trò trong lớp của ta...”
“Dạ, năm nay con học với thầy Firenze ạ,” Luna nói.
“À, dĩ nhiên,” giáo sư Trelawney nói với một tiếng cười khan giận dữ sặc hơi men. “Hay Dobà Béoin, ta thích gọi hắn như vậy hơn. Trò hẳn đã nghĩ, học
trò chằng hề nghĩ, rằng giờ đây ta đã trở về trường thìgiáo sư Dum có thể tống khứ con ngựa ấy đi không? Nhưng không... chúng ta chia lớp ra dạy... nói
thẳng nhé, đó là một sự xúc phạm, một sự xúc phạm. Trò có biết...” Giáo sư Trelawney dường như xỉn đến nỗi không nhận ra Harry.
Thừa lúc bà còn mải tức tối phê bình Firenze, Harry nhích đến gầm Hermione hơn và nói, “Tụi mình hãy giải quyết sòng phẳng với nhau. Bồ có định nói
với Ron là bồ đã can thiệp vô vụ tuyển chọn thủ môn không?”
Hermione nhướn mày lên, “Bồ thiệt tình nghĩlà mình có thể hạ thấp mình tới mức đó sao?”
Harry nhìn xoáy vào cô bé. “Hermione à, nếu bồ đã có thể cặp với McLaggen...”
“Có sự khác nhau,” Hermione nói với thái độ chững chạc. “Mình không hề dự định nói với Ron về những gì có lẽ đã xảy ra, hay không hề xảy ra, ở cuộc
đấu tuyển thủ môn.”
“Tốt,” Harry nhiệt thành nói. “Bởi vìnó sẽ lại suy sụp tinh thần một lần nữa, và chúng ta sẽ thua trận đấu tới...”
“Quid!” Hermione giận dữ nói. “Có phải đó là tất cả những gìbọn con trai quan tâm tới không? Cormac đã không hề hỏi một câu về mình, không, mình chỉ
được đãi món liên khúc Một trăm pha cứu gôn được Cormac McLaggen thực hiện triền miên từ đầu đến cuối… Ôi thôi, hắn đến kìa!”
Cô nàng biến đi thật nhanh như thể đã độn thổ; một một thoáng trước Hermione còn đứng đó, một thoáng sau, cô nàng đã chen vô giữa hai mụ phù thủy
đang cười hô hố, và biến mất.
Một phút sau McLaggen chen lấn qua đám đông, hỏi, “Có thấy Hermione không?”
“Không, rất tiếc,” Harry nói, và nó quay nhanh lại để tham gia vô câu chuyện của Luna, quên béng đi trong tíc tắc là cô bé đang nói chuyện với ai.
“Harry Potter!” Giáo sư Trelawney kêu lên bằng một giọng run run bíhiểm khi nhận ra nó lần đầu tiên từ nãy đến giờ.
“Dạ, chào cô,” Harry nói xuôi xị.
“Cậu bé cưng của ta!” Bà ta nói bằng một giọng thì thầm nhừa nhựa. “Những lời đồn đại! Những câu chuyện! Kẻ Được Chọn! Dĩ nhiên ta đã biết tất cả
từ lâu lắm rồi... điềm xúi quẩy chẳng bao giờ tốt, Harry à... Nhưng tại sao trò không quay lại lớp Tiên tri của ta hả? Môn học này cực kỳ quan trọng đối với
trò hơn tất cả những người khác!”
“A, cô Sybill, tất cả chúng ta đều cho rằng môn mình dạy là quan trọng nhất!” Một giọng nói to vang lên, và Thầy Slughorn hiện ra ở phía bên kia giáo sư
Trelawney, mặt thầy đỏ au, cái nón nhung hơi bị lệch, một tay cầm ly rượu mật, tay kia cầm một miếng bánh bự tổ chảng. “Nhưng tôi nghĩ là trước giờ tôi
chưa từng biết đến một tài năng bẩm sinh nào về Độc dược như thế!” Thầy Slughorn nói, nhìn Harry với ánh mắt thích thú tuy rằng đỏ ké. “Thuộc bản
năng, cô biết chứ... như mẹ của trò ấy vậy! Tôi chỉ có vài ba học sinh có loại năng khiếu này, tôi có thể nói với cô điều đó, cô Sybill à... Ủa, cả thầy
Severus...”
Và Harry kinh hoàng nhận thấy Thầy Slughorn vung ra một cánh tay và dường như xúc được thầy Snape từ không trung đem về phía họ. “Đừng lỉnh đi
nữa, đến đây mà nhập bọn với chúng tôi, thầy Severus!” Thầy Slughorn nấc cục một cách vui vẻ. “Tôi đang nói chuyện về khả năng bào chế thuốc phi
thường cảu Harry! Dĩnhiên, một phần công lao là thuộc về thầy, thầy đã dạy trò ấy những năm năm!”
Bị mắc kẹt trong cánh tay Thầy Slughorn vòng qua vai mình, thầy Snape ngó xuống Harry qua cái mũi khoằm, đôi mắt đen nheo lại. “Buồn cười, tôi chưa
bao giờ có cảm tưởng là mình tìm được cách dạy nổi Potter bất cứ điều gì.”
“Chà, vậy thì đó là một năng khiếu tự nhiên!” Thầy Slughorn la lên. “Lẽ ra thầy nên xem cái mà trò ấy đưa tôi, ngay trong buổi học đầu tiên, đó là thuốc tử
Thần sống. Chưa hề thấy học sinh nào trong lần thử đầu tiên mà bào chế tốt hơn, kể cả thầy nữa, thầy Severus à...”
“Vậy à?” thầy Snape khẽ nói, mắt thầy vẫn nhìn như xoáy khoan vào đầu Harry, khiến nó cảm thấy một nỗi bồn chồn lo âu gì đó. Nó chẳng muốn chút nào
nếu thầy Snape bắt đầu điều tra nguyên nhân tài năng độc dược mới phát lộ của nó.
“Harry, con nhắc thầy nhớ coi mấy môn khác của con là gì?” Thầy Slughorn hỏi.
“Dạ, pch, Bùa chú, Biến hình, Dược thảo...”
“Tất cả những môn cần thiết để trở thành một Thần Sáng,” thầy Snape nói với vẻ nhạo báng mơ hồ.
“Dạ, đúng như vậy, đó là công việc mà con thích làm,” Harry bướng bỉnh nói.
“Và con sẽ trở thành một Thần Sáng vĩđại!” Thầy Slughorn nói oang oang.
“Em không nghĩ là anh nên làm Thần Sáng, anh Harry à,” Luna bất ngờ lên tiếng. Mọi người cũng nhìn cô bé. “ Thần Sáng là một bộ phận của bè đảng
Nanh Nục, em tưởng ai cũng biết điều đó. Họ đang âm mưu lật đổ Bộ Pháp thuật từ bên trong bằng cách xài Pháp thuật Hắc ám kết hợp với bệnh nha
chu.”
Nửa ngụm rượu mật ong Harry vừa uống sặc lên tới mũi khi nó phá ra cười. Thiệt tình, chỉ mỗi chuyện này cũng rất đáng công đưa Luna đi dự tiệc. Xuất
hiện lại sau cốc rượu, vừa ho vừa sặc, rượu văng ướt nhem, nhưng vẫn còn cười, nó thấy một thứ tính ra còn nâng tinh thần nó lên cao hơn nữa: Draco
Malfoy đang bị thầy Filch nắm vành tai kéo về phía họ.
“Thưa giáo sư Slughorn,” thầy Filch thở khò khè, xương hàm đánh lập cập và hai con mắt lồ lộ lóe ra ánh sáng điên rồ vì phát hiện việc sai quấy. “Tôi
khám phá ra trò này thập thò trong một hành lang trên lầu. Nó nói là được mời dự tiệc của thầy và đi trễ. Thầy có mời nó không?”
Malfoy vùng ra khỏi tay thầy Filch, hết sức giận dữ. “Thôi được, tôi không được mời!” Nó tức tối nói. “Tôi định lẻn vào dự tiệc ké, ông vừa lòng chưa?”
“Không, tôi không hài lòng!” thầy Filch nói, một câu nói hoàn toàn trật chìa với vẻ hướn hở trên gương mặt thầy. “Trò gặp rắc rối rồi, chính trò đấy! Chẳng
phải thầy hiệu trưởng đã nói rằng đi lảng vảng ban đêm bị cấm tuyệt, từ khi được phép, hả?”
“Thôi, được rồi, thầyArgus à, được rồi,” Thầy Slughorn xua tay nói, “Giáng sinh mà, và muốn đi dự tiệc thìcũng chẳng phải tội ác gìghê gớm. Chỉ một lần
này thôi, chúng ta hãy quên hết sự trừng phạt; trò có thể ở lại dự tiệc. Draco à.”
Vẻ mặt thất vọng điên cuồng của thầy Filch hoàn toàn có thể đoán trước được; nhưng Harry thắc mắc khi quan sát Malfoy, tại sao Malfoy cũng có vẻ
buồn bực không kém thầy Filch? Và tại sao thầy Snape nhìn Malfoy như thể vừa tức giận vừa... chẳng lẽ nào?... hơi e dè? Nhưng Harry chưa kịp xác
định điều nó vừa nhận thấy, thầy Filch đã quay lưng lại và lếch thếch bước đi, lầm bầm trong miệng; Malfoy đã bình tĩnh lại, nặn ra một nụ cười trên mặt và
đang cám ơn sự rộng lượng của Thầy Slughorn, và gương mặt thầy Snape lại phẳng lìbíhiểm.
“Không có chi, không có chi,” Thầy Slughorn nói, xua tay trước sự tri ân của Malfoy. “Nói cho cùng, thầy có quen biết ông nội của trò...”
“Thưa thầy, ông con thường ca ngợi thầy hết lời,” Malfoy nhanh nhẩu nói ngay. “Ông con nói thầy là người bào chế độc dược giỏi nhất mà ông con từng
biết...”
Harry chăm chú nhìn Malfoy. Không phải những lời nịnh nọt làm nó chú ý, nó đã thấy Malfoy nịnh bợ thầy Snape lâu rồi. Điều khiến Harry chú ý là, quả thật
malfoy trông có vẻ hơi bệnh. Đây là lần đầu tiên trong một thời gian khá dài nó được nhìn tận mặt Malfoy; nó thấy Malfoy giờ đây có quầng thâm dưới mắt
và nước da xám ngoét một cách rõ rệt.
“Ta muốn nói riêng với trò đôi lời, Draco,” thầy Snape bỗng nhiên nói.
“Thôi mà, thầy Severus,” Thầy Slughorn nói, lại nấc cụt, “Giáng sinh mà, đừng có khe khắt quá...”
“Tôi là chủ nhiệm của Nhà, và tôi sẽ quyết định mức độ nghiêm khắc, hay dễ dãi nên có,” thầy Snape nói cộc lốc. “Đi theo ta, Draco.”
Hai thầy trò rời bữa tiệc, thầy Snape đi trước dẫn đường, Malfoy tỏ vẻ phẫn uất. Harry đứng yên một lúc, do dự, rồi nói, “Luna à, anh sẽ trở lại ngay... Ờ...
anh đi nhà vệ sinh.”
“Được mà” cô bé vui vẻ nói, và khi vội vã chen vô đám đông, nó nghĩ nó nghe thấy tiếng cô bé đang tiếp tục đề tài Bè đảng Nanh Nục với giáo sư
Trelawney, bà ta có vẻ hứng thú một cách chân thành.
Khi đã chuồn khỏi đám tiệc rồi thì việc rút tấm Áo khoác tàng hình ra khỏi túi xong tự trùm lên mình chỉ là chuyện nhỏ, bởi vì hành lang hoàn toàn vắng vẻ.
Chuyện khó khăn hơn là tìm thầy Snape và Malfoy. Harry chạy dọc xuống hành lang, tiếng chân của nó bị át đi trong tiếng ca nhạc và chuyện trò ồn ào phát
ra từ văn phòng Thầy Slughorn đằng sau lưng. Có thể thầy Snape đã dắt Malfoy về văn phòng của thầy dưới tầng hầm... hay có lẽ thầy đang điệu hắn về
phòng sinh hoạt chung của nhà Slytherin... Harry ép tai vô từng cánh cửa một trong khi lao xuống hành lang, cho đến khi, choáng váng vì hồi hộp, nó thụp
xuống kề tai vô lỗ khóa của phòng học cuối dãy hành lang và nghe tiếng người nói.
“... Không thể trả giá nổi cho sai lầm đâu, Draco, bởi vìnếu trò bị đuổi học...”
“Tôi không dính dáng gìtới chuyện đó, được chưa?”
“Ta hy vọng trò nói thật, bởi vìchuyện đó vừa vụng về vừa ngu ngốc. Trò đã bị nghi ngờ có nhúng tay vào vụ đó.”
“Ai nghi ngờ tôi?“ Malfoy tức giận hỏi. “Tôi nói lần cuối cùng, tôi không làm chuyện đó, được chưa? Cái con nhỏ Bell ắt hẳn là có một kẻ thù nào đó mà
không ai biết... đừng nhìn tôi kiểu đó! Tôi biết tôi đang làm gì, tôi không ngu, chẳng qua việc không thành... tôi có thể dừng thầy lại đấy!”
Cả hai cùng im lặng rồi thầy Snape nói khẽ, “À... ta hiểu rồi, dì Bellatrix đang dạy trò Bế quan Bí thuật. Trò đang cố giấu diếm ông chủ của mình điều gì
vật, Draco?”
“Tôi không cố giấu diếm Ngài cái gìcả, tôi chỉ không muốn thầy xía vô thôi!”
Harry ép tai nó sát lỗ khóa hơn nữa... Chuyện gìđã xảy ra khiến Malfoy nói năng với thầy Snape kiểu này - thầy Snape, người mà nó luôn bày tỏ lòng kính
trọng, thậm chíyêu mến?
“Thì ra đó là lý do trò đã cố tình tránh mặt ta trong học kỳ vừa rồi? Trò sợ ta can thiệp à? Trò có bao giờ nhận thấy có bất cứ kẻ nào khác cưỡng lại được
việc đến văn phòng ta một khi ta đã lặp đi lặp lại là phải đến đó, có không, Draco...”
“Vậy thìthầy cứ cấm túc tôi đi! Cứ méc lão Dum đi!” Malfoy nhạo báng.
Lại một lúc im lặng nữa. Rồi thầy Snape nói, “Trò biết quá rõ là ta không hề muốn làm điều nào trong hai điều đó mà.”
“Vậy tốt nhất thầy đừng bảo tôi đến văn phòng thầy nữa!”
“Nghe ta nói đây,” thầy Snape nói, giọng thầy lúc này nhỏ đến nỗi Harry phải dán chặt tai vô lỗ khóa mới nghe được. “Ta đang cố gắng giúp trò. Ta đã thề
với mẹ trò là ta sẽ bảo vệ trò. Ta đã thực hiện phép thề Bất khả bội, Draco à...”
“Xem ra thầy sẽ phải bội thề thôi, bởi vì tôi không cần đến sự bảo vệc của thầy! Đó là công tác của tôi, ngài đã giao cho tôi và tôi đang làm, tôi đã có kế
hoạch và kế hoạch sẽ thành công, chỉ hơi lâu hơn tôi tưởng một chút xíu!”
“Kế hoạch của trò là gì?”
“Không mắc mớ gìđến thầy!”
“Nếu trò nói cho ta biết trò đang cố gắng làm gì, ta có thể giúp trò...”
“Tôi đã có tất cả sự trợ giúp cần thiết, cám ơn thầy, tôi không đơn độc!”
“Trò chắc chắn đơn độc tối hôm nay, một việc cực kỳ ngu xuẩn, lảng vảng trong hành lang mà không ai canh gắc hay bọc hậu, đây là những lỗi lầm sơ
đẳng...”
“Nếu thầy không cấm túc Crabà Béoe và Goyle thìtụi nó đã có thể canh phòng cho tôi!”
“Nói nhỏ thôi!” thầy Snape nạt, bởi vì Malfoy đã cất cao giọng đầy phấn khích. “Nếu hai thằng Crabà Béoe và Goyle có ý định đậu chứng chỉ Pch trong kỳ
thi lại bằng Pháp thuật Thường đẳng lần này, hai đứa nó cần học hành chăm chỉ hơn cái mức tàng tàng của chúng hiện nay.”
“Cái đó ăn nhằm gì chứ?” Malfoy nói. “Pch – chẳng qua một trò đùa, một màn kịch mà thôi, đúng không? Làm như tất cả chúng ta đều cần bảo vệ chống
lại Nghệ thuật hắc ám...”
“Đó là một màn kịch tối cần thiết cho sự thành công, Draco à!” thầy Snape nói. “Trò nghĩ xem ta ở đâu trong suốt những năm này, nếu ta không biết đóng
kịch? Hãy nghe lời ta! Trò đã bất cẩn đi lang thang trong đêm, để mình bị bắt, và nếu trò tin cậy vào những kẻ phụ tác như Crabà Béoe và Goyle...”
“Tụi nó không phải là những kẻ phụ tá duy nhất, tôi còn có những người khác bên cạnh, những người giỏi hơn nhiều!”
“Vậy sao không tính luôn ta, và ta có thể...”
“Tôi biết thầy đang toan tính điều gì! Thầy muốn cướp đoạt vinh quang của tôi!”
Lại một phen im lặng nữa, rồi thầy Snape lạnh lùng nói, “Trò nói năng như một đứa con nít. Ta hoàn toàn thông cảm rằng trò buồn khổ về chuyện cha của
trò bị bắt và bị cầm tù, nhưng...”
Harry chỉ không có tới một giây báo động; nó nghe tiếng bước chân của Malfoy vang lên phía bên kia cánh cửa, và nó phải nhoài người qua một bên
ngay khi cửa mở tung. Malfoy đang sải dài bước chân đi xuống hành lang, ngang qua cánh cửa mở của văn phòng thầy Snape, đi vòng qua góc tường
tuốt bên kia, và khuất bòng. Đến thở cũng không dám thở, Harry vẫn ngồi co rúm khi thầy Snape từ từ đi ra khỏi phòng học. Với vẻ mặt không thể dò hỏi
được, thầy trở lại bữa tiệc. Còn Harry ngồi trên sàn nhà, ẩn khuất dưới lớp Áo khoác tàng hình, đầu óc quay cuồng.
Chương 16
Một mùa Giáng sinh giá buốt
Vậy là Thầy Snape đề nghị giúp đỡ nó? Có chắc là ổng đòi giúp nó không?
“Nếu bồ hỏi câu đó thêm một lần nữa,” Harry nói, “mình sẽ ịn mụt măng này vô...”
“Mình chỉ hỏi lại cho chắc!” Ron nói. Tụi nó đang đứng một mình bên cái chậu trong nhà bếp ở trang trại Hang Sóc gọt măng cho bà Weasley. Tuyết đang
bay lơ lửng bên ngoài khung cửa sổ trước mặt tụi nó.
“Ừ, Thầy Snape đề nghị giúp đỡ nó!” Harry nói. “Thầy nói thầy đã hứa với mẹ của malfoy là sẽ bảo vệ nó, thầy đã thề Không Bội hay cái gì đó đại khái
vậy.”
“Phép thề Bất Khả bội à?” Ron nói, vẻ mặt sững sờ. “Không, thầy không thể nào... Bồ có chắc không?”
“Có chớ, mình chắc chắn,” Harry nói. “Nhưng mà sao vậy, điều đó có nghĩa là gì?”
“Ôi, bồ không thể nào phản bội lại một lời thề Bất Khả bội...”
“Nói vậy mà cũng nói, mình cũng tự suy ra được như vậy. Nhưng nếu mình bội thề thìsao?”
“Thìbồ chết,” Ron nói đơn giản. “Anh Fred và George có lần đã thử bắt mình chịu phép thề ấy hồi mình mới năm tuổi. Suýt chút xíu là mình đã thề rồi, mình
đã nắm tay anh Fred và sẵn sàng thì ba tìm thấy tụi này. Ba nổi cơn tam bành,” Ron nói, đôi mắt thóang qua ánh hồi tưởng. “Đó là lần duy nhất mà mình
thấy ba giận không thua gìmá, sau trận đó anh Fred cho là cái mông trái của anh ấy chẳng bao giờ lành lặn lại như xưa nữa.”
“Ừ, thìtẩm quất mông trái của anh Fred ấy mà...”
“Xin lỗi, sao cơ?” Fred nói khi hai anh em sinh đôi đi vào nhà bếp.
“Á à, George ơi, coi nè. Giờ này mà tụi nó còn dùng dao thớt và đủ thứ. Úi trời!”
“Chừng hai tháng mấy nữa là em đủ mười bảy tuổi,” Ron gắt gỏng nói, “tới lúc đó em sẽ xài Pháp thuật để làm mấy chuyện này!”
“Nhưng trong khi chờ đợi,” George nói, vừa ngồi xuống bên cạnh cái bàn nhà bếp và gác chân lên bàn, “tụi anh có thể thưởng thức cảnh tụi bây thao diễn
cách dùng đúng đắn một cái... úi-chu-choa!”
“Tại anh làm em mới bị thế!” Ron tức giận nói, vừa mút ngón tay cái bị đứt. “Anh đợi đây, khi nào em đủ mười bảy tuổi...”
“Anh chắc thế nào mày cũng sẽ làm tụi anh lé mắt về những kỹ năng Pháp thuật cho đến giờ vẫn không ai ngờ,” Fred ngáp.
“Và Ronald này, nhân nói đến những kỹ năng không ai ngờ,” George nói, “chẳng biết chuyện mày với một tiểu thư tên là Lavender Brown – nếu thông tin
không sai – tụi anh nghe Ginny nói mà, là chuyện gìhá?”
Ron hơi ửng hồng một tí, nhưng chẳng tỏ ra khó chịu lắm khi quay lại với đám măng.
“Đừng xía vô chuyện người ta.”
“Đối đáp gì mà thô lỗ,” Fred nói. “Anh thiệt tình không biết mày nghĩ sao về mấy chuyện đó. Không, cái điều tụi anh muốn biết là... chuyện đã xảy ra như
thế nào?”
“Nghĩa là sao?”
“Có phải cô nàng bị một tai nạn hay gìgìđó không?”
“Gì?”
“Xời, ơi, chứ làm thế nào mà cô nàng sống nổi với một đầu óc chèm nhẹp bã đậu hả? Ấy, coi chừng!”
Và Weasley đi vào vừa đúng lúc để nhìn thấy Ron phóng con dao gọt măng vô Fred, anh chàng này uể oải phẩy nhẹ cây đũa phép và biến con dao thành
một chiếc máy bay giấy.
“Ron!” Bà Weasley giận dữ la lên. “Con đừng bao giwof để cho má thấy con quăng dao một lần nữa nghe chưa!”
“Vâng, con sẽ không quăng dao...” Ron nói, “...mà để cho má thấy,” (mấy tiếng cuối này nó lầm bầm thêm vào khi quay lại với đống măng.)
“Má rất tiếc, Fred, George, hai con à, nhưng chú Remus sẽ đến vào tối nay, cho nên Bill sẽ phải chen chúc với hai đứa con.”
“Vô tư,” George nói.
“Vậy, chỉ còn Ron và Harry trên căn gác sát nóc, vìCharlie sẽ không về nhà, và nếu Fleur ở chung phòng với Ginny...”
“...đó mới thiệt là Giáng sinh tưng bừng của Ginny...” Fred lầm bầm.
“...mọi người ắt thoải mái thôi. Với lại, ai cũng có một cái giường cả,” bà Weasley nói, nghe hơi ngường ngượng.
“Vậy là anh Percy chắc chắn không chườn cái bộ mặt ghê tởm của ảnh ra chứ,” Fred hỏi.
Bà Weasley quay đi trước khi trả lời, “Không, má nghĩlà anh con bận ở Bộ.”
Khi bà Weasley rời khỏi nhà bếp, Fred nói: “Ảnh là thằng đần nhất thế giới. Một trong hai thằng đần vĩđại nhất thế giới. Thôi, mình đi thôi George ơi.”
“Hai anh âm mưu gì vậy?” Ron hỏi. “Anh có thể giúp tụi này thanh toán đám măng này không? Anh chỉ cần nhúc nhích cây đũa phép là tụi em được rảnh
tay!”
“Đâu được, anh không cho là tụi anh có thể làm được chuyện đó,” Fred nói một cách nghiêm túc. “Đó là công việc rèn luyện tính cách. Học cách gọt măng
mà không cần Pháp thuật sẽ giúp mày đánh giá đúng nỗi khó khăn mà dân Muggle và á phù thủy phải chịu đựng...”
“...và nếu mày muốn người ta giúp mình, Ron à,” George nói thêm, vừa quăng chiếc máy bay bằng giấy về phía Ron, “thìđừng có quăng dao vô người ta.
Bật mí một tí nhé. Tụi anh sẽ đi ra làng, có một cô bé xinh xắn dễ thương làm việc trong một tiệm giấy nghĩ mấy tấm thiệp mánh của tụi anh là cái gì kỳ
diệu lắm..., gần như ảo thuật thứ thiệt...”
“Khỉ!” Ron nói giọng cay cú, ngó theo Fred và George băng ngang qua sân ngập đầy tuyết. “Họ chỉ cần bỏ ra chừng mười giây giúp tụi mình là tụi mình
cũng có thể đi chơi.”
“Mình không đi được,” Harry nói. “Mình đã hứa với thầy Dumbledore là mình sẽ không đi rong trong thời gian ở đây.”
“Ừ há,” Ron nói. Nó gọt thêm vài mụt măng nữa rồi nói, “Bồ có tính kể cho thầy Dumbledore về những gì bồ nghe Thầy Snape và Malfoy nơi với nhau
không?”
“Có,” Harry nói. “Mình sẽ nói với bất cứ ai có thể ngăn chặn việc đó, và thầy Dumbledore là người đầu tiên. Có thể mình sẽ nói với ba bồ một lần nữa.”
“Tiếc là bồ đã không nghe được thực sự việc Malfoy đang làm là việc gì.”
“Làm sao mình có thể nghe được? Đó là toàn bộ mấu chốt, nó không chịu nói với cả Thầy Snape.”
Im lặng một chút, rồi Ron nói, “Dĩ nhiên bồ biết tất cả họ sẽ nói gì rồi đó. Ba và thầy Dumbledore và tất cả những người khác ấy. Họ sẽ nói thực ra không
phải Thầy Snape đang cố giúp đỡ Malfoy đâu, mà thầy chỉ cố gắng tìm hiểu xem Malfoy đang toan tính làm gìthôi.”
“Tại họ không được nghe ổng nói,” Harry dứt khoát. “Không kịch sĩnào diễn giỏi như vậy được, kể cả Thầy Snape.”
“Ừ... Nhưng mà, mình chỉ nói thế,” Ron nói.
Harry quay mặt về phía Ron nhăn nhó, “Nhưng bồ nghĩlà mình đúng chứ?”
“Ừ, thìđúng!” Ron nói vội. “Thực sự, mình nghĩbồ đúng! Nhưng tất cả những người khác đều tin chắc Thầy Snape là người của Hội, đúng không?”
Harry không nói gì. Nó đã nghĩ đến điều này và thấy đó rất có thể sẽ là lý do để mọi người phản bác chững cớ mới của nó; thậm chí bây giờ nó cũng có
thể nghe Hermione nói: Rõ như ban ngày, Harry à, thầy giả bộ đề nghị giúp đỡ để dụ dỗ Malfoy nói cho thầy biết nó đang mưu toan làm gì...
Tuy nhiên đây chỉ là tưởng tượng suông, bởi vìnó chưa có dịp kể cho Hermione nghe chuyện nó nghe lỏm được. Cô nàng đã biến mất khỏi bữa tiệc của
Thầy Slughorn trước khi Harry quay trở lại đó, hay ít ra đó là điều nó được anh chàng McLaggen đang tức cành hông báo cho biết, và khi tụi nó trở về
đến phòng sinh hoạt chung thì cô nàng đã đi ngủ rồi. Vì Harry và Ron lên đường về trang trại Hang Sóc rất sớm vào ngày hôm sau, nên nó chỉ đủ thì giờ
để cầu chúc cho Hermione một lễ Giáng sinh vui vẻ và nói với cô nàng rằng sau khi nghỉ lễ trở về nó sẽ có tin tức tối quan trọng để kể cho nghe; Tuy
nhiên Harry không hoàn toàn chắc là Hermione có nghe được nó nói không; Vì cùng lúc đó, Ron và Lavender đang tam biệt nhau bằng ngôn ngữ không
lời ngay sau lưng nó.
Tuy vậy, ngay cả Hermione cũng sẽ không thể phủ nhận một điều: Malfoy chắc chắn đang mưu toan điều gì đó, và Thầy Snape biết điều đó, nếu thế thì
Harry xẽ cảm thấy mình được chứng minh hoàn toàn đúng khi nói, “Đã bảo với bồ rồi mà,” đó cũng là cái câu nó đã nói với Ron vô số lần.
Harry không kiếm được cơ hội để nói chuyện với ông Weasley, ông làm việc suốt ngày ở Bộ, cho đến tận nửa đêm Giáng sinh. Gia đình Weasley và
khách khứa ngồi trong căn phòng khách mà Ginny đã trang hoàng phóng khoáng đến nỗi cảnh trí từa tựa như ngồi trong một mớ bòng bong giấy. Fred,
George, Harry và Ron là những người duy nhất biết vị thiên thần trên ngọn cây thông Giáng sinh thực ra là một con quỷ lùn giữ của. Con quỷ lùn đã lỡ cắn
vô mắt cá chân Fred khi anh ta nhổ cà rốt cho bữa tiệc Giáng sinh. Bị điểm huyệt cứng đơ, rồi bị sơn vàng chóe, nhồi thành một cái váy xòe tíhon với đôi
cánh nhỏ dán dính vô lưng, con quỷ lùn trừng mắt ngó xuống tụi nó, đầu trọc lóc như củ khoai tây, chân cẳng xù xì lông lá. Harry chưa từng thấy thiên thần
nào xấu khốc liệt như thế.
Mọi người đều bị bắt nghe chương trình truyền thanh đêm Giáng sinh do ca sĩ được yêu thích nhất cảu bà Weasley, Celestina Warbeck thực hiện. Giọng
ca cô này đang réo rắt vang ra từ một cái ra-đi-ô bằng gỗ khổng lồ. Dương như cảm thấy giọng ca của Celestina chán phèo, Fleur cứ nói chuyện om
sòm ở góc bàn, khiến cho bà Weasley cau có cứ phải chĩa cây đũa phép về phía bảng điều chỉnh âm thanh, nhờ vậy giọng ca Celestina càng lúc càng to
hơn. Thừa lúc đang diễn ra tiết mục đặc biệt vui nhộn có tên là “Một vạc tình ái đầy ắp sốt dẻo,” Fred và George bắt đầu trò chơi Táp nổ với Ginny. Ron thì
cứ lén dòm Bill và Fleur, như thể hy vọng học mót được vài ngón nghề. Trong lúc đó thầy Remus Lupin ngồi bên cạnh lò sưởi, lúc này trông thầy gầy gò
rách rưới hơn bao giờ hết. Thầy đang chăm chú nhìn vào đáy lò sưởi như vẻ không hề nghe giọng ca của Celestina.
Ôi, đến mà khuấy cái vạc của em
Nếu anh làm đúng điệu
Thìem sẽ đun sôi ái tình sốt dẻo cho anh
Để anh được ấm áp đêm nay.
“Hồi tụi mình còn trẻ, tụi mình đã nhảy theo điệu hát này! Anh còn nhớ không anhArthur?” Bà Weasley nói, vừa quẹt nước mắt lên đồ len bà đan.
“Hử?” Ông Weasley nói, vừa gục gặc cái đầu buồn ngủ trên trái kim quất mà ông đang gọt. “Ờ phải... âm điệu tuyệt vời...”
Ông cố gắng ngồi thẳng lên một chút và ngoái nhìn sang Harry đang ngồi cạnh.
“Xin lỗi con nhé,” ông nói, hất đầu về phía cái ra-đi-ô trong khi Celestina đột ngột chuyển sang hợp xướng. “Sắp hết rồi.”
“Không sao đâu bác,” Harry nói, nhe răng cười. “Dạo này ở Bộ bận lắm hả bác?”
“Bận lắm,” ông Weasley nói. “Thật ra cũng không sao nếu bọn bác đạt được điều gì đó, nhưng trong số ba vụ bắt bớ mà bọn bác thực hiện trong hai
tháng vừa qua, bác nghi chỉ có một là Tử thần thực tử thực sự mà thôi... Mà đừng nhắc lại chuyện đó, Harry à,” ông vội nói thêm, bỗng nhiên tỏ ra tỉnh ngủ
hơn.
“Họ còn giam giữ anh Stan Shunpike không ạ?” Harry hỏi.
“Bác nghĩ là còn,” ông Weasley nói. “Bác biết cụ Dumbledore đã thử trực tiếp thỉnh cầu ông Scrimgeour về vụ Stan... nghĩa là, bất cứ ai thẩm vấn anh ta
cũng đồng ý là anh ta chẳng Tử thần thực tử hơn trái kim quất này chút nào... nhưng cấp lãnh đạo cao nhất muốn làm ra vẻ họ đang có tiến bộ, và “ba vụ
bắt giữ” nghe đỡ hơn “ba vụ bắt nhầm rồi thả ra”... nhưng một lần nữa, đây toàn là chuyện tối mật...”
“Con sẽ không nói gì đâu,” Harry nói. Nó ngập ngừng một lát, tự hỏi cách nào tốt nhất để khai mào cái điều nó muốn nói; và trong khi nó còn đang dàn ý
trong đầu, thìCelestina Warbeck đã lại bắt đầu một bài ca tâm tình có tựa là “Chàng ếm bùa lấy mất trái tim thiếp.”
“Bác Weasley à, bác biết cái chuyện mà con nói với bác ở nhà ga hồi tụi con đi lên trường không?”
“Bác kiểm tra rồi, Harry à,” ông Weasley nói ngay. “Bác đã đi đến nơi và lục soát nhà của gia đình Malfoy. Ở đó chẳng có gìbất hợp pháp cả, dù là miểng
vụn hay còn nguyên.”
“Dạ, con biết, con có đọc trên tờ Tiên tri là bác đã kiểm tra... nhưng đây là một chuyện khác... Ơ, một chuyện...”
Và nó nói với ông Weasley mọi điều mà nó nghe lóm được giữa Malfoy và Thầy Snape. Trong lúc nói, nó thấy đầu thầy Lupin hơi quay về phía nó, lắng
nghe từng lwoif một. Khi nó kể xong, mọi người đều im lặng, ngoại trừ tiếng hát của Celestina.
Ôi trái tim khốn khổ của thiếp đâu mất rồi?
Nó đã bỏ thiếp đi cgir vìbị bỏ bùa...
“Harry à, con có nghĩlà Thầy Snape chỉ giả bộ không?” Ông Weasley nói.
“Giả bộ đề nghị giúp đỡ, để mà thầy có thể khám phá âm mưu của Malfoy ấy à?” Harry nói nhanh. “Dạ, con biết thế nào bác cũng nói vậy. Nhưng làm sao
mình biết được chuyện đó?”
“Chúng ta không việc gìphải biết cả,” thầy Lupin bất ngờ lên tiếng. Lúc này thầy đã xoay lưng lại lò sưởi và đối diện Harry ngang qua ông Weasley. “Đó là
việc cảu cụ Dumbledore. Cụ Dumbledore tin tưởng anh Severus, và nhiêu đó là đủ cho tất cả chúng ta rồi.”
“Nhưng,” Harry nói, “chỉ nói thídụ thôi – nói thídụ thầy Dumbledore tin Thầy Snape...”
“Người ta nói vậy nhiều lần rồi. Vấn đề cơ bản là tin hay không tin sự phán đoán của cụ Dumbledore. Tôi tin; vìvậy, tôi cũng tin anh Severus.”
“Nhưng thầy Dumbledore có thể nhầm lẫn,” Harry cãi lại. “Chính thầy cũng nói vậy mà. Và thầy, thưa thầy,” nó nhìn thẳng vào mắt thầy Lupin, “thầy có thành
thực mến Thầy Snape không?”
“Thầy không mến cũng không ghét thầy Severus,” thầy Lupin nói. “Không, Harry à, thầy đang nói thật,” thầy Lupin nói thêm vì Harry biểu lộ một vẻ mặt ngờ
vực, “có lẽ thầy và thầy ấy không bao giờ là bạn chí cốt; sau tất cả những gì đã xảy ra giữa ba James của con cùng chú Sirius và thầy Severus, có quá
nhiều cay đắng rồi. Nhưng thầy không quên là trong suốt cái năm thầy dạy ở trường Hogwarts, hàng tháng thầy Severus đã pha chế thuốc Bả Sói cho
thầy, pha chế hoàn hảo, để thầy không bị đau đớn như thầy thường phải chịu đựng mỗi khi trăng tròn.”
“Nhưng Thầy Snape cũng đã “tình cờ” để lộ ra chuyện thầy là người sói, khiến thầy phải ra khỏi trường!” Harry tức giận nói.
Thầy Lupin nhún vai, “Đằng nào thì chuyện đó cũng lộ ra. Cả hai chúng ta đều biết thầy ấy muốn dạy môn mà thầy dạy, và thầy ấy đã có thể gây ra điều tệ
hại hơn nhiều bằng cách bào chế thuốc dỏm cho thầy. Nhưng thầy ấy đã giúp thầy khỏe mạnh. Thầy phải biết ơn.”
“Có lẽ thầy ấy không dám chế thuốc dỏm trước mặt thầy Dumbledore!” Harry nói.
“Harry à, con cứ khăng khăng một mực căm ghét thầy ấy,” thầy Lupin nói với nụ cười yếu ớt. “Và thầy thông cảm; con là con ruột của ba James và là con
đỡ đầu của chú Sirius, con đã thừa hưởng mọi thành kiến. Tất nhiên là con cứ kể cho cụ Dumbledore nghe những gì con đã kể cho bác Arthur và thầy,
nhưng đừng trông mong cụ đồng quan điểm với con; và cũng đừng trông mong cụ ngạc nhiên về những điều con nói với cụ. Rất có thể chính cụ
Dumbledore đã ra lệnh cho Thầy Snape chất vấn Draco.”
Celestina kết thúc bài ca bằng một nốt nhạc cao vút và ngân nga rất lâu cùng tiếng vỗ tay ầm ĩ vang ra từ cái ra-đi-ô, được bà Weasley nhiệt liệt phụ họa
theo.
“Hết rồi hã?” Fleur hỏi to. “Phước đức, hát gìkhũng khiếp…”
“Vậy là chúng ta đội nón Giáng sinh ddowcj rồi hả?” Ông Weasley đứng phắt dậy, la lớn. “Có ai muốn làm một ly rượu trứng không?”
“Dạo gần đây thầy làm gì?” Harry hỏi thầy Lupin, trong khi ông Weasley hấp tấp đi pha rượu trứng, và mọi người duỗi ra thư giãn và xúm nhau chuyện trò.
“Ôi, thầy hoạt động bí mật,” thầy Lupin nói. “Gần như đúng nghĩa đen. Chính vì vậy mà thầy không thể viết thư cho con được, Harry à; gởi thư cho con
chẳng khác nào tiết lộ bímật.”
“Nghĩa là sao ạ?”
“Thầy đang sống lẫn với những dồng loại, đồng đẳng của thầy,” thầy Lupin nói. Rồi thầy nói thêm, khi thấy Harry tỏ vẻ chẳng hiểu gì cả, “những người sói
ấy mà. Gần như tất cả những người này đều về phe Voldermort. Cụ Dumbledore muốn có người do thám và thầy đây… có sẵn điều kiện.”
Giọng thầy nghe hơi cay đắng, và có lẽ thầy cũng nhận thấy vậy, nên thầy nở một nụ cười ấm áp hơn rồi nói tiếp, “Thầy không phàn nàn gì cả; đó là một
công việc cần thiết, và còn ai khác có thể làm việc đó tốt hơn thầy? Tuy nhiên, cũng khó giành được lòng tin của họ. Thầy còn mang những dấu hiếu
không thể nhầm lẫn được của việc đã cố gắng sống chung với đám pháp sư, con thấy đó, trong khi người sói thì xa lánh xã hội thông thường và sống
bên lề, trộm cắp – đôi khi lại còn giết người… để ăn.”
“Làm sao mà họ lại thích Voldermort nhỉ?”
“Họ nghĩrằng họ sẽ có đời sống khá hơn dưới sự cai trị của hắn,” thầy Lupin nói. “Và thật khó mà tranh cãi khi có Greyback ở đó…”
“Greyback là ai?”
“Con chưa nghe nói về hắn à?” Hai bàn tay thầy Lupin lại run run đặt lên đùi. “Fenrir Greyback có lẽ là người sói man rợ nhất còn sống ở thời nay. Hắn
coi sứ mạng đời hắn là cắn và truyền nọc người sói cho càng nhiều người càng tốt; hắn muốn tạo ra đủ người sói để chiến thắng giới pháp sư.
Voldermort đã dùng miếng mồi đó để nhử Greyback phục vụ cho mình. Greyback đặc biệt khoái con nít… Hắn nói, cắn chúng khi còn trẻ và nuôi dưỡng
chúng xa hẳn cha mẹ chúng, dạy cho chúng lớn lên căm ghét giới phù thủy thông thường. Voldermort đã đe dọa sẽ thả hắn ra cắn con cái người ta; lời đe
dọa đó thường mang lại hiệu quả.”
Thầy Lupin ngừng một chút rồi nói, “Chính Greyback đã cắn thầy.”
“Cái gì?” Harry sửng sốt nói. “Khi… có phải thầy muốn nói là khi thầy còn nhỏ?”
“Ừ. Ba của thầy đã làm hắn bực mình. Trong một thời gian rất lâu thầy không biết lai lịch của người sói đã tấn công thầy; thầy thậm chí còn thươws k thi
ng hại hắn, vì nghĩ là hắn đâu có tự chủ được, tại lúc đó thầy đã biết khi bị biến hình thì mình cảm thấy thế nào rồi. Nhưng Greyback thì không như vậy. Khi
trăng tròn, hắn chọn cho mình một vị trí gần nạn nhân, bảo đảm đủ gần để tấn công được. Hắn sắp đặt sẵn hết. Và hắn là kẻ mà Voldermort đang sử
dụng để thống lãnh cộng đồng người sói. Thầy không thể giả bộ mà nói khoác rằng cách biện luận hợp tình hợp lý cảu riêng thầy có thể đối chọi rất hiệu
quả với việc khăng khăng của Greyback, rằng người sói thìphải xứng đáng với dòng dõi, rằng người sói nên trút mối hận thù lên người bình thường.”
“Nhưng thầy là người bình thường mà!” Harry hung dữ nói. “Thầy chỉ bị một... một... vấn đề...”
Thầy Lupin bật cười, “Đôi khi con khiến thầy nhớ lại ba James. Ba con gọi đó là “một vấn đề lông lá nho nhỏ” cho có bầu có bạn. Nhiều người lại có cảm
tưởng là thầy có một thói quen cư xử tồi tệ.”
Thầy Lupin nhận một ly rượu trứng từ tay ông Weasley và nói cám ơn, có vẻ vui lên một chút, trong khi đó Harry lại cảm thấy một cơn phân khích dậy lên:
việc thầy Lupin vừa nhắc đến ba nó khiến nó nhớ ra một chuyện mà nó đã trông ngóng gặp thầy Lupin để hỏi.
“Thầy có bao giờ nghe nói đến người nào được gọi là Hoàng Tử lai không?”
“Cái gìLai?”
“Hoàng tử,” Harry nói, chăm chú nhìn thầy Lupin xem có dấu hiệu nào là thày biết không.
“Không có Hoàng tử Pháp thuật,” thầy Lupin nói, bây giờ đã mỉm cười. “Có phải đây là danh hiệu mà con tính khoác cho mình không? Thầy thì cho rằng
làm “Kẻ được chọn” cũng đủ rồi.”
“Danh hiệu đó chẳng liên quan gì đến con hết!” Harry giận dữ nói. “Hoàng Tử lai là ai đó đã từng học ở trường Hogwarts, con có được cuốn sách độc
dược của y. Yviết thần chú khắp cuốn sách, những thần chú mà y phát minh ra. Một trong những thần chú đó là Khinh thân...”
“À, thần chú đó rất ư thịnh hành vào thời thầy học ở trường Hogwarts,” Thầy Lupin trầm ngâm nói. “Hồi thầy học năm thứ năm, mất vài tháng không ai di
chuyển được gìvìcứ bị lôi bằng mắt cá chân treo chổng ngược lên không trung.”
“Ba con từng làm vậy,” Harry nói. “Con thấy ba trong cái Tưởng Ký, ba con dùng thần chú đó ếm Thầy Snape.”
Harry cố gắng nói giọng bình thường, như thể đây chỉ là một nhận xét bỏ đi, chẳng có gì quan trọng, nhưng nó không chắc là nó đạt được đúng hiệu quả;
nụ cười của thầy Lupin hơi cảm thông quá đáng.
“Ừ,” Thầy Lupin nói, “nhưng ba con không phải là người duy nhất. Như thầy vừa nói, thần chú đó rất thịnh hành... Con cũng biết kiểu những thần chú này
thịnh hành rồi qua đi như thế nào rồi đó...”
“Nhưng nghe có vẻ như thần chú đó được phát minh vào thời thầy học ở trường,” Harry vẫn ngoan cố.
“Không nhất thiết vậy,” thầy Lupin nói. “Thần chú trù ếm cũng có mốt và cũng đề-mốt như mọi thứ khác.”
Thầy nhìn vào mặt Harry rồi khẽ nói, “Ba James con là pháp sư thuần huyết, Harry à, và thầy cam đoan với con, ba con không hề bảo bạn bè gọi mình là
“Hoàng tử”.”
Khỏi cần giả đò nữa, Harry nói, “Và cũng không phải chú Siirius chứ? Hay là thầy?”
“Chắc chắn không.”
“À,” Harry nhìn đăm đăm vào lò sưởi. “Con cứ tưởng... chà, y giúp con nhiều lắm trong những buổi học Độc dược, vị Hoàng Tử ấy.”
“Sách cũ cở nào hả, Harry?”
“Con không biết, con chưa hề kiểm tra.”
Ngay sau câu nói này, Fleur quyết định nhái Celestina hát bài “Một vạc tình ái đầy ắp sốt dẻo”, và mọi người coi đó như tín hiệu “giờ lên giường đã điểm”
sau khi liếc thấy vẻ mặt cảu bà Weasley. Harry và Ron trèo hết cầu thang lên phòng ngủ của Ron tuốt trên gác xép, ở đó một cái giường dã chiến đã
được dọn sẵn cho Harry.
Ron lăn ra ngủ ngay tức thì, nhưng Harry moi móc cái rương của nó lôi ra cuốn Bào chế thuốc cao cấp trước khi lên giường. Nằm trên giường, nó lật
mấy trang sách, tìm kiếm, đến khi cuối cùng nó tìm ra, ở ngay trang bìa của cuốn sách, ngày cuốn sách được in. Gần năm mươi năm. Cả ba nó lẫn bạn
bè của ông đều không có mặt ở trường cách đây năm mươi năm. Cảm thấy thất vọng, Harry quăng cuốn sách trở vô rương, tắt đèn, và lật sấp người lại,
nghĩ đến những người sói và Thầy Snape, Stan Shunpike với Hoàng Tử lai, và cuối cùng chìm vào một giấc ngủ khó chịu đầy những cái bóng rón rén
trườn đi và tiếng khóc trẻ con bị cắn...
“Chắc cô nàng giỡn chơi...”
Harry giật mình thức giấc thấy một chiếc vớ phồng to nằm ngang chân giường. Nó đeo kính lên nhìn quanh; khung cửa sổ tíhon hoàn toàn mờ mịt vìtuyết,
và ngay trước mặt nó, Ron đang ngồi thẳng lưng trên giường xem xét một cái gìđó giống như một sợi dây chuyền vàng mập ú.
“Cái gìvậy?” Harry hỏi.
“Quà của Lavender,” Ron nói, nghe ngao ngán chán chường. “Bộ cô nàng thiệt tình tưởng mình muốn đeo hả...”
Harry nhìn cái vật đó kỹ hơn rồi phá ra cười ha hả. Phần dưới sợi dây chuyền là những mẫu tự kết thành mấy chữ vàng to tổ bố:
“Cục cưng của em”.
“Hay,” nó nói. “Ác liệt. Bồ nhất định phải đeo nó trước mặt anh Fred và George.”
“Nếu bồ nói với hai anh ấy, ”Ron nói, vừa nhét sợi dây chuyền xuống dưới gối cho khuất mắt, “mình... mình... mình sẽ...”
“...sẽ cà lăm hả?” Harry nói, nhe răng cười. “Thôi đi, đời nào mình làm vậy!”
“Nhưng làm sao mà cô ta lại nghĩra được một thứ như cái đó chớ?” Ron cần không khí, coi bộ nó hơi bị sốc.
“Thì, nhớ lại coi,” Harry nói, “có lần nào bồ lỡ lời nói là bồ thích đi đến nơi công cộng với mấy chữ Cục cưng của em đeo quanh cổ không?”
“Ơ... tụi này đâu có nói gìnhiều với nhau đâu,” Ron nói. “Chủ yếu là...”
“...hôn hít,” Harry nói.
“Thì, ừ,” Ron nói. Nó ngập ngừng một chút rồi nói, “Hermione có bồ thiệt tình với McLaggen không?”
“Ai mà biết,” Harry nói. “Hai người đó cùng đi dự tiệc ở chỗ Thầy Slughorn, nhưng mình không nghĩchuyện đó sẽ tới đâu.”
Ron có vẻ hơi phấn khởi lên khi mò sâu vô trong chiếc vớ quà của nó.
Quà Giáng sinh cho Harry gồm có một cái áo len có chữ Snitch Vàng ở mặt trước, do bà Weasley đan tay, một cái hộp to đùng những sản phẩm của
tiệm tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley do hai anh em sinh đôi tặng, và một cái gói có mùi mốc, hơi ẩm ướt, có kèm theo một cái nhãn ghi:
“KreacHermione gởi Cậu Chủ”.
Harry trợn mắt ngó cái gói đó.
“Bồ có nghĩlà sẽ an toàn nếu mở cái gói đó ra không?” Nó hỏi.
“Chắc không thể là cái gì nguy hiểm được, tất cả thư từ của chúng ta đều được Bộ khám xét rồi mà,” Ron trả lời, mặc dù nó nhìn chừng cái gói đó một
cách nghi ngờ.
“Mình đã không nghĩ đến việc tặng cho KreacHermione cái gì cả. Người ta có thường tặng cho gia tinh của họ quà Giáng sinh không nhỉ?” Harry hỏi, vừa
thận trọng chọc chọc gói quà.
“Hermione thìcó đấy,” Ron nói. “Nhưng hãy chờ xem đó là cái gìtrước khi bồ bày tỏ lòng áy náy.”
Chỉ giây lát sau, Harry hét lên một tiếng kinh thiên động địa và nhảy ra khỏi cái giường dã chiến của nó; cái gói chưa một đống bự những giogi và giòi.
“Hay,” Ron nói, rống lên cười. “Cực kỳ sâu sắc.”
“Mình thà nhận được đống giòi này hơn là sợi dây chuyền kia,” Harry nói, khiến Ron cụt hứng tức thì.
Khi tất cả mọi người ngồi xuống bên bàn ăn bữa trưa Giáng sinh, ai ai cũng mặc áo len mới, ngoại trừ Fleur (có vẻ như bà Weasley đã không muốn
uổng công đan cho một cái) và chính bà Weasley, bà cũng biểu diễn một cái nón phù thủy mới toanh màu xanh thẳm lấp lánh những hạt gìnhư kim cương
nhái những ngôi sao nhỏ xíu, và một sợi dây chuyền vàng lộng lẫy.
“Fred và George tặng cho má nè! Đẹp không?”
“Ối, tụi con ngày càng biết ơn má nhiều hơn, má à, bây giờ tụi con phải tự giặt vớ của mình,” George nói, vừa xua tay thoải mái. “Ăn củ cải không, chú
Remus?”
“Harry à, trong tóc anh có một con giòi,” Ginny vui vẻ nói, chồm ngang qua cái bàn ăn để gỡ con giòi ra, Harry cảm thấy mấy cục thịt ngỗng vọt lên tới cần
cổ nó mà không dính dáng gìtới con gioig.
“Thấy ghê góa,” Fleur nói, khẽ rùng mình một cách hết sức điệu đàng.
“Ừ, ghê thiệt há?” Ron nói. “Dùng nước sốt không, chị Fleur?”
Trong lúc xăng xái phục vụ Fleur, Ron hất bay cái chén nước sốt; Bill bèn vẫy cây đũa phép và đám nước sốt đang bị văng giữa không trung ngoan ngoãn
quay trở lại cái chén.
“Em vụng về y như cô Tonks ới,” Fleur nói với Ron, sau khi đã hôn Bill để cám ơn. “Cô ta luôn hất văn...”
“Chà,” bà Weasley nói. “Có lẽ có. Thực ra thìtôi có cảm tưởng cô ấy tính ăn Giáng sinh một mình.”
Bà nhìn thầy Lupin bực mình, như thể lỗi tại thầy mà bà có cô Fleur làm dâu thay vì cô Tonks, nhưng Harry, khi liếc nhìn cảnh Fleur dùng nĩa của mình đút
Bill ăn những miếng thịt gà tây, thì tin rằng bà Weasley đang chiến đấu trên một mặt trận đã thua dài. Tuy nhiên nó nhớ ra một câu hỏi liên quan đến cô
Tonks, mà còn ai để hỏi tốt hơn thầy Lupin, người am hiểu mọi thứ về Thần Hộ mệnh?
“Thần Hộ mệnh của cô Tonks đã thay đổi hình thức,” nó nói với thầy. “Ấy là Thầy Snape nói vậy. Con không biết là chuyện đó xảy ra được. Tại sao Thần
Hộ mệnh của mình lại thay đổi?”
Thầy Lupin nhẩn nha nhai miếng gà tây rồi nuốt luôn trước khi chậm rãi trả lời: “Đôi khi... một cơn khủng hoảng lớn... một chấn động tình cảm...”
“Trông nó to và có bốn chân,” Harry nói, một ý nghĩđột ngột nảy ra và nó hạ thấp giọng. “A... không lẽ nó là...?”
“Anh Arthur!” Bà Weasley bỗng nhiên kêu lên. Bà rời cái ghế đứng lên; bàn tay áp chặt lên trái tim, và bà chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ nhà bếp. “Anh
Arthur... Percy kìa!”
“Cái gì?”
Ông Weasley ngoái lại nhìn. Mọi người cũng nhanh chóng nhìn ra cửa sổ; Ginny đứng dậy để nhìn cho rõ hơn. Kìa, quả nhiên là Percy Weasley đang sải
bước băng qua mảnh sân đầy tuyết, đôi kính gọng sừng của anh ta sáng lấp lánh trong ánh nắng. Tuy nhiên, anh ta không di một mình.
“AnhArthur, nó... nó đi với ông Bộ trưởng!”
Và quả nhiên, người đàn ông mà Harry đã nhìn thấy trên tờ Nhật báo Tiên Tri đang đi theo dấu chân của Percy, hơi cà thọt, mái tóc dày xám của ông ta và
tấm áo khaocs màu đen lấm tấm bông tuyết. Trước khi những người có mặt trong nhà bếp lúc ấy thốt ra được lời nào, trước khi ông và bà Weasley có
thể làm gìkhác hơn là nhìn nhau sửng sốt, thìcánh cửa sau đã mở ra và Percy đứng ngay đó.
Một khoảnh khắc im lặng đau đớn. Rồi Percy nói hơi sượng, “Chúc má Giáng sinh vui vẻ.”
“Ôi, Percy!” Bà Weasley kêu lên, và lao vào vòng tay của con trai.
Ông Rufus Scrimgeour dừng chân trên ngưỡng cửa, nghiêng mình tựa trên cây gậy và mỉm cười ngắm nhìn cái cảnh cảm động ấy.
“hẳn bà sẽ tha thứ cho cuộc viếng thăm đường đột này,” ông Scrimgeour nói, khi bà Weasley quay lại nhìn ông, vừa lau nước mắt vừa tươi cười. “Percy
và tôi đang ở quanh vùng đây... bà biết đấy, công tác mà... và anh chằng đã không thể không ghé về nhà thăm hết mọi người trong gia đình.”
Nhưng Percy chẳng tỏ vẻ gì muốn chào hỏi hết mọi người còn lại tỏng gia đình. Anh ta đứng thẳng đơ như que cời lửa, có vẻ ngượng nghịu, và trơ mắt
ngó đâu đó phía trên đầu mọi người. Ông Weasley, Fred và George cùng quan sát anh ta với vẻ mặt chai lạnh như đá.
“Xin mời vào, ông Bộ trưởng, xin mời ngồi!” Bà Weasley luýnh quýnh, vừa sửa cái nón cho ngay lại. “Mời ông dùng chút bà tây, hay chút gánh nướng... ý
tôi là...”
“Khỏi, khỏi mà, bà Molly yêu quí,” ông Scrimgeour nói. Harry đoán ông ta đã hỏi Percy tên riêng của bà Weasley trước khi họ bước vào nhà. “Tôi không
muốn đường đột chút nào, không hề định đến đây nếu Percy không tha thiết muốn thăm gia đình đến thế...”
“Ôi, Perce con!” Bà Weasley nói trong nước mắt, nhón gót lên để hôn con trai.
“...Chúng tôi chỉ ghé qua chừng năm phút, vậy tôi xin phép đi dạo một vòng quanh sân trong lúc cả nhà thăm hỏi Percy nhé. Không, không, tôi cam đoan
với bà là tôi không muốn xen vô chuyện gia đình! Nào, có ai vui lòng đưa tôi đi xem khu vườn xinh xắn của bà không... A, chàng trai kia đã ăn xong, sao
cậu không đi dạo cũng tôi nào?”
Không khí quanh bàn ăn thay đổi thấy rõ. Mọi người hết nhìn ông Scrimgeour đến nhìn Harry. Có vẻ như ai cũng thấy sự giả vờ của ông Scrimgeour
không biết tên Harry là không thể tin được, và không ai cho rằng chuyện Harry được chọn để tháp tùng ông Bộ trưởng dạo quanh vườn là ngẫu nhiên một
khi chính Ginnyny, Fleur và George cũng đã ăn xong rồi.
“Dạ, được ạ,” Harry thốt lên giữa im lặng.
Nhưng nó không để bị lừa; Bất chấp toàn bộ bài diễn văn của ông Scrimgeour rằng họ chỉ ngẫu nhiên đến vùng này, rằng Percy muốn thăm gia đình anh
ấy, đây mới hẳn là lý do thực sự khiến họ đến đây: có vậy ông Scrimgeour mới có thể nói chuyện với một mình Harry.
“Không sao đâu,” nó nói khẽ khi đi ngang qua thầy Lupin, thầy đã nhổm dậy khỏi cái ghế. “Không sao,” nó nói thêm, khi ông Weasley há miệng toan nói.
“Tuyệt vời!” ông Scrimgeour nói, đứng lùi lại để Harry bước qua cửa đi trước dẫn đường. “Chúng tôi sẽ chỉ đi một vòng quanh vườn, rồi Percy và tôi sẽ
lên đường. Mọi người cứ tiếp tục ăn!”
Harry đi ngang qua sân về phía mảnh vườn um tùm phủ đầy tuyết của gia đình Weasley, ông Scrimgeour đi hơi cà nhắc bên cạnh. Harry biết ông đã từng
là Giám đốc Sở Thần Sáng; trông ông gân guốc và đầy thẹo chiến trường, rất khác với ông Fudge béo tốt trong cái nón hình trái dưa.
“Đẹp lắm,” ông Scrimgeour nói, khi dừng bên hàng rào khu vườn, nhìn ra bãi cỏ bị tuyết phủ kín và cây cối không thể phân biệt là được cây gì với cây gì.
“Đẹp lắm.”
Harry không nói gì. Nó có thể nói là ông Scrimgeour đang quan sát nó.
Một lát sau, ông Scrimgeour nói, “Tôi muốn gặp cậu từ lâu lắm rồi, cậu có biết điều đó không?”
“Không ạ,” Harry thành thật nói!
“Ừ phải, lâu lắm rồi. Nhưng cụ Dumbledore đã bảo vọc cậu kỹ quá,” ông Scrimgeour nói. “Đương nhiên, dĩ nhiên, tự nhiên thôi, sau tất cả những gì cậu
đã trải qua... Đặc biệt là những gìđã xảy ra ở Bộ...”
Ông chờ đợi Harry nói điều gìđó, nhưng Harry không buồn góp lời, cho nên ông nói tiếp, “Tôi vẫn hy vọng có dịp chuyện trò với cậu từ khi tôi nhậm chức,
nhưng cụ Dumbledore đã... cũng hết sức dễ thông cảm thôi, như tôi đac nói đây... cụ đã ngăn chặn điều đó.”
Harry vẫn không nói gì, chỉ chờ đợi.
“Lời đồn đại đã bay khắp thế giới!” Ông Scrimgeour nói. “Chà, dĩ nhiên, cả hai chúng ta đều biết những câu chuyện đó đã bị bóp méo như thế nào... tất
cả những lời xìxầm về một lời tiên tri... về việc vậu là “Kẻ được chọn”...”
Harry nghĩbây giờ ông Scrimgeour và nó đang đi gần tới cái lý do khiến ông ta có mặt ở đây.
“Tôi đoán là cụ Dumbledore đã bàn bạc chuyện này với cậu?”
Harry suy nghĩ kỹ càng, tự hỏi nó có nên nói dối hay không. Nó ngó những dấu chân nho nhỏ của những con quỷ lùn in khắp vườn hoa, và một thẻo bị cào
ra đánh dấu nơi mà Fred đã bắt được cái con quỷ lùn giờ này đang mặc váy xòe trên ngọn cây Giáng sinh. Cuối cùng Harry quyết định nói thật, hay một
phần sự thật.
“Dạ, thầy trò cháu có bàn về chuyện đó.”
“Cậu đã, cậu đã...” ông Scrimgeour nói. Qua khóe mắt. Harry có thể thấy ông Scrimgeour đang liếc nhìn nó, cho nên nó giả đò say mê ngó một con quỷ
lùn vừa mới thò đầu ra bên dưới một cây đỗ quyên bị đóng băng. “Vậy cụ Dumbledore đã nói gìvới cậu hở Harry?”
“Cháu xin lỗi, nhưng đó là việc riêng giữa thầy trò cháu,” Harry nói. Nó cố giữ giọng nói thoải mái, và giọng ông Scrimgeour cũng vậy, nhẹ nhàng thân
thiện khi nói, “Ồ, dĩnhiên, nếu đó là vấn đề riêng tư bímật, tôi không muốn cậu tiết lộ... không, không... Và đằng nào đi nữa, việc cậu có phải là “Kẻ được
chọn” hay không có thành vấn đề không nhỉ?”
Harry phải suy đi nghĩlại điều đó vài giây trước khi đáp: “Thưa ông Bộ trưởng, cháu không thực sự hiểu ông muốn nói gì.”
“Chà, dĩ nhiên, đối với cậu điều đó sẽ cực kỳ có vấn đề,” ông Scrimgeour nói kèm theo một tiếng cười. “Nhưng đối với dư luận cộng đồng Pháp thuật...
chẳng qua là nhận thức cả thôi, đúng không? Chính điều người ta tin mới là điều quan trọng.”
Harry không nói gì. Nó nghĩ nó đã thấy, lờ mờ, nơi mà ông Scrimgeour đang nhắm tới, nhưng nó sẽ không giúp ông ta tới nơi đó. Con quỷ lùn phía gốc
cây đỗ quyên đang đào trùn dưới rễ cây, và Harry không rời mắt khỏi con quỷ lùn ấy.
“Người ta tin cậu là “Kẻ được chọn”, cậu hiểu chứ,” ông “Kẻ được chọn nói. “Họ nghĩ về cậu như một người hùng... Dĩ nhiên là cậu anh hùng rồi, Harry à,
cho dù có được chọn hay không! Tính đến nay cậu đã đương đầu với Kẻ-chớ-gọi-tên-ra bao nhiêu lần rồi nhỉ? Thôi, đằng nào đi nữa,” ông dấn tới,
không cần đợi Harry trả lời, “vấn đề chính là, cậu là biểu tượng hy vọng đối với nhiều người, Harry à. Cái ý nghĩ là có ai đó trên đời có khả năng, ai đó do
định mệnh an bài, sẽ tiêu diệt Kẻ-chớ-gọi-tên-ra... thì đó, dĩ nhiên thôi, nó khiến người ta lên tinh thần. Và tôi không thể không nghĩ rằng, một khi cậu nhận
ra điều này, cậu có thể coi đó như... chà... gần như là một bổn phận, sát cánh cùng Bộ, và nâng cao tinh thần mọi người lên.”
Con quỷ lùn vừa xoay sở tóm được một con trùn. Bây giờ nó đang ra sức kéo con trùn, cố gắng lôi con trùn ra khỏi lớp đất đông cứng. Harry im lặng lâu
đến nỗi ông “Kẻ được chọn hết nhìn Harry lại nhìn sang con quỷ lùn, nói, “Chúng buồn cười nhỉ, những gã tíhon ấy? Nhưng cậu nói sao, Harry?”
“Cháu không hiểu một cách chính xác điều ông nói,” Harry chậm rãi nói. “Sát cánh với Bộ... nghĩa là gìạ?”
“Ôi, thế này, không có gì nhọc nhằn cả, tôi cam đoan với cậu,” ông “Kẻ được chọn nói. “Thí dụ như nếu thỉnh thoảng người ta thấy cậu ra vô Bộ Pháp
thuật, thì điều đó có thể tạo được ấn towngj tốt. Và dĩ nhiên, khi lui tới với Bộ, cậu sẽ có vô vàn cơ hội để nói chuyện với ông Gawain Robards, người kế
nhiệm tôi làm Giám đốc Sở Thần Sáng. Bà Dolores Umbridge có nói với tôi là cậu đang nung nấu tham vọng trở thành mộ Thần Sáng. Chà, chuyện đó
có thể dàn xếp dễ dàng thôi...”
Harry cảm thấy cơn giận đang sôi sục trong bao tử của nó: thìra mụ Dolores Umbridge vẫn còn ở Bộ sao?
“Vậy căn bản,” nó nói, như thể nó chỉ muốn làm rõ vài điểm, “Ông muốn tạo ấn tượng là cháu đang làm việc cho Bộ?”
“Việc đó sẽ giúp mọi người lên tinh thần khi nghĩ là cậu đã can dự nhiều hơn, Harry à,” ông Scrimgeour nói, có vẻ nhẹ nhõm là Harry đã hiểu ra nhanh
chóng. “Kẻ được chọn, cậu biết đó... tất cả chỉ nhằm tạo cho người ta niềm hy vọng, cho người ta cái cảm tưởng rằng có những điều kỳ thú đang xảy
ra...”
“Nhưng nếu cháu cứ chạy ra chạt vô Bộ,” Harry nói, vẫn cố gắng giữ giọng nói thân mật, “thìcó vẻ như cháu tán thành chuyện Bộ đang làm?”
“Ừ,” ông Scrimgeour nói, hơi cau mày, “Ừ, phải, đó là một phần vìsao chúng tôi muốn...”
“Không, cháu không nghĩ là điều đó ăn thua gì đâu,” Harry vui vẻ nói. “Ông hiểu không, cháu không thích một số chuyện mà Bộ đang làm. Thí dụ như nhốt
anh Stan Shunpike.”
Ông Scrimgeour không mở miệng trong chốc lát, nhưng vẻ mặt của ông ngay lập tức đanh lại. “Tôi không hy vọng gì cậu hiểu được,” ông nói, và không
ngăn nổi sự bực dọc lộ ra trong giọng nói như Harry đã làm được. “Hiện nay tình hình đang nguy hiểm, và cần thi hành những biện pháp nhất định. Cậu
mới mười sáu tuổi...”
“Thầy Dumbledore già hơn một đứa mười sáu tuổi rất nhiều, vậy mà thầy cũng không nghĩanh Stan đáng bị tống vô ngục Azkaban,” Harry nói. “Ông đang
biến anh Stan thành vật hy sinh, cũng giống như ông muốn biến cháu thành vật cầu phúc.”
Cả hai người nhìn thẳng nhau, chiếu tướng nhau thật kỹ và thật lâu. Cuối cùng ông Scrimgeour nói, chẳng còn chút giả vờ thân thiện nào nữa, “Tôi hiểu.
Cậu muốn... giống như vị anh hùng của trò, cụ Dumbledore ấy... muốn tự tách mình ra khỏi Bộ à?”
“Cháu không muốn bị lợi dụng,” Harry nói.
“Một số người sẽ nói bổn phận của cậu là để cho Bộ sử dụng!”
“Vâng, và một số người khác có thể nói bổn phận của ông là kiểm tra xem người ta có thực sự là Tử thần thực tử hay không trước khi tống họ vô tù,”
Harry nói, giờ đây cơn giận của nó đang bốc lên. “Ông đang làm điều mà Barty Crouch đã làm. Bọn người các ông chẳng bao giờ biết hành sự cho đúng
đắn sao? Chúng tôi hết gặp phải ông Fudge, cứ giả bộ như mọi thứ đều dễ thương trong khi người ta bị ám sát ngay dưới mũi, lại gặp tới ông, tống
người lương thiện vô tù và giả bộ như mình có “Kẻ được chọn” đang làm việc dưới trướng!”
“Vậy cậu không phải là “Kẻ được chọn” sao?” Ông Scrimgeour nói.
“Tôi tưởng ông đã nói là đăng nào thì chuyện đó cũng không thành vấn đề kia mà?” Harry nói, kèm theo tiếng cười chua chát. “Dù sao thì cũng không
được chọn cho ông.”
“Nếu là tôi thìtôi sẽ chẳng nói năng như vậy,” ông Scrimgeour nói nhanh. “Thật sống sượng...”
“Không, thật trung thực chứ,” Harry nói. “Điều trung thực duy nhất mà ông nói với tôi. Ông chẳng bận tâm chuyện tôi sống hay chết, nhưng ông lại bận tâm
đến chuyện tôi giúp ông phủ dụ mọi người rằng ông đang thắng trong trận chiến chống Voldermort. Thưa ông Bộ trưởng, tôi không quên...”
Nó giơ nắm tay phải lên. Trên mu bàn tay lạnh cóng của nó là những vết sẹo trắng bóng mà mụ Dolores Umbridge đã buộc nó khắc vào chính da thịt
mình: Tôi không được nói dối.
“Tôi không nhớ ông có từng xông tới bảo vệ tôi khi tôi cố gắng nói cho mọi người biết là Voldermort đã trở lại không. Bộ không hề tỏ ra là cánh hảo của
tôi hồi năm ngoái.”
Cả hai lại đứng im lặng lạnh lùng hệt như mặt đất dưới chân. Con quỷ lùn cuối cùng đã tìm được cách rút con trùn của nó ra và giờ đây đang vui vẻ nhâm
nhi miếng mồi, trong khi dựa lưng vào mấy cành thấp nhất của bụi cây đỗ quyên.
“Cụ Dumbledore đang âm mưu gì?” Ông Scrimgeour hỏi một cách lỗ mãng. “Khi cụ không có mặt ở trường Hogwarts thìcụ đi đâu?”
“Không biết,” Harry nói.
“Tốt, vậy thì, tôi sẽ phải suy xét xem phải chăng tôi chẳng còn cách nào khác nữa.”
“Ông cứ việc,” Harry dửng dưng nói. “Nhưng ông có vẻ không hơn ông Fudge, nên tôi nghĩ chắc ông phải học được từ sai lầm của ông ấy. Ông ấy đã cố
gắng can thiệp vào trường Hogwarts. Ông có thể nhận thấy ông ấy khoogn còn là Bộ trưởng nữa, nhưng thầy Dumbledore vẫn là hiệu trưởng. Nếu tôi là
ông tôi sẽ không đụng tới thầy Dumbledore.”
Cả hai im lặng khá lâu.
“Thôi, tôi thấy rõ là cụ ấy dạy cậu giỏi đấy,” ông Scrimgeour nói, đôi mắt lạnh lùng và khắc nghiệt sau cặp kính gọng kim loại. “Cậu hoàn toàn là người của
cụ Dumbledore, đúng không, Potter?”
“Đúng vậy,” Harry nói. “Mừng là ông đã hiểu ra.”
Và quay lưng lại ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật, nó rảo bước trở vô nhà.
Chương 17
Một ký ức bị nhiễu
Sau Tết Dương lịch vài ngày, vào một buổi xế chiều, Harry, Ron và Ginny đứng thành hàng bên cạnh lò sưởi trong nhà bếp để trở về trường Hogwarts.
Bộ đã sắp xếp tuyến vận-hành-một-lần này kết nối với mạng chuyên chở Floo để đưa học sinh về trường nhanh chóng và an toàn. Chỉ có bà Weasley tiễn
đưa tụi nó, bởi vì ông Weasley, Fred, George, Bill và Fleur đều đã đi làm. Bà Weasley sụt sịt khóc ngay khi bắt đầu chia tay. Phải công nhận rằng gần
đây hở ra là bà khóc; từ bữa Percy đùng đùng bỏ ra khỏi nhà vào ngày Giáng sinh với đôi kính dính tèm lem vụn củ cải nghiền (thành tích mà Fred,
George và Ginny đều giành), bà Weasley cứ sụt sịt miết, khóc rồi nín, nín rồi khóc.
“Đừng khóc nữa, má,” Ginny nói, vỗ nhẹ lên lưng bà Weasley khi bà gục trên vai nó khóc nức nở. “Không sao đâu mà...”
“Ừ, má đừng lo cho tụi con,” Ron vừa nói vừa để cho bà Weasley hôn một cái đẫm lệ lên gò má nó, “cũng đừng lo buồn về anh Percy. Đần độn như thế
thìcũng chẳng coi là mất mát được, đúng không má?”
Bà Weasley lại khóc lóc thảm thiết hơn nữa khi ôm choàng lấy Harry trong vòng tay mình.
“Con hứa với bác là con sẽ bảo trọng nhé... tránh đâm đầu vô rắc rối...”
“Con luôn làm như bác dặn, bác Weasley à,” Harry nói. “Bác biết con thích cuộc sống yên tịnh mà.”
Bà gật gù trong nước mắt và đứng lùi lại. “Vậy, tất cả các con ráng ngoan nhé...”
Harry bước vào ngọn lửa màu xanh ngọc và hô to, “Trường Hogwarts!” Trước khi bị hút chìm vào ngọn lửa, nó còn thoáng nhìn thấy lầm cuối cảnh nhà
bếp gia đình Weasley, và gương mặt đẫm nước mắt của bà Weasley. Quay mòng mòng thiệt nhanh, nó thoáng thấy lờ mờ phòng khách các gia đình
Pháp thuật, nhưng nó chưa kịp nhìn cho rõ thì cảnh trí đã vụt qua mất rồi; sau đó nó xoay chậm lại, cuối cùng thì dừng hẳn lại trong lò sưởi của văn phòng
giáo sư McGonagall. Bà chẳng buồn rời mắt khỏi công việc đang làm để ngước lên nhìn Harry loay hoay trèo ra khỏi cái vỉ lò.
“Chào trò, Potter. Cố gắng đừng làm vung vãi quá nhiều tro trên thảm.”
“Dạ, thưa cô.”
Trong khi Harry chỉnh mắt kiếng cho ngay và vuốt tóc tai cho gọn lại, thì Ron hiện ra xoay tít mù. Khi Ginny đến nơi, cả ba đứa nó kéo nhau ra khỏi văn
phòng giáo sư McGonagall rồi đi về phía tháp Gryffindor. Harry liếc vô những cửa sổ dọc hành lang khi tụi nó đi ngang qua; mặt trời đã chìm xuống ngang
mặt đất phủ thảm tuyết dày hơn cả lớp tuyết trong vườn trang trại Hang Sóc. Phía xa xa, nó có thể nhìn thấy bác Hagrid đang cho con Buckbeak ăn phía
trước căn chòi của bác.
“Lòe loẹt,” Ron nói giọng tự tin khi tụi nó đến trước bức chân dung Bà Béo, trông bà ta tái nhợt hơn mọi khi và giọng nói to của Ron khiến bà ta nhăn mặt.
“Không,” bà nói.
“Bà nói “không” nghĩa là sao?”
“Đổi mật khẩu mới rồi,” Bà Béo nói. “Và làm ơn đừng hò hét.”
“Nhưng mà tụi này đi vắng, làm sao tụi này biết...?”
“Harry! Ginny!”
Hermione đang hấp tấp đi về phía tụi nó, gương mặt hồng hào, vẫn còn mặc áo choàng, đội nón và đeo găng tay.
“Mình mới trở về trường cách đây hai tiếng đồng hồ, mình vừa mới xuống dưới chòi thăm bác Hagrid và con Buck... ý là con WitHermionewingiáo sư,” cô
bé nói muốn hụt hơi. “Mấy bồ ăn Giáng sinh vui vẻ không?”
“Vui,” Ron nói ngay. “Khá nhiều sự kiện, ông Rufus Scrim...”
“Mình có cái này cho bồ nè, Harry,” Hermione nói, không thèm ngó tới Ron mà cũng chẳng tỏ dấu hiệu gì có nghe anh chàng này nói. “Ôi, chờ xíu... mật
khẩu. Chay tịnh!”
“Chính xác,” Bà Béo nói giọng phều phào, rồi quăng mình về phía trước, để lộ ra cái lỗ chân dung.
“Bả bị sao vậy?” Harry hỏi.
“Rõ ràng là đã bê tha chè chén trong dịp Giáng sinh,” Hermione nói, mắt đảo tròn khi dẫn đường tụi nó đi vào phòng sinh hoạt chung đông như nêm. “Bả
với bà bạn Violet uống tìtìhết tất cả rượu trong bức tranh những thầy tu xỉn dưới hành lang Bùa chú. À đây...”
Cô bé lục lọi túi áo một lát, rồi rút ra một cuộn giấy da trên đó có nét chữ viết tay của thầy Dumbledore.
“Hay quá,” Harry nói, mở cuộn giấy da ra ngay tức thì để thấy buổi học tiếp theo với thầy Dumbledore được xếp vào buổi tối ngày hôm sau. “Mình có cả
đống điều muốn nói với thầy... và bồ nữa. Tụi mình ngồi xuống đây đi...”
Nhưng đúng lúc đó vang lên một tiếng ré to “Won-Won!” và Lavender Brown chẳng biết từ đâu ra và lao vào vòng tay Ron. Bao nhiêu người nhìn cảnh đó
đều khúc khích cười; Hermione bật cười khan và nói, “Có chỗ ngồi quanh cây cột đằng kia... đi không, Ginny?”
“Không, cám ơn chị, em đã hứa gặp Dean,” Ginny nói, nhưng Harry không thể không nhận ra giọng nói cô bé không được nhiệt tình lắm. Bỏ lại Ron và
Lavender trong tư thế sát cánh nhau như hai tên đáu vật, Harry dẫn Hermione đến một cái bàn trống.
“Giáng sinh của bồ vui không?”
“Ờ, vui,” cô bé nhún vai. “Chẳng có gìđặc biệt. Ở nhà Won-Won thế nào?”
“Chút xíu nữa mình sẽ kể bồ nghe,” Harry nói. “Nhưng, Hermione này, bồ có thể nào đừng…”
“Không, mình không thể,” cô bé nói thẳng thừng. “Cho nên đừng đòi hỏi mình.”
“Mình nghĩcó lẽ, bồ biết mà, qua lễ Giáng sinh…”
“Harry à, chính Bà Béo là kẻ đã uống hết một hũ rượu vang ủ năm trăm năm, chứ không phải mình. Sao, bồ muốn nói với mình điều gìquan trọng vậy?”
Trông Hermione quá ư hung hăng, không thể cãi nhau vào lúc này, nên Harry bỏ qua đề tài Ron và kể lại cho cô bé nghe những điều nó đã nghe lóm trong
cuộc chuyện trò giữa Malfoy và Thầy Snape. Khi nó nói xong, Hermione ngồi im suy nghĩmột lát rồi nói, “Bồ có nghĩlà…?”
“…thầy giả vờ đề nghị giúp để có thể dụ khị Malfoy kể cho thầy nghe về việc nó đang làm, chứ gì?”
“Ừ,” Hermione nói.
“Ba của Ron và thầy Lupin cũng nghĩ vậy,” Harry nói vẻ miễn cưỡng. “Nhưng điều này chứng tỏ chắc chắn rằng Malfoy đang có một âm mưu gì đó, bồ
không thể phủ nhậ điều này.”
“Không, mình không phủ nhận,” cô bé hcaamj rãi trả lời.
“Và nó đang hành động theo lệnh của Voldermort, đúng như mình đã nói!”
“Hừm… có ai trong hai người đó thực sự nhắc đến cái tên Voldermort không?”
Harry cau mày, cố gắng nhớ lại. “Mình không nhớ chắc… Thầy Snape chắc chắn có nói “ông chủ của trò,” và kẻ đó có thể là ai khác chứ?”
“Mình không biết,” Hermione nói, cắn cắn môi. “Có thể là ba nó không?”
Hermione nhìn đăm đăm qua căn phòng mà thậm chíchẳng để ý Lavender đang cù lét Ron, hiển nhiên là cô bé đang chìm đắm trong suy nghĩ.
“Thầy Lupin ra sao?”
“Không khỏe lắm,” Harry nói, và nó kể cho Hermione nghe hết về nhiệm vụ của thầy Lupin giữa những người sói và những khó khăn thầy phải đối phó.
“Bồ có bao giờ nghe nói tới Fenrir Greyback không?”
“Có, mình có nghe!” Hermione nói, vẻ ngạc nhiên. “Và bồ cũng đã nghe rồi mà Harry!”
“Hồi nào, trong lớp Lịch sử pháp thuật hả? Bồ quá biết là mình đâu có bao giờ nghe giảng…”
“Không, không, không phải trong lớp Lịch sử pháp thuật – Malfoy đã đem cái tên đó ra đe dọa ông Borgin!” Hermione nói. “Bồ không nhớ sao, lúc ở hẻm
Knockturn ấy? Nó nói với ông Borgin rằng Greyback là bạn bè lâu đời với gia đình nó và hắn sẽ kiểm tra công việc sửa chữa của ông Borgin!”
Harry há hốc mồm nhìn cô bé. “Mình quên béng đi! Nhưng điều này chứng tỏ Malfoy là một Tử thần thực tử, chứ làm sao mà nó có thể liên lạc với
Greyback và sai bảo được hắn?”
“Cái đó hơi đáng ngờ,” Hermione nói khẽ. “Trừ phi…”
“Thôi mà, nói đi, Hermione,” Harry nói trong cơn điên tiết, “bồ không thể tránh né hoài điều này được!”
“Ừ thì… có thể đó chỉ là một lời đe dọa suông thôi.”
“Bồ thiệt là quái, đúng là quái,” Harry lắc đầu nói. “Chúng ta sẽ chờ coi ai đúng… rồi bồ sẽ phải thừa nhận bồ sai lầm, Hermione à, như Bộ ấy. À quên,
mình cũng gây với ông Rufus Scrimgeour một trận…”
Và phần còn lại cảu buổi tối đó trôi qua trong thân tình kiểu cùng cánh hẩu khi cả hai cũng hè nhau xỉ vả Bộ Pháp thuật, bởi vì Hermione, giống y chang
Ron, cho rnagwf giờ đây họ thiệt là trơ trẽn mặt dày mới đi nhờ Harry giúp đỡ, sau tất cả những gì mà Bộ đã khiến Harry phải chịu đựng trong năm học
trước.
Học kỳ mới bắt đầu vào sáng hôm sau bằng một bất ngờ thú vị dành cho học sinh năm thứ sáu: một thông báo tổ chảng đã được đính trên tấm bảng
thông tin trong phòng sinh hoạt chung từ hồi khuya.
LỚP ĐỘN THỔ
Học sinh mười bảy tuổi, hay sẽ đủ mười bảy tuổi
Vào đúng ngày hay trước ngày 31 tháng tám sắp tới,
Đủ điều kiện ghi danh vào lớp phụ đạo Độn thổ
Kéo dài mười hai tuần lễ, do giáo viên Độn thổ
Của Bộ pháp thuật phụ trách.
Mời ký tên dưới đây nếu muốn tham gia.
Học phí: 12 Galleon.
Harry và Ron nhập vô đám đông đang xúm xít chung quanh cái thông báo và lần lượt ghi tên mình xuống dưới. Ron vừa mới rút cây viết lông ngỗng của
nó ra để ký tên sau Hermione thìLavender lẻn đến sau lưng nó, bịt nhanh hai bàn tay cô nàng lên mắt nó rồi ngân nga nói, “Đoán xem ai nè, Won-Won?”
Harry quay lại thấy Hermione ngạo nghễ bỏ đi ngay lập tức. Nó bám theo gót cô bé ngay vìchẳng muốn ở lại với Ron và Lavender chút xíu nào, nhưng nó
ngạc nhiên thấy Ron cũng bắt kịp hai đứa nó khi cách cái lỗ chân dung không xa lắm, tai Ron đỏ tía và mặt mày nó quạu quọ hết biết. Chẳng nói một lời,
Hermione bước nhanh hơn để sánh cùng với Neville.
“Vậy là… Độn thổ,” Ron nói, giọng nó biểu lộ hết sức rõ ràng rằng Harry chớ có đá động đến chuyện vừa mới xảy ra. “Chắc là vui lắm, nhỉ?”
“Mình không biết,” Harry nói. “Có lẽ tự làm thìkhá hơn, chứ lúc đi ké thầy Dumbledore mình chẳng thích thú chút nào.”
“Mình quên mất là bồ đã từng độn thổ rồi... Mình phải đậu ngay kỳ kiểm tra đầu tiên mới được,” Ron nói, tỏ vẻ lo lắng. “Hồi đó anh Fred và George đậu
ngay kỳ thi đầu.”
“Nhưng mà anh Charlie thìrớt, đúng không?”
“Ừ, nhưng anh Charlie bự con hơn mình nhiều,” Ron dang hai tay ra như thể nó là một con khỉ đột, “thành ra anh Fred và George không cần phải cố gắng
nhiều lắm... hoặc là không lộ ra mặt...”
“Chừng nào tụi mình mới thi thiệt?”
“Ngay khi tụi mình mười bảy tuổi. Mình thi vào tháng ba này!”
“Ừ há, nhưng bồ đâu có thể độn thổ ở đây, trong tòa lâu đài...”
“Cái đó không thành vấn đề. Vấn đề là mọi người sẽ biết nếu mình muốn độn thổ là độn thổ được.”
Ron không phải là người duy nhất háo hức về cái viễn cảnh học Độn thổ. Suốt ngày hôm đó đâu đâu cũng toàn là bàn tán về những buổi phụ đạo sắp tới;
đánh giá rất cao về việc có thể biến mất và tái xuất hiện như ý.
“Thiệt là sướng khi mình có thể chỉ cần...” Seamus búng ngón tay diễn tả sự biến mất. “Thằng anh họ Fergus cứ làm vậy để chọc tức mình, cứ đợi đấy
đến khi mình có thể chơi đẹp lại... Nó đừng hòng có được một phút yên lành nhé...”
Say sưa với mơ tưởng về triển vọng hạnh phúc này, Seamus vẫy cây đũa phép của nó hơi bị nhiệt tình một tí, nên thay vì tạo ra một tia nước trong lành
theo đúng mục tiêu bài học Bùa chú hôm nay, nó lại làm phun ra cả một cái vòi rồng từ trần nhà, xịt thẳng vô mặt giáo sư Flitwick. Giáo sư Flitwick bèn
vẫy cây đũa phép của ông để tự hong khô, và bắt Seamus chép phạt câu: “Tôi là một pháp sư, chứ không phải một con khỉ đầu chó khua loạn xạ một cây
gậy.”
“Harry từng độn thổ rồi,” Ron nói với anh chàng Seamus hơi bị tẽn tò. “Thầy Dumbledore... ơ... ai đó dắt nó theo. Bồ biết đó, Độn-thổ-ôm ấy mà.”
“Hết sẩy!” Seamus thì thào, và cùng với Dean và Neville chụm đầu lại gần hơn một chút để nghe coi cảm giác độn thổ nó ra làm sao. Suốt thời gian còn
lại của ngày hôm đó, Harry bị những học sinh năm thứ sáu khác xúm lại yêu cầu miêu tả cảm giác độn thổ. Tất cả tụi kia đều tỏ ra kính sợ chứ không
ngán ngại, khi Harry kể cho nghe độn thổ khó chịu như thế nào, và nó vẫn còn tiếp tục trả lời những câu hỏi chi tiết cho đến tám giờ kém mười buổi tối
hôm đó. Tới giờ đó nó đành phải nói dối, rằng nó cần trả lại thư viện một cuốn sách, nhờ đó mà chuồn được đúng giờ để đến lớp học riêng với cụ
Dumbledore.
Đèn trong văn phòng cụ Dumbledore sáng trưng, chân dung của các vị hiệu trưởng tiền nhiệm đang ngáy êm đềm trong các khung tranh, và cái chậu
Tưởng Ký lại một lần nữa đặt sẵn trên bàn. Hai bàn tay của cụ Dumbledore đặt song song hai bên cái Tưởng Ký, bàn tay phải vẫn đen thui và cháy khô
quắt như dạo gần đây. Nó dường như không lành lặn lại chút nào và có lẽ hàng trăm lần rồi, Harry tự hỏi, cái gì đã gây nên một vết thương đặc biệt như
vậy, nhưng nó chưa bao giờ dám hỏi cụ Dumbledore; Cụ từng nói rằng rốt cuộc nó cũng sẽ biết, nhưng mà rồi lần nào cũng có một đề tài khác mà cụ
muốn thảo luận.
Trước khi Harry có thể kể điều gìvề Thầy Snape và Malfoy, cụ Dumbledore đã nói:
“Thầy nghe nói con có gặp ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật trong dịp Giáng sinh?”
“Dạ, phải,” Harry nói. “Ông ấy không được hài lòng lắm về con.”
“Ừ,” cụ Dumbledore thở dài. “Ông ấy cũng chẳng hài lòng với thầy. Chúng ta phải cố gắng đừng lún vô nỗi thống khổ của mình, Harry à, mà vùng lên đấu
tranh thôi.”
Harry nhe răng cười.
“Ông ấy muốn con nói với cộng đồng Pháp thuật là Bộ đang làm một công việc tuyệt vời.”
Cụ Dumbledore mỉm cười.
“Con biết đấy, ý tưởng đó nguyên là của ông Fudge. Trong những ngày cuối cùng còn tại vị của ông ấy, ông ấy đã cố gắng bám lấy chức vị một cách tuyệt
vọng, ông ấy đã tìm cách gặp mặt con, hy vọng con sẽ ủng hộ ông ấy...”
“Sau tất cả những gìông Feudge đã làm hồi năm ngoái sao?” Harry tức giận nói. “Sau vụ mụ Umbridge ấy sao?”
“Thầy đã nói với ông Cornelius là chẳng có cơ may nào đâu, nhưng khi ông ấy rời khỏi văn phòng Bộ trưởng rồi, ý tưởng đó vẫn chẳng mất đi. Trong
cuộc họp kéo dài mấy tiếng đồng hồ với thầy sau khi ông Scrimgeour được bổ nhiệm, ông này cứ đòi thầy dàn xếp cho một cuộc gặp gỡ với con…”
“Vậy ra đó là nguyên nhân khiến thầy với ông ấy đã cãi nhau!” Harry vuột miệng nói. “Chuyện đó có đăng trên tờ Nhật báo Tiên Tri.”
“Tờ Tiên Tri thỉnh thoảng cũng báo cáo sự thật,” cụ Dumbledore nói, “cho dù chỉ là ngẫu nhiên. Phải, đó là nguyên nhân thầy và ông ấy cãi nhau. Chà, xem
ra ông Rufus cuối cùng cũng kiếm được cách bắt chẹt con.”
“Từ đầu đến cuối ông ấy cáo buộc con là “người của cụ Dumbledore.””
“Ông ta thô bỉ quá.”
“Con có nói với ông ấy con đúng là người của thầy.”
Cụ Dumbledore mở miệng ra định nói, nhưng rồi lại ngậm miệng lại. Sau lưng Harry, chim phượng hoàng Fawkes thốt lên tiếng kêu như hát, nhỏ nhẹ, êm
dịu. Harry cực kỳ bối rối khi nó bỗng dưng nhận ra đôi mắt xanh sáng của cụ Dumbledore có vẻ ươn ướt, nó bàn quýnh quáng cúi xuống ngó chằm chằm
cái đầu gối của mình. Nhưng khi cụ Dumbledore cất tiếng, giọng cụ vẫn cương nghị.
“Thầy rất cảm động, Harry à.”
“Ông Scrimgeour muốn biết thầy đi đâu khi thầy không có mặt ở trường Hogwarts,” Harry nói, vẫn ngó chằm chằm cái đầu gối của nó.
“Ừ, ông ta rất tò mò về chuyện đó,” cụ Dumbledore nói, bây giờ nghe có vẻ hóm hỉnh hơn, và Harry nghĩchắc là ngó lên được rồi. “Ông ta đã cố gắng cho
người theo dõi thầy. Tức cười thật. Ông ta phái Dawlish theo đuôi thầy. Không được tử tế cho lắm. Thầy đã buộc lòng ếm bùa Dawlish một lần; thầy lấy
làm tiếc vô cùng khi phải lại làm điều đó.”
“Vậy là họ vẫn chưa biết thầy đi đâu?” Harry hỏi, hy vọng biết thêm được chút gìđó về đề tài hết sức khêu gợi trítò mò này, nhưng cụ Dumbledore chỉ
mỉm cười qua cặp kính nửa vầng trăng.
“Không, họ không biết, và cũng chưa tới lúc chín mùi để cho con biết. Thôi, thầy đề nghị chúng ta gấp rút lên, trừ phi còn điều gìkhác nữa...?”
“Thưa thầy, thực ra cũng còn một việc,” Harry nói, “liên quan đến Malfoy và ông Snape.”
“Giáo sư Snape, Harry à.”
“Dạ, thưa thầy. Con nghe lóm họ trong bữa tiệc Giáng sinh ở chỗ Thầy Slughorn... Dạ, thực ra thìcon theo dõi họ...”
Cụ Dumbledore lắng nghe Harry kể với một nét mặt bình thản. Khi Harry kể xong, cụ không nói gìtrong một lát, rồi bảo, “Cám ơn con đã kể cho thầy nghe
chuyện này, Harry à, nhưng thầy đề nghị con nên gạt chuyện đó ra khỏi đầu. Thầy không cho là chuyện đó quan trọng lắm đâu.”
“Không quan trọng lắm?” Harry lặp lại, có vẻ không thể tin được. “Thưa thầy, thầy có hiểu...?”
“Có, Harry à, may phước là thầy có một trílực phi thường, thầy hiểu hết mọi điều con nói với thầy,” cụ Dumbledore nói, khá dứt khoát. “Thầy nghĩcon
cũng nên cân nhắc tới một khả năng là thầy hiểu nhiều hơn con hiểu. Một lần nữa, thầy vui mừng là con đã tin tưởng mà giãi bày với thầy, nhưng hãy để
thầy cam đoan lại với con rằng con đã không nói với thầy bất cứ điều gìkhiến thầy băn khoăn.”
Harry ngồi im mà ruột gan sôi sục, tròn mắt nhìn cụ Dumbledore. Chuyện gìđang xảy ra? Phải chăng điều này có nghĩa là quả thực cụ Dumbledore yêu
cầu Thầy Snape tìm hiểu xem Malfoy đang làm gì, và nếu đúng như vậy thìcụ đã được Thầy Snape báo cho biết hết mọi điều mà Harry vừa kể cho cụ
nghe? Hay là cụ quả thực có lo lắng về những điều vừa nghe nhưng lại giả vờ như không?
“Vậy, thưa thầy,” Harry nói, bằng cái giọng mà nó hy vọng là bình tĩnh lễ phép, “thầy vẫn hoàn toàn tin tưởng...?”
“Thầy đã rất kiên nhẫn trả lời câu hỏi đó rồi,” cụ Dumbledore nói, nhưng giọng cụ nghe ra chẳng còn kiên nhẫn nữa. “Câu trả lời của thầy không hề thay
đổi.”
“Ta không nghĩthế,” một giọng nói cạnh khóe vang lên; Cụ Phineas Nigellus hiển nhiên là chỉ giả vờ ngủ mà thôi. Cụ Dumbledore phớt lờ cụ Nigellus.
“Và bây giờ, Harry à, thầy phải nhấn mạnh là chúng ta hãy gấp lên. Thầy còn những điều quan trọng hơn để thảo luận với con tối hôm nay.”
Harry ngồi đó cảm thấy muốn nổi loạn. Nếu nó không chịu đổi đề tài thìsẽ ra sao, nếu nó cứ khăng khăng tranh cãi vụ cáo buộc Malfoy thìsao nào?
Dường như đọc thấu suy nghĩcủa Harry, cụ Dumbledore lắc đầu.
“Này, Harry, chuyện đó xảy ra thường lắm, ngay cả giữa những người bạn tốt nhất! Mỗi người trong chúng ta đều tin rằng điều mình cần phải nói quan
trọng hơn bất cứ điều gìmà người khác có thể góp vào!”
“Thưa thầy, con không nghĩlà những điều thầy cần phải nói là không quan trọng.” Harry nói không nhân nhượng.
“Chà, con hoàn toàn đúng, bởi vìnó không hẳn không quan trọng,“ cụ Dumbledore nói nhanh. “Thầy có thêm hai ký ức để cho con xem vào tối hôm nay,
cả hai đều vô cùng khó khăn mới có được, và cái thứ hai trong hai cái đó, theo thầy nghĩ, là ký ức quan trọng nhất mà thầy từng thu thập được.”
Harry không nói gìvề điều này; nó vẫn còn tức tối về sự tiếp nhận dành cho những tâm tình nó tin cậy giãi bày, nhưng nó cũng không thể thấy chung cuộc
sẽ được dái gìnếu cứ tiếp tục tranh cãi.
“Vậy là,” cụ Dumbledore nói, giọng ngân nga, “chúng ta gặp nhau tối nay để tiếp tục câu chuyện của Tom Riddle, cậu bé mà chúng ta bỏ lại vào cuối buổi
học trước đã đĩnh đạ bước qua ngưỡng cửa trường Hogwarts. Con còn nhớ cậu ta háo hức như thế nào khi nghe nói cậu ta là một pháp sư không, cậu
ta đã từ chối sự tháp tùng của thầy trong chuyến đi đến Hẻm Xéo, và phần thầy, thầy cũng đã cảnh cáo cậu bé chớ có tiếp tục ăn cắp khi đến trường.
Xem nào, Tom Riddle đến trường khi niên học bắt đầu, một cậu bé lặng lẽ trong bộ áo chùng cũ, sắp hàng với những học sinh năm thứ nhất khác để
được phân loại. Cậu được xếp vào nhà Slytherin hầu như ngay khi cái nón phân loại vừa chạm vào đầu,” cụ Dumbledore nói tiếp, vừa vẫy bàn tay nám
đen của cụ về phía cái kệ phía trên đầu, nơi đặt cái nón phân loại cổ xưa và im lìm. “Riddle biết được vị sáng lập nổi tiếng cảu Nhà Slytherin có thể nói
chuyện với rắn – biết lúc nào thìthầy không chắc – có thể ngay buổi tối hôm cậu đến trường. Sự hiểu biết này càng kích thích cậu bé và làm tăng ý thức tự
cao của cậu.
Tuy nhiên, nếu cậu có dọa nạt hay gây ấn tượng gìvới bạn đồng môn trong nhà Slytherin bằng cách phô diễn Xà ngữ trong phòng sinh hoạt chung, thìban
giám hiệu vẫn không hay biết gìcả. Cậu bé chẳng bày tỏ dấu hiệu kiêu căng lộ liễu hay hung hăng hiếu chiến gìhết. Là một đứa trẻ mồ côi rất đẹp trai và
tài gioig phi thường, cậu bé tự nhiên thu hút được sự chú ý và cảm thông của thầy cô ngay từ lúc mới đặt chân đến trường. Cậu bé có vẻ lễ phép, lặng lẽ
và khao khát tríthức. Gần như tất cả giáo ban đều có ấn tượng tốt về cậu.”
“Thưa thầy, thầy không nói với những thầy cô khác rằng hắn như thế nào khi thầy gặp hắn ở viện mồ côi sao?” Harry hỏi.
“Không, thầy không nói. Mặc dù cậu ta chẳng cho thấy có dấu hiệu ăn năn hối cải nào, nhưng có thể cậu cảm thấy hối tiếc về cách cư xử của mình trước
đây và quyết tâm làm lại cuộc đời. Thầy quyết định dành cho cậu ta một cơ hội.”
Cụ Dumbledore ngừng nói và nhìn Harry dò hỏi, nó há miệng ra toan nói. Một lần nữa, đây là khuynh hướng cả tin con người của cụ Dumbledore bất
chấp có cả đống chứng cớ rằng họ không xứng đáng với lòng tin đó! Nhưng Harry nhớ ra một chuyện...
“Nhưng thầy không thực sự tin hắn, đúng không thầy? Hắn đã nói với con... không, tên Riddle xuất hồn ra từ cuốn nhật ký ấy nói, “thầy Dumbledore dường
như không thích tôi nhiều như các thầy cô khác.””
“Chúng ta cứ coi như thầy đã cho rằng cậu bé ấy không đáng tin,” cụ Dumbledore nói. “Như thầy đã nói, và thầy đã làm như vậy, thầy quyết tâm để mắt
đến cậu bé. Thầy không thể giả bộ là chỉ quan sát lần đầu thôi đã lượm lặt được nhiều điều. Cậu bé rất cảnh giác đối với thầy; thầy chắc là cậu bé cảm
thấy cậu đã nói hơi nhiều với thầy trong cậu chuyện ly kỳ về lai lịch thật cảu mình. Cậu bé thận trọng không để lộ thêm nhiều như vậy một lần nữa, nhưng
cậu không thể thu hồi lại những gìcậu đã lỡ lời thốt ra trong cơn phấn khích, cậu bé có ý thức không bao giờ cố trù ếm thầy như cậu đã trù ếm rất nhiều
đồng nghiệp của thầy.
Khi cậu bé lên lớp cao hơn ở trường, cậu qui tập được một nhóm bạn bè tận tụy; thầy gọi chúng như thế là vìmuốn dùng chữ tốt hơn, mặc dù như thầy
đã chỉ ra, Riddle chắc chắn không thân thiết với bất cứ đứa nào trong đám bạn đó. Nhóm này có một sức rù quến hắc ám bên trong tòa lâu đài. Chúng là
một tập hợp tạp nham; một sự pha trộn giữa những kẻ yếu đuối tìm kiếm sự che chở, những kẻ đầy tham vọng tìm kiếm vinh quang chung, và những kẻ
có máu côn đồ hướng về một thủ lĩnh có thể biểu diễn cho chúng xem nhiều hình thức bạo ngược tinh vi hơn. Nói cách khác, chúng là những nguyên mẫu
của bọn Tử thần thực tử và thực ra là một số trong nhóm đó đã trở thành những Tử thần thực tử đầu tiên sau khi rời khỏi trường Hogwarts.
Được Riddle kiểm soát chặt chẽ, chúng chẳng bao giờ bị phát hiện là đang làm điều gìsai quấy, mặc dù bảy năm chúng học ở trường Hogwarts được
ghi dấu bằng một số vụ rắc rối đáng tởm mà chúng chẳng bao giờ bị liên đới trách nhiệm một cách thỏa đáng, dĩnhiên, vụ nghiêm trọng nhất là mở cửa
phòng chứa bímật, đưa tới hậu quả là một nữ sinh thiệt mạng. Như con đã biết, bác Hagrid đã bị kết án oan về tội ác dó.
Thầy đã không tìm được nhiều ký ức về Riddle ở trường Hogwarts,” cụ Dumbledore nói, vừa đặt bàn tay khô quắt của mình lên cái Tưởng Ký. “Ít ai biết
về y thời đó chịu nói về y; họ quá khiếp đảm. Những gìmà thầy biết được thầy chỉ phát hiện ra sau khi y rời khỏi trường Hogwarts, sau nhiều nỗ lực vất
vả, sau khi lần theo dấu những người ít ỏi có thể dụ dỗ nói ra, sau khi đã tìm kiếm những hồ sơ cũ và chất vấn những nhân chứng trong giới phù thủy cũng
như giới Muggle.
Những người thầy có thể thuyết phục mở miệng đã kể cho thầy nghe rằng Riddle bị ám ảnh về dòng dõi của cha mẹ y. Điều này có thể hiểu được, tất
nhiên; y đã lớn lên trong một viện mồ côi và đương nhiên ước ao được biết bằng cách nào mà mình bị đưa vào đó. Có vẻ như y đã tìm kiếm vô vọng dấu
tích của Tom Riddle cha trong những huy hiệu ghi tên những người có thành tích và được tưởng thưởng nằm trong phòng truyền thống, trong danh sách
các Huynh trưởng lưu ở hồ sơ của trường, thậm chítrong cả những cuốn sách Lịch sử Pháp thuật. Cuối cùng y buộc phải thừa nhận là cha của y chưa hề
đặt chân đến trường Hogwarts. Thầy tin là chính lúc đó y từ bỏ vĩnh viễn cái tên cảu mình, tự khoác vào cái lý lịch của Chúa tể Voldermort, và bắt đầu cuộc
điều tra về gia đình cảu người mẹ mà trước đó y đã miệt thị - người đàn bà mà, con sẽ nhớ ra, y đã nghĩkhông thể là một phù thủy, một khi không chống
lại được sự yếu đuối nhục nhã rất con người là cái chết.
Ychỉ có thể laafnt heo một cái tên duy nhất là “Marvolo”, mà những người điều hành viện mồ côi đã cho y biết đó là tên ông ngoại y. Cuối cùng, sau cuộc
tìm kiếm vất vả, qua những bộ sách cổ về các gia đình Pháp thuật, y phát hiện ra sự tồn tại của một chi hệ còn sống sót của dòng họ Slytherin. Vào mùa
hè năm mười sáu tuổi, y rời viện mồ côi mà đáng ra y phải quay trở về tá túc hàng năm để đi tìm họ hàng nhà Gaunt. Và bây giờ, Harry à, nếu con
đứng...”
Cụ Dumbledore đứng dậy, và Harry nhìn thấy một lần nữa cụ lại cầm một cahi thủy tinh nhỏ xíu đựng đầy ký ức óng ánh và xoáy tít.
“Thầy hên lắm mới thu được ký ức này,” cụ nói, trong khi rót cái khối trắng bóng đó vô cái Tưởng Ký. “Để trải qua xong cái kinh nghiệm đi rồi con sẽ hiểu.
Chúng ta bắt đầu nhé?”
Harry bước tới bên cái chậu đá và ngoan ngoãn cúi xuống cho đến khi mặt nó chìm xuống dưới bề mặt của ký ức; nó cảm nhận được cái cảm giác quen
thuộc chìm xuống cõi hư không rồi đáp xuống một cái sàn nhà bằng đá đầy bụi bặm trong bóng topois gần như đen đặc.
Nhiều giây sau nó mới nhận ra nơi đó, cũng là lúc cụ Dumbledore đáp xuống bên cạnh nó. Ngôi nhà của gia đình Gaunt giờ đây dơ bẩn không sao tả xiết,
dơ bẩn hơn bất cứ nơi nào mà Harry từng thấy. Trần nhà bám dày mạng nhện, sàn nhà phủ dày bụi bẩn; đồ ăn mốc meo và hư thúi nằm trên bàn giữa
một đống hồi niêu cặn bã đóng váng. Ánh sáng duy nhất phát ra từ một ngọn nến tù mù đặt dưới chân một gã đàn ông râu tóc um tùm khiến Harry không
thể nhìn thấy đâu là mắt đâu là miệng. Gã ngồi lún trong cái ghế bành bên lò sưởi và Harry thoáng thắc mắc là gã chết rồi chăng. Nhưng một tiếng gõ cửa
vang lên và gã đàn ông giật mình thức giấc, tay phải giơ lên cây đũa phép và tay trái cầm một con dao ngắn.
Cánh cửa cọt kẹt mở ra. Đứng trên ngưỡng cửa, cầm một cây đèn kiểu xưa, là một chàng trai mà Harry nhận ra ngay tức thì: cao, xanh xao, tóc đen và
đẹp trai, ấy là chàng thiếu niên Voldermort.
Đôi mắt Voldermort chậm rãi nhìn quanh căn phòng tồi tàn và rồi nhìn tới gã đàn ông ngồi trên ghế bành. Hai người nhìn nhau trong vài giây, rồi gã đàn
ông lảo đảo đứng dậy, những chai rượu rỗng dưới chân gã kêu lanh canh và lăn lóc ngang qua sàn nhà.
“MÀY!” gã rống lên. “MÀY!”
Và gã nhào vô Riddle trong trạng thái say xỉn, cây đũa phép và con dao ngắn giơ cao.
“Dừng lại.”
Riddle nói bằng Xà ngữ. Gã đàn ông trượt ngã vô cái bàn, làm văng mấy cái nồi mốc meo đóng váng rớt rầm rầm xuống sàn. Gã trừng mắt nhìn Riddle.
Cả hai cùng im lặng một hồi lâu trong lúc chiếu tướng lẫn nhau. Rồi gã đàn ông lên tiếng.
“Mày nói được Xà ngữ hả?”
“Phải, tôi nói được,” Riddle nói. Ytiến vô căn phòng, để cho cánh cửa tự đóng sập lại sau lưng. Harry không thể không cảm thấy một nỗi thán phục pha
lẫn tức tối trước sự gan dạ tuyệt đối của Voldermort. Vẻ mặt cảu y chỉ biểu lộ sự ghê tởm và có lẽ cả sự thất vọng.
“Marvolo đâu?” Yhỏi.
“Chết.” Gã kia nói. “Lão chết nhiều năm rồi thìphải ?”
Riddle cau mày.
“Vậy ông là ai ?”
“Tao là Morfin thìphải ?”
“Con trai ông Marvolo hả ?”
“Chính tao, đương nhiên, còn mày...”
Morfin gạt mớ tóc lùm xùm ra khỏi gương mặt dơ hầy của gã để nhìn Riddle rõ hơn và Harry thấy gã đeo chiếc nhẫn mặt đá đen trên bàn tay phải.
“Tao đã tưởng mày là tay Muggle đó,” Morfin thìthào. “Mày trông rất giống tay Muggle đó.”
“Tay Muggle nào?” Riddle đột ngột hỏi.
“Tay Muggle mà em gái tao si mê, tay Muggle sống trong căn nhà lớn cuối con đường,” Morfin nói và gã thình lình khạc xuống khoảng sàn trống giữa hai
người. “Trông mày giống ý chang tay đó. Riddle. Nhưng bây giờ chắc hắn già đi rồi hả? Hắn già hơn mày, bây giờ tao nghĩra rồi...”
Morfin có vẻ hơi sửng sốt và lảo đảo một tí, nhưng vẫn bám cô cạnh bàn mà đứng dậy. “Hiểu rồi, hắn trở về,” gã nói thêm một cách ngu độn.
Voldermort chăm chú nhìn Morfin như thể đang đánh giá những khả năng của gã này. Bây giờ y tiến đến gần gã hơn và nói, “Riddle đã trở về à?”
“Ờ, hắn bỏ rơi em gái tao, cho đáng đời con khốn đó, dám cưới đồ bẩn thỉu!” Morfin nói, lại khạc xuống sàn. “Cướp hết của chúng tao trước khi bỏ trốn,
nói cho mày biết. Sợi dây chuyền đâu rồi, hả, sợi dây chuyền của dòng họ Slytherin ở đâu hả?”
Voldermort không trả lời. Morfin đang nổi cơn cuồng nộ; gã khua con dao ngắn và hò hét, “Con đó làm nhục chúng ta, cái con thúi tha dâm đãng đó! Và
mày là ai mà đến đây chất vấn tao về tất cả những chuyện đó hả? Hết rôi, phải không... hết rồi...”
Gã nhìn ra chỗ khác, hơi choáng váng và Voldermort tiến tới trước. Khi y làm vậy, một bóng đen bất thường ập xuống, làm tắt ngọn đèn của Voldermort
và ngọn nến của Morfin, làm tắt hết mọi thứ... Những ngón tay cảu cụ Dumbledore nắm chặt quanh cánh tay Harry và cả hai lại bay vèo về hiện tại. Ánh
sáng vàng óng êm dịu trong văn phòng cụ Dumbledore dường như làm chói mắt Harry sau bóng tối đen đặc ấy.
“Thưa thầy, hết rồi sao?” Harry hỏi ngay. “Tại sao bồng nhiên tối hù, chuyện gìđã xảy ra?”
“Bởi vìMorfin không thể nào nhớ lại bất cứ điều gìtừ lúc đó trở đi,” cụ Dumbledore nói, vừa ra dấu cho Harry ngồi trở xuống ghế. “Khi Morfin tỉnh dậy vào
sáng hôm sau, gã đang nằm dài trên sàn, chỉ còn một mình. Chiếc nhẫn của Marvolo đã biến mất.
Trong thời gian đó, trong làng Hangleton Nhỏ, một người hầu gái chạy dọc phố Chính, gào thét là có ba xác chết trong phòng khách của ngôi nhà lớn: đó
là Tom Riddle cha và cha mẹ ông ta.
Nhà cầm quyền Muggle rất bối rối. Theo như thầy biết cả gia đình Riddle chết như thế nào, bởi vìphép nguyềnAvadu Kedavra thường không đrr lại dấu
vết tổn thương nào cả... Trừ ngoại lệ duy nhất đang ngồi trước mặt thầy,” cụ Dumbledore nói thêm, kèm theo cái gật đầu về phía vết thẹo của Harry.
“Ngược lại, Bộ Pháp thuật biết ngay đó là một vụ sát nhân do pháp sư gây ra. Họ cũng biết là có một kẻ căm ghét Muggle từng bị kết án đang sống gần
nhà Riddle phía bên kia thung lũng, một kẻ căm ghét Muggle đã từng bị ngồi tù một lần vìtội tấn công một trong những người vừa bị giết.
Thế là Bộ câu lưu Morfin. Họ không cần phải chất vấn gã hay dùng phép Ép nói thật hay phép Đọc tư tưởng. Gã thú nhận tội sát nhân ngay, cung cấp
những chi tiết mà chỉ có kẻ sát nhân mới có thể biết. Gã nói, gã rất tự hào là đã giết bọn Muggle, bao nhiêu năm nay gã đã chờ đợi cơ hội này. Gã nộp
cây đũa phép của gã, tang vật này đã được thẩm định ngay là hung khídùng để giết gia đình Riddle. Và gã tự để cho mình bị bắt và tống vòa ngục
Azkaban mà không một chút kháng cự.
Điều duy nhất khiến gã ú ớ là sự kiện chiếc nhẫn của cha gã đã biến mất. “Lão sẽ giết tôi vìtội để mất chiếc nhẫn,” gã nói đi nói lại với những người bắt
gã. “Lão sẽ giết tôi vìtội để mất chiếc nhẫn”. Và về sau dường như gã chỉ lặp lại mối điều đó. Gã sống phần đời còn lại trong nhà ngục Azkaban, than
vãn mãi việc mất của gia bảo cuối cùng của Marvolo, và gã được chôn cất bên cạnh nhà tù cùng với những linh hồn khốn khổ đã tàn đời trong vòng lao
lý.”
“Vậy là Voldermort đã ăn cắp cây đũa phép của Morfin và sử dụng nó?” Harry ngồi thẳng lưng lên, nói.
“Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Chúng ta không có ký ức nào ghi nhớ sự kiện này, nhưng thầy nghĩchúng ta có thể biết khá chắc chắn điều gìđã xảy ra.
Voldermort đã điểm huyệt người cậu ruột hắn, lấy cây đũa phép của gã và đi tiếp qua bên kia thung lũng đến “ngôi nhà lớn cuối con đường”. Ở đó hắn
giết người đàn ông Muggle đã bỏ rơi bà mẹ phù thủy của hắn và để diệt nhân chứng, giết luôn ông bà nội thuộc dân Muggle của hắn và như thế diệt sạch
dòng dõi Riddle không xứng đáng với hắn và trả mối thù của chính hắn đối với người cha đã không hề muốn hắn chào đời. Sau đó hắn quay về căn nhà
tồi tàn của gia đình Gaunt, thực hiệm một chút pháp thuật phức tạp cấy vào đầu óc cậu hắn một trínhớ giả tạo, đặt cây đũa phép của Morfin bên cạnh vị
chủ nhân đang bất tỉnh, nhét vô túi hắn chiếc nhẫn cổ xưa mà Morfin đeo, rồi ra đi.”
“Và Morfin không bao giờ nhận ra gã đã không hề giết người à?”
“Không bao giờ,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng thầy nói đó, gã đã tự thú một cách đầy đủ và khoác lác.”
“Nhưng lúc nào trong đầu gã cũng có một ký ức thật mà!”
“Đúng vậy, phải làm rất nhiều phép Đọc tư tưởng lão luyện mới moi ra được ký ức thật của gã,” cụ Dumbledore nói, “và tại sao lại phải đào bới sâu hơn
vào đầu óc Morfin một khi gã đã tự thú nhận phạm tội ác đó? Tuy nhiên, thầy đã có thể thực hiện một cuộc viếng thăm Morfin vào những tuần cuối cùng
của đời gã, vào thời gian mà thầy cố gắng khám phá càng nhiều càng tốt về quá khứ Voldermort. Thầy đã thu được ký ức này một cách vô cùng khó
khăn. Khi đã thấy được nội dung của nó, thầy đã cố gắng dùng nó để xin thả Morfin ra khỏi ngục Azkaban. Nhưng Morfin đã chết trước khi Bộ có được
quyết định.”
“Nhưng làm sao mà Bộ lại không nhận ra được chính Voldermort đã đổ vấy tất cả chuyện đó cho Morfin?” Harry tức giận hỏi. “Lúc đó hắn chưa tới tuổi
trưởng thành, đúng không ạ? Con tưởng Bộ có thể phát hiện được Pháp thuật Vị thành niên chứ!”
“Con hoàn toàn đúng – họ có thể phát hiện Pháp thuật Vị thành niên, nhưng không thể tìm ra thủ phạm: con có nhớ con đã từng bị Bộ khiển trách vìbùa
Bay lượn, mà thực ra thìdo...”
“...Dobby làm,” Harry làu bàu; điều bất công này vẫn còn làm nó nhức nhối. “Vậy nếu mình vị thành niên và thực hiện Pháp thuật bên trong nhà của một
pháp sư hay phù thủy trưởng thành thìBộ sẽ không biết sao?”
“Họ chắc chắn không thể phân biệt được ai thực hiện Pháp thuật đó,” cụ Dumbledore nói, hơi mỉm cười trước vẻ cực kỳ phẫn nộ trên mặt Harry. “Họ dựa
vào các bậc cha mẹ pháp sư phù thủy để buộc con cái tuân thủ qui định trong phạm vi nhà mình.”
“Hừ, nhảm nhí,” Harry ngắt lời cụ Dumbledore. “Thử nhìn coi việc gìđang xảy ra ở đây, thử nhìn coi việc gìđã xảy ra cho Morfin!”
“Thầy đồng ý,” cụ Dumbledore nói. “Dù Morfin là người thế nào đi chăng nữa, gã cũng không đáng phải chết như đã chết, không đáng bị trừng phạt về tội
sát nhân mà gã không hề phạm. Nhưng đã khuya rồi, mà ta muốn con xem cái ký ức kia trước khi thầy trò mình chia tay...”
Cụ Dumbledore lấy từ túi áo trong ra một chai thủy tinh tíhon khác và Harry làm thinh ngay tức thì, vìnhớ rằng cụ Dumbledore đã từng nói đó là ký ức
quan trọng nhất mà cụ đã thu thập được. Harry nhận thấy cái khối bên trong chai tỏ ra khó rót vô cái Tưởng Ký, như thể nó hơi bị đặc sệt; ký ức mà cũng
bị hư sao?
“Cái này sẽ không dài đâu,” cụ Dumbledore nói, khi rốt cuộc cũng trút cạn được chai ký ức. “Chúng ta sẽ quay trở lại căn phòng này trước khi con kịp
nhận ra. Vậy ta hãy vào Tưởng Ký một lần nữa...”
Và Harry lại rơi xuyên qua bề mặt ánh bạc, lần này đáp xuống ngay trước mặt một người đàn ông mà nó nhận ra được ngay tức thì.
Đó là thầy Horace Slughorn với mái tóc dày bóng màu rơm khiến nó bối rối; trông có vẻ như thầy cho lợp một mái tóc trên đầu, mặc dù cũng đã xuất hiện
một lõm hói to bằng đồngGalleon bóng lưỡng ngay trên đỉnh đầu. Bộ ria mép của thầy, không rậm như bộ ria thầy hiện có, màu vàng hoe. Thầy cũng
chưa đến nỗi béo phục phịch như Thầy Slughorn mà Harry biết, mặc dù thầy cũng hơi bị căng. Hai bàn chân nhỏ của thầy đặt trên cái ghế nệm kê chân
bọc nhung, thầy đang ngồi sâu trong cái ghế bành điều chỉnh được một cách thoải mái, một bàn tay thầy cầm một ly rượu nhỏ, tay kia mò tìm trong một
hộp kẹo khóm dẻo.
Harry ngoái nhìn quanh khi cụ Dumbledore xuất hiện bên cạnh nó và thấy là hai thầy trò nó đang ở trong văn phòng Thầy Slughorn. Khoảng nửa tá nam
sinh đang ngồi quanh Thầy Slughorn, trên những cái ghế nhỏ hơn và cứng hơn cái ghế thầy ngồi, và tất cả nam sinh đều khoảng mưởi lăm, mười sáu
tuổi. Harry nhận ra Voldermort ngay tức thì. Hắn có gương mặt đẹp trai và thoải mái nhất trong đám nam sinh. Bàn tay phải của hắn đặt lơ đễnh trên chỗ
gác tay của cái ghế hắn đang ngồi; Harry thót ruột lại khi nhận ra chiếc nhẫn đen-và-vàng-kim của Marvolo mà Voldermort đang đeo; vậy là lúc này hắn đã
giết cha hắn rồi.
“Thưa thầy, có đúng là giáo sư Merrythought sắp về hưu không?” Hắn hỏi.
“Tom ơi, Tom à, nếu thầy biết thầy cũng không thể nói với con được,” Thầy Slughorn nói, vừa ngúc ngoắc một ngón tay bọc đường quở trách Riddle, mặc
dù hiệu quả đó hơi bị triệt tiêu bằng một cái nháy mắt. “Thầy phải nói, thầy muốn biết con lấy thông tin đó từ đâu ra vậy, hả chàng trai, chàng hiểu biết
nhiều hơn một nửa giáo ban đấy.”
Riddle mỉm cười; những nam sinh khác cười to và nhìn hắn đầy thán phục.
“Chắc là nhờ khả năng phi thường cảu con biết được những điều không nên biết và cả tài tâng bốc khéo léo những kẻ có máu mặt – nhân tiện, cám ơn
con về món mứt khóm dẻo nhé, con tài lắm, đó là món thầy khoái nhất...”
Trong khi bọn nam sinh khúc khích cười, một điều gìđó rất kỳ quái bỗng xảy ra. Toàn bộ căn phòng bỗng nhiên tràn đầy sương mù trắng xóa, khiến cho
Harry không thể thấy gìkhác ngoài gương mặt cụ Dumbledore, người đang đứng bên cạnh nó. Sau đó giọng nói của Thầy Slughorn vang lên tè trong
sương mù, to tiếng một cách khác thường, “Trò sẽ sai lầm, chàng trai, nhớ lấy lời ta đấy.”
Sương mù tan thình lình y như lúc tỏa ra vậy mà không ai nhắc nhở gìtới đó nữa, cũng không ai tỏ vẻ gìnhư vừa trải qua một chuyện hết sức lạ thường.
Quá ngạc nhiên, Harry nhìn quanh khi một cái đồng hồ nho nhỏ bằng vàng đứng trên bàn làm việc của Thầy Slughorn điểm mười một tiếng.
“Mèn đét ơi, khuya dữ vậy rồi sao?” Thầy Slughorn nói. “Các con nên đi thôi, những chàng trai ạ, nếu không chúng ta sẽ bị rắc rối cho coi. Lestrange, thầy
muốn con nộp bài luận văn ngày mai, nếu không thìcấm túc. Con cũng vậy,Avery à.”
Thầy Slughorn nhấc mình lên khỏi cái ghế bành và đem cái ly đã cạn rượu của thầy đến bàn làm việc, trong khi bọn nam sinh lần lượt ra về. Tuy nhiên
Voldermort ở lại sau cũng. Harry có thể thấy hắn cà rịch cà tang có chủ ý, vìmuốn là người cuối cùng còn lại trong phòng với Thầy Slughorn.
“Nhanh lên, Tom,” Thầy Slughorn nói, khi quay lại thấy Voldermort vẫn còn ở đó. “Con đâu có muốn bị phạt vìkhông ở trên giường trong giờ ngủ hả và con
lại là một huynh trưởng...”
“Thưa thầy, con muốn hỏi thầy một điều.”
“Vậy thìhỏi ngay đi, con trai ta, hỏi ngay...”
“Thưa thầy, con thắc mắc thầy có thể biết gìvề... về Trường sinh linh giá?”
Và một lần nữa chuyện đó lại xảy ra: sương mù dày đặc tỏa kín căn phòng đến nỗi Harry không thể nhìn thấy cả Thầy Slughorn lẫn Voldermort; chỉ có mỗi
cụ Dumbledore bên cạnh nó đang mỉm cười bình thản. Sau đó giọng nói của Thầy Slughorn lại vang lên oang oang, y như lần trước.
“Ta không biết gìvề Trường sinh linh giá, mà nếu có biết thìta cũng chẳng nói cho trò biết đâu! Bây giờ ra khỏi nới đây ngay và đừng để ta nghe trò nhắc
đến chúng một lần nữa đấy!”
“Thôi, có nhiêu đó thôi,” cụ Dumbledore điềm nhiên nói bên cạnh Harry. “Tới lúc đi rồi.”
Và hai chân Harry rời khỏi sàn phòng để rơi trở lại, trong vài giây sau, trên tấm thảm phía trước bàn làm việc của cụ Dumbledore.
“Tất cả chỉ nhiêu đó thôi sao?” Harry ngơ ngác nói.
Cụ Dumbledore đã nói rằng đây là ký ức quan trọng hơn hết thảy, nhưng nó không thể hiểu điều gìkhiến ký ức đó có ý nghĩa đến thế. Đành rằng phải
thừa nhận là trận sương mù và việc dường như chẳng ai để ý đến trận sương mù đó là rất ư quái đản, còn thìcó vẻ như chẳng có chuyện gìxảy ra ngoại
trừ chi tiết Voldermort đã đặt một câu hỏi mà chẳng được trả lời.
“Như con đã để ý thấy,” cụ Dumbledore nói, ngồi trở xuống sau bàn làm việc, “rằng ký ức đó đã bị nhiễu.”
“Nhiễu?” Harry lặp lại. Nó cũng đã ngồi xuống.
“Chắc chắn,” cụ Dumbledore nói. “Giáo sư Slughorn đã gây nhiễu chính ký ức của mình.”
“Nhưng tại sao thầy ấy lại làm điều đó?”
“Bởi vì, ta nghĩ, thầy ấy xấu hổ về những gìthầy ấy nhớ lại,” cụ Dumbledore nói. “Thầy ấy đã cố gắng tái tạo lại ký ức để tự thể hiện mình trong ánh sáng
tốt hơn, tẩy xóa đi những phần thầy ấy không muốn cho thầy xem. Như con để ý thấy, việc đó được làm rất sơ sài và làm như thế càng hay, bởi vìnó cho
thấy phần ký ức thật vẫn còn đó, ẩn bên dưới của sự sửa đổi.
Vậy là, Harry à, lần đầu tiên thầy giao bài tập về nhà cho con làm đây. Việc của con là thuyết phục giáo sư Slughorn bộc lộ ký ức thật, cái ký ức đó chắc
chắn sẽ là mẩu thông tin quan trọng nhất của chúng ta.”
Harry chăm chú nhìn cụ Dumbledore.
“Thưa thầy, nhưng chắc chắn là,” nó nói, cố gắng giữ cho giọng nói hết sức kính trọng, “thầy không cần đến con – Thầy có thể dùng phép Đọc tư tưởng...
hay phép Ép nói thật...”
“Giáo sư Slughorn là một pháp sư tài giởi cực kỳ, thầy ấy dư sức đối phó với cả hai,” cụ Dumbledore nói. “Thầy ấy thực hiện phép Bế quan hoàn hảo
hơn gã Morfin Gaunt khốn khổ nọ và thầy sẽ ngạc nhiên nếu thầy ấy không kè kè bên mình một liều thuốc giải cho phép Ép nói thật kể từ khi thầy buộc
thầy ấy đưa cho thầy cái ký ức bôi bác này.
Không, thầy nghĩlà tìm cách nạy sự thật từ Thầy Slughorn bằng sức mạnh là một cố gắng ngu ngốc và có thể đưa tới nhiều nguy hại hơn là tốt đẹp; Thầy
không muốn thầy ấy bỏ trường Hogwarts mà đi. Tuy nhiên, thầy ấy cũng có nhược điểm như tất cả chúng ta và thầy tin con chính là người duy nhất có thể
thâm nhập vào tuyến phòng thủ của thầy ấy. Việc lấy được ký ức thật của Thầy Slughorn là điều quan trọng nhất, Harry à... Quan trọng như thế nào thì
chúng ta sẽ chỉ biết được khi chúng ta nhìn thấy cái ký ức thật. Vậy chúc con may mắn nhé... và ngủ ngon nhé.”
Hơi sửng sốt vìbị đuổi ra đột ngột, Harry vội vã đứng lên. “Thưa thầy, chúc thầy ngủ ngon.”
Khi đóng cánh cửa văn phòng sau lưng, nó còn kịp nghe rõ ràng cụ Phineas Nigellus nói, “ta có thể hiểu tại sao thằng nhỏ đó có thể làm khá hơn ông,
Dumbledore ạ.”
“Tôi cũng chẳng trông mong gìcụ làm được, cụ Phineas à,” cụ Dumbledore nói và con phượng hoàng Fawkes ngân nga một âm thanh réo rắt khe khẽ
nữa.
Chương 18
Những bất ngờ sinh nhật
Hôm sau Harry đem nhiệm vụ mà cụ Dumbledore giao cho nó tâm sự với cả Ron và Hermione, nhưng với từng đứa riêng lẻ, bởi vìở đâu có mặt Ron thì
Hermione chỉ ở lại đó đủ thời gian để ném cho một cái nhìn khinh bỉ rồi bỏ đi.
Ron thìcho rằng Harry chẳng có vẻ gìsẽ gặp rắc rối với Thầy Slughorn cả.
“Ổng khoái bồ,” nó nói trong bữa điểm tâm, vừa vung vẩy một nĩa đầy trứng chiên. “Ổng khoái bồ,” nó nói trong bữa điểm tâm, vừa vung vẩy một nĩa đầy
trứng chiên. “Ổng sẽ không từ chối bồ điều gìđâu, đúng chưa? Hoàng tử độc dược nhỏ bé của ổng mà. Chỉ cần nán lại sau buổi học và đề nghị.”
Tuy nhiên Hermione có cái nhìn tăm tối hơn.
“Nếu đến cụ Dumbledore mà còn không thể bắt thầy ấy đưa ra được ký ức thực thìchắc là thầy ấy đã quyết tâm giấu diếm cái điều thực sự đã xảy ra,”
cô bé nói khi hai đứa đứng trong sân trường phủ đầy tuyết vắng ngắt vào giờ ra chơi. “Trường sinh linh giá… Trường sinh linh giá… Mình chưa bao giờ
nghe đến chúng…”
“Bồ chưa nghe bao giờ à?”
Harry thất vọng; nó đã hy vọng rằng Hermione có thể sẽ cho nó một manh mối để biết Trường sinh linh giá là cái gì.
“Ắt hẳn đó là Pháp thuật Hắc ám rất cao cấp, chứ không thìtại sao Voldermort lại muốn biết? Harry à, mình nghĩbồ sẽ khó mà lấy được thông tin đó, bồ
sẽ phải rất cẩn thận trong việc tiếp cận Thầy Slughorn, hãy nghĩra một chiến lược…”
“Ron cho rằng mình nên nán lại sau buổi học Độc dược trưa nay…”
“Ờ, há. Nếu Won-Won nghĩvậy thìbồ cứ làm vậy,” cô bé đổ quạu ngay và nói, “Xét cho cùng thìcó khi nào phán đoán của Won-Won sai lầm đâu!”
“Hermione, chẳng lẽ bồ không thể nào…”
“Không!” Cô bé giận dữ nói, rồi đùng đùng bỏ đi, để mặc Harry đứng một mình trong tuyết ngập đến mắt cá chân.
Dạo này những buổi học Độc dược chẳng dễ chịu lắm bởi vìHarry, Ron và Hermione phải ngồi chung một bàn. Hôm nay, Hermione dọn cái vạc của cô
nàng qua bên kia bàn để ngồi gần Ernie và chẳng buồn để ý đến cả Harry lẫn Ron.
“Bồ đã làm gìhả?” Ron thìthầm hỏi Harry, vừa nhìn vẻ mặt kiêu kỳ của Hermione.
Nhưng trước khi Harry có thể trả lời, Thầy Slughorn đã đứng trước lớp yêu cầu yên lặng.
“Ngồi xuống, mời các trò ngồi xuống! Nào, nhanh lên, trưa nay có nhiều việc phải làm cho xong! Luật thứ ba của Golpalott… ai có thể nói cho thầy biết?...
À dĩnhiên, cô Granger có thể!”
Hermione đọc thuộc lòng cực nhanh: “Luật-thứ-ba-của-Golpalott-nêu-ra-rằng-thuốc-giải-cho-một-hỗ-hơp-độc-dược-sẽ-tương-đương-hoặc-nhiều-hơn-
tổng-số-thuốc-giải-dành-cho-mỗi-thành-phần-độc-dược-riêng-lẻ.”
“Chính xác!” Thầy Slughorn tươi cười. “Mười điểm cho nhà Gryffindor! Bây giờ, nếu chúng ta chấp nhận Luật thứ ba của Golpalott là đúng…”
Harry đang phải chấp nhận lời Thầy Slughorn rằng Luật thứ ba của Golpalott là đúng bởi vìnó không hiểu chút xíu nào về luật đó cả. Cũng không có ai
khác ngoại trừ Hermione có vẻ như hiểu kịp những gìThầy Slughorn nói tiếp theo đó.
“...điều đó, dĩnhiên, nghĩa là giả sử chúng ta nhận ra được đúng lai lịch của những dược liệu tập hợp thành độc dược nhờ Thần chú Tiết lộ của Scarpin,
mục đích cơ bản của chúng ta khoogn phải là thứ mục đíchtương đối đơn giản là chọn ra thuốc giải cho những hợp phần trong và ngoài chúng. Mà là tìm
cho ra cái thành phần thêm vào, thành phần này, nhờ vào một qui trình gần như giả kim thuật, sẽ biến đổi những yếu tố tạp nham này...”
Ron đang ngồi bên cạnh Harry, miệng hơi há ra, lơ đãng vẽ nguệch ngoạc trên cuốn sách Bào chế thuốc cao cấp còn mới của nó. Ron vẫn quên là nó
giờ đây không còn có thể trông cậy Hermione giúp thoát khỏi thế bímỗi khi nó không hiểu kịp việc gìđang diễn ra.
“...và vìvậy,” Thầy Slughorn kết thúc, “thầy muốn mỗi trò hãy lại đây lấy một trong những cái chai này trên bàn của thầy. Các trò phải tạo ra một thuốc giải
cho độc dược chứa bên trong chai trước khi hết tiết học này. Chúc các trò may mắn và đừng quên đeo găng tay bảo hộ!”
Hermione đã rời ghế của mình và đi được nửa đường về phía bàn của Thầy Slughorn trước khi cả lớp còn lại nhận ra là đã tới lúc cựa quậy và khi Harry,
Ron, Ernie quay trở lại bàn của tụi nó, Hermione đã rót chất độc trong cái chai của cô nàng vô vạc và đang khơi lên ngọn lửa bên dưới cái vạc.
“Thiệt nhục là Hoàng tử sẽ chẳng thể nào giúp được bồ nhiều lắm trong vụ này, Harry à,” cô nàng vừa híhửng nói vừa ưỡn thẳng người lên. “Lần này bồ
phải hiểu những nguyên lý liên quan. Không mánh lới hay gian lận được!”
Bực mình, Harry mở nút cái chai mà nó lấy từ trên bàn Thầy Slughorn xuống – một chai màu hồng hơi chói – rót vô cái vạc của nó và nhóm lửa bên dưới
cái vạc. Nó hoàn toàn không biết là phải làm gìtiếp theo. Nó liếc qua Ron, anh chàng này đang đứng ngố ra sau khi cọp-pi theo hết những gìHarry vừa
làm.
“Bồ chắc là Hoàng tử không ghi lại mánh nào hết hả?” Ron thìthầm hỏi Harry.
Harry rút cuốn Bào chế thuốc cao cấp đáng tin cậy cảu nó ra và lật đến chương Thuốc giải. Đây Luật thứ ba của Golpalott, trình bày đúng từng chữ một y
chang như Hermione đã học thuộc lòng, không có thêm một ghi chú nào bằng chữ viết tay của Hoàng tử giải thích thêm điều đó nghĩa là gì. Dường như
Hoàng tử cũng giống như Hermione hiểu điều đó một cách dễ dàng.
“không có gìhết,” Harry rầu rĩnói.
Hermione lúc này đang hăng hái vẫy cây đũa phép trên cái vạc của cô nàng. Thiệt xui xẻo, hai đứa nó không thể nhái theo câu thần chú của Hermione bởi
vìgiờ đây cô nàng đã giỏi môn hô biến không lời đến nỗi chẳng cần phải hô câu thần chú nào ra miệng. Tuy nhiên, Ernie Macmillan đang đọc lâm râm
bên trên cái vạc của nó, “Tiết lộ đặc tính!”, nghe cũng ấn tượng, nên Harry và Ron vội vã nhái theo.
Harry chỉ mất năm phút để nhận ra tiếng tăm người-bào-chế-độc-dược-giỏi-nhất trong lớp của nó đang đổ vỡ loảng xoảng bên tai. Trong vòng rảo quanh
lớp đầu tiên Thầy Slughorn đã dòm vô cái vạc cảu nó đầy hy vọng, chuẩn bị reo lên vui mừng như thầy vẫn thường làm, nhưng thay vìvậy, thầy phải vội vã
thụt đầu lại, ho sặc sụa khi mùi trứng thối xộc vô mũi. Vẻ mặt Hermione títởn hết chỗ nói; cô nàng đã thề học cho xuất sắc trong mỗi tiết độc dược. Giờ
đây cô nàng gạn ra những thành phần của độc dược đã được tách ra một cách bímật vào trong những lọ thủy tinh khác nhau. Không muốn gìhơn là tránh
khỏi nhìn cảnh chướng mắt đó, Harry cúi xuống quyển sách của Hoàng Tử lai và lật vài trang mạnh bạo không cần thiết.
Và đây rồi, vắt ngang qua một danh mục dài các thứ thuốc giải là dòng chữ:
Chỉ cần nhét một sỏi dê vô họng chúng.
Harry trố mắt nhìn những chữ này một hồi. Chẳng phải nó đã nghe nói đến “sỏi dê” một lần rồi sao, hồi lâu rồi? Chẳng phải chính Thầy Snape đã nhắc
đến chúng ngay trong bài học Dộc dược đầu tiên? “Một hòn sỏi lấy ra từ bao tử của một con dê, sẽ bảo vệ ta khỏi ngộ nhiễm hầu hết các chất độc.”
Đó không phải là lời giải cho bài toán Golpalott và nếu Thầy Snape vẫn còn là thầy Độc dược cảu tụi nó, Harry sẽ không dám làm chuyện này, nhưng bây
giờ là lúc phải xử tríliều mạng. Nó vội vàng đi về phía tủ chứa nguyên dược liệu và lục lọi trong đó, đẩy qua một bên những sừng kỳ lân và những dược
thảo khô rối nùi, cho đến khi tìm được một cái hộp giấy bồi nhỏ nằm sâu tuốt bên trong, trên hộp có ghi chữ “Sỏi dê”.
Nó mở cái hoppj ra vừa đúng lúc Thầy Slughorn hô lên: “Còn hai phút nữa nhé các trò!” Bên trong hộp có chừng nửa tá vật màu nâu teo quắt, trông giống
như những trái thận phơi khô hơn là sỏi thật. Harry chộp ngay một cái, đặt cái hộp trở vô tủ và vội vã quay trở lại cái vạc của nó.
“HẾT... giờ!” Thầy Slughorn hớn hở rao lên. “Thôi, chúng ta hãy xem các trò làm ăn ra sao! Blaise... trò có gìcho ta xem nào?”
Thầy Slughorn chậm rãi đi quanh phòng học, xem xét các thuốc giải khác nhau. Không ai hoàn tất bài tập mỹ mãn, mặc dù Hermione đang cố gắng nhét
thêm một ít thành phần dược liệu vô trong cái chai trước khi Thầy Slughorn đi tới chỗ cô nàng. Ron đã đầu hàng vô điều kiện và chỉ cố gắng tránh hít phải
làn khói thúi ùm bốc lên từ cái vạc của nó. Harry đứng đó đợi, nắm chặt viên sỏi dê trong bàn tay rịn mồ hôi.
Thầy Slughorn đến bàn tụi nó sau chót. Thầy ngửi món thuốc Ernie pha chế rồi chuyển qua món thuốc của Ron với gương mặt nhăn nhó. Thầy không nấn
ná lâu bên cái vạc của Ron, mà nhanh chóng lùi lại, hơi ọe một cái.
“Và trò, Harry,” thầy nói. “Con có gìcho thầy xem nào?”
Harry giơ tay ra, viên sỏi dê nằm trong lòng bàn tay nó.
Thầy Slughorn ngó xuống viên sỏi đúng mười giây. Trong một thoáng Harry tự hỏi liệu thầy có quát vào mặt nó không. Nhưng thầy ngẩng đầu lên và phá
ra cười.
“Trò táo tợn lắm!” Thầy cầm lấy viên sỏi dê và giơ nó lên cao để mọi người có thể nhìn thấy, nói oang oang. “A, trò giỏi y như mẹ cảu trò... Chà, ta không
thể bắt lỗi trò... một viên sỏi dê đương nhiên là có tác dụng như thuốc giải đối với tất cả Độc dược!”
Mặt lấm tấm mồ hôi, mũi dính lọ nghẹ, Hermione có vẻ giận bầm gan tím mật. Món thuốc giải xong được nửa giai đoạn của cô nàng gồm có năm mươi
hai thành phần dược liệu kể cả một cọng tóc của chính cô nàng, đang lờ đờ sủi bọt sau lưng Thầy Slughorn, lúc này mắt thầy chỉ thấy có mỗi một mình
Harry.
“Và tự một mình bồ nghĩra viên sỏi dê hả, Harry?” Cô nàng hỏi qua kẽ răng nghiến chặt.
“Đó là tinh thần cá nhân mà một người bào chế độc dược thực sự cần đến!” Thầy Slughorn vui vẻ nói, trước khi Harry có thể trả lời. “Giống y chang mẹ
của trò, cô ấy cũng hiểu thấu bằng trực giác việc bào chế độc dược y như vậy, chắc chắn là trò thừa hưởng khả năng này từ mẹ Lily của trò... Đúng,
Harry à, đúng đó, nếu con có trong tay viên sỏi dê thìdĩnhiên đã giải trúng mẹo... Tuy nhiên, bởi vìsỏi dê không hiệu nghiệm đối với mọi thứ và lại khá
hiếm nữa, nên cũng nên biết cách pha chế thuốc giải...”
Người duy nhất trong phòng tỏ ra tức giận hơn cả Hermione là Malfoy. Harry khoái chínhận thấy hắn đã làm đổ vấy lên chính hắn cái gìđó trông như đồ
meaof mửa. Nhưng trước khi Hermione hay Malfoy có thể bộc lộ nỗi bất bình về việc Harry đứng đầu lớp mà không cần làm bài tập, chuông reo.
“Tới giờ dọn dẹp!” Thầy Slughorn nói. “Và thêm mười điểm cho nhà Gryffindor vìsự táo tợn thuần túy đấy nhé!”
Vẫn cười hìhì, thầy đi lạch bạch về bàn thầy ở đầu phòng học.
Harry nhẩn nha ở cuối phòng, bỏ ra cả đống thời gian chỉ để dọn dẹp đồ đạc vô cặp. Cả Ron và Hermione đều không thèm chúc nó may mắn khi tụi nó
rời phòng học; cả hai có vẻ rất bực bội. Cuối cùng chỉ còn Harry và Thầy Slughorn ở lại trong phòng.
“Nào nhanh lên, Harry, kẻo con sẽ trễ tiết học kế,” Thầy Slughorn ân cần nói, vừa đóng cái chốt khóa của cái cặp da rồng.
“Thưa thầy,” Harry nói, không cách nào mà không nhớ tới Voldermort, “Con muốn hỏi thầy một điều.”
“Vậy thìhỏi ngay đi, chàng trai thân mến ạ, cứ hỏi đi...”
“Thưa thầy, con thắc mắc là thầy biết gìvề... về Trường sinh linh giá ạ?”
Thầy Slughorn sững sờ. Gương mặt tròn trịa của thầy dường như lún vô. Thầy liếm môi và nói giọng khàn khàn, “Con nói cái gì?”
“Thưa thầy, con hỏi thầy có biết gìvề Trường sinh linh giá không ạ. Xin thầy hiểu cho...”
“Cụ Dumbledore xúi trò làm chuyện này,” Thầy Slughorn lẩm bẩm.
Giọng của thầy thay đổi hoàn toàn. Chẳng còn cởi mở chút nào nữa, mà kinh hoàng, sợ hãi. Thầy mò trong túi áo ngực lấy ra một chiếc khăn tay, lau chân
mày rịn mồ hôi.
“Cụ Dumbledore đã cho trò coi cái đó... cái ký ức đó,” Thầy Slughorn nói. “Đúng không? Cụ có cho coi không?”
“ Dạ có,” Harry nói, quyết định ngay tại chỗ là tốt nhất đừng nói dối.
“Ừ, dĩnhiên,” Thầy Slughorn khẽ nói, vẫn chậm mồ hôi trên gương mặt trắng bệch. “Dĩnhiên... Chà, nếu trò đã xem cái ký ức đó rồi, Harry à, trò ắt biết là
ta không biết gìhết – không biết gìhết” thầy lặp lại, nhấn mạnh vào mấy chữ đó, “ biết gìhết về Trường sinh linh giá.”
Thầy nắm lấy cái cặp da rồng của thầy, nhét cái khăn tay trở vô túi và bước đều ra cửa phòng học ở tầng hầm.
“Thưa thầy,” Harry khẩn thiết nói, “con chỉ nghĩcó thể thầy còn có thêm một chút ký ức nữa...”
“Vậy hả?” Thầy Slughorn nói. “Vậy thìtrò nhầm rồi? NHẦM!”
Thầy rống lên từ cuối cùng và trước khi Harry có thể nói thêm tiếng nào nữa, thầy đóng sầm cánh cửa phòng học lại.
Cả Ron lẫn Hermione đều chẳng cảm thông gìhết khi Harry kể cho tụi nó nghe cuộc nói chuyện riêng tai hại ấy. Hermione vẫn còn sôi sực giận về cái
cách Harry chiến thắng mà không cần làm việc đàng hoàng. Ron thìtức tối là Harry đã không chôm luôn cho nó một viên sỏi dê.
“Nếu cả hai đứa cùng làm như vậy thìngu hết sức!” Harry cáu kỉnh nói. “Thử nghĩcoi, mình phải cố gắng làm mềm lòng thầy ấy để có thể hỏi về
Voldermort, đúng không? Ôi, bồ có hiểu không hả!” Nó cáu tiết hỏi thêm, vìRon nhăn mặt khi nghe đến cái tên Voldermort.
Giận điên lên vìthất bại của chính mình cùng thái độ của Ron và Hermione, Harry suy nghĩủ ê về Thầy Slughorn suốt mấy ngày liền sau đó. Nó quyết định
rằng, trong lúc này, nó nên để cho Thầy Slughorn nghĩlà nó đã quên hết chuyện Trường sinh linh giá; Tốt nhất là ru thầy ngủ trong cảm giác an toàn giả
trước khi quay trở lại tấn công.
Khi Harry không theo hỏi Thầy Slughorn nữa, ông thầy Độc dược liền phcuj hồi cách đối xử thân tình của mình và có vẻ đã quên đi chuyện đó. Harry chờ
đợi lời mời đến dự một trong những dạ tiệc nho nhỏ của thầy, quyết tâm nhận lời đi dự phen này cho dù có phải dời lại ngày luyện tập Quidditch. Nhưng
mà, thiệt không may, chẳng có thư mời nào được gởi tới cả. Harry hỏi Hermione và Ginny: cả hai đứa nó cũng không nhận được thư mời và theo như tụi
nó biết thìcũng chẳng ai được mời mọc gìhết. Harry không thể không thắc mắc phải chăng điều này có nghĩa là Thầy Slughorn không thực sự dễ quên
như thầy làm ra vẻ như vậy, một mực nhất quyết không cho Harry cơ hội nào nữa để chất vấn thầy.
Trong lúc đó, lần đầu tiên trong lịch sử, thư viện trường Hogwarts đã không đáp ứng được nhu cầu tra cứu của Hermione. Cô nàng sửng sốt đến nỗi
quên béng đi là mình đang giận Harry về trò mánh của nó trong vụ viên sỏi dê.
“Mình không tìm được một lời giải thích nào về chức năng của Trường sinh linh giá!” Cô nàng nói với Harry. “Dù chỉ một lời! Mình đã tra hết sách trong khu
vực giới hạn và ngay cả tỏng những cuốn sách khủng khiếp nhất, những quyển dạy pha chế Độc dược rùng rợn nhất – mà không tìm ra gìcả! Điều duy
nhất mình tìm được là, trong phần giới thiệu của cuốn Pháp thuật ác hại nhất... nghe này nhé... “chúng ta không nên nói đến hay hướng dẫn về Trường
sinh linh giá, phát minh ác độc nhất trong những phát minh Pháp thuật”... vậy thì, nhắc đến nó làm gì?” Hermione sốt ruột nói, vừa đóng ập cuốn sách cũ
lại, cuốn sách bèn rên lên một tiếng ma quái.
“Ối, im đi,” cô nàng nạt cuốn sách và nhét nó vô cái túi xách của mình.
Tuyết tan quanh trường khi tháng hai đến, thay vào đó là sự ẩm ướt lạnh lẽo buồn bã. Những đám mây xám thâm tím giăng thâm thấp phía trên tòa lâu đài
và những cơn mưa lạnh buốt rơi liên miên khiến bãi cỏ lầy lội và trơn trợt. Hậu quả của việc này là bài học Độn thổ đầu tiên dành cho học sinh năm thứ
sáu, được lên lịch vào sáng thứ bảy để cho không trùng với những lớp học bình thường khác, phải diễn ra trong Đại sảnh đường thay vìngoài sân.
Khi Harry và Hermione đến Sảnh đường (Ron đã xuống trước với Lavender) hai đứa tụi nó thấy những cái bàn ăn dài đã biến mất. Mưa quật vào những
khung cửa sổ cao và trần nhà được ểm bùa đang vần vũ âm u phía trên đầu tụi nó khi tất cả tập họp trước mặt các giáo sư McGonagall, Snape, Flitwick
và Sprout – chủ nhiệm của mỗi Nhà – và một ps nhỏ thó mà Harry chắc là thầy dạy môn Độn thổ đến từ Bộ Pháp thuật. Ông ta nhợt nhạt một cách quái
đản, lông mi trong suốt, tóc lưa thưa và có một vẻ mong manh như thể chỉ một cơn gió mạnh cũng có thể thổi bay. Harry không rõ, phải chăng việc cứ
phải thường xuyên biến mất rồi lại hiện ra, kiểu gìđó đã làm teo tóp cơ thể của ông hay không, hay không chừng cấu tạo cơ thể mong manh đó lại là lý
tưởng cho bất cứ ai thích việc tan biến.
“Chào mọi người,” vị ps của Bộ nó, sau khi tất cả học sinh đã có mặt và các giáo viên chủ nhiệm đã yêu cầu chúng im lặng. “Tên tôi là Wilkie Twycross và
tôi sẽ là hướng dẫn viên Độn thổ trong mười hai tuần lễ sắp tới. Tôi hy vọng có thể giúp các trò chuẩn bị cho kỳ thi Độn thổ của các trò trong thời gian
này...”
“Malfoy, im lặng và chú ý!” Giáo sư McGonagall quát.
Mọi người nhìn quanh. Malfoy đã ửng lên một màu hồng lờ mờ; nó có vẻ giận dữ khi nhích ra xa Crabbe, coi bộ nó và Crabbe đang rù rìtranh cãi. Harry
liếc nhanh về phía Thầy Snape, trông thầy cũng bực bội, mặc dù Harry rất ngờ là thầy bực bội vìsự vô lễ của Malfoy thìít mà về việc giáo sư McGonagall
quở trách một học sinh của Nhà thầy thìnhiều.
“...Vào lúc đó, nhiều trò đã có thể sẵn sàng để đi thi,” thầy Twycross tiếp tục, như thể không hề có sự gián đoạn nào cả.
“Như các trò biết, thường thìkhông thể nào hiện ra hay biến mất trong trường Hogwarts. Ông hiệu trưởng đã gỡ bùa ếm, chỉ nội trong Đại sảnh đường,
trong một tiếng đồng hồ, để cho các trò có thể thực tập. Cho phép tôi nhấn mạnh là các trò sẽ không thể nào độn thổ ra khỏi Đại sảnh đường này về nếu
trò nào tìm cách làm vậy thìthực là dại dột.
Tôi muốn các trò hãy đứng giãn ra sao cho mỗi trò cách người đứng trước mặt một thước rưỡi.”
Mọi người chen lấn xô đẩy trong lúc giãn ra, đụng chạm nhau, và kêu đòi người khác tránh chỗ cho mình. Các chủ nhiệm Nhà đi lẫn trong đám học sinh
của mình, sắp xếp chúng vô vị trívà chấm dứt những vụ cãi vã.
“Harry, bồ đi đâu vậy?” Hermione hỏi.
Nhưng Harry không trả lời; nó đang di chuyển thật nhanh xuyên qua đám đông, ngang qua chỗ giáo sư Flitwick đang cố gắng léo nhéo sắp chỗ cho mấy
đứa nhà Ravenclaw, đứa nào cũng đòi đứng gần hàng đầu; ngang qua cả giáo sư Sprout, đang rượt mấy đứa nhà Hufflepuff đứng vô hàng, cho đến khi
lách qua được Ernie Macmillan, nó tìm cách đứng cuối đám đông, ngay sau lưng Malfoy. Malfoy đang lợi dụng sự hỗn loạn chung này để tiếp tục cãi vã
với Crabbe, thằng này đứng cách Malfoy một thước rưỡi và tỏ vẻ bất bình như muốn nổi loạn.
“Tao không biết còn bao lâu nữa, hiểu không?” Malfoy quát Crabbe, quên mất Harry đang đứng ngay sau lưng. “Việc đó kéo dài lâu hơn tao tưởng.”
Crabbe há miệng ra, nhưng Malfoy có vẻ như đoán được điều nó định nói.
“Crabbe à, chuyện tao đang làm không mắc mớ gìđến mày, mày và Goyle cứ việc canh gác như tao bảo!”
“Nếu tao muốn bạn bè canh gác cho tao thìtao phải nói cho chúng biết tao đang làm gì,” Harry nói, chỉ đủ to cho Malfoy nghe thôi.
Malfoy quay phắt lại liền tại chỗ, bàn tay chụp ngay cây đũa phép của nó, nhưng đúng lúc đó cả bốn Chủ nhiệm nhà đều hét lên, “Im lặng!” Và mọi người
lại nín khe. Malfoy từ từ quay mặt về phía trước.
“Cám ơn,” thầy Twycross nói. “Thôi, bây giờ...”
Thầy vẫy cây đũa phép. Những cái vòng bằng gỗ kiểu xưa hiện ra ngay tức thìtrên sàn trước mặt mỗi học sinh.
“Những điều cần nhớ khi độn thổ là ba Đ!” Thầy Twycross nói. “Địa điểm, Định ý và Điềm tĩnh!
Bước thứ nhất: tập trung ý chímạnh mẽ vào địa điểm mình muốn đến,” thầy Twycross nói. “Trong trường hợp này, địa điểm là bên trong cái vòng gỗ trước
mặt các trò. Bây giờ các trò hãy vui lòng tập trung ý chívào địa điểm đó.”
Mọi người len lén nhìn quanh, để thấy tất cả những người khác đều đang trố mắt ngó cái vòng gỗ của mình, rồi vội vã làm theo yêu cầu. Harry đăm đăm
nhìn khoảnh sàn tròn bụi bặm trong cái vòng gỗ của nó và hết sức cố gắng không nghĩđến cái gìkhác cả. ĐIều này hóa ra không thể được, bởi vìnó
không thể ngừng thắc mắc Malfoy đang làm gìmà cần người canh gác.
“Bước thứ hai,” thầy Twycross nói, “định ý rõ ràng quyết tâm đạt tới không gian đã hình dung! Hãy để cho lòng mong muốn tiến vào không gian đã hình
dung! Hãy để cho lòng mong muốn tiến vào không gian đó tràn ngập đầu óc và từng tế bào của cơ thể mình!”
Harry lén nhìn quanh. Cách không xa bên trái, Ernie Macmillan đang ngó cái vòng của mình kỹ đến nỗi mặt nó đỏ hồng lên như thể đang rặn đẻ một cái
trứng bự bằng trái banh Quaffle. Harry ráng nhịn cười và vội chăm chú ngó lại cái vòng của chính mình.
“Bước thứ ba,” thầy Twycross nói, “và chỉ khi nào tôi ra lệnh... xoay tại chỗ, thận trọng tiến vào cõi hư vô, điềm tĩnh trong từng chuyển động. Bây giờ theo
lệnh tôi... Một!”
Harry lại liếc nhìn quanh; nhiều người có vẻ cực kỳ hoảng sợ khi bị yêu cầu độn thổ gấp như vậy.
“...hai...”
Harry cố gắng tập trung lại, suy nghĩvào cái vòng gỗ, nó đã quên béng đi ba Đ là viết tắt cảu cái gì.
“BA!”
Harry quay vòng vòng tại chỗ, mất cân bằng và suýt té. Nó không phải là người duy nhất làm vậy. Toàn thể Đại sảnh đường bỗng đầy những con người
lảo đảo; Neville té ngửa trên sàn; Ngược lại Ernie Macmillan đã làm được một cú nhảy vô cái vòng của nó và có vẻ phấn khích được một lúc, cho đến khi
thấy Dean THogsmeadeas rống lên cười nhạo nó.
“Không sao, không sao,” thầy Twycross nói tỉnh bơ, thầy không có vẻ gìlà đã kỳ vọng một tình hình tốt hơn. “Hãy điều chỉnh lại cái vòng gỗ của các trò và
đứng trở lại vị trícũ...”
Lần thứ hai không khá hơn gìlần thứ nhất. Lần thứ ba cũng tệ cỡ vậy. Đến lần thứ tư mới có sự cố hào hứng. Một tiếng thét hãi hùng đau đớn vang lên và
mọi người ngoảnh nhìn lại, kinh hoàng khi thấy Susan Bones của nhà Hufflepuff đang loạng choạng bên trong cái vòng của cô nàng trong khi chân trái hãy
còn đứng lại chỏng chơ tại chỗ cô nàng khởi hành cách đó một thước rưỡi.
Chủ nhiệm các Nhà xúm lại quanh Suán; một tiếng nổ to vang lên và một cụm khói tím bốc lên rồi tan đi để lộ cô nàng Susan đang thút thít khóc, tuy chân
cẳng được ráp lại lành lặn nhưng vẻ mặt còn sợ khiếp.
“Thân tứ tán hay sự tách rời một bộ phận bất kỳ trên thân thể,” thầy Wilkie Twycross thản nhiên nói, “xảy ra khi đầu óc chưa định ý đủ đô. Các trò phải tập
trung liên tcuj vào địa điểm, rồi di chuyển, không hấp tấp mà phải điềm tĩnh... như vầy nè.”
Thầy Twycross bước tới trước, giang hai cánh tay ra duyên dáng xoay tại chỗ và biến mất qua một cái phất của vạt áo chùng, rồi xuất hiện lại phía cuối
Đại sảnh đường. “Hãy nhớ ba Đ,” thầy nói, “và thử lại một lần nữa... một... hai... ba!”
Nhưng một tiếng đồng hồ sau, vẫn chỉ có vụ thân tứ tán của Susan là sự kiện hào hứng nhất. Thầy Twycross chẳng có vẻ gìlà nản chí. Gài chặt cổ áo
khoác, thầy chỉ nói, “Hẹn thứ bảy tới nhé, mọi người và đừng quên Địa điểm, Định ý, Điềm tĩnh.”
Nói xong, thầy vẫy cây đũa phép khiến những cái vòng gỗ biến mất rồi bước ra khỏi Đại sảnh đường cùng giáo sư McGonagall. Tiếng chuyện trò lập tức
nổi lên khi đám học trò bắt đầu di chuyển về phía tiền sảnh.
“Bồ làm ăn ra sao?” Ron hỏi, vừa vội vàng đi về phía Harry. “Mình tin là mình cảm nhận được cái gìđó trong lần thử cuối cùng – một cảm giác ngứa ngáy
ở bàn chân.”
“Tôi cho rằng tại giày của ban hơi nhỏ, Won-Won à,” một giọng nói vang lên từ phía sau hai đứa nó và Hermione hiên ngang bước qua mặt tụi nó, môi nở
một nụ cười mỉa mai.
Không đẻ ý đến sự xía ngang đó, Harry nói, “Mình chẳng cảm thấy gìhết, nhưng lúc này mình không bận tâm chuyện đó.”
“Ýbồ là sao, bồ không bận tâm... Bồ không muốn học Độn thổ hả?” Ron ngờ vực hỏi.
“Thiệt tình mình không hào hứng lắm. Mình thích bay hơn,” Harry nói, vừa liếc chừng ra sau để xem Malfoy ở đâu và bước nhanh hơn khi tiến vào tiền
sảnh. “này, bồ làm ơn nhanh lên, có một việc mình muốn làm...”
Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, Ron chạy theo Harry trở lại tháp Gryffindor. Tụi nó bị con ma Peeves cản trở một lúc, con ma này đã chèn cánh cửa ở lầu
bốn thật chặt và không chịu cho ai đi qua nếu người đó không xẹt lửa lên cái quần của chính mình. Harry và Ron chỉ đơn giản quay lưng lại và đi theo lối
tắt an toàn của tụi nó. Chỉ trong vòng năm phút sau, tụi nó đã trèo qua cái lỗ chân dung.
“Bồ có định nói cho mình biết là tụi mình đang làm gìkhông hả?” Ron thở hổn hển hỏi.
“Lên đây,” Harry nói và nó băng ngang qua phòng sinh hoạt chung, dẫn đường tới cửa vào cầu thang lên phòng ngủ nam sinh.
Đúng như Harry hy vọng, phòng ngủ của tụi nó vắng vẻ. Nó mở tung cái rương ra và bắt đầu lục lọi trong đó, trong khi Ron sốt ruột nhìn nó.
“Harry à...”
“Malfoy đang dùng Crabbe và Goyle làm người canh gác cho nó. Nó vừa cãi nhau với Crabbe. Mình muốn biết... đây rồi.”
Nó đã tìm được, một tấm giấy da vuông vức được gấp lại, dường như không có chữ nghĩa gìtrong đó, nó trải tấm giấy da ra và gõ đầu cây đũa phép lên
đó.
“Tôi trang trọng thề là tôi đang mưu toan chuyện không tốt... hay Malfoy thìcũng vậy”
Lập tức tấm Bản đồ đạo tặc hiện ra trên tấm giấy da. Đây là một bản đồ chi tiết về mọi tầng trong tòa lâu đài và những cái chấm li ti có kèm tên đang di
động trên khắp bản đồ biểu thị cho từng người đang có mặt trong tòa lâu đài.
“Giúp mình tìm Malfoy,” Harry khẩn khoản nói.
Nó đặt tấm bản đồ trên giường và cùng Ron chồm lên dò tìm.
Cỡ chừng một phút sau, Ron nói: “Kìa! Nó đang ở trong phòng sinh hoạt chung nhà Sly, coi kìa... đàn đúm với Parkinson, Zabini, Crabbe và Goyle...”
Harry ngó xuống tấm bản đồ, thất vọng, nhưng trấn tĩnh lại ngay tức thì.
“Thôi được, từ giờ trở đi mình sẽ để mắt tới nó,” Harry kiên quyết nói. “Và bất cứ lúc nào mình thấy nó thập thò đâu đó trong khi Crabbe và Goyle canh
gác bên ngoài, thìmình sẽ mặc ngay tấm Áo khoác tàng hình để tới đó liền, tìm hiểu xem nó đang...”
Harry ngừng ngang khi Neville đi vô phòng ngủ đem theo mùi vải cháy khét lẹt và bắt đầu lục lọi cái rương của nó để kiếm một cái quần mới.
Mặc dù quyết tâm bắt quả tang Malfoy, Harry chẳng thu chút kết quả nào trong hai tuần lễ tiếp theo. Dù cho nó đã tham khảo tấm bản đồ hết sức thường
xuyên, đôi khi không cần thiết mà cũng đi vô nhà vệ sinh giữa hai tiết học để tìm kiếm, nhưng nó chẳng hề bắt gặp Malfoy ở đâu đáng nghi ngờ cả. Phải
thừa nhận là nó có dò la được Crabbe và Goyle đi loanh quanh trong tòa lâu đài thường xuyên hơn mà không có Malfoy đi cùng, đôi khi chúng cứ ở ìmột
chỗ trong những hành lang vắng vẻ, nhưng vào những lúc ấy lại không thấy Malfoy ở đâu gần đó, mà cũng không thể xác định được vị trícủa thằng này
trên tấm bản đồ. Đây là điều bíẩn nhất. Harry nghĩchơi là có khả năng Malfoy đã thực sự rời khỏi khuôn viên nhà trường, nhưng không thể biết làm thế
nào hắn lại làm được việc đó, trong bối cảnh an ninh được giám sát ở mức rất cao bên trong tòa lâu đài. Nó chỉ có thể giả đoán rằng nó đã để sót
Malfoy giữa hàng trăm chấm đen li ti trên tấm bản đồ. CÒn đối với việc Malfoy, Crabbe và Goyle dạo này có vẻ hay đi theo những lối khác nhau trong khi
trước đây chúng vốn rất gắn bó, Harry cho là chuyện bình thường vẫn xảy ra khi người ta lớn lên. Như Ron và Hermione chẳng hạn, Harry buồn bã ngẫm
nghĩ, đúng là một bằng chứng sống.
Tháng hai chuyển qua tháng ba mà thời tiết vẫn không thay đổi, ngoại trừ càng lúc càng nhiều gió và rất ẩm ướt. Một thông báo xuất hiện trên bảng thông
cáo ở phòng sinh hoạt chung loan tin chuyến dã ngoại đến làng Hogsmeade đã bị hoãn khiến mọi người phẫn nộ. Ron tức tối lắm.
“Hôm đó trùng với sinh nhật mình!” Nó nói, “Mình đã trông mong cho tới ngày đó!”
“Nhưng cũng không đến nỗi bất ngờ, đúng không?” Harry nói. “Sau chuyện xảy ra cho Katie.”
Cô bé vẫn còn điều trị ở bệnh viện Thánh Mungo. Đã thế Nhật báo Tiên Tri tường thuật thêm nhiều vụ mất tích nữa, gồm cả những thân nhân của học sinh
trường Hogwarts.
“Nhưng bây giờ thìtất cả háo hức trông chờ của mình chỉ còn buổi học Độn thổ ngu ngốc!” Ron quạu quọ nói. “Cuộc vui sinh nhật tổ bự...”
Đã qua ba buổi học, môn Độn thổ vẫn chứng tỏ là thứ khó nuốt, mặc dù đã có thêm vài ba đứa xoay sở được phép nối thân cho chính mình. Sự nản lòng
lan khắp đám học sinh và có một số ác cảm nhất định đối với thầy Wilkie Twycross cùng phương châm ba Đ của thầy, phương châm này làm nảy ra một
số hỗ danh mà tụi nó gán cho thầy, mà trong số hỗ danh đó, hai cái tên lịch sự nhất là Đầu-cứt và Đại-cẩu.
“Chúc mừng sinh nhật, Ron,” Harry nói, khi hai đứa thức dậy vào buổi sáng ngày mồng một thứ Ba lúc Seamus và Dean ồn ào ra khỏi phòng đi ăn điểm
tâm. “Có quà đây.”
Nó liệng gói quà qua giường Ron, hùn vô một đống nho nhỏ những gói quà khác ắt là đã được bọn gia tinh đem đến hồi khuya, theo như Harry đoán.
“Vui lên,” Ron thẫn thờ nói và trong lúc nó xé toạc mấy tờ giấy gói quà thìHarry ra khỏi giường, mở cái rương của mình ra và bắt đầu lục lọi tìm tấm Bản
đồ đạo tặc mà nó luôn giấu đi sau mỗi lần dùng. Nó moi ra gần một nửa thứ bên trong rương mới tìm được tấm bản đồ giấu bên dưới mấy cái vớ cuộn
tròn mà trong đó nó vẫn còn giấu chai thuốc hên, Phúc Lạc dược.
“Đây rồi,” nó lẩm bẩm, cầm tấm bản đồ trở lại giường, gõ nhẹ lên tấm bản đồ và thìthầm, “Tôi trang trọng thề là tôi đang mưu toan chuyện không tốt,” để
cho Neville lúc đó đang đi ngang qua phía chân giường nó không thể nghe thấy.
“Ê Harry, đẹp lắm!” Ron nói một cách nồng nhiệt, vừa vung vẩy cặp găng tay thủ môn Quidditch mà Harry tặng nó.
“Không có chi,” Harry lơ đãng nói, trong khi vẫn rà kỹ phòng ngủ nhà Sly để tìm kiếm malfoy. “Ê... mình không nghĩlà nó còn nằm trong giường...”
Ron không trả lời; nó đang quá bận rộn mở những gói quà, thỉnh thoảng bật ra tiếng kêu khoái trá.
“Nghiêm túc mà nói thìnăm nay được một mẻ khấm khá!” Ron tuyên bố, vừa giơ cao một cái đồng hồ đeo tay to bằng vàng có những ký hiệu kỳ quái
chạm khắc quanh rìa và những ngôi sao chuyển động thay cho kim đồng hồ. “Coi ba má tặng mình cái gìnè? Úi trời, mình cũng nghĩnăm tới là mình đến
tuổi rồi...”
“Xịn,” Harry lẩm bẩm, chỉ liếc cho cái đồng hồ một cái trước khi chíu mũi dò kỹ tấm bản đồ. Malfoy ở đâu cà? Hắn không có vẻ gìlà đang ăn điểm tâm ở
bàn ăn nhà Sly trong Đại sảnh đường, hắn cũng không lảng vảng đâu đó gần Thầy Snape đang ngồi trong văn phòng của thầy... hắn cũng không ở trong
bất cứ nhà vệ sinh nào trong bệnh thất...
“Muốn một cái không?” Ron nói giọng rít chịt, tay giơ ra một hộp kẹo vạc Sôcôla.
“Không, cám ơn,” Harry nói, ngước nhìn lên. “Malfoy lại biến mất một lần nữa!”
“Biết làm sao được,” Ron nói, vừa nhét thỏi sôcôla thứ hai vô miệng trong lúc tuột xuống giường để mặc quần áo vào. “Nhwnh lên. Nếu bồ không lẹ lên thì
bồ sẽ phải độn thổ với một cái bao tử trống không... mà mình nghĩbiết đâu lại dễ hơn há...”
Ron đăm chiêu nhìn hộp vạc sôcôla, rồi nhún vai, tự lấy cho mình một thỏi nữa.
Harry gõ cây đũa phép lên tấm bản đồ, lầm rầm, “Quản lý tầm bậy,” mặc dù tấm bản đồ không bao giờ như vậy, rồi nó amwcj quần áo vào, suy nghĩcăng
thẳng. Nhất định phải có một lý do cho sự biến mất từng lúc của malfoy, nhưng Harry tuyệt không thể nghĩra lý do đó là cái gì. Cách tốt nhất để tìm ra là
theo đuôi hắn, nhưng cho dù nó có tấm Áo khoác tàng hình thìý tưởng này cũng không thực tế; Nó phải lên lớp học, luyện tập Quidditch, làm bài tập ở
nhà và học Độn thổ nữa chứ; nó không thể nào lẽo đẽo theo Malfoy đi khắp trường cả ngày mà không làm mọi người chú ý đến sự vắng mặt của nó.
“Xong chưa?” Nó hỏi Ron.
Nó đã đi được nửa đường ra tới cửa phòng ngủ thìnhận thấy Ron vẫn ngồi bất động, tựa vào cây cột giăng màn, đăm đắm nhìn ra ngoài khung cửa sổ
ràn rạu nước mưa với một vẻ mặt ngơ ngơ ngáo ngáo kỳ lạ.
“Ron à? Đi ăn điểm tâm.”
“Mình không đói.”
Harry trố mắt nhìn nó.
“Mình tworng bồ vừa nói...?”
“Ừ, thôi được, mình sẽ xuống với bồ,” Ron thở dài, “nhưng mình không muốn ăn.”
Harry chăm chú nhìn thiệt kỹ Ron mà lòng đầy nghi ngờ.
“Có phải bồ vừa ăn hết nửa hộp Vạc sôcôla không?”
“Không phải vậy,” Ron thở dài. “Bồ... bồ không thể hiểu nổi đâu.”
“Hiểu chứ,” Harry nói khi mở cửa, mặc dù nó chẳng hiểu gì.
“Harry à!” Bỗng nhiên Ron nói.
“Cái gì?”
“Harry à, mình không thể nhịn được!”
“Bồ không thể nhịn được cái gì?” Harry hỏi, lúc này nó bắt đầu cảm thấy thực sự hoảng sợ. Ron hơi nhợt nhạt và trông có vẻ như sắp bệnh.
“Mình không thể nhịn không nghĩđến nàng!” Ron nói giọng khàn khàn.
Harry há hốc mồm nhìn Ron. Nó không ngờ sự thể như vầy và không chắc là nó có muốn nghe chuyện đó không. Tụi nó có thể là bạn bè chícốt, nhưng
nếu Ron bắt đầu gọi Lavender là “Lav-Lav”, thìnó nên kiên quyết.
“Nhưng mắc gìchuyện đó lại khiến bồ không ăn điểm tâm chớ?” Harry gỏi, cố gắng cài cắm vô diễn biến câu chuyện một lưu ý rất đời thường.
“Mình không nghĩlà nàng biết có mình trên đời,” Ron nói với một cử chỉ tuyệt vọng.
“Cô nàng nhất định phải biết có bồ trên đời chứ,” Harry nói, cảm thấy hoang mang. “Cô nàng vẫn hôn hít bồ mà?”
Ron chớp chớp mắt.
“Bồ đang nói về ai?”
“Còn bồ đang nói về ai?” Harry nói, càng lúc càng nhận thấy cuộc đối thoại không còn mạch lạc nữa.
“Romilda Vane,” Ron dịu dàng nói và cả gương mặt nó dường như bừng sáng khi nói ra cái tên đó, như thể dwocj một tia sáng mặt trời trong trẻo nhất
rọi chiếu. Hai đứa trợn mắt nhìn nhau gần một phút, sau đó Harry nói, “Chuyện tiếu lâm hả? Bồ đang đùa.”
“Mình nghĩ... Harry à, mình nghĩmình yêu nàng,” Ron nói giọng líu lại.
“Được rồi,” Harry nói, vừa đi tới gần Ron để nhìn kỹ hơn vào đôi mắt thần thờ và nước da xanh xao của Ron, “Được rồi... nghiêm mặt mà nói lại điều đó
đi.”
“Mình yêu nàng,” Ron thìthào lặp lại. “Bồ đã từng nhìn thấy mái tóc của nàng chưa? Đen nhánh, óng ả, mượt mà... và đôi mắt của nàng nữa? Đôi mắt to
đen huyền của nàng? Và...”
“Chuyện này thiệt là tức cười và lộn xộn quá đi,” Harry hết kiên nhẫn nói, “nhưng đùa nhiêu đó đủ rồi, nhé? Dẹp đi.”
Nó quay lưng định bỏ đi; nhưng mới đi được hai bước về phía cửa thìmột trái đấm như trời giáng tống vào bên tai phải nó. Nó loạng choạng suýt té và
ngoái nhìn lại. Ron vừa mới rút nắm tay về, mặt bừng bừng cơn giận; nó sắp đấm thêm một cái nữa.
Harry phản ứng theo bản năng, rút cây đũa phép ra khỏi túi áo và câu thần chú bật ra ngay trong đầu nó mà không cần suy nghĩtỉnh táo: Khinh thân!
Ron rú lên khi gót chân nó bị kéo ngược lên một phen nữa; nó bị treo lủng lẳng không thể làm gìđược, đầu chúc xuống, cẳng chổng lên trời, vạt áo chùng
của nó bị lật ngược.
“Tại sao lại đấm mình chứ?” Harry rống lên.
“Harry, bồ xúc phạm nàng! Bồ dám nói là chuyện tức cười hả!” Ron hét, mặt anh chàng này đang từ từ chuyển sang tím ngắt bới vìbao nhiêu máu đều
dồn cả xuống đầu.
“Chuyện này điên quá!” Harry nói. “Mắc gìmà...?”
Và đột nhiên nó nhìn thấy cái hộp còn mở nắp trên giường Ron và sự thật dộng vô đầu nó bằng sức mạnh của một con quỉ khổng lồ đang chạy tán loạn.
“Bồ lấy mấy thỏi Vạc sôcôla đó ở đâu vậy?”
“Quà sinh nhật đó!” Ron thét lên, vừa xoay mình chầm chậm giữa không trung trong nỗ lực tự giải thoát. “Mình có mời bồ một thỏi mà?”
“Bồ lượm nó lên từ dưới sàn, đúng không?”
“Nó rớt từ giường mình xuống mà, đúng chưa? Thả mình ra!”
“Nó không hề rớt khỏi giường bồ, đồ đần độn ạ, có hiểu không? Nó là của mình, mình đã móc nó ra khỏi cái rương của mình khi lục tìm tấm bản đồ. Đó là
Vạc sôcôla mà Romilda đã tặng cho mình trước lễ Giáng sinh và thỏi nào cũng đã được tẩm tình dược!”
Nhưng chỉ có một từ trong những điều Harry nói dường như lọt tai Ron.
“Romilda hở?” Ron lập lại. “Bồ vừa nhắc đến Romilda à? Harry... bồ biết nàng ư? Bồ có thể giới thiệu mình với nàng không?”
Harry đăm đăm nhìn anh chàng Ron đang treo lơ lửng, mà vẻ mặt giờ đây bừng lên hy vọng tràn trề và nó ráng nhịn thắt ruột để khỏi phá ra cười. Một
phần Harry – phần gần cái tai phải đang đau nhói nhất – thìkhoái cái ý tưởng thả Ron xuống và ngắm nó chạy quẩn làm chuyện điên khùng cho đến khi
thuốc hết công hiệu... nhưng mặt khác, tụi nó kể như là bạn bè, Ron đâu còn là chính Ron khi đấm Harry và Harry nghĩrằng mình đáng bị đấm một cái nữa
nếu cho phép Ron thổ lộ tình yêu bất tử với nàng Romilda Vane.
“Được, mình sẽ giới thiệu bồ,” Harry nói, vừa suy nghĩthiệt nhanh. “Bây giờ mình thả bồ xuống, được chứ?”
Nó thả Ron rớt xuống sàn một cái rầm (tai nó đau cũng cỡ đó) nhưng Ron chỉ bật dậy đứng lên nhe răng cười.
“Cô ấy sẽ có mặt ở văn phong Thầy Slughorn,” Harry nói giọng đang tin, vừa dẫn ddowwngf đi ra cửa.
“Tại sao nàng lại đến đó?” Ron lo lắng hỏi, vừa vội vã đi theo.
“À, cô ấy có học thêm lớp Dộc dược với thầy,” Harry nói, bịa đại ra.
“Có lẽ mình có thể xin học chung với nàng?” Ron háo hức nói.
“Ýhay,” Harry nói. Nhưng Lavender đang đợi ở bên ngoài bức chân dung, một tình huống phức tạp mà Harry không dự đoán tới.
“Anh trễ quá vậy, Won-Won!” Cô nàng dẩu môi hờn dỗi. “Em có quà sinh nhật cho anh nè.”
“Hãy để tôi yên,” Ron sốt ruột nói, “Harry sắp giới thiệu tôi với Romilda Vane.”
Và không nói thêm một lời nào nữa với cô nàng, nó giành đường chui ra khỏi lỗ chân dung. Harry cố gắng bày tỏ một vẻ mặt có lỗi với Lavender, nhưng
có lẽ mặt nó chỉ lộ ddowwcj vẻ khoái trá, bởi vìcô nàng tỏ ra bị xúc phạm hơn bao giờ hết lúc bà Béo đóng ập cái lỗ lại sau lưng tụi nó.
Harry đã hơi lo lắng là Thầy Slughorn có thể đang ăn điểm tâm, nhưng khi nó mới gõ cửa một tiếng thầy đã mở ra ngay, trong lúc đang mặc một cái áo
ngủ bằng nhung màu xanh lục cùng màu với cái nón ngủ trùm đầu và trông mắt thầy có vẻ lờ đờ.
“Harry,” thầy làu bàu. “Thăm viếng giờ này thìsớm quá... thường thường ta ngủ nướng vào thứ bảy...”
“Thưa thầy, con thiệt tình xin lỗi đã quấy rầy thầy, nhưng Ron bạn con đã lỡ nuốt nhầm một liều tình dược,” Harry nói hết sức nhỏ, trong khi Ron đứng
kiễng lên, nhấp nhổm, cố gắng nhìn nhóng vô căn phòng sau lưng Thầy Slughorn. “Thầy có thể cho nó một liều thuốc giải không ạ? Lẽ ra con nên đem nó
đến cho bà Pomfrey chữa trị, nhưng tụi con không được phép có bất cứ cái gìxuất xứ từ tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley và thầy biết đó... rồi những
câu hỏi bất tiện...”
“Thầy lại nghĩmột chuyên viên độc dược như con, Harry à, thìcon sẽ dư sức pha cho nó một liều thuốc chữa chứ?” Thầy Slughorn hỏi.
“Ơ,” Harry nói, hơi bị phân tán bởi vìRon lúc này đang huých cùi chỏ vô be sườn nó để chen vô căn phòng, “Dạ, thưa thầy, con chưa từng pha thuốc giải
cho tình dược và đợi tới lúc mà con pha chế ra được thìRon có thể đã làm điều gìđó nghiêm trọng...”
Thiệt là được việc, Ron chọn đúng lúc đó để rên rỉ, “Mình chẳng thấy nàng đâu cả. Harry... ổng giấu nàng rồi hả?”
“Độc dược đó còn hạn sử dụng không?” Thầy Slughorn hỏi, lúc này thầy ngắm Ron với ánh mắt thích thú thuần chuyên môn. “Trò biết đấy, càng được cất
giữ lâu, chúng càng tăng hiệu lực.”
“Dạ, hèn chi,” Harry thở hổn hển, bây giờ nó đang phải vật lộn với Ron để giữ anh chàng này khỏi quật ngã Thầy Slughorn. “Thưa thầy, hôm nay là sinh
nhật bạn ấy,” nó nói thêm, giọng nài nỉ.
“À, được thôi, vào đây, vậy thìvào đây,” Thầy Slughorn nói, giọng dịu đi. “Ta có đủ những thứ cần thiết trong cái túi của ta đây; thuốc giải đó cũng không
khó pha chế lắm...”
Ron xộ qua cửa vô văn phòng được sưởi quá ấm và chất quá nhiều đồ đạc, vấp phải một cái ghế đẩu gác chân có tua rua, gượng lấy lại thăng bằng
bằng cách chụp lấy cần cổ Harry và thìthầm: “Nàng không nhìn thấy mà, đúng không?”
“Cô ấy chưa đến,” Harry nói, vừa nhìn Thầy Slughorn mở bộ đồ pha chế độc dược của thầy ra và thêm vào một bẹo cái này, một bẹo cái kia, bỏ vô trong
một cái chai pha lê nhỏ xíu.
“Vậy mà hay,” Ron nhiệt thành nói. “Trông mình thế nào?”
“Đẹp trai lắm,” Thầy Slughorn nói giọng vuốt ve, vừa đưa Ron một ly chứa chất lỏng trong veo. “Bây giờ uống cạn cái này đi, đó là một tjuoocs bổ thần
kinh, giúp trò bình tĩnh khi nàng đến, trò hiểu chứ.”
“Xuất sắc,” Ron háo hức nói và nuốt ực thuốc giải một cái rột.
Harry và Thầy Slughorn ngắm nó. Ron toe toét cười với hai thầy trò kia một lát. RỒi, rất ư từ từ, nụ cười của nó xìu xuống và biến mất, thay vào đó là vẻ
mặt cực kỳ hoảng sợ.
“Vậy là đã trở lại bình thường rồi?” Harry nhe răng cười và nói.
Thầy Slughorn khoái trá ra mặt.
“Thưa thầy, cám ơn thầy nhiều lắm...”
“Không có chi, chàng trai của ta, không có chi cả,” Thầy Slughorn nói, trong khi Ron ngồi thụp xuống cái ghế bành gần đó, trông hết sức te tua.
“Rượu bổ, đó là thứ trò ấy cần,” Thầy Slughorn nói tiếp, lúc này thầy đang vội vã đi tới một cái bàn để đầy thức uống. “Thầy có bia bơ, thầy có rượu, thầy
còn có một chai rượu mật rừng sồi già cuối cùng... chà... đã định tnawgj cụ Dumbledore vào dịp lễ Giáng sinh... à thôi...” thầy nhún vai “...Cụ ấy đâu có thể
tiếc cái mà cụ ấy chưa có! Tại sao chúng ta lại không khui nó ra để chúc mừng sinh nhật cậu Weasley nhỉ? Để xoa dịu nỗi đau thất tình thìchẳng gìbằng
rượu ngon...”
Thầy lại khúc khích cười và Harry cười theo. Harry nhận ra đây là lần đầu tiên mà nó gần như chỉ có một mình với Thầy Slughorn kể từ lần đầu cố gắng
một cách thảm hại để có được ký ức thật của thầy. Có lẽ, nếu nó cứ duy trìđược tâm trạng hồ hởi của Thầy Slughorn... có lẽ nếu tụi nó chịu đựng nổi đủ
lượng rượu mật rừng sồi già...
“Đây, mời trò,” Thầy Slughorn nói, đưa cho Harry và Ron mỗi đứa một ly rượu mật trước khi nâng chính ly của thầy lên. “Nào, chúc mừng sinh nhật vui vẻ
nhé, Ralph...”
“Ron,” Harry thìthào nhắc vở.
Ron, chẳng có vẻ gìlắng nghe lời chúc tụng, đã nốc cạn ly rượu vào họng nó và nuốt trọng.
Chỉ trong một giây, không hơn một nhịp đập của trái tim, Harry biết ngay có chuyện gìđó tai hại khủng khiếp, nhưng Thầy Slughorn dường như không
nhận ra.
“...và trò có thể uống thêm...”
“Ron!”
Ron buông rơi cái ly cảu nó; nó hơi nhổm dậy khỏi ghế và rồi ngã gục xuống, tay chân co giật không cách nào kiểm soát được. Nước miếng sùi ra từ
miệng nó nhểu xuống và con mắt nó lồi rakhoir hốc mắt.
“Thưa thầy!” Harry rống lên. “Thầy làm gìđi chứ!”
Nhưng Thầy Slughorn dường như tê liệt vìsửng sốt. Ron co giật và nghẹt thở, da nó đang đổi màu xanh lè.
“Cái gì... Nhưng mà...” Thầy Slughorn lắp bắp.
Harry nhảy qua một cái bàn thấp và lao về phía bộ đồ pha chế độc dược của Thầy Slughorn còn để mở, lôi ra nào hũ, nào túi, trong khi tiếng thở khò khè
kinh khủng của Ron vang khắp phòng. Đột nhiên nó tìm được cái ấy: viên sỏi giống trái thận teo quắt mà Thầy Slughorn đã lấy của nó trong lớp học Độc
dược.
Harry lật đật quay trở lại bên cạnh Ron, banh hàm Ron ra và thở dốc ra, rồi cơ thể nó trở nên mềm rũ và bất động.
Chương 19
Gia tinh bám đuôi
“Vậy, túm lại, đây không phải là một trong những sinh nhật khá khẩm gìhơn của Ron hả?” Fred nói.
Lúc đó trời đã tối; bệnh thất yên tĩnh, cửa sổ được kéo màn kín, đèn đuốc thắp sáng. Giường của Ron là cái duy nhất có người nằm. Harry, Hermione và
Ginny đang ngồi chung quanh; chúng đã chầu chực đợi chờ bên ngoài cánh cửa đôi suốt cả ngày trời, tìm cách nhìn vào bên trong mỗi khi có người ra
vào. Bà Pomfrey chỉ cho chúng vòa thăm từ tám giờ trở đi. Fred và George đến vào lúc tám giờ mười.
“Tụi anh không tưởng tượng ra nổi lại trao quà cho em như vậy,” George cười hìhì, vừa đặt xuống cái tủ nhỏ bên cạnh giường Ron một gói quà to đùng
và ngồi xuống cạnh Ginny.
“Đúng vậy, khi tụi này hình dung ra được cảnh tượng thìcu cậu đã tỉnh,” Fred nói.
“Tụi anh lúc đó đang chờ ở làng Hogwartssmeade để dành cho nó một sự bất ngờ…” George nói.
“Hai anh có ở Hogwartssmeade à?” Ginny ngước nhìn lên hỏi.
“Tụi anh đang nghĩđến việc mua lại tiệm Zonko,” Fred rầu rĩnói. “Em biết không, tính mở một chi nhánh ở Hogwartssmeade, nhưng mà chẳng được tích
sự gìnếu như các em không được phép đi chơi dã ngoại cuối tuần để mua đồ của tụi anh nữa… nhưng bây giờ bỏ qua chuyện đó đi.”
Fred kéo một cái ghế đến ngồi cạnh Harry và nhìn vào gương mặt nhợt nhạt của Ron.
“Chính xác thìchuyện xảy ra như thế nào, Harry?”
Harry kể lại câu chuyện mà nó đã tường thuật tỉ mỉ có lẽ đến một trăm lần rồi, cho cụ Dumbledore, cho cô McGonagall, cho bà Pomfrey, cho Hermione và
cho Ginny.
“…rồi em nhét viên sỏi dê xuống cổ họng nó và hơi thở của nó dịu đi một chút, Thầy Slughorn chạy đi kêu cứu, cô McGonagall và bà Pomfrey chạy đến và
họ mang Ron tới đây. Họ cho là Ron sẽ bình phục tốt. bà Pomfrey nói là nó sẽ phải ở lại đây một tuần hay khoảng đó… tiếp tục uống tinh chất cửu lý
hương…”
“Mèn đét ơi, may là em nghĩra viên sỏi dê đó,” George nói giọng thầm thì.
“May là có sẵn một viên ở trong phòng,” Harry nói, nó vẫn còn ớn lạnh khi nghĩđến chuyện gìđã có thể xảy ra nếu như nó không tìm ra được viên sỏi nhỏ
đó.
Hermione bật ra một tiếng khịt mũi gần như không nghe được. Cô nàng đã im lặng khác thường suốt cả ngày. Sau khi đâm sầm vào Harry ở bên ngoài
bệnh thất với gương mặt trắng bệch và yêu cầu nó phải cho biết chuyện gìđã xảy ra, Hermione đã gần như không tham dự vào cuộc bàn luận đầy ám
ảnh giữa Harry và Ginny về việc Ron bị ngộ độc như thế nào, cô nàng chỉ ngồi bên cạnh hai đứa nó, miệng mím chặt và vẻ mặt hãi hùng, cho đến khi cả
đám được phép vào thăm Ron.
“Ba má biết chưa?” Fred hỏi Ginny.
“Ba má tới thăm anh ấy rồi, cách đây một tiếng đồng hồ… bây giờ ba má đang ở trong văn phòng thầy Dumbledore, nhưng ba má sẽ quay lại ngay…”
Rồi có một khoảng lặng ngắn, khi mọi người cùng quan sát Ron lảm nhảm gìđó trong giấc ngủ.
“Vậy là chất độc ở trong ly rượu à?” Fred nói khẽ.
“Dạ,” Harry nói ngay; nó không thể nghĩđến điều gìkhác nữa và vui mừng vìcó cơ hội để lại thảo luận chuyện đó một lần nữa. “Thầy Slughorn rót rượu
ra…”
“Liệu thầy có thể lén bỏ cái gìđó vô ly của Ron mà em không nhìn thấy không?”
“Có thể lắm,” Harry nói. “Nhưng tại sao Thầy Slughorn lại muốn đầu độc Ron?”
“Ai mà biết,” Fred nói, rồi cau mày lại. “Em không nghĩlà ông ta nhầm lẫn mà đưa lộn ly à? Hay là muốn đầu độc em?”
“Tại sao Thầy Slughorn lại muốn đầu độc Harry chứ?” Ginny hỏi.
“Anh chả biết,” Fred nói, “nhưng chắc phải có cả đống người muốn đầu độc Harry, đúng không? “Kẻ được chọn” và đủ thứ lăng nhăng ấy?”
“Vậy anh nghĩThầy Slughorn là một Tử thần thực tử hả?” Ginny nói.
“Bất cứ điều gìcũng có thể xảy ra,” Fred rầu rĩnói.
“Có thể ông ta bị ếm lời nguyền Độc đoán,” George nói.
“Hoặc cũng có thể thầy vô tội,” Ginny nói. “Chất độc có thể ở trong chai rượu, trong trường hợp này thìngười bị nhắm tới có lẽ chính là Thầy Slughorn.”
“Ai mà muốn giết Thầy Slughorn chứ?”
“Cụ Dumbledore cho rằng Voldermort muốn Thầy Slughorn đứng về phe hắn,” Harry nói. “Thầy Slughorn đã trốn tránh suốt một năm trước khi thầy đến
trường Hogwarts. Và...” Nó nghĩđến cái ký ức của Thầy Slughorn mà thầy Dumbledore vẫn chưa thể lấy được. “và có thể Voldermort muốn khử thầy ấy,
biết đâu hắn nghĩThầy Slughorn có thể có ích cho cụ Dumbledore.”
“Nhưng anh nói là Thầy Slughorn đã tính tặng thầy Dumbledore chai rượu đó nhân lễ Giáng sinh mà,” Ginny nhắc Harry. “Vậy thìkẻ đầu độc rất có thể đã
nhắm vào thầy Dumbledore.”
“Nếu vậy thìkẻ đầu độc không biết Thầy Slughorn rõ lắm,” Hermione nói, đây là lần mở miệng đầu tiên trong suốt mấy tiếng đồng hồ và giọng cô nàng
nghe như thể đang bị cảm lạnh nặng lắm. “Bất cứ ai quen Thầy Slughorn đều phải biết rằng hễ có cái gìngon lành là y như rằng thầy sẽ giữ cái đó lại cho
mình.”
“Ơ-mai-ni” Ron bỗng nhiên rên lên giữa chừng.
Tất cả lại im lặng, lo lắng nhìn Ron, nhưng sau một lúc lảm nhảm mấy tiếng không thể hiểu được, nó bắt đầu ngáy.
Cửa phòng ngủ chợt mở ra, khiến tất cả tụi nó giật bắn người: bác Hagrid đang sải dài bước chân về phía tụi nó, tóc bác lấm tấm nước mưa, tấm áo
khoác da gấu của bác đánh phần phật sau lưng, một cái ná cầm trong tay, bác để lại khắp sàn những dấu chân bết đầy sình bự bằng con cá heo.
“Ở trong rừng cả ngày!” Bác thở hổn hển. “Aragog trở bệnh nặng, bác đã đọc sách cho nó nghe – không kịp ăn tối, vừa mới về đến nơi thìnghe giáo sư
Sprout cho hay chuyện của Ron! Nó sao rồi?”
“Dạ, không đến nỗi nào,” Harry nói. “Họ nói nó xẽ bình phục.”
“Không được có quá sáu khách viếng thăm cùng một lúc!” Bà Pomfrey nói, vừa lật đật đi ra khỏi phòng bà.
“Tính cả bác Hagrid mới đủ sáu,” George chỉ ra.
“Ờ… phải…” Bà Pomfrey nói, dường như bà tính bác Hagrid thành nhiều người vìthân hình đồ sộ của bác. Để lấp liếm sự lộn xộn của mình bà lại lật đật
đi lau sạch mấy dấu chân đầy bùn bằng cây đũa phép.
“Hổng thể nào tin được chuyện này,” bác Hagrid khàn khàn nói, vừa lắc lắc cái đầu tóc râu ria bờm xờm to tướng khi bác ngó xuống Ron. “Hổng thể nào
tin được… Coi thằng bé nằm kìa… ai lại muốn hại nó hả?”
“Tụi con đang bàn bạc về chuyện đó,” Harry nói. “Tụi con không biết.”
“Ai đó có hận thù gìđó với đội Quidditch nhà Gryffindor, có thể nào không há?” Bác Hagrid lo lắng nói. “Ban đầu là Katie, bây giờ là Ron…”
“Cháu không hiểu nổi ai mà lại đi khử một đội Quidditch cơ chứ,” George nói.
“Ai chứ Wood thìcó thể khử đội Slytherin, nếu nó chạy được tội đó,” Fred nói ra vẻ công bằng.
“Em không nghĩđó là chuyện Quidditch, nhưng em nghĩhai vụ tấn công có liên quan với nhau,” Hermione khẽ nói.
“Em lý giải điều đó ra sao?” Fred hỏi.
“À, lý do thứ nhất, cả hai cuộc tấn công đều có thể gây chết chóc nhưng mà không ai chết, mặc dù chỉ hoàn toàn nhờ may mắn. Và lý do thứ hai, cả Độc
dược lẫn xâu chuỗi đều không tới được người bị nhắm giết.” Rồi cô bé nói thêm với vẻ nghiền ngẫm, “Dĩnhiên, điều đó khiến cho kẻ đứng đằng sau
chuyện này càng trở nên nguy hiểm hơn, bởi vìkẻ đó dường như chẳng bận tâm đến chuyện hắn sẽ giết chết bao nhiêu người trước khi hắn thực sự đạt
được tới đúng nạn nhân.”
Chưa ai kịp đáp lại tuyên bố đáng sợ này thìcánh cửa phòng bệnh lại mở ra và ông bà Weasley tất tả đi vào. Họ chẳng làm được gìhơn là tự thuyết
phục mình rằng Ron sẽ bình phục hoàn toàn trong lần thăm bệnh cuối cùng của họ; bà Weasley lúc này ôm chầm lấy Harry và siết nó thật chặt. “Cụ
Dumbledore nói với hai bác là con đã cứu Ron bằng viên sỏi dê,” bà sụt sịt khóc. “Ôi, Harry ơi, hai bác biết nói gìđây? Con đã cứu Ginny... con đã cứu
bác Arthur... giờ đây con cứu thằng Ron.”
“Xin bác đừng... con đâu có...” Harry lúng túng nói khẽ.
“Bây giờ bác dừng lại ngẫm nghĩthìthấy dường như một nửa gia đình bác đã nợ ơn cứu mạng của con,” ông Weasley nói bằng giọng cố kìm nén. “Thôi
thì, Harry à, tất cả những gìbác có thể nói là cái hôm mà Ron quyết định ngồi chung toa với con trên tàu Tốc hành Hogwarts thiệt là một ngày may mắn
cho nó.”
Harry không thể nghĩra lời nào để đáp lại điều này và gần như vui mừng khi bà Pomfrey nhắc nhở mọi người là chỉ có sáu khách thăm bệnh được phép
vây quanh giường Ron thôi; nó và Hermione đứng dậy ngay để đi ra và bác Hagrid quyết định đi theo tụi nó, để Ron ở lại cùng gia đình.
“Thiệt là khủng khiếp,” bác Hagrid làu bàu trong mớ râu khi ba người bwocs dọc hành lang đến cầu thang đá hoa cương. “Bất chấp tất cả biện pháp an
ninh, bọn trẻ vẫn bị ahij... cụ Dumbledore lo phát bệnh... Cụ không nói nhiều, nhưng bác thấy được...”
“Cụ Dumbledore có ý kiến gìkhông, bác Hagrid?” Hermione mạo muội hỏi.
“Bác chắc cụ phải có hàng trăm ý nghĩ, đầu óc cụ siêu như vậy,” bác Hagrid nói. “Nhưng cụ vẫn không biết ai đã gởi xâu chuỗi hay ai đã bỏ thuốc độc vô
chai rượu, chứ không thìchúng đã bị bắt rồi, đúng hông? Điều làm cho bác lo lắng,” Bác Hagrid nói, vừa nhỏ giọng lại vừa liếc mắt nhìn quanh. (Harry, để
chắc chắn yên tâm, kiểm tra cả trần nhà coi có con ma Peeves không), “là trowngf Hogwarts còn có thể hoạt động được bao lâu nữa nếu học sinh cứ bị
tấn công. Lại lặp lại vụ Phòng chứa bímật nữa sao? Sẽ có hoảng loạn, nhiều phụ huynh sẽ đem con ra khỏi trường và việc tiếp theo sẽ là Hội đồng Quản
trị...”
Bác Hagrid ngừng nói khi bóng ma của một phụ nữ tóc dài lừng lững trôi ngang qua, rồi bác nói tiếp bằng giọng thìthầm khó nghe, “...Hội đồng quản trị
sẽ nói tới chuyện đóng cửa trường vĩnh viễn.”
“Bác có chắc không?” Hermione nói, có vẻ lo lắng.
“Phải nhìn vấn đề từ quan điểm của họ,” bác Hagrid nói một cách nặng nề. “Ýlà, xưa nay cho con cái đi học ở trường Hogwarts cũng là có chút mạo
hiểm, đúng hông? Cả trăm phù thủy vị thành niên bị nhốt chung với nhau, thế nào cũng có xảy ra tai nạn, đúng hông? Nhưng chuyện ám sát có chủ mưu là
chuyện khác. Cho nên cũng không lạ gìcụ Dumbledore nổi giân với thầy Sna...”
Bác Hagrid ngừng ngang giữa chừng, có thể thấy vẻ áy náy quen thuộc trên gương mặt đầy râu đen rối mù của bác.
“Sao?” Harry nói nhanh. “Cụ Dumbledore nổi giận với Thầy Snape à?”
“Bác đâu có nói vậy,” bác Hagrid nói, nhưng không có gìtố cáo bác trắng trợn hơn vẻ hoảng hốt của bác. “Coi mấy giờ rồi. Cũng sắp tới nửa đêm rồi,
bác phải đi...”
“Bác Hagrid ơi, tại sao cụ Dumbledore nổi giận với Thầy Snape?” Harry hỏi to.
“Suỵt!” bác Hagrid nói, tỏ vẻ vừa giận vừa lo. “Đừng có hét om sòm những chuyện như vậy chứ, Harry, con muốn cho bác mất việc hả? Quên, con hơi
đâu mà bận tâm chuyện đó, bây giờ con đâu có còn học lớp Chăm sóc sinh vật huyền...”
“Bác đừng cố làm cho con áy náy, chẳng ăn thua gìđâu!” Harry nói mạnh mẽ. “Thầy Snape đã làm gìhở bác?”
“Bác không biết, Harry à, lẽ ra bác không nên nghe gìhết! Bác... chà, bác đang đi ra khỏi khu rừng đêm hôm kia thìtình cờ nghe họ nói với nhau... ờ, cãi
nhau. Không muốn họ chú ý đến mình nên bác xũng có tránh đi và không muốn lắng nghe, nhưng mà... Họ cãi nhau nảy lửa nên cũng không dễ gìbịt tai
lại.”
“Sao hả bác?” Harry năn nỉ, trong khi bác Hagrid nhấp nhổm trên đôi chân khổng lồ một cách khó chịu.
“Thì... bác chỉ nghe Thầy Snape nói cụ Dumbledore hơi xem nhẹ mọi việc quá và có lẽ thầy ấy – Thầy Snape – không muốn làm việc đó nữa...”
“Làm việc gì?”
“Bác không biết, Harry à, nghe có vẻ như thầy ấy cảm thấy công việc hơi quá sức, vậy thôi... đằng nào đi nữa thìcụ Dumbledore đã nói thẳng thừng với
thầy ấy là thầy ấy đã đồng ý làm việc đó và chỉ vậy thôi. Cụ hơi cứng rắn với thầy ấy. Và rồi cụ nói gìđó về chuyện Thầy Snape lục soát Nhà Slytherin của
thầy ấy. Thìcũng không có gìlạ về chuyện đó!” bác Hagrid vội vã nói thêm trong khi Harry và Hermione nhìn nhau đầy ngụ ý. “Tất cả chủ nhiệm Nhà đều
phải điều tra vụ xâu chuỗi đó mà...”
“Dạ, nhưng thầy Dumbledore đâu có gây gỗ với các chủ nhiệm nhà kia?” Harry nói.
“Coi đây nè,” bác Hagrid vặn vẹo cây ná trong tay một cách bực bội; Một tiếng tróc vang lên khá to và cây ná gãy làm đôi. “Bác biết con nghĩthế nào về
Thầy Snape, Harry à và bác không muốn con dấn sâu vô chuyện này nữa.”
“Coi chừng,” Hermione nói nhanh.
Cả ba quay lại vừa đúng lúc để tháy cái bóng của thầyArgus Filch hiện lù lù trên bức tường sau lưng ba bác cháu trước khi chính bản thân thầy giám thị
quẹo qua góc tường, lưng gù, cằm run lẩy bẩy.
“À há!” thầy Filch khò khè nói. “Thức khuya như vầy nghĩa là sẽ bị cấm túc đấy!”
“Không đâu thầy Filch à,” bác Hagrid nói gọn. “Các trò này đi cùng tôi mà.”
“Thìchuyện đó có gìkhác nhau đâu?” thầy Filch khinh bỉ hỏi lại.
“Tôi là một thầy giáo có thớ, đúng không hả đồ á phù thủy dấm dúi?” Bác Hagrid phản pháo lại ngay tức thì.
Trong khi thầy Filch phồng lên giận dữ thìcó một tiếng rít lên khó chịu; Bà Norris đã đến mà không ai nhìn thấy và đang ưỡn ẹo quấn mình quanh mắt cá
chân khẳng khiu của thầy Filch.
“Đi đi,” bác Hagrid kín đáo nói qua khóe miệng.
Harry không cần đợi bảo đến lần thứ hai; có nó và Hermione đều lật đật bỏ đi; giọng nói của bác Hagrid lẫn giọng của thầy Filch đều được cất cao lên và
vang dội sau lưng khi tụi nó bỏ chạy. Hai đứa vwotj qua con ma Peeves gần chỗ quẹo vô Tháp Gryffindor, nhưng con ma này đang híhửng xẹt về phía
phát ra những tiếng quát tháo, vừa khục khặc cười vừa kêu lên:
Khi nào có oánh nhau và khi nào có lộn xộn
Thìkêu Peevsie tới, nó sẽ làm mọi chuyện rối gấp đôi!
Bà Béo đang ngủ gục và chẳng vui gìkhi bị đánh thức, nhưng bà cũng quăng mình ra một cách quạu quọ để cho hai đứa nó trèo vô căn phòng sinh hoạt
chung vắng vẻ yên tĩnh một cách hiền lành bác ái. Không có vẻ gìlà thiên hạ đã biết chuyện của Ron; Harry thấy nhẹ nhõm: hôm nay nó đã bị hạch hỏi đủ
rồi. Hermione chúc nó ngủ ngon rồi đi về phòng ngủ nữ sinh, tuy nhiên Harry vẫn nán lại, ngồi bên cạnh lò sưởi và nhìn đăm đăm vào đống than hồng
đang tàn lụi.
Vậy là cụ Dumbledore đã cãi nhau với Thầy Snape. Mặc cho tất cả những gìcụ đã nói với Harry, mặc cho cụ một mực khẳng định rằng cụ tin tworng hoàn
toàn Thầy Snape, cụ vẫn mất bình tĩnh với Thầy Snape... Cụ đã không tin là Thầy Snape đã cố gắng đúng mức để điều tra học sinh nhà Slytherin à?... Hay
có lẽ, điều tra một đứa Slytherin duy nhất: Malfoy?
Có phải vìcụ Dumbledore không muốn Harry làm chuyện ngu ngốc, tự ý hành động, mà cụ đã giả đò như sự nghi ngờ của Harry là vô căn cứ? Có thể
như vậy lắm. Cũng có thể cụ Dumbledore không muốn bất cứ điều gìphân tán tâm tríHarry ngoài chuyện học hành, hay chuyện lấy cho kỳ được ký ức của
Thầy Slughorn. Có lẽ cụ Dumbledore không coi chuyện tâm tình với một học sinh mười sáu tuổi về giáo viên trong trường là chuyện đứng đắn...
“Potter, cậu đây rồi!”
Harry giật mình đứng bật dậy, tay lăm lăm cây đũa phép. Nó đã đinh ninh phòng sinh hoạt chung hoàn toàn vắng vẻ, nó chẳng hề chuẩn bị khi một hình thù
to lớn thô kệch đột nhiên nhô lên khỏi một cái ghế bành ở đằng xa. Nhìn kỹ lại thìra đó là Cormac McLaggen.
“Tôi đợi cậu về từ nãy giờ,” McLaggen nói, coi thường cây đũa phép đang chĩa ra của Harry. “Chắc là tôi đã ngủ thiếp đi. Thế này, tôi thấy họ khiêng Ron
vô bệnh thất hồi sáng. Nó coi bộ sẽ không đấu ddwwocj cho trận đấu tuần tới.”
Harry mất một lát mới hiểu ra McLaggen đang nói về cái gì.
“Ờ... phải... Quidditch,” nó nói, nhét cây đũa phép trở vô thắt lưng của cái quần bò và mệt mỏi lùa bàn tay qua mớ tóc của nó. “Ừ... có thể nó không tham
dự được.”
“A, vậy thì, tôi sẽ chơi ở vị tríthủ môn chứ?” McLaggen nói.
“Ừ,” Harry nói. “Ừ, tôi nghĩvậy...”
Nó không thể nghĩra lý lẽ tranh cãi lại chuyện đó; nói cho cùng, McLaggen đã đứng hạng thứ hai trong cuộc dợt tuyển cầu thủ.
“Tuyệt vời,” McLaggen nói giọng thỏa mãn. “Vậy khi nào thìtập dợt?”
“Cái gì? À... tối mai có một buổi tập.”
“Tối. Nghe đây, Potter, chúng ta nên bàn chuyện này trước. Tôi có vài ý kiến về chiến lược mà cậu có thể tháy là xài được.”
“Được,” Harry nói không được hăng hái lắm. “Thôi, ngày mai tôi sẽ nghe. Bây giờ tôi hơi mệt... hẹn gặp lại nhé...”
Cái tin Ron bị ngộ độc lan truyền nhanh chóng vào ngày hôm sau, nhưng không gây chấn động như vụ tấn công Katie. Người ta dường như nghĩrằng có
thể đó chỉ là một tai nạn, xét bối cảnh lúc đó nó đang ở trong phòng của ông thầy về Độc dược, rồi việc nó được cho thuốc giải độc ngay tức thì, lại cũng
không có thương tổn thật sự nào cả. Thật ra, học sinh nhà Gry nói chung quan tâm đến trận Quidditch sắp tới hơn, đội nhà sẽ đấu với đội Hufflepuff, bởi
vìnhiều đứa muốn được thấy Zacharias Smith, truy thủ của đội Hufflepuff, bị trừng phạt đích đáng về những lời bình luận của hắn trong suốt trận khai mạc
giữa đội Gryffindor và đội Slytherin.
Tuy nhiên, Harry chưa bao giờ quan tâm đến Quidditch ít như vậy; nó đã nhanh chóng bị chuyện Draco Malfoy ám ảnh. Vẫn tiếp tục kiểm tra tấm Bản đồ
đạo tặc mỗi khi có dịp, đôi khi nó đi một vòng đến những nơi mà Malfoy ngẫu nhiên xuất hiện, nhưng vẫn khoogn dò ra được thằng này làm điều gìbất
thường. Và vẫn còn đó những lần Malfoy chỉ đơn giản biến mất khỏi tấm bản đồ một cách không thể giải thích được...
Nhưng Harry không có nhiều thìgiờ để nghiền ngẫm vấn đề, làm sao mà nghiền ngẫm ddwwocj với nào là luyện tập Quidditch, nào là bài tập ở nhà và lại
thêm một điều nữa là bây giờ bất kể nó đi đâu cũng bị Cormac McLaggen và Lavender Brown đón đầu.
Nó không thể nói được ai trong hai người đó gây nhiều phiền toái hơn. McLaggen cứ để tuôn trào một dòng chảy triền miên những ngụ ý rằng nó sẽ là
một thủ môn cố định cho đội giỏi hơn Ron và một khi Harry đã nhìn thấy nó chơi thường xuyên thìHarry chắc chắn cũng sẽ nghĩnhư vậy thôi; Nó cũng phê
bình rất gay gắt những cầu thủ khác và cung cấp cho Harry những kế hoạch huấn luyện chi tiết, đến nỗi Harry đã hơn một lần buộc phải nhắc nó nhớ ai là
đội trưởng.
Cùng lúc đó, Lavender cứ lẽo đẽo đi theo Harry để nói chuyện về Ron, chuyện này Harry thấy còn ngán hơn cả những bài diễn văn Quidditch của
McLaggen. Ban đầu, Lavender rất ư là bực dọc rằng chẳng ai nghĩđến chuyện nói cho cô nàng biết rnawgf Ron đang nằm bệnh thất - “Ýlà, mình là bạn
gái của anh ấy mà!” – Nhưng không may là giờ đây cô nàng đã tha thứ cho Harry về sự đãng tríđó và tha thiết muốn có nhiều buổi trò chuyện chu đáo cới
Harry về tình cảm của Ron – một kinh nghiệm khốn khổ nhất mà Harry sẽ xin chừa ra một cách vui vẻ.
Sau khi trải qua một cuộc chất vấn gạn hỏi nhìnhằng của Lavender bao gồm từ chuyện Ron nói gì, một cách chính xác, về những cái áo đầm mới của cô
nàng, đến chuyện liệu Harry có nghĩlà Ron coi mối quan hệ với Lavender là “nghiêm túc” không, Harry hỏi:
“Này nhé, tại sao bạn không nói với Ron về tất cả những chuyện này?”
“À, mình sẽ nói, nhưng mình đến thăm lúc nào cũng thấy anh ấy ngủ!” Lavender bực bội nói.
“Vậy hả?” Harry nói, ngạc nhiên vìnó nhận thấy Ron đã hoàn toàn tỉnh táo mỗi khi nó đến bệnh thất thăm bạn, cả hai đã hết sức quan tâm đến cái tin cụ
Dumbledore và Thầy Snape cãi nhau và hăm hở chìchiết McLaggen đến mức tối đa.
“Hermione Granger có còn đến thăm anh ấy không?” Lavender chợt gặng hỏi.
“Còn, mình nghĩvậy. Thì, họ là bạn bè của nhau mà, đúng không?” Harry nói không được thoải mái lắm.
“Bạn bè à, đừng chọc cho mình cười đấy,” Lavender đay nghiến nói. “Sau khi Ron bắt đầu hẹn hò với mình, Hermione không thèm nói chuyện với anh ấy
mấy tuần lễ liền! Nhưng bây giờ anh ấy đang gây chú ý thìcô nàng lại muốn làm lành...”
“bạn coi chuyện bị ngộ độc là gây chú ý à?” Harry hỏi. “À... xin lỗi, mình phải đi... kìa McLaggen đang tới để nói về chuyện Quidditch,” Harry hấp tấp nói và
xẹt ngang vô một cánh cửa giả đò như một bức tường chắc chắn và phóng xuống lối đi tắt dẫn nó đến lớp Độc dược, nơi mà, may phước, cả Lavender
lẫn McLaggen không thể rượt theo nó.
Vào buổi sáng diễn ra trận Quidditch với đội Hufflepuff, Harry ghé qua bệnh thất trước khi đi xuống sân đấu. Ron bồn chồn khích động; Bà Pomfrey không
cho nó xuống sân vận động xem trận đấu, vìbà cảm thấy trận đấu quá ư khích động đối với nó.
“Vậy McLaggen làm ăn ra sao?” Nó lo lắng hỏi Harry, hiển nhiên quên béng là nó đã hỏi câu đó hai lần rồi.
“Mình đã nói với bồ rồi,” Harry nói một cách kiên nhẫn, “hắn có thể xếp vào đẳng cấp thế giới và mình cahwnrg muốn giữ hắn trong đội chút nào. Hắn cứ
cố dạy bảo mọi người phải làm gì, hắn nghĩhắn có thể chơi ở bất cứ vị trínào hay hơn hết thảy những người còn lại tỏng đội. Mình chỉ mong đá hắn đi
cho rồi. Và nhân nói chuyện đá đi cho rồi,” Harry nói thêm khi đứng dậy cầm cây chổi Tia chớp của nó, “bồ làm ơn đừng giả đò ngủ khi Lavender đến
thăm bồ, được không? Cô ta cũng làm mình phát điên luôn.”
“Ờ,” Ron nói, có vẻ ngượng ngùng. “Được thôi.”
“Nếu bồ không muốn hẹn hò với cô nàng nữa thìbồ cứ nói cho cô nàng biết,” Harry nói.
“Ừ... được... mà đâu có dễ như vậy hả?” Ron nói. Nó ngừng một chút. “Hermione có ghé qua đây trước trận đấu không?” Nó nói thêm một cáh không tự
nhiên.
“Không, cô nàng đi xuống sân đấu với Ginny rồi.”
“Ờ,” Ron nói, có vẻ hơi buồn. “Thôi được. Chúc may mắn. Hy vọng bồ đánh bại McLag… ủa, Smith chứ.”
“Mình sẽ cố gắng,” Harry nói, vác cây chổi lên vai. “Gặp lại bồ sau trận đấu nhé.”
Nó vội vàng đi xuyên qua những hành lang vắng vẻ; cả trường đều đã ra ngoài, hoặ là đã ngồi trên khán đài ở sân vận động, hoặc là đang đi tới đó. Nó
đang ngó ra những cửa sổ mà nó đi ngang qua, cố gắng ước chừng sức gió mà tụi nó sẽ phải đương đầu khi bay, thìmột tiếng động phía trước khiến
nó liếc nhìn lên và thấy Malfoy đang đi về phía nó, cặp kè với hai đứa con gái, cả hai đều có vẻ rầu rĩvà tức tối.
Malfoy hơi bị chựng lại khi thấy Harry, rồi cười một tiếng cụt ngủn chẳng chút khôi hài, xong lại tiếp tục bước đi.
“Mày đang đi đâu đó?” Harry gặng hỏi.
“Ừ, tao thiệt tình định nói cho mày biết, bởi vìđây là chuyện cảu mày mà, Potter,” Malfoy khinh khỉnh nói. “Mày liệu hồn nhanh chân lên, họ đang đợi “Đội
trưởng được chọn”… “Thằng bé ghi bàn”… hay mỹ danh gìđó mà họ gán cho mày những ngày này.”
Một trong hai đứa con gái cười đầy miễn cưỡng. Harry nhìn chằm chằm cô bé. Cô ta đỏ bừng lên. Malfoy đẩy Harry tránh qua một bên để đi qua và cô
bé cùng cô bạn cũng đi theo Malfoy bén gót, cả ba biến mất khi quẹo qua một góc tường.
Harry đứng như mọc rễ tại chỗ và nhìn ba đứa kia mất tăm. Thiệt là điên tiết lên ddwwocj; nó đã canh me chính xác để ra sân đấu đúng giờ, vậy mà giờ
lại gặp Malfoy đang lén lút ở đây trong khi cả trường không có mặt: đây là cơ hội tốt nhất để Harry khám phá coi Malfoy đang âm mưu trò gì. Những giây
im lặng trôi qua và Harry vẫn còn đứng tại chỗ, đông cứng, đăm đăm nhìn về nơi mà Malfoy vừa mất hút…
“Nãy giờ anh ở đâu?” Ginny gặng hỏi khi Harry phóng vào phòng thay đồ. Toàn đội đã thay đồ xong và đã sẵn sàng; Coote và Peakes, những Tấn thủ đều
đang đập cây gậy cảu họ vô chân một cách sốt ruột.
“Anh gặp Malfoy,” Harry khẽ nói với cô bé trong khi cởi tấm áo chùng đỏ tía của nó ra. “Thế là anhmuoons biết nó làm gìtrong tòa lâu đài với hai cô bạn
gái trong khi mọi người khác đều đang ở dưới đây…”
“Chuyện đó quan trọng lắm vào lúc này à?”
“À, chẳng qua anh muốn tìm hiểu thôi.” Harry vừa nói vừa nắm lấy cây Tia chớp của nó và sửa cho cặp kiếng ngay lại. “Thôi, đi nào!”
Và không nói thêm một lời, nó đi vào sân đấu giữa tiếng hoan hô và la ó rân trời.
Có một chút xíu gió; mây từng mảng bàng bạc; thỉnh thaongr đó đây lại hửng lên ánh nắng rực rỡ.
“Điều kiện thi đấu phức tạp!” McLaggen dõng dạc nói với cả đội “Coote, Peakes, hai bạn cần bay tránh hướng mặt trời, để bọn kia không thấy hai bạn
bay đến…”
“Tôi là đội trưởng, McLaggen à, làm ơn đừng dạy bảo các bạn ấy nữa,” Harry tức giận nói. “Bạn chỉ cần trổ tài điều khiển bên các cột gôn là đủ!”
Khi McLaggen đã bỏ đi rồi, Harry quay lại Coote và Peakes.
“Các bạn phải chắc chắn bay tránh mặt trời nhé,” nó nói một cách bất đắc dĩ.
Nó bắt tay đội trưởng nhà Hufflepuff và khi tiếng còi của bà Hooch vang lên, nó đạp mạnh xuống đất một cái và bay lên không trung, cao hơn tất cả những
người khác trong đội, lượn quanh sân đấu để tìm trái banh Snitch. Nếu nó có thể bắt được trái banh sớm thìcó thể còn cơ hội để nó trở lại tòa lâu đài, vớ
lấy tấm Bản đồ đạo tặc và tìm xem Malfoy đang làm gì…
“Và Smith của nhà Hufflepuff đang có trái Quaffle,” một giọng nói mơ màng vang lên, vọng qua sân trường. “Anh ta là bình luận viên trong trận đấu trước,
và dĩnhiên, Ginny Weasley đã bay tông vào anh chàng, tôi nghĩcó lẽ cố ý, thấy giống như vậy lắm. Smith đã hơi bất lịch sự với đội Gryffindor, tôi tin là
anh ta hối tiếc là bây giờ lại phải đấu với họ… Ôi, nhìn kìa, anh ta mất trái Quaffle rồi, Ginny đã cướp được của anh ta, tôi thích Ginny lắm, chị rất tử tế…”
Harry ngó chăm chăm xuống đài bình luận viên. Chắc chắn là không ai có đầu óc bình thường lại để Luna Lovegood bình luận. Nhưng cho dù nhìn từ trên
cao, nó vẫn không thể nhầm lẫn mái tóc vàng óng dài và dơ, với xâu chuỗi làm bằng nút chai bia bơ… Bênh cạnh Luna, giáo sư McGonagall có vẻ hơi
khó chịu một chút, như thể bà quả thực đã nghĩlại về sự bổ nhiệm của mình.
“…nhưng giờ đây gã cầu thủ kếch xù của nhà Hufflepuff ấy đã lấy lại được trái banh Quaffle của chị, tôi không làm sao nhớ được tên anh ta, cái gìnghe
như Bibble… không, Buggins…”
“Đó là Cadwallader!” Giáo sư McGonagall bên cạnh Luna nói to. Đám đông rộ lên cười.
Harry chăm chú nhìn quanh tìm trái banh Snitch; Chắng thấy dáu hiệu nào của nó cả. Một lát sau Cadwallader ghi bàn. McLaggen lúc đó đang hò hét phê
bình Ginny đã để mất trái Quaffle, hậu quả là anh chàng không để ý thấy trái banh đỏ bự tổ chảng bay vèo ngang qua mang tai phải của mình.
“McLaggen, bạn làm ơn để ý đến công việc của bạn và để những người khác yên!” Harry rống lên, vừa xoay lại để đối diện thủ môn của nó.
“Mày có làm gương đâu!” McLaggen quát lại, mặt đỏ ngầu và giận điên lên.
“Và Harry Potter lúc này đang cãi nhau với Thủ môn của mình,” Luna bình thản nói, trong khi đám Hufflepuff và Slytherin bên dưới trong đám đông hè nhau
reo hò và chế giễu. “Tôi không tin chuyện đó sẽ giúp anh tìm được trái banh Snitch, nhưng có thể đó là một mánh lới khôn ngoan…”
Tức giận văng tục, Harry xoay một vòng và bay đi lượn vòng quanh sân đấu một lần nữa, rà khắp chốn tìm dấu hiệu cảu trái banh vàng tíhon.
Ginny và Demelze mỗi người đã ghi được một bàn, khiến cho những người cổ động áo đỏ tía và vàng kim có dịp reo hò. Sau đó Cadwallader lại ghi bàn
nữa, san bằng tỉ số, nhưng Luna dường như không để ý; cô nàng tỏ ra không hứng thú lắm những chuyện tầm thường như ghi bàn thắng và tiếp tục cố
gắng hướng sự chú ý của đám đông vào những chuyện hay ho như hình dạng những đám mây trời và khả năng Zacharias Smith, người cho tới giờ phút
này chưa giữ được trái Quaffle nào lâu quá một phút, sẽ phải chịu đựng một thứ có tên gọi là “Dị ứng bại sĩ.”
“Bảy mươi bốn điểm cho đội Hufflepuff!” Giáo sư McGonagall quát vào miệng loa của Luna.
“Ủa, vậy à?” Luna mơ màng nói. “Ôi, nhìn kìa! Thủ môn đội Gryffindor chụp được cây gậy của một trong những tấn thủ.”
Harry xoay tròn giữa không trung. Quả đúng, McLaggen, vìlý do chỉ có anh ta mới biết, đã giựt cây gậy của Peakes và có vẻ đang biểu diễn minh họa
cách đánh một trái Bludger về phía anh chàng Cadwallader đang bay tới.
“Anh làm ơn trả cây gậy lại cho bạn ấy và trở lại vị tríthủ môn!” Harry gầm lên, vừa nhào về phía McLaggen đúng lúc McLaggen quật một cú tàn khốc vào
trái Bludger và đánh hụt trái banh.
Một cơn đau lòa mắt lộn ruột... một tia chớp nhá sáng... những tiếng gào rú xa xăm... và cảm giác rơi xuống một đường hầm dài thăm thẳm...
Chuyện kế đến mà Harry biết là nó đang nằm trong một cái giường hết sức êm ấm thoải mái và đang nhìn lên ngọn đèn đang tỏa một vòng ánh sáng
vàng óng lên cái trần tôi tối. Nó ngoc đầu lên một cách khó khăn. Nằm bên trái nó là một anh chàng tóc đỏ hoe, mặt lấm tấm tàn nhang, trông quen quen.
“Bồ ghé vô thiệt là hay,” Ron nhe răng cười, nói.
Harry chớp mắt nhìn quanh. Dĩnhiên rồi: nó đang nằm trong bệnh thất. Bầu trời bên ngoài nhuộm màu chàm còn vương mấy vệt đỏ thắm. Trận đấu hẳn là
đã kết thúc cách đây nhiều tiếng đồng hồ... không biết còn chút hy vọng nào về vụ Malfoy không. Harry cảm thấy đầu nó nặng một cách kỳ lạ; nó giơ tay
lên và cảm thấy một lớp băng quấn cứng ngắc.
“Chuyện gìđã xảy ra?”
“Nứt sọ,” bà Pomfrey nói, lật đật chạy ra và đẩy nó nằm trở xuống gối. “Không có gìđáng lo, tôi đã vá nó lại ngay tức thì, nhưng tôi phải giữ trò lại bệnh
thất đêm nay. Trò không nên cố gắng quá sức trong vòng vài tiếng đồng hồ.”
“Con không muốn ở lại đây suốt đêm,” Harry tức tối nói, vừa ngồi bật dậy và quăng chăn mền ra. “Con muốn tìm McLaggen và giết nó.”
“Tôi e rằng như thế sẽ rơi vào khoản “cố gắng quá sức”,” bà Pomfrey nói, vừa kiên quyết đẩy nó nằm trở xuống giường và giơ cây đũa phép của bà lên
đe dọa. “Trò sẽ ở lại đây cho đến khi nào tôi cho trò xuất viện, Potter à, nếu không, tôi sẽ báo cho thầy Hieuj trưởng biết.”
Bà lại tất tả quay trở lại văn phòng của mình và Harry nằm vật xuống gối, giận xìkhói.
“Bồ có biết mình thua với tỉ số bao nhiêu không?” Nó hỏi Ron qua kẽ răng nghiến chặt.
“À, có, mình có biết,” Ron nói với giọng chân thành cáo lỗi. “Tỉ số chung cuộc là ba trăm hai mwoi và sáu mươi.”
“Xuất sắc,” Harry nói một cách hung tợn. “Thiệt là xuất sắc! Mình mà túm được McLaggen…”
“Bồ không muốn túm nó đâu, nó đã sưng phù lên bằng quỉ khổng lồ rồi,” Ron nói vẻ phải chăng. “Riêng mình, mình nghĩcó nhiều điều đáng nói về chuyện
ếm xìbùa hắn bằng cái móng chân gìđó trong cuốn sách của Hoàng tử. Dù sao thìnhững người khác trong đội có lẽ đã thanh toán sòng phẳng với hắn
trước khi bồ ra được khỏi đây, tụi nó cũng đâu có vui mừng gì…”
Trong giọng nói của Ron có một niềm hân hoan được đè nén hơi tồi ; Harry có thể nói Ron cũng khoái chírằng McLaggen đã làm nên cớ sự tòe loe toét
loét như vậy. Harry nằm đó, đăm đăm nhìn lên mảng ánh sáng trên trần, cái sọ vừa mới được vá lại của nó không đau đớn một cách cụ thể, mà chỉ có
cảm giác hơi mỏng mảnh bên dưới tất cả những lớp băng.
“Nằm đây mình có thể nghe được bình luận,” Ron nói, giọng nó bây giờ run run vìcười. “Mình hy vọng từ giờ trở đi Luna sẽ bình luận mọi trận đấu… Dị
ứng bại sĩ…”
Nhưng Harry vẫn còn giận đến nỗi chẳng thấy chút gìhài hước trong tình cảnh ấy và một lát sau tiếng cười hô hố của Ron ngớt đi.
“Ginny có đến thăm bồ trong lúc bất tỉnh,” Ron nói sau một hồi im lặng và trítưởng tượng của Harry vọt lên mức “cố gắng quá sức”, nhanh chóng tạo
dựng cái cảnh tượng Ginny, vừa khóc nức nở trên thân hình không sự sống của nó, vừa thú nhận tình cảm mê đắm của cô bé đối với nó trong khi Ron
chúc phúc cho cả hai…
“Con nhỏ nói là bồ chỉ đến nơi vừa đúng giờ bắt đầu trận đấu. Sao vậy? Bồ ra khỏi đây lúc còn sớm mà.”
“Ờ…” Harry nói, cái cảnh trong đầu nó tắt phụt. “Ừ… chẳng là, mình nhìn thấy Malfoy lén lút với hai đứa con gái coi bộ không muốn đi với nó chút nào và
đó là lần thứ hai mà nó canh chắc không ra sân đấu Quidditch với cả trường ; Nó cũng đã không dự trận vừa rồi, nhớ không?” Harry thở dài. “Phải chi lúc
đó mình đi theo dõi nó, trận đấu đúng là một thảm bại…”
“Đừng có ngu,” Ron nói ngay. “Bồ không thể nào bỏ qua một trận đấu Quidditch chỉ để theo dõi Malfoy, bồ là Đội trưởng mà !”
“Mình muốn biết nó đang âm mưu gì,” Harry nói. “Và đừng nói là mình chỉ tưởng tượng, nhất là sau khi mình nghe lóm được cuộc trò chuyện giữa nó với
Thầy Snape…”
“Mình không hề nói là bồ chỉ tưởng tượng,” Ron nói, vừa nhấc mình tựa trên cùi chỏ để quay sang nhìn Harry và nhăn mặt lại, “nhưng chẳng có luật lệ nào
nói cùng một lúc, ở đây, chỉ cho phép một người được mưu tính chuyện gìđó ! Bồ hơi bị Malfoy ám ảnh rồi đó, Harry à. Ýmình nói là, nếu nghĩđến
chuyện bỏ trận đấu chỉ để theo dõi nó…”
“Mình muốn bắt quả tang nó!” Harry nói trong cơn thất vọng nản lòng. “Mình muốn nói là, nó đi đâu khi nó biến mất khỏi tấm bản đồ chứ?”
“Ai mà biết… Hogwartssmeade chăng?” Ron ngáp dài đưa ra giả thuyết.
“Mình không hề nhìn thấy nó đi dọc theo bất cứ hành lang bímật nào trên bản đồ. Với lại mình nghĩmấy hành lang đó giờ đây đều được canh gác mà ?”
“Chà, vậy thì, mình không biết rồi,” Ron nói.
Hai đứa lại im lặng. Harry đăm đăm nhìn lên vòng tròn ánh sáng đèn trên trần, nghĩngợi…
Giá mà nó có được quyền lực của ông Rufus Scrimgeour, nó sẽ cử người theo đuôi Malfoy, nhưng rủi thay Harry đâu có một văn phòng đầy những Thần
sáng đặt dưới sự chỉ huy của nó… Nó nghĩngay đến việc lập ra cái gìđó giống như ĐQD, nhưng lại nảy sinh vấn đề là tụi nó sẽ bị mất buổi học ; Phần
lớn tụi nó, nói cho cùng, đều có một thời khóa biểu đầy kín…
Từ bên giường Ron vọng sang tiếng ngáy khò khò. Một lát sau bà Pomfrey ra khỏi văn phòng, lần này bà mặc một cái áo ngủ dày. Giả vờ ngủ là chuyện
dễ nhất đời ; Harry lăn qua nằm nghiêng và lắng tai nghe tất cả màn cửa sổ đang tự khép lại khi bà Pomfrey vẫy cây đũa phép. Đèn mờ đi và bà quay trở
vô văn phòng ; nó nghe tiếng cửa đóng lại một cái kịch sau lưng bà và biết là bà đã lên giường ngủ.
Nằm trong bóng tối Harry nhớ lại, đây là lần thứ ba nó bị đem đến bệnh thất vìthương tích khi chơi Quidditch. Lần vừa rồi nó ngã khỏi cây chổi bay vìsự
có mặt cảu những giám ngục chung quanh sân đấu và lần trước đó nữa thìtất cả xương xẩu của cánh tay nó đã bị ngài giáo sư LockHarryt bất tài khoác
lác tháo rời ra… tính cho tới nay thìđó là lần bị thương đau đớn nhất… nó nhớ nỗi thống khổ khi phải mọc lại cả nắm xương nội trong một đêm và nỗi lo
lắng cũng chẳng dịu đi được khi có sự xuất hiện của một vị khách bất ngờ vào lúc nửa…
Harry ngồi bật dậy, tim nó dộng bình bình, lớp băng quấn đầu của nó bị lệch đi. Cuối cùng nó cũng có được giải pháp : có một cách để theo dõi Malfoy…
Làm sao mà nó lại có thể quên được, tại sao nó không nghĩđến chuyện đó từ trước nhỉ?
Nhưng vấn đề là làm sao gọi được hắn ? Hồi trước làm cách nào nhỉ ?
Harry nói trong bóng tối, khe khẽ, ngập ngừng.
“Kreacher ?”
Một tiếng nổ rất to vang lên và tiếp đến là tiếng xô đẩy kêu la the thé vang đầy căn phòng yên tĩnh. Ron thức giấc, kêu ư ử.
“Cái gì…?”
Harry vội vã chĩa cây đũa phép về phía cửa văn phòng bà Pomfrey và lầm rầm, “Bít kín !” để bà không thể nào xộc ra. Rồi nó lồm cồm ngoi đến cuối
giường để nhìn cho rõ hơn chuyện đang diễn ra.
Hai con gia tinh đang lăn tròn ngay giữa sàn bệnh thất, một con mặc một cái áo thun màu hạt dẻ nhăn nhúm và đội vô số nón len, con kia thìmặc một
miếng giẻ rách cũ xìdơ hầy vắt vẻo ngang hông như một cái khố. Bỗng nhiên lại nổ ra một tiếng to nữa và con ma Peeves xuất hiện giữa không trung
bên trên hai con gia tinh đang vật lộn.
“Ta đang quan sát trò đấy, Bô xí!” Nó nói với Harry một cách phẫn nộ, vừa chỉ vào hai kẻ đang đánh nhau, rồi rú lên cười khùng khục. “Hãy nhìn mấy sinh
vật nhầy nhụa này cự cãi nhau ầm ĩ, cắn nhau cạp nhau, cấu véo nhau…”
“Kreacher không được xúc phạm Harry Potter trước mặt Dobby, không, chớ bao giờ, nếu không Dobby sẽ khớp mõm Kreacher lại giùm cậu ấy !” Dobby
la lên bằng giọng eo éo.
“…đã vô, quào lại !” Peeves reo hò híhửng, lúc này nó đang trút vụn bánh xuống hai con gia tinh để khiến chúng nổi khùng thêm. “Véo mạnh, thúc sâu!”
“Kreacher sẽ nói cái gìmình muốn nói về chủ nhân, ừ, đúng, chủ nhân gìthằng ấy chứ, bạn bè nhơ nhuốc với bọn Máu bùn, ôi, bà chủ tội nghiệp của
Kreacher sẽ nói sao… ?”
Harry không thể biết được chính xác bà chủ của Kreacher sẽ nói gì, bởi vìlúc đó Dobby đút nguyên nắm tay nhỏ khẳng khiu đầu mấu vô miệng Kreacher
làm văng ra một nửa bộ răng của nó. Harry và Ron cũng nhảy ra khỏi giường và gỡ hai con gia tinh ra, mặc dù cả hai vẫn còn cố đá và véo lẫn nhau, có
thêm Peeves đốc vô, con ma này bay vòng vòng quanh ngọn đèn ré lên, “Thọc ngón tay vô mũi nó, kéo chóp nó, nhéo tai nó…”
Harry chĩa cây đũa phép vào Peeves và nói, “Khóa lưỡi !”
Peeves chụp lấy cổ họng nó, ráng nuốt nuốt, rồi bay vụt ra khỏi phòng, vừa làm mấy động tác tục tĩu nhưng không thể nói được tiếng nào nữa, do cái lưỡi
của nó đã bị dán dính vô vòm miệng.
“Hay,” Ron nói vẻ khen ngợi, vừa nhấc Dobby lên không trung để chân tay cù néo của nó không quờ trúng Kreacher. “Có phải đó là một bùa khác trong
cuốn sách của Hoàng tử không ?”
“Ừ,” Harry nói, vừa bẻ quặt nửa chừng cánh tay quắt queo của Kreacher. “Được rồi… ta cấm bọn bay đánh nhau! À, Kreacher, ta cấm mi đánh nhau với
Dobby. Dobby, tôi biết tôi không được phép ra lệnh cho bạn…”
“Dobby là gia tinh tự do và nó có thể vâng lệnh bất cứ ai nó thích và Dobby sẽ làm bất cứ điều gìHarry Potter muốn nó làm !” Dobby nói, nước mắt chảy
dài qua gương mặt nhỏ xíu nhăn nheo thấm vào cái áo thun.
“Thôi được ,” Harry nói và nó với Ron thả hai con gia tinh ra, tụi nó cùng rớt xuống sàn nhưng không còn đánh nhau nữa.
“Cậu chủ gọi tôi hả ?” Kreacher khào khào nói, nhún xuống cúi chào cho dù ánh mắt nó nhìn Harry rõ rnagf là chỉ cầu chúc cho Harry một cái chết đau
thương.
“Phải, ta gọi,” Harry nói, vừa liếc mắt về phía cánh cửa văn phòng bà Pomfrey để kiểm tra xem bùa Bịt kín còn hiệu nghiệm không; Chẳng có dấu hiệu gì
chứng tỏ bà có nghe trận náo loạn vừa rồi.
“Ta có công việc giao cho mi,” Harry nói.
“Kreacher sẽ làm bất cứ điều gìchủ nhân muốn,” Kreacher nói, lại nhún xuống cúi chào thấp đến nỗi môi nó gần chạm vào những ngón chân xương xẩu,
“bởi vìKreacher không có sự lựa chọn nào cả, nhưng Kreacher xấu hổ có một chủ nhân như vầy, đúng…”
“Dobby sẽ làm công việc đó, thưa cậu Harry Potter !” Dobby ré lên, hai con mắt bự bằng trái banh quần vợt của nó ràn rụa nước mắt. “Dobby xin được
vinh dự giúp đỡ Harry Potter!”
“Để nghĩcoi, nếu cả hai cùng làm việc đó thìcũng tốt thôi,” Harry nói. “Vậy thìđược… ta muốn bọn mi theo dõi Draco Malfoy.”
Phớt lờ vẻ mặt vừa ngạc nhiên vừa bực dọc của Ron, Harry tiếp tục nói, “Ta muốn biết hắn đi đâu, hắn gặp ai và hắn làm gì. Ta muốn bọn mi theo dõi hắn
hai mươi bốn trên hai mươi bốn tiếng đồng hồ.”
“Dạ thưa cậu Harry Potter !” Dobby nói ngay, hai con mắt bự chảng của nó sáng lên niềm phấn khích. “Và nếu Dobby làm sai, Dobby sẽ tự quăng mình ra
khỏi tầng tháp cao nhất, thưa cậu Harry Potter !”
“Không cần phải làm như vậy,” Harry vội vã nói.
“Chủ nhân muốn tôi theo dõi cậu trẻ của dòng họ Malfoy à?” Kreacher khào khào hỏi. “ Chủ nhân muốn tôi do thám người chắt trai thuần huyết của nữ chủ
nhân trước đây của tôi à?”
“Chính là hắn,” Harry nói, thấy trước một mối nguy hiểm khủng khiếp và quyết định ngăn chặn ngay tức thì. “Và ta cám mi để lộ cho hắn biết, Kreacher à,
hay cho hắn thấy việc mi đang làm, hay nói chuyện với hắn, hay viết thư cho hắn, hay... tiếp xúc với hắn bằng bất cứ cách nào, hiểu không?”
Nó nghĩlà nó thấy được Kreacher đang cố gắng tìm một khe hở trong chỉ thị mà con gia tinh vừa nhận được và nó chờ đợi. Sau một lúc Harry hết sức
hài lòng thấy Kreacher cúi xuống thật thấp và nói với nỗi oán hận cay đắng. “Chủ nhân đã nghĩhết mọi điều và Kreacher phải vâng lệnh chủ nhân mặc dù
Kreacher thà làm nô lệ cho cậu trẻ Malfoy hơn, ôi, phải...”
“Vậy là ổn rồi nhé,” Harry nói. “Ta cần được báo cáo thường xuyên, nhưng phải canh chắc khi không có ai ở quanh ta thìmới được đến báo cáo. Ron và
Hermione có mặt cũng được. Và đừng nói với ai việc bọn mi đang làm. Chỉ cần bám lấy Malfoy như hai miếng cao dán mụn ấy.”
Chương 20
Thỉnh cầu của chúa tể Voldermort
Việc đầu tiên xảy ra vào sáng hôm sau là Harry và Ron rời khỏi bệnh thất, sức khỏe hoàn toàn bình phục nhờ sự chăm sóc của bà Pomfrey và giờ đây
chúng có thể thưởng thức những ích lợi của việc bị đấm ngã chổng kềnh và bị đầu độc suýt chết, trong đó có cái lợi lớn nhất là giờ đây Hermione đã trở
lại bạn bè với Ron như xưa. Hermione thậm chícòn cặp kè tụi nó xuống phòng ăn điểm tâm, đem theo cái tin Gin đã cãi nhau một trận với Dean. Cái gã
đang lờ đờ ngủ trong ngực Harry bỗng nhiên ngóc đầu dậy, hít hửi không khítràn trề hy vọng.
“Tụi nó cãi nhau về chuyện gì?” Nó hỏi, cố gắng nói giọng bình thường; lúc đó tụi nó đang quẹo vào một hành lang ở tầng thứ bảy vắng vẻ, ngoại trừ một
cô gái nhỏ xíu đang săm soi một tấm thảm thêu hình những chú lùn ranh mặc váy xòe. Khi nhìn thấy các anh chị năm thứ sáu đến gần, cô bé hốt hoảng
đến nỗi làm rớt cái cân bằng đồng mà cô bé đang cầm.
“Không sao!” Hermione ân cần nói, vội vàng đi tới để giúp đỡ. “Đây…”
Cô nàng gõ đầu cây đũa phép lên cái cân bể và nói, “Chữa lành”. Cô bé kia không nói cảm ơn, chỉ đứng như bị trời trồng tại chỗ khi các anh chị năm thứ
sáu đi ngang qua và nhìn theo tụi nó đi khuất tầm mắt.
Ron liếc nhìn lại cô bé. Nó nói.
“Mình thề là cái cân sẽ teo nhỏ đi.”
“Đừng bận tâm đến con bé,” Harry nói, hơi sốt ruột. “Gin và Dean cãi nhau về chuyện gìvậy, Hermione?”
“Ôi, Dean cười chuyện McLaggen tông trái Bludger vô bồ,” Hermione nói.
“Cảnh đó chắc là tức cười lắm,” Ron nói ra vẻ công bằng.
“Chẳng tức cười chút nào hết!” Hermione nổi sung nói. “Trông dễ sợ hết sức và nếu Coote và Peakes không chụp Harry kịp thời thìHarry có thể đã bị
thương trầm trọng!”
“Ừ, thôi, Gin và Dean cũng không cần phải chia tay về chuyện đó, Harry nói, vẫn cố gắng làm ra vẻ bình thường. “Hay là tụi nó vẫn còn bồ nhau?”
“Còn, tụi nó vẫn còn bồ nhau… Nhưng tại sao bồ quan tâm dữ vậy?” Hermione hỏi, nhìn soi mói Harry.
“Mình chỉ không muốn đội Quidditch rối ren lộn xộn một lần nữa!” Harry hấp tấp nói, nhưng Hermione vẫn tỏ vẻ nghi ngờ. Cho nên nó thở phào khi nghe
có tiếng gọi. “Harry!” từ đằng sau giúp nó có cớ quay lưng lại Hermione.
“Ủa, chào Luna.”
“Em đi vô bệnh thất tìm các anh,” Luna nói, vừa lục lọi trong túi xách. “Nhưng họ nói các anh đã về rồi…”
Cô bé nhét vào tay Ron một cái có vẻ là cọng hành lá, một tai nấm lốm đốm và một bụm gìđó giống như cứt mèo, cuối cùng kéo ra được một cuộn giấy
da bèo nhèo để đưa cho Harry.
“…Em được biểu đưa cho anh cái này.”
Đó là một cuộn giấy da nhỏ mà Harry nhận ra ngay tức thìlà thư cụ Dumbledore gọi nó đi học.
“Tối nay,” nó nói với Ron và Hermione, sau khi đã mở thư ra xem.
“Bình luận trấn đấu vừa rồi hay ghê!” Ron nói với Luna khi cô bé lấy lại cọng hành xanh, cái nấm đốm và bụm cứt mèo. Luna mỉm cười ngờ ngợ.
“Anh đang chọc quên em phải không?” Cô bé nói. “Ai cũng nói dở ẹt.”
“Không, anh nói nghiêm túc mà!” Ron nói một cách chân thành. “Anh nhớ chưa bào giờ khoái nghe bình luận hơn lần vừa rồi! Nhân tiện hỏi cái này là cái
gìvậy?” Nó nói thêm, giơ cái vật giống cọng hành xanh lên ngang tầm mắt.
“À, đó là Rễ canh,” cô bé nói, vừa nhét cứt mèo và cái nấm đốm trở lại túi xách. “Anh cứ giữ lại nếu anh thích, em còn mấy cái nữa. Mấy cái đó canh
phòng bọn Bộng Nuốt hay lắm.” Và cô bé bước đi, bỏ lại Ron cời phát sặc, tay vẫn còn nắm cọng Rễ canh.
“Mấy bồ biết không, mình càng ngày càng thấy thích Luna hơn.” Ron nói khi tụi nó tiếp tục đi tới Đại sảnh đường. “Mình biết con nhỏ đó khùng, nhưng mà
hay ở chỗ…” Nó đột nhiên ngừng nói. Lavender Brown đang đứng ngay chân cầu thang đá, vẻ mặt giận đùng đùng.
“Chào,” Ron lo lắng nói.
“Đi thôi,” Harry thìthầm với Hermione và hai đứa nó nhanh chân đi qua mặt Lavender, mặc dù vẫn kịp nghe cô nàng nói, “Tại sao anh không nói cho em
biết là bữa nay anh xuất viện hả? Và tại sao anh lại cặp kè với con nhỏ đó hả?”
Khi Ron xuất hiện ở bàn ăn điểm tâm nửa giờ sau, trông mặt nó vừa lầm lìvừa bực bội và mặc dù nó ngồi cùng bàn với Lavwnder, Harry không thấy tụi
nó không nói một lời nào với nhau trong suốt thời gian ngồi cạnh nhau. Hermione hành xử như thể hoàn toàn không biết gìvề chuyện đó, nhưng một đôi
lần Harry nhìn thấy một nụ cười vu vơ khó hiểu thoáng qua gương mặt cô nàng. Suốt ngày hôm ấy Hermione dường như ở trong một trạng thái đặc biệt
vui và buổi tối đó trong phòng sinh hoạt chung cô nàng thậm chícòn bằng lòng ngó qua (nói cách khac là viết nốt) bài luận văn môn Dược thảo học cho
Harry, một việc mà cho tới lúc đó cô nàng vẫn kiên quyết từ chối, vìbiết là Harry thể nào rồi cũng cho Ron sao y bản chính.
“Cám ơn nhiều lắm, Hermione,” Harry vừa nói vừa vỗ nhè nhẹ lên lưng Hermione trong khi coi đồng hồ và thấy là đã gần tám giờ tối. “Nghe nè, mình phải
gấp lên kẻo trễ buổi học với thầy Dumbledore...”
Hermione không trả lời mà chỉ gạch bỏ đi vài câu văn lủng củng của Harry với vẻ hơi ngao ngán. Toét miệng ra cười, Harry lật đật chui qua lỗ chân dung
để đi tới văn phòng thầy hiệu trưởng. Con thú đá nhảy qua một bên ngay khi nghe mật khẩu bánh kem bơ và Harry nhảy hai bậc một lên cầu thang xoắn,
gõ lên cánh cửa vừa đúng lúc chuông đồng hồ bên trong văn phòng điểm tám tiếng.
“Mời vào,” cụ Dumbledore gọi, nhưng khi Harry đưa tay để đẩy cánh cửa thìcửa đã được mở ra từ bên trong. Giáo sư Trelawney đứng ngay bên trong
cửa.
“Thìra!” Bà kêu lên, đột ngột chỉ vào mặt Harry, mắt bà chớp chớp sau cặp kính vĩđại trong lúc nhìn nó.
“Thìra đây là lý do tôi bị tống ra khỏi văn phòng của ông không chút khách sáo, phải không ông Dumbledore!”
“Cô Sybill thân mến ạ,” cụ Dumbledore nói bằng giọng hơi bực, “Làm gìcó chuyện tống cô ra khỏi bất cứ nơi nào không chút khách sáo, nhưng mà Harry
quả là có hẹn trước và tôi thực sự không nghĩrằng còn điều gìđể nói nữa...”
“Được lắm,” giáo sư Trelawney nói bằng giọng bị tổn thương sâu sắc. “Nếu ông không chịu trục xuất con ngựa tiếm quyền ấy, thìđành vậy... có lẽ tôi sẽ
tìm một ngôi trường khác, nơi mà tài năng của tôi được đánh giá cao hơn...”
Bà đẩy Harry qua một bên để đi ra và biến mất phía dưới cầu tahng xoắn; hai thầy trò nó nghe như bà ta té nhào ở khoảng giữa cầu thang, Harry đoán là
bà đã giẫm phải một trong những vạt khăn quàng lòng thòng của bà.
“Harry, con hãy đóng cửa lại và ngồi xuống,” cụ Dumbledore nói, nghe hơi mệt mỏi.
Harry vâng lời khi ngồi xuống cái ghế nó vẫn thường ngồi trước bàn làm việc của cụ Dumbledore, nó để ý thấy cái Tưởng Ký lại nằm giữa hai thầy trò
một lần nữa và thêm hai cái chai nhỏ xíu đựng đầy ký ức xoáy tít.
“Thưa thầy, có phải giáo sư Trelawney không vui vìthầy Firenze vẫn còn dạy không?” Harry hỏi.
“Ừ,” cụ Dumbledore nói, “Bộ môn Tiên tri hóa ra nhiều rắc rối hơn là thầy tiên liệu, bản thân thầy chưa từng học môn đó. Thầy không thể bảo thầy Firenze
quay trở về rừng, ở đó bây giờ thầy ấy chỉ là một kẻ bị ruồng bỏ, mà thầy cũng không thể bảo cô Sybill Trelawney ra đi. Điều này thầy trò mình biết với
nhau thôi: cô ấy không hề biết nỗi nguy hiểm mà cô ấy sẽ gặp phải một khi cô ấy ra khỏi tòa lâu đài. Cô ấy không biết – và thầy nghĩlà sẽ chẳng không
ngoan gìnếu làm sáng tỏ cho cô ấy – rằng chính cô ấy là người đã lập ra lời tiên tri về con và Voldermort, con hiểu chứ?”
Cụ Dumbledore thở dài một cái thượt, rồi nói, “Nhưng đừng để ý chuyện của giáo ban. Chúng ta còn nhiều chuyện hơn cần bàn bạc. Trước tiên – con đã
làm xong bài tập mà thầy giao cho con vào cuối buổi học trước chưa?”
“Ôi,” Harry nói, ngẩn người ra. Nào là bài học Độn thổ và Quidditchm nào là Ron bị đầu độc và nó bị nứt sọ, lại thêm chuyện quyết tâm khám phá âm
mưu của Draco Malfoy, khiến Harry hầu như quên béng đi cái ký ức của Thầy Slughorn mà thầy Dumbledore đã bảo nó phải làm sao moi cho được.
“Dạ, thưa thầy, con đã hỏi Thầy Slughorn về chuyện đó vào cuối buổi học môn Độc dược, nhưng, ơ, thầy ấy không chịu cho con.”
Hai thầy trò cùng im lặng một lúc.
Cuối cùng cụ Dumbledore nói, “Thầy hiểu.” Cụ chăm chú nhìn Harry qua đầu gọng kính hình nửa vầng trăng và khiến cho Harry có cái cảm giác như mọi
khi là nó đang bị chiếu tia X qua người. “Và con cảm thấy rằng con đã hết sức cố gắng trong vấn đề này rồi, đúng không? Rằng con đã vận dụng tất cả
tài khôn khéo không nhỏ của con? Rằng con đã chẳng chừa lại chút tinh ranh nào mà không thử qua nhằm lấy cho bằng được cái ký ức đó?”
“Dạ,” Harry lặng người đi, quên tuốt luốt định nói tiếp cái gì. Nỗ lực duy nhất mà nó đã làm để lấy cái ký ức đó bồng nhiên có vẻ ấm ớ phát ngượng. “Dạ...
cái bữa mà Ron nuốt nhầm thuốc độc con đem bạn ấy đến gặp Thầy Slughorn. Con nghĩcó lẽ nếu con làm cho thầy ấy cao hứng lên...”
“Và cố gắng đó thành công chứ?” Cụ Dumbledore hỏi.
“Dạ, thưa thầy, không, bởi vìRon trúng độc...”
“...đương nhiên, điều đó đã khiến con quên sạch bách việc cố gắng lấy cái ký ức; Thầy không mong chờ điều gìkhác được, khi người bạn thân nhất của
con lâm nguy. Tuy nhiên, khi đã rõ là cậu Weasley sẽ bình phục hoàn toàn, thầy đã hy vọng con quay lại công việc mà thầy giao. Thầy tưởng thầy đã nói rõ
với con là cái ký ức đó quan trọng như thế nào. Thật vậy, thầy đã làm hết sức để cho con có ấn tượng rằng đó là cái ký ức chủ chốt nhất trong tất cả và
nếu không có nó thìchúng ta chỉ lãng phíthời gian mà thôi.”
Một cảm giác xấu hổ nóng ran và nhức nhối lan từ đỉnh đầu Harry xuống khắp cơ thể nó. Cụ Dumbledore không hề cất cao giọng, cụ không hề tỏ vẻ giận
dữ, nhưng Harry muốn thà thầy quát tháo nó còn hơn; sự thất vọng lạnh lùng này còn tệ hơn bất cứ điều gìkhác.
“Thưa thầy,” nó nói, với một chút liều mạng, “không phải là con không bận tâm hay gìgìkhác, chẳng qua con có... có những việc khác...”
“Những việc khác trong đầu con,” cụ Dumbledore nói nốt câu giùm nó. “Thầy hiểu.”
Hai thầy trò lại im lặng một lần nữa, sự im lặng khó chịu nhất mà Harry từng trải qua với cụ Dumbledore; Sự im lặng dường như cứ kéo dài, kéo dài mãi,
thỉnh thoảng chỉ bị ngắt đoạn bằng tiếng ngáy rò rò của bức chân dung cụArmando Dippet phía trên đầu cụ Dumbledore. Harry cảm thấy nhỏ bé đi một
cách kỳ lạ, như hteer nó bị co rút lại một chút kể từ khi bước vào căn phòng này. Khi không thể chịu đựng lâu hơn nữa, nó nói, “Thưa giáo sư
Dumbledore, con thực sự xin thầy tha lỗi. Lẽ ra con nên làm nhiều hơn... lẽ ra con nên nhận thức được là thầy sữ chẳng yêu cầu con làm điều đó nếu điều
đó không thực sự quan trọng.”
“Cám ơn con đã nói như vậy, Harry à,” cụ Dumbledore khẽ nói. “Vậy thầy có nên hy vọng từ giờ trở đi con sẽ đặt vấn đề này lên hàng ưu tiên cao hơn
không? Sau buổi tối này chúng ta sẽ chẳng có mấy lý do để gặp lại nếu không có cái ký ức đó.”
“Thưa thầy, con sẽ làm việc đó, con sẽ lấy cái ký ức của Thầy Slughorn,” nó tha thiết nói.
“vậy thìbây giờ chúng ta không nói thêm về việc đó nữa,” cụ Dumbledore nói thân mật hơn, “nhưng hãy tiếp tục câu chuyện của chúng ta từ chỗ chúng ta
đã ngừng lại. Con có còn nhớ ở chỗ nào không?”
“Dạ, thưa thầy, có ạ” Harry nhanh nhẩu nói. “Voldermort giết cha hắn và ông bà nội hắn xong, dàn dựng như thể cậu Morfin của hắn là thủ phạm. Sau đó
hắn quay trở về trường Hogwarts và hỏi... hắn hỏi giáo sư Slughorn về Trường sinh linh giá,” nó ngượng ngùng nói línhí.
“Tốt lắm,” cụ Dumbledore nói. “Bây giờ, thầy hy vọng, con còn nhớ rằng thầy đã nói với con từ hồi mới bắt đầu những buổi học này của thầy trò mình là
chúng ta sẽ đi vào lĩnh vực của ước đoán và suy nghiệm?”
“Dạ, thưa thầy.”
“Cho tới bây giờ, như thầy hy vọng được con đồng ý, thầy đã cho con xem những nguồn dữ liệu tương đối vững chắc cho sự suy luận của thầy về những
gìVoldermort đã làm cho đến khi hắn đến tuổi mưởi bảy?”
Harry gật đầu.
“Nhưng giờ đây, Harry à,” cụ Dumbledore nói, “giờ đây sự việc trở nên mịt mù hơn và lạ lùng hơn. Nếu việc tìm chứng cớ về cậu bé Riddle đac là khó
khăn thìviệc tìm ai đó sẵn sàng hồi tưởng về người đàn ông Voldermort là chuyện không thể làm được. Thực ra, thầy nghi ngờ liệu có ai đó còn sống,
ngoại trừ chính hắn ra, có thể kể cho chúng ta toàn bộ về cuộc sống của hắn sau khi rời khỏi trường Hogwarts không. Tuy nhiên, thầy còn hai cái ký ức
cuối cùng mà thầy muốn cùng xem với con,” nói đến đó, cụ Dumbledore chỉ hai chai pha lê nhỏ xíu lấp lánh bên cạnh cái Tưởng Ký. “Sau đó thầy sẽ vui
mừng muốn biết ý kiến của con là liệu những kết luận mà thầy rút ra có vẻ đúng hay không.”
Ýnghĩrằng cụ Dumbledore đánh giá ý kiến của nó cao như thế khiến Harry càng cảm thấy xấu hổ vô cùng về việc nó đã không hoàn thành nhiệm vụ lấy
cho được cái ký ức về Trường sinh linh giá và nó nhấp nhổm áy náy trên ghế khi cụ Dumbledore giơ một trong hai cái chai đó lên ánh sáng và xem xét.
“Thầy hy vọng con chưa chán việc lặn vào ký ức của người ta bởi vìhai cái này chỉ là hồi ức tò mò,” cụ nói. “Cái thứ nhất này xuất xứ từ một gia tinh rất
già có tên là Hokey. Trước khi con xem những gìHokey chứng kiến, thầy phải thuật lại thật nhanh chuyện Chúa tể Voldermort rời khỏi trường Hogwarts
như thế nào.
Như con có thể đoán được, khi học lên đến năm thứ bảy, hắn đứng đầu bảng trong tất cả các môn mà hắn thi. Khắp xung quanh, bạn bè hắn đều đang
quyết định chọn lựa nghề nghiệp mà họ sẽ theo đuổi sau khi ra trường. Gần như mọi người trông chờ những điều kỳ vĩnơi Tom Riddle, huynh trưởng,
Thủ lĩnh nam sinh, người nhậ được phần thưởng Dành cho cống hiến đặc biệt đối với nhà trường. Thầy biết là nhiều thầy cô giáo, trong số đó có giáo sư
Slughorn, đề nghị hắn vào làm ở Bộ Pháp thuật, đề nghị dàn xếp những cuộc hẹn, giới thiệu hắn với những người quen biết lớn. Hắn từ chối tất cả những
đề nghị. Chuyện tiếp theo mà các thầy cô biết là Voldermort là việc ở tiệm Borgin và Burkes.”
“Ở tiệm Borgin và Burkes?” Harry sửng sốt lặp lại.
“Ở tiệm Borgin và Burkes,” cụ Dumbledore bình thản lặp lại. “Thầy nghĩcon sẽ biết ở đó có những điều hấp dẫn gìmà giữ được chân hắn khi chúng ta đi
vào ký ức của Hokey. Nhưng đây không phải là nghề nghiệp đầu tiên mà hắn chọn. Ít có ai biết được điều này vào thời đó. Thầy là một trong số rất ít
người mà thầy hiệu trưởng thời đó nói riêng cho biết. Thoạt đầu Voldermort đã đến gặp giáo sư Dippet và hỏi liệu hắn có thể ở lại trường Hogwarts để
dạy học không.”
“hắn muốn ở lại đây à? Tại sao?” Harry hỏi, càng thêm ngạc nhiên.
“Thầy tin là hắn có nhiều lý do, mặc dù hắn không trình bày những lý do đó với giáo sư Dippet,” cụ Dumbledore nói. “Trước nhất và rất quan trọng, thầy tin
Voldermort gắn bó với ngôi trường này hơn với bất cứ người nào khác. Trường Hogwarts là nơi hắn đã vui sướng nhất; nơi đầu tiên và nơi duy nhất mà
hắn cảm thấy là nhà.”
Harry cảm thấy hơi nhột nhạt đối với những lời này, bởi vìnó cũng cảm thấy y như vậy về ngôi trường Hogwarts.
“Lý do thứ hai, tòa lâu đài là một thành trìcủa Pháp thuật cổ xưa. Chắc chắn Voldermort đã thâm nhập vào rất nhiều bímật của lâu đài, nhiều hơn hầu hết
những học sinh khác từng học qua ở ngôi trường này, nhưng có thể hắn cảm thấy nơi đây vẫn còn nhiều bímật để hắn lần ra manh mối, còn nhiều kho
chứa Pháp thuật để hắn bòn rút.
Và thứ ba, với tư cách một thầy giáo, hắn sẽ có nhiều quyền lực và ảnh hưởng đối với các pháp sư và phù thủy trẻ. Có lẽ hắn có được ý tưởng này từ
giáo sư Slughorn, người thầy mà hắn có sự giao hảo tốt nhất, người đã thể hiện việc một thầy giáo có thể đóng một vai trò ảnh hưởng như thế nào. Thầy
không tưởng tượng được dù trong một tích tắc rằng Voldermort dự tính sống cả đời hắn ở trường Hogwarts, nhưng thầy nghĩrằng hắn coi đây như một
chỗ để chiêu binh và là một nơi hắn có thể bắt đầu tự thành lập cho mình một quân đội.”
“Nhưng thưa thầy, hắn không được nhận về dạy ở trường à?”
“Không, hắn không được nhậ. Giáo sư Dippet nói với hắn là hắn còn quá trẻ ở tuổi mười tám, nhưng giáo sư mời hắn nộp đơn trở lại trong vài năm tới,
nếu đến lúc đó hắn còn muốn dạy học.”
“Thưa thầy, hắn cảm thấy sao về việc đó?” Harry ấp úng hỏi.
“Hết sức bực bội,” cụ Dumbledore nói. “Thầy đã khuyên giáo sư Armando chống lại sự bổ nhiệm đó – thầy không nêu ra những lý do mà thầy vừa nói với
con, bởi vìgiáo sư Dippet rất yêu mến Voldermort và bị thuyết phục vìvẻ chân thực của hắn. Nhưng thầy không muốn Chúa tể Voldermort trở lại ngôi
trường này và đặc biệt là trong một vị trícó quyền lực.”
“Thưa thầy, hắn muốn công việc nào ở trường? Hắn muốn dạy môn gì?”
Không biết bằng cách nào, nhưng Harry biết câu trả lời trước khi cụ Dumbledore đáp.
“Phòng chống nghệ thuật hắc ám. Môn đó lúc ấy do một vị giáo sư cao tuổi tên là Galatea Merythought giảng dạy, vị này dạy ở trường Hogwarts gần năm
mươi năm.
Vậy là Voldermort đến làm việc ở tiệm Borgin và Burkes và tất cả thầy cô giáo đã từng ngưỡng mộ hắn đều nói chuyện đó thiệt là phíphạm, một pháp sư
trẻ xuất sắc như thế mà làm việc trong một cửa hàng. Tuy nhiên, Voldermort không chỉ là một nhân viên giúp việc. Lịch sự, đẹp trai và khôn khéo, chẳng
bao lâu sau hắn được giao cho những công việc đặc biệt thuộc loại chỉ tồn tại ở một nơi như tiệm Borgin và Burkes , công việc mà, như con biết đó,
Harry, chuyên về những đồ vật mang đặc tính có quyền lực hùng mạnh và khác thường. Voldermort được mấy người hùn hạp cửa hàng phái đi thuyết
phục người ta chịu từ bỏ những đồ vật quígiá của mình để đem bán và hắn, theo những thông tin thầy thu thập được, đã làm việc này giỏi một cách khác
thường.”
“Con dám cá là hắn giỏi,” Harry nói, không kềm được.
“Ừ, khá giỏi,” cụ Dumbledore nói, với một nụ cười thoảng qua. “Và bây giờ là lúc chúng ta nghe gia tinh Hokey, gia tinh này làm việc cho một phù thủy rất
già và rất giàu có tên là Hepzibah Smith.”
Cụ Dumbledore dùng cây đũa phép gõ lên cái chai, nút chai bật ra và thầy rót mớ ký ức xoắn tít vô trong cái Tưởng Ký, vừa làm vừa nói, “Mời con đi
trước, Harry.”
Harry đứng dậy và một lần nữa nghiêng mình bên trên cái chất gợn sóng óng ánh bạc trong cái chậu đá. Nó rơi xuyên vô khoảng hư vô tăm tối và đáp
xuống một phòng khách trước mặt một bà già cực kỳ mập mạp, đội một bộ tóc giả vàng hoe được trao chuốt tỉ mỉ và mặc một bộ áo váy màu hồng rực
rỡ bay dập dờn quanh thân, tạo cho bà dáng vẻ của một cái bánh kem đang chảy. Bà đang nhìn vào một cái gương nhỏ cẩn châu báu và đánh phấn hồng
lên đôi má đã đỏ thắm bằng một bông thoa phấn khổng lồ, trong khi mụ gia tinh già nhất và nhỏ thó nhất mà Harry từng thấy, cố nhét đôi chân ú na ú núc
của bà vào đôi dép bằng vải sa tanh chật căng.
“Nhanh lên, Hokey!” Bà Hepzibah nói giọng hống hách. “Chàng nói chàng sẽ đến lúc bốn giờ, chỉ còn vài phút nữa thôi và chàng thìchưa bao giờ trễ!”
Bà cất kỹ cái bông thoa phấn trong khi mụ gia tinh sắp xếp đồ đạc cho ngăn nắp. Đầu mụ gia tinh cao không tới chỗ ngồi của cái ghế bà Hepzibah và lớp
da nhăn nheo mắng trên thân hình của mụ giống y như tấm vải trải giường nhàu nát mà mụ khoắc kiểu xếp nếp như tấm áo choàng thời La Mã cổ.
“Trông ta thế nào?” Bà Hepzibah hỏi, vừa quay đầu lại ngắm những góc cạnh khác nhau của gương mặt bà trong tấm gương.
“Thưa cô, dễ thương lắm,” mụ Hokey nói the thé.
Harry chỉ có thể cho rằng trong giao kèo của Hokey hẳn có ghi rằng mụ phải nói dối qua kẽ răng khi được hỏi câu này, bởi vìtheo ý kiến nó thìHepzibah
Smith còn khuya mới gọi là dễ thương.
Tiếng chuôn cửa reo leng keng và cả nữ chủ nhân lẫn mụ gia tinh đều nhảy dựng lên.
“Nhanh lên, nhanh lên, chàng đến rồi, Hokey!” Bà Hepzibah kêu lên và mụ gia tinh hối hả ra khỏi phòng, căn phòng bày biện đầy nhóc đồ đạc đến nỗi thiệt
khó mà biết được làm thế nào một ai đó có thể len lỏi đi giữa chúng mà không xô đổ ít nhất một tá món: nào là những cái tủ chất đầy những hộp sơn mài
nho nhỏ, những cái kệ xếp đầy những cuốn sách khắc nổi chữ vàng, những cái giá đỡ những quả địa cầu với quả cầu thiên văn và nhiều cây kiểng mọc
xum xuê trong mấy cái chậu bằng đồng. Thực ra, căn phòng trông như một sự pha tạp giữa một tiệm đồ cổ Pháp thuật và một nhà kiếng trồng cây.
Mụ gia tinh quay trở lại nội trong vài phút, theo sau là một chàng trai trẻ cao ráo mà Harry chẳng có chút khó khăn nào để nhận ra là Voldermort. Hắn mặc
đơn giản một bồ đồ đen; tóc có hơi dài hơn thuở còn trong trường một tívà hai má hõm sâu, nhưng tất cả đều thích hợp với hắn; trông hắn đẹp trai hơn
bao giờ hết. Hắn cẩn thận đi qua căn phòng chật ních với một phong thái cho thấy hắn đã từng đến đây nhiều lần trước và hắn cúi mình thấp xuống để
quệt môi lên bàn tay bé bỏng mập ù của bà Hepzibah.
“Tôi có mang hoa đến cho cô,” hắn nói nhỏ nhẹ, đưa ra một bó hoa hồng không biết lấy ở đâu.
“Chàng trai quá quắt này, cậu không nên làm như thế!” Bà già Hepzibah eo éo nói, mặc dù Harry để ý thấy bà đã để sẵn một cái bình không trên cái bàn
con gần nhất. “Cậu quả là làm hư gái già này, Tom à... ngồi xuống, ngồi xuống đây nào... Hokey đâu? À...”
Mụ gia tinh xẹt trở vào phòng, bưng theo một cái mâm đựng mấy cái bánh be bé mà mụ đặt cạnh cùi chỏ của nữ chủ nhân.
“Tự nhiên nhé, Tom,” bà Hepzibah nói, “tôi biết cậu thích bánh của tôi lắm. Thế nào, cậu khỏe không? Trông cậu xanh xao quá. Họ bắt cậu làm việc quá
độ ở cái tiệm đó, tôi đã nói thế cả trăm lần rồi...”
Voldermort mỉm cười một cách máy móc và bà Hepzibah thìmỉm cười điệu đàng.
“Sao, cậu vin cái cớ nào để đến thăm tôi lần này hở?” Bà hỏi, chớp chớp hàng mi.
“Ông Burke muốn đưa ra một giá cao hơn cho bộ áo giáp do yêu tinh chế tạo,” Voldermort nói. “Năm trăm Galleon, ông ấy thấy giá đó cao hơn giá phải
chăng...”
“Ấy, ấy, đừng gấp gáp như vậy, kẻo tôi sẽ ngỡ là cậu chỉ đến đây vìmấy thứ đồ đạc rẻ tiền của tôi thôi!” bà Hepzibah phụng phịu trề môi.
“Tôi được lệnh đến đây vì mấy thứ đó,” Voldermort khẽ nói. “Thưa cô, tôi chỉ là một trợ lý nghèo, phải làm những gì mình được sai bảo. Ông Burke muốn
tôi hỏi thăm...”
“Ôi, ông Burke, xù đi!” bà Hepzibah nói, phẩy bàn tay bé bỏng. “Tôi muốn cho cậu xem một món đồ mà tôi chưa bao giờ cho ông Burke xem! Cậu giữ bí
mật được không, Tom? Cậu hứa với tôi là cậu sẽ không kể lại cho ông Burke biết là tôi có cái đó chứ? Ông ta sẽ chẳng bao giờ để cho tôi được yên
nếu biết là tôi đã cho cậu xem và tôi sẽ không bán cho ông Burke hay bất cứ ai! Nhưng mà cậu, Tom à, cậu sẽ đánh giá cao món đồ này do lịch sử của
nó, chứ không phải căn cứ vào số lượng Galleon mà cậu có thể kiếm được nhờ bán nó.”
“Tôi sẽ vui sướng được xem bất cứ thứ gìcô Hepzibah cho tôi xem,” Voldermort nhẹ nhàng nói và bà Hepzibah lại khúc khích cười kiểu con gái mới lớn.
“Tôi sẽ bảo Hokey đem nó ra giùm... Hokey, mi ở đâu? Ta muốn cho cậu Riddle đây xem báu vật đẹp nhất của ta.. Thực ra, cứ đem hết cả hai ra, nhân
tiện mi lấy cái đó...”
“Thưa cô đây ạ,” mụ gia tinh éo éo nói và Harry thấy hai cái hộp da, cái này đè lên cái kia, di chuyển ngang qua căn phòng như thể chúng tự di động, mặc
dù nó biết mụ gia tinh tíhon đang đội hai cái hộp trên đầu đi giữa những cái bàn, những nệm gác chân, những ghế đẩu.
“Xem này,” bà Hepzibah vui vẻ nói, vừa nhấc hai cái hộp ra khỏi đầu mụ gia tinh, đặt chúng lên đùi bà và chuẩn bị mở cái trên cùng ra, “tôi tin là cậu sẽ
thích cái này, Tom à... Ôi, nếu gia đình tôi mà biết tôi cho cậu xem... họ thèm thuồng mong muốn được lấy những thứ này biết bao!”
Bà mở nắp hộp ra. Harry nhích tới trước một tíđể nhìn cho rõ hơn và thấy một cái gìgiống như chiếc cúp bằng vàng có hai cái quai chạm khắc tỉ mỉ.
“Tôi không biết cậu có biết cái này là gì không, Tom? Cầm nó lên đi, nhìn cho kỹ vào nhé!” bà Hepzibah thì thầm và Voldermort đưa bàn tay với những
ngón tay dài nhấc cái cúp ra khỏi đám bao bì bằng lụa êm ấm. Harry nghĩ nó nhìn thấy một tia sáng đỏ lóe lên trong đôi mắt đen cảu Voldermort. Vẻ thèm
muốn của hắn được phản chiếu một cách tò mò trên gương mặt bà Hepzibah , chỉ khác là đôi mắt nhỏ hí của bà thì đắm đuối nhìn nét đẹp trai của
Voldermort.
“Một gia huy,” Voldermort lẩm bẩm, vừa xem xét những chữ khắc trên cái cúp. “Vậy ra đây là...?”
”...di vật của Helga Hufflepuff, như cậu biết quá rõ, anh chàng thông minh ạ!“ bà Hepzibah nói, vừa chồm tới trước làm nổi lên một tiếng phựt của dây nịt
áo trong bị đứt, mà thực ra bà chồm tới là để bẹo cái má hóp của Voldermort. “Chứ tôi chưa nói cho cậu biết là tôi thuộc hàng con cháu họ xa sao? Cái
này đã được lưu truyền trong gia đình qua bao nhiêu năm. Dễ thương ghê há? Và nó được coi là có đủ thứ quyền phép nữa, nhưng tôi chưa bao giờ thử
qua hết các quyền phpes đó, tôi chỉ giữ nó cho được an toàn và xinh xắn ở đây...”
Bà gỡ cái cúp ra khỏi những ngón tay dài của Voldermort và đặt lại nó vào trong hộp trở lại; bà quá chăm chú vào việc đặt cẩn thận cái cúp vào đúng vị
trid cũ của nó nên không để ý thấy một thoáng mờ ám lướt qua gương mặt Voldermort khi cái cúp được cất đi.
“Và bây giờ,” bà Hepzibah vui vẻ nói, “Hokey đâu? À phải, mi ở đây... đem cái này cất đi nào, Hokey.”
Mụ gia tinh ngoan ngoãn đội cái cúp trong cái hộp đi và bà Hepzibah hướng sự chú ý vào cái hộp dẹp hơn trên đùi bà.
“Tôi tin cậu sẽ thích cái này thậm chíhơn cái kia đấy, Tom ạ,” bà thìthầm. “Chồm tới thêm một tínào, chàng trai yêu quí, để cậu có thể thấy... Dĩ nhiên, ông
Burke biết tôi có món này, tôi đã mua nó của ông ta mà và tôi dám nói là ông ta muốn lấy lại nó một khi tôi khuất núi...”
Bà đẩy nhẹ cái móc khóa bạc chạm trổ tinh vi và cái nắp hộp nhẹ nhàng bật mở. Trên nền nhung đỏ thắm êm mượt là một mặt dây chuyền hình trái tim
bằng vàng y.
Voldermort đưa tay ra, lần này không đợi mời và cầm lấy cái đó giơ lên ánh sáng, chăm chú nhìn.
“Huy hiệu Sly,” hắn lặng lẽ nói, khi ánh sáng chờn vờn trên một chữ S uốn éo như rắn và được chạm trổ tinh xảo.
“Đúng vậy!” bà Hepzibah nói, tỏ ra hớn hở trước ánh mắt sững sờ của Voldermort đăm đăm nhìn cái mặt dây chuyền. “Tôi đã phải trả cho cái này cả núi
vàng, nhưng tôi không thể bỏ qua, một vật thực sự quí giá như món đồ này tất phải có trong bộ sưu tập của tôi. Ông Burke đã mua cái này, hiển nhiên từ
một mụ đàn bà rách rưới dường như đã đánh cắp nó những chẳng biết gìđến giá trị thực sự của nó...”
“Cậu có sao không đấy, Tom à?”
“Ờ không,” Voldermort nói nhỏ. “Không, tôi vẫn khỏe...”
“Tôi nghĩ... nhưng tôi cho là có lẽ do ánh sáng tạo ra vẻ như vậy thôi...” bà Hepzibah nói, có vẻ khó chịu và Harry đoán bà ta cũng đã nhìn thấy tia sáng đỏ
đã nhất thời hiện ra trong mắt Voldermort. “Đây, Hokey, đem cất đi và khóa lại cẩn thận... dùng bùa chú thông thường...”
“Đến lúc đi rồi, Harry,” Cụ Dumbledore khẽ nói và khi mụ gia tinh đeo nơ nhỏng nhảnh đội mấy cái hộp đi, cụ Dumbledore nắm lấy cánh tay Harry một lần
nữa và cả hai cũng bay lên xuyên qua cõi lãng quên và trở lại văn phòng cụ.
“Bà Hepzibah Smith chết hai ngày sau cái cảnh nho nhỏ ấy,” cụ Dumbledore nói, ngồi trở lại chỗ của cụ và ra dấu bảo Harry cũng nên làm tương tự. “Gia
tinh Hokey bị Bộ kết án về tội ngộ sát nữ chủ nhân do bỏ nhầm thuốc độc vào ly ca cao để bà ta uống vào buổi tối.”
“Không lẽ nào!” Harry giận dữ nói.
“Thầy thấy chúng ta có cùng suy nghĩ,” cụ Dumbledore nói. “Chắc chắn, có nhiều điểm tương đồng giữa cái chết này và cái chết của những người trong
gia đình Riddle. Trong cả hai trường hợp, đều có người nào đó bị đổ tội, người nào đó có trínhớ rõ ràng về việc gây án...”
“Rồi Hokey thú tội?”
“Mụ nhớ là đã bỏ cái gìđó vô trong ly ca cao của nữ chủ nhân, cái gìđó hóa ra không phải là đường, mà là một chất độc chết người ít được biết đến,” cụ
Dumbledore nói. “Người ta kết luận là mụ gia tinh không cố ý làm điều đó, nhưng vìđã quá già và lẩn thẩn...”
“Voldermort đã điều chỉnh trínhớ của mụ ấy, cũng giống như hắn đã làm như vậy đối với Morfin!”
“Đúng, đó cũng là kết luận của thầy,” cụ Dumbledore nói. “Và cũng giống như trường hợp Morfin, Bộ đã bị lái về hướng nghi ngờ Hokey...”
“...bởi vìmụ là một gia tinh,” Harry nói. Hiếm khi nào nó thấy cảm thông bằng lúc này đối với cái H.V.Đ.C.Q.L.G.T mà Hermione đã thành lập.
“Chính xác,” cụ Dumbledore nói. “Mụ đã già, mụ thú nhận đã pha ly ca cao đó và không ai ở Bộ mất công điều tra xa hơn. Giống như trường hợp của
Morfin, khi thầy lần ra được dấu vết mụ gai tinh và tìm cách thu hồi cái ký ức này thì mụ cũng gần như tàn đời rồi. Nhưng ký ức của mụ, dĩ nhiên, không
chứng tỏ điều gìngoại trừ chuyện Voldermort có biết đến sự tồn tại của cái cúp và cái mặt dây chuyền.
Khi Hokey bị kết án rồi, gia đình của bà Hepzibah mới nhận ra rằng hai trong số những món của cải quígiá nhất của bà ta đã biến mất. Mất một thời gian
khá lâu họ mới khẳng định được điều này, bởi vìbà ta có rất nhiều chỗ giấu của, luôn luôn bo bo canh giữ bộ sưu tập của mình. Nhưng trước khi họ chắc
chắn rằng cái cúp và cái mặt dây chuyền đều đã biến mất, thì người giúp việc ở tiệm Borgin và Burkes, chàng trai trẻ vẫn thường xuyên thăm viếng bà
Hepzibah và quyến rũ bà rất tài tình, đã xin nghỉ việc và biến mất. Chủ của hắn không biết hắn đã đi đâu; họ cũng chỉ ngạc nhiên như những người khác
về sự biến mất của hắn. Và đó là lần cuối cùng người ta nghe hay thấy Rom Riddle, trong một thời gian rất dài.
Bây giờ,” cụ Dumbledore nói, “nếu không phiền con, Harry, thầy muốn tạm dừng một lần nữa để lưu ý con đến một số điểm trong câu chuyện của chúng
ta. Voldermort đã phạm tội sát nhân một lần nữa; thầy không biết liệu đó có phải là tội ác đầu tiên kể từ khi hắn giết cả gia định Riddle hay không, nhưng
thầy nghĩ vậy. Lần này, như con đã thấy, hắn không giết người để trả thù nữa mà để chiếm đoạt. Hắn muốn có hai món cổ ngoạn huyền thoại mà bà già
mrr muội khốn khổ ấy đã cho hắn xem. Giống như hắn đã từng cướp đoạt của những đứa trẻ khác trong viện mồ côi, cũng giống như hắn đã cướp chiếc
nhẫn của cậu Morfin của hắn, vậy là giờ đây hắn đã đào tẩu với cái mặt dây chuyền và cái cúp của Hepzibah.”
“Nhưng,” Harry cau mày nói, “có vẻ điên rồ... Liều mọi thứ, bỏ cả việc làm, chỉ vìnhững cái đó...”
“Có lẽ điên rồ đối với con chứ không điên chút nào đối với Voldermort,” cụ Dumbledore nói. “Thầy hy vọng khi nào tới lúc thì con sẽ hiểu những đồ vật cụ
thể đó có ý nghĩa như thế nào đối với hắn, Harry à, nhưng con phải thừa nhận là cũng không khó tưởng tượng lắm, rằng hắn coi cái mặt dây chuyền, ít
nhất là cái đó, phải là của hắn.”
“Cái mặt dây chuyền thìcó thể,” Harry nói, “nhưng tại sao hắn lại lấy cả cái cúp?”
“Đó là di vật của một sáng lập viên khác của trường Hogwarts,” cụ Dumbledore nói. “Thầy nghĩ hắn vẫn còn nặng lòng với ngôi trường và hắn không thể
nào cưỡng được lòng ham muốn một di vật siêu phàm đến khó tin nổi trong lịch sử trường Hogwarts. Thầy nghĩ còn có những lý do khác nữa... thầy hy
vọng có thể trình bày với con khi tới đúng thời điểm.
Và bây giờ đến cái ký ức cuối cùng trong bộ sưu tập mà thầy phải cho con xem, ít nhất là cho đến khi con xoay xở lấy được ký ức của giáo sư Slughorn
cho chúng ta. Ký ức này cách chuyện xảy ra trong ký của Hokey mười năm, trong suốt mười năm đó chúng ta chỉ có thể giả đoán những gì Chúa tể
Voldermort đã làm...”
Harry đứng dậy một lần nữa khi cụ Dumbledore đổ hết cái ký ức cuối cùng vô trong chậu Tưởng Ký.
“Thưa thầy đó là ký ức của ai vậy?” Nó hỏi.
“Của thầy,” cụ Dumbledore nói.
Và Harry lặn theo cụ Dumbledore sâu vô khối bạc sóng sánh, đáp xuống đúng cái văn phòng mà hai thầy trò vừa mới rời khỏi. Kìa con phượng hoàng
Fawkes đang sung sướng ngủ vùi trên nhánh cây và kia đằng sau cái bàn làm việc là cụ Dumbledore, trông rất giống cụ Dumbledore đang đứng bên
cạnh Harry lúc này, nhưng cả hai bàn tay cụ còn lành lặn, không bị thương tổn và gương mặt của cụ có lẽ ít nếp nhăn hơn. Điểm khác biệt giữa văn phòng
này với văn phòng thời hiện tại là trong quá khứ thìcó tuyết rơi; những đốm tuyết li ti màu lam nhạt bay lơ lửng trong bóng đêm bên ngoài cửa sổ và đọng
lại thành lớp dày trên gờ cửa sổ bên ngoài.
Cụ Dumbledore trẻ hơn này dường như đang chờ đợi điều gì đó và quả đúng như vậy, chỉ một lát sau khi hai thầy trò đến, có một tiếng gõ lên cánh cửa
và cụ Dumbledore nói, “Mời vào.”
Harry thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc bị nén lại vội vàng. Voldermort đã bước vào phòng. Nét mặt hắn không phải là nét mặt mà Harry đã nhìn thấy hiện
ra từ cái vạc khổng lồ cách đây gần hai năm: nó chưa hẳn đã giống rắn, đôi mắt chưa đỏ tía, bộ mặt chưa trơ trơ như mặt nạ, nhưng hắn đã không còn là
chàng Tom Riddle đẹp trai. Dường như mặt hắn đã bị phỏng hay bị làm nhòa đi; Nét mặt hắn căng như bôi sáp và méo mó quái đản, tròng trắng của đôi
mắt giờ đây mang cái nhìn khát máu thường xuyên, mặc dù đôi con ngươi chưa bị chẻ đôi như sau này theo Harry biết. Hắn đang mặc một tấm áo chùng
đen dài và mặt hắn nhợt nhạt như tuyết đọng long lanh trên vai.
Cụ Dumbledore ngồi sau bàn làm việc không tỏ vẻ ngạc nhiên gìcả. Hiển nhiên cuộc viếng thăm này đã có hẹn trước.
“Chào em, Tom,” cụ Dumbledore nói, vẻ dễ dãi. “Em không ngồi sao?”
“Cám ơn,” Voldermort nói và hắn ngồi xuống cái ghế mà cụ Dumbledore phác tay chỉ - đúng cái ghế mà chỉ thoáng nhìn Harry cũng nhận ra là cái ghế nó
vừa để trống trong thời hiện tại. “Tôi nghe ông đã trở thành hiệu trưởng,” hắn nói và giọng hắn hơi cao hơn và lạnh hơn trước đây. “Một sự lựa chọn xứng
đáng.”
“Thầy mừng là em tán thành,” cụ Dumbledore mỉm cười nói. “Thầy mời em uống nước nhé?”
“Thế thìtốt lắm,” Voldermort nói. “Tôi vừa làm một hành trình dài.”
Cụ Dumbledore đứng dậy và lướt tới bên cái tủ mà thầy để cái Tưởng ký, nhưng thời đó lại để đầy những chai rượu. Sau khi đưa cho Voldermort một ly
rượu và tự rót cho mình một ly, thầy trở lại chỗ ngồi sau bàn làm việc. “Vậy là, Tom... nhân lý do gìmà thầy có cái hân hạnh này?”
Voldermort không trả lời ngay, mà chỉ hớp từng ngụm rượu.
“Người ta không còn gọi tôi là “Tom nữa,” hắn nói. “Bây giờ tôi được biết đến như...”
“Thầy có biết danh hiệu mà người ta gọi em,” cụ Dumbledore nói, vẫn mỉm cười thoải mái. “Nhưng thầy e là đối với thầy, em vẫn luôn là Tom Riddle. Đó
là một trong những điều dễ sùng nhất với các ông giáo già. Thầy e rằng họ không bao giờ quên hẳn thuở ban đầu trẻ trung của công việc mà họ đã gánh
vác cả đời.”
Cụ nâng ly lên như thể chúc tụng Voldermort, gương mặt hắn vẫn trơ trơ không biểu cảm. Tuy nhiên, Harry cảm thấy không khí trong phòng thay đổi một
cách tinh tế: việc cụ Dumbledore từ chối xưng hô bằng cái tên Voldermort tự chọn là sự từ chối việc Voldermort ra điều kiện cho buổi gặp mặt và Harry
có thể nói Voldermort cũng hiểu như vậy.
“Tôi ngạc nhiên là ông còn ở lại đây lâu như vậy,” Voldermort nói sau một lúc im lặng. “Tôi luôn luôn không hiểu tại sao một pháp sư như ông lại không
bao giờ ước ao rời khỏi trường.”
“À,” cụ Dumbledore nói, vẫn mỉm cười, “đối với một pháp sư như bản thân thầy, thì không có điều gì quan trọng hơn truyền lưu những kỹ năng cổ điển,
giúp sức mài giũa những khối óc non nớt. Nếu thầy nhó đúng, có lần em cũng đã nhìn thấy sức hấp dẫn của nghề giáo.”
“Tôi vẫn còn thấy,” Voldermort nói. “Tôi chỉ không hiểu tại sao ông – người rất thường được Bộ hỏi xin ý kiến và người đã hai lần, tôi nghĩ vậy, được mời
ra giữ chức Bộ trưởng...”
“Thực ra thì ba lần, nếu tính đến lần mới đây,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng công việc ở Bộ chưa bao giờ cuốn hút thầy như một sự nghiệp. Một điểm nữa
mà thầy nghĩlà thầy trò ta giống nhau.”
Voldermort khẽ nghiêng đầu, không mỉm cười và hớp thêm một ngụm rượu. Cụ Dumbledore không phá vỡ sự im lặng lan tỏa giữa hai người trong lúc
này, mà, với một vẻ chờ đợi thoải mái, cụ chờ cho Voldermort nói trước.
Một lúc sau hắn nói, “Tôi đã trở về, có lẽ trễ hơn thời gian giáo sư Dippet mong đợi... nhưng đằng nào thì tôi cũng đã trở về để một lần nữa thỉnh cầu cái
điều mà có lần ông nói tôi còn quá trẻ không thể làm được. Tôi đến gặp để thình cầu ông cho phép tôi trở về tòa lâu đài, để dạy. Tôi nghĩông ắt biết là tôi
đã trải nhiều và cũng đã làm được nhiều kể từ khi rời khỏi nơi này. Tôi có thể chỉ ra và dạy bảo học sinh của ông những điều mà chúng không thể tiếp thu
được từ bất cứ một pháp sư nào khác.”
Cụ Dumbledore cân nhắc nhìn Voldermort qua cái ly rượu của cụ một lúc rồi nói.
“Phải, thầy chắc chắn biết là em đã trải nhiều và làm nhiều kể từ khi em rời trường,” cụ nói nhỏ nhẹ. “Tiếng đồn về việc làm của em đã lan tới trường, Tom
à. Thầy phải xin lỗi là thầy chỉ tin chừng một nửa.”
Vẻ mặt Voldermort vẫn dửng dưng khi hắn nói, “Sự vĩ đại gây ra đố kỵ, đố kỵ sinh ra hận thù, hận thù đẻ ra dối trá. Ông ắt biết điều này chứ, ông
Dumbledore.”
“Em gọi những gìem đã làm là “vĩđại” à?” Cụ Dumbledore tế nhị nói.
“Đương nhiên, ” Voldermort nói và mắt hắn dường như cháy đỏ lên. “Tôi đã thínghiệm, tôi đã đẩy những giới hạn của Pháp thuật ra xa hơn, có lẽ, xa hơn
mức mà chúng từng đạt tới trước đây... ”
“...chỉ một số loại pháp thuật thôi,” cụ Dumbledore nhẹ nhàng sửa sai hắn. “Một số thôi. Còn một số khác, em vẫn còn... xin lỗi em nhé... dốt nát một cách
đáng thương.”
Lần đầu tiên, Voldermort mỉm cười. Một nụ cười hiểm độc, mắt long lên, mặt căng ra, trông đáng sợ hơn cả giận dữ.
“Lại lý lẽ cũ mèm,” hắn nói nhỏ. “Nhưng ông Dumbledore à, tôi chưa hề tìm thấy điều gì treent hế giới này chứng minh tuyên ngôn nổi tiếng của ông rằng
tình thương yêu mạnh hơn bất cứ loại Pháp thuật nào.”
“Hay tại em tìm kiếm nó không đúng chỗ,” cụ Dumbledore giả thuyết.
“Hừ, vậy thì, còn chỗ nào tốt hơn chỗ này, trường Hogwarts, để tôi bắt đầu lại cuộc tùm kiếm mới?” Voldermort nói. “Ông có cho tôi trở về không? Ông có
cho tôi chia sẻ kiến thức của tôi với học sinh của ông không? Tôi giao bản thân tôi và tài năng của tôi cho ông để tùy nghi sử dụng. Tôi là người dưới
quyền điều khiển của ông.”
Cụ Dumbledore nhướn đôi mày lên. “Và những người dưới quyền điều khiển của em sẽ ra sao? Điều gì sẽ xảy ra cho những kẻ tự gọi mình là – hoặc
được đồn đại là – Tử thần thực tử?”
Harry có thể nói Voldermort đã không ngờ cụ Dumbledore biết đến cái tên gọi đó; Nó nhìn thấy mắt của Voldermort một lần nữa nhá lên tia sáng đỏ và cái
lỗ mũi tựa như cái khe nở hểnh ra.
Sau một lúc lặng thinh, hắn nói, “Tôi chắc chắn là các bạn tôi sẽ hoạt động được mà không cần tôi.”
“Thầy mừng khi nghe em coi họ là bạn bè,” cụ Dumbledore nói. “Thầy đã có cảm tưởng họ thuộc hàng tôi tớ của em thìđúng hơn.”
“Ông nhầm rồi.” Voldermort nói.
“Vậy nếu tối nay thầy đi tới quán Đầu Heo, thầy sẽ không gặp một nhóm trong đám bạn bè của em – nào là Nott, Rosier, Muldber, Dolohov – đang ngồi
đợi em quay trở lại với chúng chứ? Quả là những người bạn tận tụy, cùng em đi xa đến thế trong một đêm tuyết rơi, chỉ để chúc em may mắn trong cố
gắng đạt được một chỗ dạy học.”
Chắc chắn là sự hiểu biết tỉ mỉ của cụ Dumbledore về những kẻ cùng đi với Voldermort đã không được hắn vui vẻ đón nhận; Tuy nhiên, hắn trả đũa gần
như ngay tức thì.
“Ông quả là luôn luôn thông suốt mọi sự, ông Dumbledore à.”
“Ồ không, chỉ cần thân thiết với những người pha rượu ở các quán địa phương thôi,” cụ Dumbledore nhẹ nhàng nói. “Bây giờ, Tom à...”
Cụ Dumbledore đặt cái ly đã cạn rượu của cụ lên bàn và ngồi thẳng lưng trên ghế, mấy đầu ngón tay chụm vào nhau trong một điệu bộ rất đặc biệt.
“Chúng ta hãy thẳng thắn nói với nhau. Tại sao đêm nay em đến đây, với bọn tay sai quanh quẩn, để thỉnh cầu một công việc mà cả thầy và em đều biết là
em không muốn làm?”
Voldermort tỏ ra ngạc nhiên một cách lạnh nhạt. “Một công việc mà tôi không muốn làm à? Ngược lại ông Dumbledore à, tôi muốn làm công việc đó lắm.”
“À, em muốn trở lại trường Hogwarts, nhưng em đâu có tha thiết dạy học hơn thuở em mười tám tuổi. Em muốn gì hở, Tom? Tại sao không thử một lafn
đưa ra lời yêu cầu thẳng thắn?”
Voldermort nhếch mép cười nhạo. “Nếu ông không muốn cho tôi một chỗ dạy...”
“Dĩ nhiên là thầy không cho,” cụ Dumbledore nói. “Và thầy không hề nghĩ em trông mong thầy sẽ cho. Dù sao đi nữa, em đã đến đây, em đã yêu cầu, em
ắt hẳn có một mục đích.”
Voldermort đứng dậy. Trông hắn ít giống Tom Riddle hơn bao giờ hết, mặt hắn dày lên cơn thịnh nộ.
“Đây là lời cuối cùng của ông à?”
“Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói, cụ cũng đứng dậy.
“Vậy thìông và tôi không còn gìđể nói với nhau nữa.”
“Đúng, không còn gì,” cụ Dumbledore nói và một nỗi buồn mênh mông lan tỏa trên gương mặt cụ. “Đã qua lâu rồi cái thời thầy có thể làm em sợ bằng
cách đốt tủ áo của em và buộc em phải bồi thường lại những hành động vô đạo đức của em. Nhưng thầy ước gìthầy có thể, Tom à... Thầy ước gìthầy có
thể...”
Trong một giây, Harry suýt hét lên lời cảnh giác không cần thiết: nó chắc chắn là Voldermort thọc tay vào túi áo nắm lấy cây đũa phép; nhưng khoảnh khắc
đó qua liền, Voldermort đã quay ra, cánh cửa đang đóng lại và hắn đã đi mất.
Harry cảm thấy bàn tay của cụ Dumbledore lại nắm chặt cánh tay nó và chỉ một giây sau hai thầy trò đã lại đứng hầu như cũng một chỗ trước đó, nhưng
không có tuyết đọng trên gờ cửa sổ và bàn tay cụ Dumbledore một lần nữa trông như chết rồi, khô quắt thâm đen.
“Thưa thầy, tại sao?” Harry nói ngay, vừa ngước lên nhìn vào gương mặt cụ Dumbledore. “Tại sao hắn trở về? Thầy có bao giờ tìm ra lý do không?”
“Thầy có những ý nghĩ,” cụ Dumbledore nói, “nhưng chỉ là ý nghĩthôi.”
“Thưa thầy, ý nghĩgìạ?”
“Thầy sẽ nói cho con biết, Harry à, khi con đã lấy được ký ức của giáo sư Slughorn,” cụ Dumbledore nói.
“Khi con có được mảnh cuối cùng của trò chơi lắp hình, thầy hy vọng, mọi thứ sẽ rõ ràng... đối với cả con lẫn thầy.”
Harry vẫn còn sôi sục sự tò mò và mặc dù cụ Dumbledore đã đi ra cửa và mở sẵn cho nó, nó vẫn không chịu đi ngay.
“Thưa thầy, có phải hắn lại muốn dạy môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám không? Hắn không hề nói...”
“À, hắn chắc chắn là muốn dạy môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám,” cụ Dumbledore nói. “Hậu quả của cuộc gặp gỡ vừa rồi đã chứng minh điều đó.
Con thấy đó, kể từ khi thầy từ chối thỉnh cầu của Voldermort, chúng ta không bao giờ có thể giữa được một giáo sư dạy môn Phòng chống nghệ thuật
hắc ám lâu hơn một năm.”
Chương 21
Phòng bất khả tri
Harry suy nghĩ nát óc nguyên một tuần lễ sau đó để tìm ra cách thuyết phục được Thầy Slughorn giao bản ký ức thật, nhưng đầu óc nó vẫn chẳng nảy ra
cái gì đáng được coi là sáng kiến cả, nên nó đành phải làm cái mà dạo này nó làm hơi thường xuyên mỗi khi không biết phải làm sao, ấy là: nghiền
ngẫm cuốn sách Độc dược, hy vọng Hoàng tử nguệch ngoạc điều gìđó có ích bên lề sách, như chàng đã làm bao phen trước đó.
“Bồ không kiếm được gìtrong đó đâu,” Hermione kiên quyết nói vào một buổi tối chủ nhật.
“Đừng gây sự, Hermione”. Harry nói, “Nếu không nhờ Hoàng tử, giờ đây Ron chẳng còn được ngồi đây đâu.”
“Nó sẽ vẫn còn ngồi đây nếu bồ chịu nghe lời Thầy Snape từ hồi năm thứ nhất,” Hermione sẵng giọng nói.
Harry phớt lờ Hermione. Nó vừa tìm được một câu thần chú, (Cắt sâu mãi mãi!), được viết tháu bên dưới một dòng chữ rất đáng ngẫm nghĩ, “Dành cho
kẻ thù”. Nó ngứa ngáy muốn thử ngay, nhưng nghĩtốt nhất là đừng làm trước mặt Hermione. Nó bèn lén xếp góc trang sách để làm dấu.
Tụi nó đang ngồi bên lò sưởi trong phòng sinh hoạt chung; những đứa khác còn thức ddwwdu là đám bạn học năm thứ sáu. Trước đó, khi tụi nó trở về
sau bữa ăn tối và trông thấy một thông báo mới trên bảng tin về ngày kiểm tra Độn thổ, đứa nào cũng xôn xao hồi hộp. Những ai đủ mười bảy tuổi trước
hay đúng vào ngày kiểm tra đầu tiên, ngày hăm mốt tháng tư, sẽ có thể chọn ghi danh theo học những buổi luyện tập thêm được tổ chức ở làng
Hogsmeade (có sự giám sát nghiêm ngặt).
Ron phát hoảng khi đọc thông báo này; nó vẫn chưa biết cách độn thổ và lo sốt vó là nó chưa sẵn sàng để dự kỳ kiểm tra.
Hermione đã độn thổ được hai lần nên hơi tự tin hơn một chút, còn Harry thì bốn tháng nữa mới đủ mười bảy tuổi, nên dù có sẵn sàng hay chưa thì cũng
không thể dự thi.
“Nhưng ít ra thìbồ cũng có thể độn thổ!” Ron nói giọng căng thẳng. “Bồ sẽ chẳng gặp khó khăn gìvào tháng bảy tới!”
“Mình chỉ mới làm được một lần,” Harry nhắc Ron; trong buổi học trước nó rốt cuộc cũng tìm được cách biến mất rồi hiện hình trở lại bên trong cái vòng
cảu nó.
Vì đã lãng phí quá nhiều thì giờ giãi bày ra miệng nỗi lo lắng về chuyện Độn thổ, nên Ron giờ đây vẫn còn phải khốn khổ làm cho xong bài luận văn khó
độc địa của Thầy Snape, trong khi Harry và Hermione đã xong từ đời tám hoánh. Harry hoàn toàn yên chí sẽ bị điểm thấp bài này bởi vì nó không đồng ý
với Thầy Snape về cách thức tốt nhất để khắc phục bọn giám ngục, nhưng nó cóc cần: bây giờ đối với nó ký ức cuat Thầy Slughorn mới là điều quan
trọng nhất.
“mình nói cho bồ biết nhé, cái gã Hoàng tử ngu xuẩn đó sẽ không thể giúp được gì bồ trong chuyện này đâu, Harry!” Hermione nói, giọng to hơn. “Chỉ có
một cách ép buộc người ta làm điều bồ muốn, ấy là ếm bùa Độc đoán, mà chuyện đó thìbất hợp pháp...”
“Ừ, biết rồi, khổ lắm, cám ơn.” Harry nói, không rời mắt khỏi cuốn sách. “Chính vì vậy mà mình đang kiếm cách khác, một độc dược hay thần chú nào
đó...”
“Bồ đang đi trật hướng rồi,” Hermione nói. “Thầy Dum nói là chỉ có bồ mới lấy được ký ức đó. Điều đó tức có nghĩa là bồ có thể thuyết phục Thầy
Slughorn bằng một cách mà những người khác không thể làm được. Cách đó nhất định không phải là lén bỏ thuốc mê cho thầy, vìai cũng có thể làm việc
đó...”
“Từ “tham chiến” đánh vần như thế nào nhỉ?” Ron vừa nói vừa lắc mạnh cây viết lông ngỗng vừa trợn mắt nhìn tờ giấy da của nó. “Đâu phải T-H-U-M...”
“Không, trật rồi,” Hermione nói, kéo bài luận văn của Ron về phía mình. “Và từ “điểm” cũng không phải bắt đầu bằng L-I-M... Bồ đang dùng loại viết gì
vậy?”
“Một trong những cây viết Tự-kiểm-tra-chính-tả của anh Fred và George, nhưng mình nghĩcó lẽ bùa hết linh rồi.”
“Ừ, chắc vậy,” Hermione nói, chỉ vào cái đề bài luận văn của Ron, “bởi vì đề bài thầy ra cho tụi mình là cách ứng phó với bọn giám ngục, chứ không phải
bọn Dám-đục và mình cũng không nhớ là bồ có khi nào đổi tên thành ra “Roonil Wazlib” không.”
“Đâu có!” Ron nói, kinh hoàng trợn mắt ngó tờ giấy da. “Đừng có nói là mình phải viết lại hết cả bài quỉ sứ này nghen!”
“Không sao, tụi mình có thể sửa lại,” Hermione nói, kéo bài luận văn về phía cô bé và rút cây đũa phép ra.
“Mình thương bồ quá, Hermione,” Ron nói, ngồi thừ xuống ghế, mệt mỏi dụi mắt. Hermione hơi ửng hồng nhưng chỉ nói, “Đừng có để cho Lavender nghe
bồ nói vậy.”
“Không,” Ron nói với hai bàn tay của nó. “Hay là mình cứ để cho cô ta nghe, may ra cô ta cho mình de.”
“Tại sao bồ không cho cô ta de nếu bồ muốn gnhir chơi?” Harry hỏi.
“Bồ chưa từng bỏ rơi ai, đúng không?” Ron nói. “Bồ với Cho chỉ...”
“Ừ, đại khái là chia tay thôi,” Harry nói.
“Ước gì mình với Lavender cũng chia tay,” Ron rầu rĩ nói và ngắm Hermione lặng lẽ gõ đầu cây đũa phép của cô bé lên từng chữ trật chính tả để những
chữ này tự sửa cho đúng trên trang giấy. “Nhưng mình càng gợi ý chia tay thì cô ta lại càng bám chặt hơn. Chẳng khác gì mình bị bồ bịch với một con
bạch tuộc khổng lồ.”
Hai mươi phút sau, Hermione đưa trả lại bài luận văn của Ron và nói, “Xong.”
“cám ơn vô cùng,” Ron nói. “Mình có thể mượn cây viết cảu bồ để làm nốt phần kết luận không?”
Cho tới lúc ấy Harry vẫn chưa tìm thấy cái gìxài được trong những ghi chép của Hoàng tưt Lai, nó bèn ngước nhìn quanh và nhận thấy chỉ còn ba đứa nó
trong phòng sinh hoạt chung; Seamus vừa mới đi về phòng ngủ, sau khi nguyền rủa Thầy Snape và bài luận văn thầy cho. Những aam thanh duy nhất còn
vang lên là tiếng lửa reo tí tách trong lò sưởi và tiếng Ron hí hoáy viết ddaonj văn cuối cùng về bọn giám ngục bằng cây viết lông ngỗng của Hermione.
Harry vừa gấp lại cuốn sách của Hoàng tử Lai, còn đang ngáp thì...
Cạch!
Hermione vuột miệng một tiếng rú nho nhỏ; Ron làm văng mực khắp bài luận văn mới ráo mực của nó và Harry kêu lên,
“KreacHermione!”
Con gia tinh cúi gập mình lại và hầu chuyện với mấy ngón chân xương xẩu của nó.
“Chủ nhân nói người muốn nghe báo cáo thường xuyên về những gìcậu malfoy đang làm, cho nên KreacHermione đến để...”
Cạch!
Dobby xuất hiện bên cạnh KreacHermione, đội lệch cái nón bình tích. “Thưa cậu Harry Potter, Dobby cũng có giúp đỡ!” Con gia tinh thứ hai léo nhéo nói,
vừa liếc cho KreacHermione một ánh mắt bực bội. “Và KreacHermione nên nói cho Dobby biết khi nào hắn đến gặp Harry Potter để hai bên cùng làm
bản tường trình!”
“Cái gìđây?” Hermione hỏi, vẫn còn kinh ngạc về sự xuất hiện thình lình của hai con gia tinh. “Chuyện gìvậy, Harry?”
Harry ngần ngừ trước khi trả lời, bởi vì nó chưa nói với Hermione về việc sai KreacHermione và Dobby theo đuôi Malfoy; gia tinh luôn luôn là một đề tại
nhạy cảm đối với Hermione.
“À... chúng theo dõi Malfoy giùm mình,” nó nói.
“Cả ngày và đêm,” KreacHermione làu bàu.
“thưa cậu Harry Potter, Dobby đã không ngủ cả một tuần lễ!” Dobby tự hào nói, vừa lắc lư tại chỗ. Hermione có vẻ phẫn nộ.
“Bạn không hề ngủ sao, Dobby? Nhưng mà, Harry, chắc chắn bồ đâu có biểu bạn ấy đừng...”
“Không, dĩ nhiên mình không hề,” Harry nói nhanh. “Dobby, bạn cứ ngủ, nhé? Nhưng có ai phát hiện được điều gì không?” Nó hấp tấp hỏi thêm trước khi
Hermione có thể can thiệp một lần nữa.
“Cậu Malfoy di chuyển với dáng vẻ quí phái xứng đáng dòng dõi thuần huyết,” KreacHermione khào khào nói ngay. “nét mặt của cậu ấy gợi nhớ đến vẻ
tao nhã của nữ chủ nhân và phong thái của cậu ấy là...”
“Draco Malfoy là một thằng bé hư hỏng!” Dobby ré lên giận dữ. “Một thằng bé hư hỏng đã... đã...” Toàn thân Dobby run lên, từ cái quai bình tích đội trên
đầu cho tới đầu ngón chân mang vớ và nó chạy ào tới bên lò sưởi, như thể sắp nhào đầu vô đó. Chuyện này không đến nỗi bất ngờ đối với Harry, nó vội
ôm ngang hông con gia tinh và giữ thật chặt. Dobby vùng vẫy vài giây rồi rũ ra.
“Cám ơn cậu Harry Potter,” con gia tinh thở hổn hển. “Dobby vẫn còn cảm thấy khổ sở khi nói xấu chủ nhân cũ.”
Harry thả nó ra; Dobby sửa cái bình tích cho ngay lại và dõng dạc nói với KreacHermione, “Nhưng KreacHermione nên biết là Draco Malfoy không phải
là một chủ nhân tốt của một gia tinh!”
“Ừ, tụi này không cần nghe chuyện mi phải lòng Malfoy,” Harry bảo KreacHermione . “Chúng ta cứ đốt giai đoạn đi nhanh tới chỗ hắn đang thực sự làm
gì.”
KreacHermione lại cúi gập xuống, rồi nói. “Cậu Malfoy ăn trong Đại sảnh đường, cậu ngủ trong phòng ngủ ở tầng hầm, cậu học trong những lớp khác
nhau...”
Harry ngắt lời KreacHermione, “Dobby, bạn nói tôi nghe đi. Hắn có đi tới chỗ nào mà lẽ ra hắn không nên đến không?”
“Thưa cậu Harry Potter,” Dobby nói eo éo, hai con mắt tròn to tổ bố của nó lấp lánh ánh lửa, “Dobby không thể phát hiện thằng nhãi Malfoy vi phạm nội
qui, nhưng hắn rất giỏi che giấu hành tung. Hắn đã đi lên lầu bảy rất thường xuyên với những học sinh khác nhau, mấy đứa đó canh gác cho nó khi nó đi
vô...”
“Phòng theo yêu cầu!” Harry nói, vừa tự đập mạnh cuốn Bào chế thuốc cao cấp lên trán.
Hermione và Ron trố mắt nhìn Harry.
“Đó là nơi nó đã trốn vô! Đó là nơi nó đang làm… làm cái gì đó mà nó đang làm! Và mình cá chắc đó là lý do nó biến mất trên tấm bản đồ... Thử suy nghĩ
xem. Mình chưa hề thấy Phòng theo yêu cầu hiện trên bản đồ!”
“Có lẽ những tay Đạo tặc không hề biết có căn phòng đó,” Ron nói.
“Mình nghĩđó là một khía cạnh huyền ảo của căn phòng.” Hermione nói. “Nếu bồ cần nó đừng hiển thị trên bản đồ thìnó sẽ không hiển thị.”
“Dobby, bạn có tìm cách vô được trong đó để coi Malfoy làm gìkhông?” Harry sốt ruột hỏi.
“Không, thưa cậu Harry Potter, không thể được,” Dobby nói.
“Được, làm được chứ,” Harry nói ngay. “Malfoy đã đột nhập được Tổng hành dinh của tụi mình ở đó vào năm ngoái, thì mình cũng sẽ có thể lẻn vô đó để
do thám nó, không hề gìcả.”
“Nhưng mình không nghĩ bồ sẽ làm được, Harry à,” Hermione nói chậm rãi. “Kỳ đó Malfoy biết chính xác cách sử dụng căn phòng, chắc vậy, bởi vì con
nhỏ Marietta đã ba hoa tiết lộ. Hắn yêu cầu căn phòng trở thành Tổng hành dinh ĐQD, thế là căn phòng hiện ra. Nhưng bây giờ bồ không biết căn phòng
trở thành cái gìkhi Malfoy đi vào đó, thìbồ không thể biết phải yêu cầu nó biến thành cái gì.”
“Sẽ có cách giải quyết được điều đó,” Harry nói đại. “Dobby, mi đã làm xuất sắc.”
“KreacHermione cũng giỏi nữa,” Hermione tử tế nói; nhưng KreacHermione đã chẳng tỏ vẻ biết ơn tí tẹo nào thì chớ, lại trượn tròn hai con mắt đỏ ké tổ
tường lên và gầm gừ với cái trần nhà, “Con Máu Bùn nói chuyện với KreacHermione, KreacHermione sẽ làm bộ không nghe gìhết…”
“Cút đi!” Harry nạt nó và KreacHermione cúi gập người chào lần cuối rồi độn thổ mất tiêu. “Bạn cũng nên về và ráng ngủ một chút, Dobby à.”
“Thưa cậu Harry Potter, cám ơn cậu!” Dobby vui vẻ ré lên và nó cũng biến mất.
“Hay biết chừng nào!” Harry phấn khởi nói, khi quay qua Ron và Hermione ngay lúc căn phòng không còn bóng gia tinh nữa. “Chúng ta đã biết được
Malfoy đi đâu! Bây giờ chúng ta đã bắt giò được nó rồi!”
“Ừ, hay lắm,” Ron ủ rũ nói, nó đang cố gắng chùi đám mực chèm nhẹp trên cái mà mới đây là một bài luận văn gần xong. Hermione lại kéo bài luận về
phía cô bé và bắt đầu dùng cây đũa phép rút mực ra khỏi tờ giấy da.
“Nhưng còn cái chuyện nó đi lên trên đó với những học sinh khác nhau nghĩa là sao?” Hermione nói. “Có bao nhiêu đứa trong cái đám ấy? Bồ không nghĩ
là nó để cho quá nhiều đứa biết chuyện nó đang làm chứ?”
“Ừ, chuyện đó lạ thất,” Harry nói, cau mày lại. “Mình nghe nó bảo thằng Crabbe là chuyện nó đang làm không mắc mớ gìđến thằng Crabbe cả... vậy thìnó
nói gì với cả những... những...” giọng Harry nhỏ dần đi; nó nhìn trừng trừng vào ngọn lửa. “Quỉ thần ơi, sao mà mình ngu quá mạng,” nó nói nhỏ. “Quá rõ
ràng, chứ còn gìnữa? Dưới tầng hầm có cả một thùng khổng lồ thuốc đó... Trong suốt buổi học đó bất cứ lúc nào nó cũng có thể thuổng một mớ...”
“Thuổng cái gì?” Ron hỏi.
“Đa quả dịch. Nó đã ăn cắp một mớ Đa quả dịch mà Thầy Slughorn cho tụi mình xem trong bữa học Độc dược đầu tiên... Không thể có nhiều học sinh
khác nhau đứng canh cho Malfoy... Chỉ có Crabbe và Goyle như mọi khi... Ừ, tất cả đều khớp!” Harry nói, rồi đứng bật dậy và bắt đầu đi qua đi lại phía
trước lò sưởi. “Hai đứa đó ngu vừa đủ để làm những gì Malfoy sai bảo dù cho nó không thèm nói cho chúng biết nó đang làm gì, nhưng nó không muốn
hai đứa kia bị bắt gặp thập thò bên ngoài Phòng theo yêu cầu, vậy là nó bắt chúng uống Đa quả dịch để cho giống người khác... Hai đứa con gái mà
mình thấy đi cùng với nó cái bữa nó bỏ xem trận Quid... hìhì! Chính là Crabbe và Goyle!”
“Có phải bồ cũng định nói,” Hermione nói bằng giọng cố im đi, “là cô bé mà mình sửa giùm cái cân...?”
“Đúng, dĩ nhiên!” Harry nói to, vừa nhìn Hermione chòng chọc. “Dĩ nhiên rồi! Malfoy ắt hẳn đang ở bên trong căn phòng lúc đó, cho nên cô bé đó – mà
mình đang nói về cái gì vậy? – thằng ấy làm rớt cái cân để báo cho Malfoy đừng đi ra, bởi vì có người đang ở đó! Và con bé làm rớt chai nòng nọc nữa!
Tụi mình đã đi ngang qua nó bao nhiêu phen mà không nhận ra!”
“Nó bắt Crabbe và Goyle biến hình thành con gái à?” Ron cười hô hố. “Quỷ thần ơi... hèn gì trông hai đứa nó dạo này chẳng được vui vẻ cho lắm. Mình
ngạc nhiên là hai đứa nó không biểu Malfoy cút xéo cho rồi.”
“Chà, tụi nó không dám đâu. Dám không nào, nếu nó chìa cho tụi kia coi Dấu hiệu hắc ám của nó?” Harry nói.
“Hừm... cái Dấu hiệu hắc ám đó ai biết có tồn tại hay không,” Hermione ngờ vự nói, vừa cuộn tròn bài luận văn đã ráo mực của Ron lại trước khi có thêm
chuyện gìlàm bài văn khốn đốn thêm, rồi đưa cho Ron.
“Rồi sẽ thấy,” Harry nói một cách tin tưởng.
“Ừ, rồi sẽ thấy,” Hermione nói, vừa đứng lên và vươn vai. “Nhưng mà, Harry à, nghe đây trước khi bồ mất hết bình tĩnh. Mình vẫn nghĩ là bồ sẽ không thể
vô được Phòng theo yêu cầu nếu trước tiên không biết cái gìở trong đó. Và mình cũng nghĩlà bồ không nên quên...” cô nàng khoác cái túi xách lên vai và
nhìn nó một cách nghiêm trang, “rằng điều mà bồ nên tập trung vào là lấy cho được cái ký ức của Thầy Slughorn. Ngủ ngon nhé.”
Harry nhìn cô nàng bỏ đi, hơi quạu. Khi cánh cửa lên phòng ngủ nữ sinh đã được đóng lại sau lưng Hermione, Harry quay lại nói với Ron. “bồ nghĩsao?”
“Ước gì mình có thể độn thổ giống một con gia tinh,” Ron nói, vẫn đăm đăm nhìn vào chỗ mà Dobby vừa biến mất. “Mình sẽ cầm chắc trong tay kỳ thi độn
thổ.”
Đêm đó Harry ngủ không yên giắc. Nó nằm thao thức trong một khoảng thời gian mà nó cảm giác là mấy tiếng đồng hồ, lòng cứ thắc mắc hoài là Malfoy
đang sử dụng Phòng theo yêu cầu như thế nào và nó, Harry, nó sẽ thấy gì khi đi vào đó ngày hôm sau, bởi vì Hermione có nói gì đi nữa, Harry vẫn tin
chắc là nếu Malfoy đã có thể thấy Tổng hành dinh của ĐQD, thì nó cũng sẽ có thể thấy được cái gì đó của Malfoy. Đó có thể là cái gì nhỉ? Một địa điểm
hội họp? Một chỗ để lẩn trốn? Một kho chứa đồ? Một xưởng chế tạo? Đầu óc Harry làm việc căng thẳng và cuối cùng khi nó lăn ra ngủ, những giấc
chiêm bao của nó cứ bị gián đoạn và xáo trộn bởi hình ảnh của Malfoy, thằng này biến ra Thầy Slughorn, rồi Thầy Slughorn lại biến thành Thầy Snape...
Vào bữa điểm tâm sáng hôm sau, Harry ở trong trạng thái chờ đợi bồn chồn; nó có một tiết trống trước buổi học Phòng chống nghệ thuật hắc ám và nó
quyết định dành tiết trống này để tìm cách vào Phòng theo yêu cầu. Hermione cahnwgr tỏ ra chút hứng thú gì cái kế hoạch đột nhập mà nó thì thầm với cô
bé, điều này khiến nó quạu hết sức, bởi vìnó nghĩHermione đã có thể giúp ddwwocj nhiều nếu cô bé muốn giúp.
”này,“ nó nói khẽ trong lúc chồm tới trước và đặt một bàn tay lên tờ Nhật báo Tiên Tri mà Hermione vừa gỡ ra khỏi chân một bưu cú, để không cho cô bé
mở tờ báo ra che kín mặt. “Mình không hề quên vụ Thầy Slughorn, nhưng mình chẳng có một chút gợi ý nào về cách lấy được cái ký ức của thầy, vậy tại
sao trong khi chờ bộ não của mình nảy ra sáng kiến gìđó, mình không thử tìm hiểu xem Malfoy đang làm gì?”
“Mình đã nói với bồ rồi, bồ cần phải thuyết phục Thầy Slughorn,” Hermione nói. “Chuyện đó không thể đánh lừa hay trù ếm thầy mà đạt được, chứ nếu
không thì thầy Dum đã có thể làm như vậy trong một giây là xong. Thay vì làm chuyện tào lao bên ngoài căn Phòng theo yêu cầu...” cô nàng giật tờ Nhật
báo Tiên Tri ra khỏi bàn tay Harry và mở ra nhìn vào trang nhất, “...bồ nên đi tìm Thầy Slughorn và thử làm động lòng nhân hậu của thầy.
”Có ai mà tụi mình biết...?” Ron hỏi, trong khi Hermione liếc qua các dòng tít.
“Có!” Hermione nói, khiến cả Harry và Ron mắc nghẹn lúc đang ăn món điểm tâm. “Nhưng không sao, lão không chết... Đó là lão Mundungus, lão bị bắt
và tống vô nhà ngục Azkaban! Chuyện gì đó liên quan đến hiện thân thành một Âm binh trong lúc trộm cắp có âm mưu và một người nào đó tên là
Octavius Pepper đã biến mất. Ôi, thiệt là kinh khủng, một thằng bé chín tuổi đã bị bắt vì đã tìm cách giết cha mẹ nó, họ cho là thằng bé bị ếm bùa Độc
đoán.”
Tụi nó ăn cho xong bữa điểm tâm trong im lặng. Hermione đi ngay đến lớp Cổ tự Runes; Ron đi về phòng sinh hoạt chung, ở đó nó tiếp tục làm nốt phần
kết luận cho bài luận văn về bọn giám ngục nộp Thầy Snape và Harry thìđi tới hành lang trong tầng bảy và đoạn nối dài của bức tường đối diện tấm thảm
thêu của Barnabas xứ Barmy dạy bọn quỉ khổng lồ múa ba lê.
Khi đã tìm được một hành lang trống vắng rồi, Harry trùm tấm Áo khoác tàng hình lên, nhưng nó cũng chẳng cần bận tâm mà chi. Lúc tới nơi, nó thấy nơi
đó vắng ngắt. Harry không chắc khả năng nó vô được căn phòng đó sẽ dễ dàng hơn lúc Malfoy đang ở trong hay đang ở ngoài, nhưng ít nhất thì cố gắng
lần đầu của nó cũng không bị sự có mặt cảu Grabbe hay Goyle dưới lớp một con bé mười một tuổi làm cho phức tạp thêm.
Nó nhắm mắt lại khi đi đến gần chỗ giấu cánh cửa vào Phòng theo yêu cầu. Nó biết nó phải làm gì; Năm ngoái nó đã rất thành công về chuyện này. Tập
trung tất cả sức lực, nó nghĩ, “Tôi cần việc mà Malfoy đang làm trong này... Tôi cần thấy cái việc mà Malfoy đang làm trong này.. Tôi cần thấy cái việc mà
Malfoy đang làm trong này...”
Nó đã đi ngang qua cánh cửa ba lần; rồi, tim đánh thình thình vì hồi hộp, nó mở mắt ra và nhìn thẳng trước mặt, nhưng nó vẫn chỉ thấy phần nối dài của
bức tường trơ trụi. Nó bước tới trước và đẩy thử. Bức tường đá vẫn kiên cố và không nhượng bộ.
“Được thôi,” Harry nói to. “Được thôi... Mình đã nghĩtrật...” Nó ngẫm nghĩmột lúc rồi lại bắt đầu bước, mắt nhắm, hết sức tập trung tư tưởng.
“Tôi cần thấy được chỗ mà Malfoy cứ bí mật lui tới... Tôi cần thấy được chỗ mà Malfoy cứ bí mật lui tới... Tôi cần thấy được chỗ mà Malfoy cứ bí mật lui
tới...” Sau ba lần đi qua, nó mở mắt ra háo hức hy vọng.
Chẳng có cửa nẻo gìcả.
“Ôi, hiện ra đi mà,” nó quạu quọ nói với bức tường. “Chỉ thị quá rõ ràng rồi còn gì. Được rồi.” Nó suy nghĩ muốn bể óc thêm nhiều phút nữa trước khi tiếp
tục sải bước một lần nữa.
“Tôi cần căn phòng trở thành cái chỗ đã trở thành chỗ cho Draco Malfoy...”
Khi đi xong ba vòng, nó không mở mắt ra ngay tức thì; nó ráng hết sức lắng nghe thiệt kỹ, như thể nó có thể nghe tiếng cánh cửa vụt hiện ra. Nhưng mà,
nó chẳng nghe được gìcả, ngoại trừ tiếng chim hót xa ca ở ngoài sân. Nó mwor mắt ra.
Chẳng có cửa nẻo gìcả.
Harry chửi thề. Ai đó rú lên. Nó ngoảnh lại thfi thấy một đám học sinh năm thứ nhất đang chạy vòng trở lại góc tường, có vẻ như tụi nhóc tưởng đâu vừa
gặp phải một con ma chửi bậy đặc biệt.
Harry cố thử mọi biến thể của câu “Tôi cần thấy việc mà Draco Malfoy đang làm bên trong căn phòng,” mà nó có thể nghĩra trong suốt một tiếng đồng hồ,
cuối giờ nó đành phải thừa nhận là Hermione có lẽ có lý: căn phòng đơn giản là khoog chịu mở ra cho nó. Nản chí và bực bội, nó bỏ đi đến lớp học
Phòng chống nghệ thuật hắc ám, vừa đi vừa kéo tấm Áo khoác tàng hình ra khỏi người và nhét vô túi xách.
“Potter, trò lại trễ nữa,” Thầy Snape lạnh lùng nói, khi Harry vội vã đi vào căn phòng học được chiếu sáng bằng ánh nến. “Trừ nhà Gryffindor mwoif điểm.”
Harry cau có nhìn Thầy Snape khi quăng mình ngồi xuống bên cạnh Ron. Một nửa lớp học vẫn còn đang đứng, vừa lấy sách vở ra vừa bày biện đồ đạc
của chúng; nó đâu có trễ nải gìhơn mấy đứa khác hè.
“Trước khi chúng ta bắt đầu, ta muốn các trò nộp bài luận văn về Giám ngục,” thầy Snape nói, vừa vẫy đại cây đũa phép, khiến cho hai mươi lăm cuộn
giấy da bay vèo lên không trung rồi đáp xuống thành một xấp ngay ngắn trên bàn thầy. “Và ta hy vọng giùm các trò là những bài này sẽ khá hơn cái mớ vớ
vẩn về phản kháng lại lời Nguyền Độc đoán mà ta đã phải chịu đựng. Bây giờ, phiền tất cả các trò mở sách tới trang... Cái gìđấy, cậu Finnigan?”
“Thưa thầy,” Seamus nói, “Con đang thắc mắc, làm sao người ta phân biệt được một Âm binh và một con ma? Bởi vì trên báo Tiên tri có đăng cái gì đó
về một Âm binh...”
“Không, không phân biệt được,” Thầy Snape nói với giọng chán ngán.
“Nhưng thưa thầy, con nghe người ta nói...”
“Nếu cậu thực sự đọc bài bóa vừa nói đến, cậu Finnigan à, cậu sẽ biết rằng kẻ bị gọi là Âm binh đó chẳng qua là một tên trộm hôi hám bẻm mép có tên
là Mundungus Fletcher.”
“Mình tin là thầy Snape và lão Mundungus cùng một phe,” Harry thì thầm với Ron và Hermione. “Chứ không thì ông ấy đâu có bực mình chuyện lão
Mundungus để bị tóm...”
“Nhưng Potter dường như có khối chuyện để nói về đề tài này,” Thầy Snape nói, thình lình chỉ về phía cuối lớp, đôi mắt đen của thầy nhìn chằm chằm vào
Harry. “Chúng ta hãy hỏi Potter làm thế nào chúng ta phân biệt được một Âm binh với một con ma.”
Cả lớp ngoảnh lại nhìn Harry, nó vội vàng cố nhwos lại những gì thầy Dum đã nói với nó trong cái đêm hai thầy trò đi thăm Thầy Slughorn. “Ơ... Dạ... ma
thìtrong suốt...” nó nói.
“À, giỏi lắm,” Thầy Snape ngắt lời nó, môi thầy cong lên. “Đúng vậy, thật dễ thấy là gần sau năm trời học tập Pháp thuật kể như uổng công đối với trò,
Potter à. “Ma thìtrong suốt.””
Pansy Parkinson bật ra tiếng cười hí hí chói tai. Nhiều đứa khác cũng cười khì. Harry hít sâu vào và tiếp tục bình tĩnh nói cho dù ruột gan nó đang sôi lên.
“Dạ, ma thìtrong suốt, nhưng Âm binh là những xác chết, thưa thầy đúng không ạ? Do vậy chúng rắn chắc...”
“Một dứa con nít năm tuổi cũng có thể nói được như vậy,” Thầy Snape châm chọc. “Âm binh là một cái xác chết đã bị thần chú của một pháp sư Hắc ám
kích thích cho hoạt động trở lại. Nó không sống lại, nó chỉ được dùng như một con rối hành động theo mệnh lệnh của pháp sư đó. Một con ma, ta tin rằng
tất cả các trò lúc này đã biết, đó là dấu vết còn lại của một linh hồn đã rời khỏi thế gian và dĩnhiên, như Potter đã khôn ngoan nói cho chúng ta biết, ma thì
trong suốt.”
“Dạ, điều Harry nói hết sức giúp ích cho tụi con phân biệt được hai thứ đó!” Ron nói. “Khi tụi con giáp mặt một Âm binh trong một hẻm tối, tụi con sẽ nhìn
kỹ coi nó có rắn chắ không, chưa tụi con đâu có thể hỏi, “Xin lỗi, mi có phải là dấu vết của một linh hồn vừa rời khỏi thế gian không?”
Một trận cười rộ lên, nhưng bị ánh mắt của thầy Snape dập tắt ngay.
“Trừ nhà Gryffindor mười điểm nữa,” Thầy Snape nói. “Ta không trông mong nơi trò điều gì rắc rối hơn, Ronald Weasley ạ, một chàng trai rắn chắc đến
nỗi không thể nào độn thổ ddwwocj hai phân trong phòng.”
“Đừng,” Hermione thì thầm, túm lấy cánh tay Harry khi nó tức giận mở miệng toan nói. “Chẳng ích lợi gì đâu, bồ sẽ bị cấm túc một phen nữa cho coi, bỏ
qua đi!”
“Bây giờ các trò mở sách đến trang hai trăm mười ba,” Thầy Snape nói, hơi khủng khỉnh, “và đọc hai đoạn đầu về Lời nguyền hành hạ.”
Rọn rất ơ thờ trong suốt buổi học. Khi chuông reo hết giờ, Lavender bắt kịp Ron và Harry (Hermione bí mật tan biến khỏi tầm nhìn khi thấy Lavender tới
gần) và chửi rủa Thầy Snape không tiếc lời về chuyện thầy châm chọc chuyện độn thổ của Ron, nhưng điều đó dường như chỉ khiến Ron thêm quạu và
nó rẫy cô nàng ra bằng cách rẽ vô nhà vệ sinh nam với Harry.
“Nhưng mà Thầy Snape nói đúng, chứ gì nữa?” Ron nói sau khi đăm đăm nhìn vào cái gương bể chừng một hai phút. “Mình không biết có đáng cho mình
đi thi không. Mình không thể nào hiểu nổi cách độn thổ.”
“Bồ có lẽ chỉ cần học thêm những buổi phụ đạo thực hành ở Hogsmeade để coi bồ làm được tới đâu,” Harry nói một cách phải chăng. “Dù sao thì thực
hành ở Hogsmeade cũng thú vị hơn là trong một cái vòng ngu xuẩn. Nếu đến lúc đó mà bồ vẫn không... bồ biết đấy... giỏi như bồ mong muốn, thì bồ có
thể xin hoãn kỳ thi, đợi đến mùa hè cũng thi với mình luôn thể... Ê Myrtle, đây là nhà vệ sinh nam mà!”
Bóng ma của một cô gái vừa hiện lên từ một cái bồn cầu trong một buồng cầu tiêu phía sau lưng tụi nó và bây giờ đang lơ lửng trôi giữa không trung,
ngó chòng chọc xuống tụi nó qua đôi mắt kiếng dày cui.
“Ôi,” con ma rầu rĩnói. “Thìra là hai anh.”
“Chứ chị tưởng là ai ?” Ron nói, vừa nhìn con ma trong gương.
“Không ai hết,” Myrtle nói, đăm chiêu nặn một cái mụn dưới cằm. “Anh ấy nói sẽ trở lại đây gặp em, nhưng rồi anh nói anh ghé vô và cũng thăm em…”
con ma nhìn kỹ Harry, “…mà em thìkhông được gặp anh bao nhiêu tháng trời rồi. Em đã hiểu rằng đừng nên trông mong gìở tụi con trai.”
“Tôi tưởng chị ở trong nhà vệ sinh nữ chứ ?” Harry nói, nó đã cẩn thận tránh xa chỗ đó mấy năm trời nay.
“Thì em ở đó,” con ma nói, kèm theo một cái nhún vai hờn dỗi nhè nhẹ, “Nhưng như vậy đâu có nghĩa là em không thể đến thăm những chỗ khác. Có lần
em đã ghé thăm anh ở buồng vệ sinh của anh, còn nhớ không?”
“Rất rõ,” Harry nói.
“Nhưng em nghĩ anh ấy thích em,” con ma than thở. “Có lẽ nếu hai anh đi ra thì anh ấy sẽ quay trở lại. Tụi này có nhiều điểm chung lắm. Em chắc anh ấy
cũng cảm thấy như vậy.”
Và con ma nhìn ra phía cửa tràn trề hy vọng.
“Khi chị nói tụi chị có nhiều điểm chung,” Ron nói, lúc này giọng nó nghe có vẻ vui, “có phải ý chị nói là anh ta cũng ở trong cái ống con hình chữ S dưới
bồn cầu ?”
“Không,” Myrtle bướng bĩnh cãi lại, giọng của nó vang to trong buồng vệ sinh lát gạch cũ. “Ý em nói là anh ấy nhạy cảm, cũng bị người ta ức hiếp và anh
ấy cũng cảm thấy cô đơn, cũng không có ai để tâm tình, anh ấy cũng không sợ bộc lộ tình cảm và anh ấy cũng khóc nữa!”
“Có một nam sinh khóc ở đây hả ?” Harry tò mò hỏi. “Một thằng bé à ?”
“Bỏ qua đi!” Myrtle nói, hai con mắt nhỏ xíu tèm lem của nó ngó chằm chằm Ron, anh chàng rõ ràng đang nhe răng cười. “Em đã hứa với anh ấy là em sẽ
không nói với ai hết, em sẽ đem theo bímật của anh ấy xuống…”
“…xuống mồ hả, chắc là không há ?” Ron nói kèm tiếng khịt mũi. “Xuống cống thìcó thể.”
Myrtle hú lên một tiếng giận điên lên được rồi lặn trở vô cái bồn cầu, khiến nước tràn ra miệng bồn chảy xuống sàn. Myrtle khốn khổ dường như khiến
Ron vui lại.
“Bồ nói đúng,” nó nói, vừa lẳng cái túi xách lên vai, “Mình sẽ học thêm những buổi thực hành phụ đạo ở làng Hogsmeade trước khi quyết định thi hay
không.”
Vậy là cuối tuần sau đó Ron đi học cùng Hermione và những học sinh năm thứ sáu khác, những đứa đủ mười bảy tuổi để dự kỳ thi sắp diễn ra trong nửa
tháng tới. Harry cảm thấy hơi ganh tị khi nhìn tụi nó chuẩn bị đi vô làng; nó bỏ lỡ dịp đi xuống làng, mà hôm đó lại là một ngày xuân đặc biệt đẹp trời, một
trong những ngày bầu trời quang đãng mà lâu lắm rồi tụi nó mới được nhìn thấy. Tuy nhiên, nó đã quyết định dùng thời gian này để cố gắng một lần nữa
tấn công Phòng theo yêu cầu.
Khi nó thổ lộ kế hoạch này với Ron và Hermione ở tiền sảnh, Hermione nói, “Bồ sẽ làm tốt hơn nếu bồ đi thẳng tới văn phòng của Thầy Slughorn và tìm
cách lấy cái ký ức.”
“Mình đã và đang cố gắng !” Harry nói gay gắt, mà điều đó hoàn toàn đúng. Nó đã cố tình nấn ná lại sau mọi buổi học Độc dược của tuần qua để
ddwwocj một mình trò chuyện với thầy, nhưng bậc thầy Độc dược luôn luôn rời khỏi căn hầm nhanh đến nỗi Harry không thể nào bắt được thầy. Đã hai lần
Harry đi tới văn phòng thầy và gõ cửa, nhưng không nhận được hồi âm nào, mặc dù trong lần thứ hai nó chắc chắn có nghe được âm thanh của một cái
máy hát cũ bị đột ngột hãm lại.
“Thầy không muốn nói chuyện với mình mà Hermione! Thầy có thể đoán ra mình đang cố gắng gặp riêng thầy một lẫn nữa và thầy sẽ không để chuyện đó
xảy ra !”
“Thìbồ vẫn phải đeo đuổi công việc đó, đúng không ?”
Thầy Filch đang dùng cái Phép dò bí mật chọc chọc thúc thúc như mọi khi, hàng người ngắn ngủn đang sắp hàng chờ lọt qua sự kiểm tra của thầy Filch
nhíc tới trước vài bwocs và Harry không trả lời, đề phòng trường hợp bị thầy giám thị nghe lóm. Nó cầu chúc cho cả Ron lẫn Hermione được may mắn,
rồi quay lại, trèo lên lại mấy bậc cầu thang đá và bất kể Hermione nói gì đi nữa, nó vẫn quyết tâm dành trọn một hay hai tiếng đồng hồ cho Phòng theo
yêu cầu.
Khi đã đi khuất tiền sảnh, Harry rút tấm Bản đồ đạo tặc và tấm Áo khoác tàng hình ra khỏi túi xách. Sau khi che giấu bản thân mình rồi, nó gõ lên tấm bản
đồ, miệng lầm rầm, “tôi trang trọng thề là tôi đang mưu toan chuyện không ra gì,” và cẩn thận rà tấm bản đồ.
Vì lúc đó là sáng chủ nhật, hầu hết học sinh đều ở trong những phòng sinh hoạt chung của các nhà khác nhau, học sinh nhà Gryffindor thì ở trên một cái
tháp, học sinh nhà Ravenclaw ở trên một cái tháp khác, học sinh nhà SlytHermionein thì ở trong một hầm ngục và học sinh nhà Hufflepuff thì ở trong tầng
hầm gần nhà bếp. Đó đây có một đứa lạc lõng đi vẩn vơ quanh thư viện hay lên một hành lang. Có vài ba người ở ngoài sân và kìa Greogory Goyle đang
ở trên hành lang tầng thứ bảy. Chẳng có dấu hiệu gìcủa Phòng theo yêu cầu, nhưng Harry không lo lắng về chuyện đó ; nếu Goyle đang đứng canh gác ở
bên ngoài thì căn phòng ắt mở cửa, dù cho tấm bản đồ có biết hay không. Vì vậy nó phóng như bay lên cầu thang, chỉ giảm tốc độ khi đến được góc
hành lang, bấy giờ nó bắt đầu bò, rất chậm, về phía cô bé hôm nọ đang nắm chặt cái cân bằng đồng nặng nề mà Hermione đã tử tế giúp gắn lại cách
đây hai tuần lễ. Nó đợi cho đến khi bò đến ngay phía sau cô bé mới thìthào, “Chào… em đẹp quá hén em ?”
Goyle hét lên một tiếng kinh hoàng, liệng cái cân lên không trung và phóng chạy đi, mất biến trước khi tiếng cân rớt xuống sàn thôi ngân vọng khắp hành
lang. Harry cười hể hả, quay lại thưởng ngoạn bức tường trống trơn, nó biết chắc Draco malfoy đang đứng đông cứng đằng sau bức tường đó, biết là
có ai đó ở ngoài này, nhưng không dám xuất hiện. Cảm giác dễ chịu nhất của Harry về công lực là lúc nó cố nhớ lại dạng khẩu lệnh nào mà nó chưa thử.
Nhưng tâm trạng tràn trề hy vọng này không kéo dài được lâu. Nửa giờ sau, sau khi đã thử nhiều khẩu lệnh khác nhau để xem Malfoy đang làm gì, bức
tường vẫn chỉ là bức tường không cửa như thường. Harry cảm thấy nản lòng không thể tin nổi. Malfoy có thể chỉ cách nó vài bước chân, vậy mà vẫn
không có tới một thẻo bằng chứng nhỏ nhất nào về cái gì đó mà thằng này đang làm bên trong phòng. Mất kiên nhẫn hoàn toàn, Harry chạy a vô bức
tường đá cho nó một cái.
“Ối!”
Nó tưởng như nó gãy ngón chân rồi và khi nó nắm lấy mấy ngón chân đau mà nhảy lò cò, tấm Áo khoác tàng hình tuột khỏi người nó.
“Harry ?”
Nó quay phắt lại, trên một giò, nên té lăn cù. Nó ngạc nhiên đến vuột kêu lên khi nhìn thấy cô Tonks đang đi về phía nó như thể cô thường xuyên đi rảo trên
hành lang này.
“Chị làm gìở đây ?” Nó hỏi, lại té sụm xuống ; tại sao cô luôn bắt gặp nó lúc nó đang nằm lăn quay trên sàn ?
“Tôi đến gặp cụ Dum,” cô Tonks nói. Harry nghĩcô Tonks trông thiệt là khủng khiếp : gầy hơn mọi khi, mái tóc màu lông chuột của cô xõa rũ rượi.
“Văn phòng của thầy không phải ở đây,” Harry nói, “nó ở tuốt bên kia của tòa lâu đài, phía sau một cái máng xối có hình con thú đã…”
“Tôi biết,” cô Tonks nói. “Cụ không có mặt ở đó. Có vẻ như cụ lại đi vắng.”
“Thầy đi vắng à?” Harry nói, vừa thận trọng thả ngón chân vị giập xuống sàn. “Này… em đoán là chị không biết thầy đi đâu hả ?”
“Không,” cô Tonks nói.
“Chị muốn gặp thầy về chuyện gì?”
“Không có gì đặc biệt,” cô Tonks nói, vừa vô thức dứt dứt cái tay áo của tấm áo chùng cô đang mặc. “Tôi chỉ nghĩ là cụ có thể biết việc gì đang diễn ra.
Tôi nghe được khá nhiều chuyện đồn đại… người ta đang bị hại.”
“Dạ, em biết, chuyện đó đăng đầy trên báo,” Harry nói. “Thằng nhóc đó tìm cách giết…”
“Tờ Tiên tri thường đưa tin chậm,” cô Tonks nói, cô không có vẻ gìlắng nghe nó. “Dạo gần đây em không nhận được thư của ai trong Hội sao ?”
“Không ai trong Hội viết thư cho em nữa,” Harry nói, “từ khi chú Sirius…” Nó thấy mắt cô Tonks đã đầy ngấn lệ.
“Em xin lỗi,” nó vụng về nói línhí. “Ýem nói là… em cũng nhớ chú lắm.”
“Cái gì?” Cô Tonks thẫn thờ, như thể cô không hề nghe nó nói. “Thôi. Tôi sẽ gặp lại em sau nhé, Harry.”
Và cô đột ngột quay lưng lại, đi trở xuống hành lang, để lại Harry chăm chú nhìn theo cô. Khoảng chừng một phút sau hay cỡ đó, nó lại choàng tấm Áo
khoác tàng hình lên và tiếp tục cố gắng đột nhập Phòng theo yêu cầu nhưng nó không còn đặt hết nhiệt tình vào việc đó nữa. Cuối cùng, một cảm giác đói
meo trong bao tử cộng với việc biết rằng Ron cùng Hermione sắp trở lại trường để ăn trưa, nó đành bỏ cuộc và bỏ cái hành lang lại cho Malfoy hy vọng
Malfoy sẽ không ra khỏi nơi đó trong vài tiếng đồng hồ nữa vìquá sợ hãi.
Nó gặp Ron và Hermione trong Đại sảnh đường đang ăn được nửa bữa ăn trưa sớm.
“Mình làm được rồi... ờ, đại khái vậy!” Ron hăm hở nói với Harry khi vừa thấy bóng nó. “Mình được giao cho độn thổ tới bên ngoài tiệm trà của bà
Puddifoot và mình hơi vọt quá một tí, hiện ra ở gần Scrivenshafts, nhưng ít ra thìmình cũng đã di chuyển được!”
“Xịn lắm, Ron!” Harry nói. “Còn bồ thìsao, Hermione?”
“Ôi, hiển nhiên là cô nàng tuyệt hảo,” Ron nói, trước khi Hermione có thể trả lời. “Điềm đạm, đoán điềm, đối đếm hay cái quỉ đờ đờ gì đó, đều tuyệt
hảo… sau đó tất cả tụi này đi uống nước ở quán Ba cây chổi và bồ phải nghe gã Twycross huyên thuyên về cô nàng… Mình sẽ ngạc nhiên nếu hắn không
cầu hôn sớm…”
“Còn bồ thìsao?” Hermione hỏi Harry, phớt lờ Ron. “Lần này bồ có lên Phòng theo yêu cầu không?”
“Có,” Harry nói. “Và thử đoán xem mình đã đụng ai trên đó? Cô Tonks!”
“Cô Tonks hả?” Ron và Hermione cùng lặp lại, coi bộ ngạc nhiên vô cùng.
“Ừ, cô ấy nói cô ấy đi thăm thầy Dum.”
“Nếu bồ muốn biết ý kiến mình thì đây,” Ron nói ngay sau khi Harry kể lại hết cuộc đối thoại với cô Tonks, “cô ấy hơi bị kiệt sức. Mất tinh thần sau chuyện
xảy ra ở Bộ.”
“Hơi lạ.” Hermione nói, vì lý do nào đó, Hermione tỏ vẻ rất quan tâm. “Lẽ ra cô ấy phải canh gác ngôi trường, tại sao cô bồng nhiên rời bỏ vị trí công tác
để đến gặp thầy Dum khi thầy ấy thậm chíkhông có mặt ở đây?”
“Mình có một ý nghĩ,” Harry ngập ngừng nói. Nó cảm thấy kỳ về việc nói ra điều đó; chuyện này thuộc lãnh địa của Hermione hơn là của nó. “Mấy bồ có
nghĩlà có thể cô ấy đã… mấy bồ biết đó… yêu chú Sirius không?”
Hermione trợn mắt ngó nó. “Cái gìkhiến cho bồ nói vậy?”
“Mình không biết,” Harry nhún vai, “nhưng cô ấy suýt khóc khi mình nhắc đến tên chú ấy và Thần hộ mệnh của cô ấy bây giờ là một con gì đó bốn chân bự
chảng. Mình không biết liệu đó có thể là… mấy bồ biết… chú ấy không.”
“Đó là một ý tưởng,” Hermione chậm rãi nói. “Nhưng mình vẫn không biết tại sao cô ấy lại xông vào tòa lâu đài để tìm thầy Dum, nếu đó thực sự là lý do
để cô ấy có mặt ở chỗ đấy.”
“Vậy là quay trở lại điều mình đã nói, đúng không?” Ron nói, lúc này nó đang xúc khoai tây nghiền trút vô miệng. “Cô ấy đã trở nên kỳ cục. Mất tinh thần.”
Rồi nó nói với Harry với vẻ từng trải, “Phụ nữa mà, họ dễ nổi cơn lắm.”
“Vậy mà,” Hermione chấm dứt cơn trầm tư, “Mình ngờ là bồ sẽ không tìm ra một phụ nữ nào lại đi giận dỗi nửa tiếng đồng hồ chỉ vì bà Rosmerta không
cười nổi mấy chuyện tiếu lâm về mụ phù thủy già, Người chữa thương và cơn cuồng thổi bay Mimbulus.”
Ron quắc mắt đổ quạu.
Chương 22
Sau tang lễ
Những khoảnh trời màu xanh rực rỡ đã bắt đầu hiện ra bên trên những tháp canh của tòa lâu đài, nhưng những dấu hiệu của mùa hè sắp đến này không
làm tâm trạng Harry khá hơn. Nó cứ gặp trục trặc hoài, cả trong cố gắng tìm hiểu xem Malfoy đang làm gì, cả trong nỗ lực gợi chuyện với thầy Slughorn
để may ra bằng cách nào đó dụ dỗ được thầy trao cho cái ký ức mà hình như thầy đã chôn sâu mấy chục năm trời.
“Lần cuối cùng, hãy quên Malfoy đi,” Hermione kiên quyết nói với Harry.
Hai đứa nó đang ngồi với Ron trong góc sân trường đầy nắng sau bữa ăn trưa. Cả Hermione lẫn Ron đều đang nắm chặt tờ rơi của Bộ Pháp thuật –
Những Lỗi Độn Thổ Thông Thường và Cách Tránh – bởi vì tụi nó sẽ phải thi vào ngay buổi trưa hôm đó, nhưng cách gì thì gì, mấy tờ rơi đó chẳng chứng
tỏ có tác dụng xoa dịu thần kinh của tụi nó chút nào.
Ron bỗng giật mình và tìm cách núp sau lưng Hermione khi một cô gái vừa đi vòng qua cái góc tụi nó đang ngồi.
“Không phải Lavender mà,” Hermione chán ngán nói.
“Ừ, tốt,” Ron nhẹ nhõm nói.
“Bạn là Harry Potter?” Cô ấy nói, “Tôi được sai đưa cho bạn cái này.”
“Cám ơn.”
Trái tim Harry chùng xuống lúc nó cầm cuộn giấy da nhỏ. Khi cô gái đã đi xa ngoài tầm tai, nó nói, “Thầy Dumbledore đã nói là mình sẽ khỏi học thêm
buổi nào nữa cho tới khi mình lấy được ký ức thầy Slughorn.”
“Có lẽ thầy muốn kiểm tra xem bồ đang làm gì?” Hermione suy đoán trong lúc Harry mở cuộn giấy da; nhưng thay vì nhận ra nét chữ dài, thon mảnh, xiên
xiên của cụ Dumbledore, nó lại thấy dòng chữ chè bè lộn xộn, rất khó đọc vìnhững vết mực lem to thù lù nằm đầy trên tờ giấy da.
Harry, Ron và Hermione yêu quý!
Aragog đã chết tối qua. Harry và Ron, hai đứa con đã gặp cậu ấy và biết cậu ấy đặc biệt như thế nào. Hermione, bác biết con sẽ thích cậu ấy. Nếu các
con chịu khó xuống đây dự tang lễ vào tối hôm nay thì điều đó an ủi bác nhiều lắm. Bác định làm tang lễ vào lúc hoàng hôn vì đó là thời điểm cậu ấy thích
nhất trong ngày. Bác biết các con không được phép ra ngoài vào ban đêm, nhưng các con có thể xài tấm Áo Khoác Tàng Hình. Lẽ ra bác không nên rủ rê
các con, nhưng bác không chịu nổi sự cô đơn này.
Hagrid.
“Đọc đi.” Harry nói, trao bức thư cho Hermione. “Ôi, Trời ơi!” Cô bé kêu lên, đọc lướt qua bức thư rồi chuyển cho Ron, anh chàng này đọc bức thư với vẻ
ngờ vực càng lúc càng tăng.
“Bác ấy khùng hả!” Nó giận dữ nói. “Cái đồ đó đã từng bảo đồng bọn ăn thịt Harry và mình! Từng bảo chúng cứ tự tiện chén! Vậy mà bây giờ bác Hagrid
lại mong tụi mình đi xuống đó mà khóc thương cái thây lông lá đó!”
“Không những thế,” Hermione nói, “bác ấy còn biểu tụi mình rời khỏi lâu đài vào ban đêm mà bác ấy biết an ninh ban đêm chặt chẽ một triệu lần hơn và
nếu tụi mình bị bắt thìsẽ rắc rối biết chừng nào.”
“Trước đây tụi mình đã từng xuống đó gặp bác ấy vào ban đêm mà,” Harry nói.
“Ừ, nhưng liều vì một chuyện như vầy à?” Hermione nói. “Chúng ta đã mạo hiểm nhiều phen để giúp bác Hagrid, nhưng nói cho cùng – Aragog đã chết.
Phải chi là vấn đề cứu mạng bác ấy…”
“Mình càng không muốn đi,” Ron kiên quyết. “Bồ chưa gặp con quái vật đó, Hermione à. Cứ tin mình đi, chết sẽ làm cho nó tốt mã hơn.”
Harry lấy lại lá thư và đăm đăm nhìn xuống những vết mực loang lổ khắp lá thư. Rõ ràng là nước mắt đã rớt xuống tờ giấy da liên tiếp từng hột bự…
“Harry, bồ đừng có nghĩđến việc đi.” Hermione nói. “Không đáng bị cấm túc vìmột chuyện như thế.”
Harry thở dài. “Ừ, mình biết,” nó nói. “Mình chắc là bác ấy sẽ phải chônAragog mà không có tụi mình.”
“Ừ, chắc vậy.” Hermione nói, trông có vẻ yên tâm. “Coi nè, lớp Độc Dược chiều nay hầu như trống trơn, vì tất cả tụi này đều đi thi Độn Thổ… Vậy bồ thử
tìm cách dụ dỗ thầy Slughorn đi.”
“Bồ nghĩlần thứ năm mười bảy thìhên hả?” Harry cay đắng.
“Hên?” Ron đột ngột la lên. “Đúng đó, Harry, cứ cầu may!”
“Ýbồ là sao?”
“Xài thuốc hên!”
“Phải đó, Ron, đúng rồi!” Hermione nói, nghe thảng thốt. “Dĩnhiên rồi! Tại sao mình lại không nghĩra há?”
“Phúc Lạc Dược hả?” Harry trợn mắt ngó hai đứa bạ. “Mình không biết… Mình định để dành nó…”
“Để làm gì?” Ron ngờ vực hỏi.
“Harry ơi, còn cái gìtrên đời này quan trọng hơn ký ức của thầy Slughorn hả?” Hermione hỏi.
Harry không trả lời. Ý nghĩ xài đến chai nhỏ xíu vàng óng ấy đã lởn vởn đôi lần trong trí tưởng tượng của nó; những kế hoạch không định hình, không rõ
ràng về việc Ginny chia tay với Dean, về việc Ron sẽ vui vẻ chấp nhận gã bồ mới của cô em gái đã nhen nhúm lâu nay tận đáy não nó, nhưng nó không
chịu thừa nhận trừ khi chiêm bao hay lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mơ…
“Harry? Bồ vẫn còn đang ngồi với tụi mình chứ?” Hermione hỏi
“Cái… gì… À, dĩnhiên,” nó nói, tự chủ lại. “Thôi thì.. Ôkê. Nếu chiều nay mình không gợi chuyện được thầy Slughorn thìmình sẽ xài tới Phúc Lạc Dược để
thử một phen nữa vào tối nay.”
“Vậy quyết định rồi nhé.” Hermione nói dứt khoát và đứng dậy múa một điệu duyên dáng xoay tròn vòng quanh gót chân. “Địa điểm… Định ý… Điềm
đạm…” Cô nàng lẩm bẩm.
“Thôi, ngừng đi mà!” Ron năn nỉ, “Mình đã đủ phát bệnh vì… Mau lên, che mình lại!”
“Không phải Lavender mà!” Hermione hết kiên nhẫn nổi, khi hai cô gái khác xuất hiện trong sân và Ron chuồn nhanh ra sau Hermione.
“Bảnh!” Ron ngó qua vai Hermione nói. “Mèn ơi, coi bộ tụi nó không vui vẻ hén?”
“Tụi nó là chị em Montgomery và dĩnhiên là tụi nó không thể vui vẻ rồi, chứ bộ bồ chưa nghe chuyện đã xảy ra cho thằng em trai của tụi nó hả?” Hermione
nói.
“Thành thật mà nói, mình hết biết chuyện gìđang xảy ra cho bà con của thiên hạ rồi,” Ron nói.
“Ừ, em trai của tụi nó đã bị người sói tấn công. Người ta đồn rằng tại má tụi nó từ chối giúp đỡ bọn Từ Thần Thực Tử. Dù sao thì thằng bé cũng chỉ mới
năm tuổi và đã chết trong bệnh viện thánh Mungo, họ không thể nào cứu chữa nổi thằng bé.”
“Nó chết à?” Harry lặp lại, sững sờ. “Nhưng chắc chắn là người sói không giết người, họ chỉ biến người ta thành người sói như họ thôi mà?”
“Thỉnh thoảng họ cũng làm chết người,” Ron nói, lúc này trông nó nghiêm chỉnh khác thường. “Mình nghe nói chuyện đó xảy ra khi người soi tha nạn nhân
đi.”
“Người sói đó tên gì?” Harry hỏi nhanh.
“À, theo tin đồn thìđó là Fenrir Greyback,” Hermione nói.
“Mình biết hắn – gã khùng ưa tấn công trẻ con ấy, cái gã mà thầy Lupin đã kể cho mình nghe!” Harry giận dữ nói.
Hermione nhìn nó ngao ngán.
“Harry, bồ phải lấy cho được ký ức đó,” cô nàng nói. “Mục tiêu cuối cùng của việc đó là để chặn Voldermort lại, đúng không? Tất cả những chuyện ghê
rợn đang xảy ra nói cho cùng đều do hắn mà ra…”
Tiếng chuông vang vọng từ tòa lâu đài khiến cả Hermione lẫn Ron đứng bật dậy, vẻ mặt hãi hùng.
“Hai bồ sẽ thi tốt thôi,” Harry nói với tụi nó, khi tụi nó đi về phía tiền sảnh nhập vào đám học sinh sẽ thi Độn Thổ hôm đó. “Chúc may mắn nghe.”
“Bồ cũng may mắn nhé!” Hermione nói với một cái nhìn đầy ý nghĩa, khi Harry đi về phía tầng hầm.
Chỉ có ba học sinh trong lớp học độc dược chiều nay: Harry, Ernie và Draco Malfoy.
“Các trò đều chưa đủ tuổi thi hả?” Thầy Slughorn xởi lởi nói. “Chưa tới mười bảy tuổi à?”
Cả ba đứa đều lắc đầu.
“Thôi thế này,” thầy Slughorn phấn khởi nói, “Vì lớp học của chúng ta hơi ít, chúng ta sẽ làm chuyện gì đó cho vui. Thầy muốn tất cả hãy bày cho thầy một
trò thú vị!”
“Thưa thầy, ý đó thiệt là hay,” Ernie xoa xoa hai tay vào nhau nịnh nọt.
Malfoy không thèm nhếch mép. “Thầy muốn nói ‘một trò gìthú vị’ là trò gì?” Nó quạu quọ.
“Ồ, cứ làm cho thầy ngạc nhiên,” thầy Slughorn nói thản nhiên.
Malfoy mở cuốn Bào chế Thuốc Cao Cấp ra với nét mặt đưa đám. Quá rõ ràng là nó cho rằng buổi học này chỉ tổ mất thì giờ. Ló mặt qua cuốn sách,
quan sát Malfoy, Harry nghĩ, chắc chắn Malfoy đang thèm được dùng thìgiờ này để chui vô Phòng Theo Yêu Cầu.
Chẳng biết là do nó tưởng tượng hay quả thực Malfoy có vẻ gầy đi, như cô Tonks vậy. Chắc chắn là trông Malfoy xanh xao hơn; da nó bệch bạc màu tro
có lẽ bởi vì dạo này nó hiếm khi thấy ánh mặt trời; không còn đâu vẻ mặt tự mãn, tự cao và háo hức nữa. Không còn chút gì dáng điệu nghênh ngang mà
nó đã tỏ ra trên chuyến tàu tốc hành Hogwarts, khi nó công khai khoe khoang cái sứ mạng mà Voldemort giao cho nó… Chỉ có thể có một kết luận duy
nhứt, theo ý Harry: cái sứ mạng đó, dù là sứ mạng gìđi nữa, cũng đang ngắc ngứ tồi tệ.
Ýnghĩnày khiến Harry hồ hởi phấn khởi hẳn lên, nó thèm đọc lướt qua cuốn Bào Chế Thuốc Cao Cấp và tìm thấy một bản đã sửa đổi nát bấy của Hoàng
tử Lai ở bài Thuốc Tạo Khoái. Cái này có vẻ chẳng những đáp ứng yêu cầu của thầy Slughorn, mà biết đâu còn có thể (tim Harry nhảy thót lên khi đầu nó
nảy ra ý tưởng đó) làm cho thầy Slughorn tâm trạng sảng khoái để thầy sẵn sàng trao cho Harry ký ức của thầy, nếu mà Harry có thể thuyết phục thầy nếm
thử một tí…
Một giờ rưỡi sau thầy Slughorn nói, “Nào, tốt lắm, cái này coi bộ tuyệt vời,” thầy vỗ hai tay vào nhau khi bắt đầu ngó xuống cái chất vàng óng như nắng
trong vạc của Harry. “Thuốc Tạo Khoái hả, thầy thử được không? Thầy ngửi được cái mùi gì đó? Chà… Trò cho thêm một nhánh bạc hà, phải không?
Không đúng bài bản lắm, nhưng là một biến tấu hay, đương nhiên, Harry à, cái đó sẽ có xu hướng làm cân đối lại những tác dụng phụ đôi khi xảy ra như
hát ca quá đà hoặc véo mũi… thầy thực sự không biết trò kiếm đâu ra bộ não tuyệt vời này, chàng trai ạ! … trừ phi…”
Harry dùng chân đẩy cuốn sách của Hoàng tử Lai vô sâu trong cặp.
“… đó là gien di truyền của mẹ trỗi dậy trong người trò!”
“Dạ… Thưa thầy, có lẽ vậy,” Harry nói, thở phào ra.
Ernie có vẻ hơi quạu: nó tính qua mặt Harry một phen, nên đã hấp tấp phát minh ra độc dược của riêng nó, một thứ thuốc keo vón lại và tạo thành một cục
tím bầm nằm ngay ở đáy vạc. Malfoy thìđã dọn dẹp đồ đạc, mặt mày chua chat. Thầy Slughorn đã tuyên bố dung dịch Nấc Cụt của nó chỉ “tàm tạm”.
Chuông reo, cả Ernic và Malfoy lập tức rời khỏi phòng học.
“Thưa thầy… Thưa thầy! Thầy không muốn nếm thử Thuốc Tạo…” Harry tha thiết gọi theo.
Nhưng thầy Slughorn đã đi khuất. Thất vọng, Harry đổ hết thuốc trong vạc ra, dọn dẹp đồ đạc, rời khỏi tầng hầm, và chậm rãi đi ngược lên cầu thang về
phòng sinh hoạt chung.
Ron và Hermione trở lại đó vào lúc xế chiều.
“Harry!” Hermione gào lên khi cô nàng chui qua cái lỗ chân dung. “Harry ơi, mình đậu rồi!”
“Giỏi lắm!” Nó nói. “Còn Ron?”
“Nó hả… nó rớt rồi,” Hermione thì thầm trong khi Ron rũ người đi lừ đừ vô phòng trông rầu rĩ hết sức. “Thiệt là xui xẻo, một chi tiết vặt thôi, giám khảo
phát hiện nó đã bỏ sót lại đằng sau nửa cái lông mày… Còn chuyện thầy Slughorn ra sao?”
“Chẳng có gìvui,” Harry nói khi Ron nhập bọn với hai đứa nó. “Xui xẻo thôi mà, bồ tèo, lần sau bồ sẽ đậu… tụi mình có thể thi chung.”
“Ừ, mình hy vọng vậy,” Ron cáu gắt. “Nhưng mà một nửa cái lông mày… làm như là vấn đề lớn lắm không bằng!”
“Mình biết,” Hermione dỗ dành, “Quả là có vẻ khe khắt quá…”
Tụi nó dành cả buổi tối để nói xấu giám thị cuộc thi Độn Thổ, và Ron trông có vẻ phấn chấn lên phần nào khi tụi nó đi trở lại phòng sinh hoạt chung, lúc
này đang bàn bạc cái vấn đề nhìnhằng là thầy Slughorn và ký ức của thầy.
“Vậy, Harry à… bồ sẽ xài tới Phúc Lạc Dược hay tính cách khác?” Ron hỏi.
“Ừ, mình cho là có lẽ vậy tốt hơn,” Harry nói. “Mình nghĩ là không cần uống hết cả chai cho hên tới ‘hai-mươi-bốn-giờ’ đâu, việc đó cần gì tốn tới cả
đêm… Mình chỉ uống một ngụm thôi. Hai ba tiếng đồng hồ hiệu nghiệm là đủ để làm.”
“Bồ sẽ có cảm giác rất tuyệt vời khi uống vô,” Ron mơ màng nhớ lại. “Giống như là bồ không thể nào làm gìsai.”
“Bồ đang nói gìvậy?” Hermione cười. “Bồ có xài qua thuốc đó bao giờ đâu!”
“Ừ, nhưng lúc đó mình cứ nghĩ mình đã xài rồi, chứ gì nữa?” Ron nói như thể đang giảng giải một điều quá hiển nhiên. “Nói chung sự khác biệt nào thì
cũng như nhau cả thôi…”
Bởi vìtụi nó vừa thấy thầy Slughorn đi vào Đại Sảnh Đường và biết thầy ưa nhẩn nha kéo dài bữa ăn tối, cho nên tụi nó lần quần nán lại trong phòng sinh
hoạt chung, kế hoạch là Harry sẽ đi tới phòng của thầy Slughorn một lần nữa khi thầy trở về đó. Khi nắng xế chùng xuống trên những ngọn cây trong khu
rừng Cấm, tụi nó quyết định thời điểm đã đến, và sau khi kiểm tra cẩn thận để biết chắc là Neville, Dean và Seamus đều ở cả trong phòng sinh hoạt
chung, tụi nó lẻn lên phòng ngủ nam sinh.
Harry moi mấy chiếc vớ được cuộn tròn từ dưới đáy cái rương lên và rút ra một chai tíhon lóng lánh.
“Nó đây,” Harry nói, giơ cái chai nhỏ xíu lên và ực một ngụm được ước lượng cẩn thận.
“Bồ cảm thấy sao?” Hermione thìthẩm hỏi.
Harry không trả lời mất một lúc. Sau đó, từ từ nhưng rõ rệt, cái cảm giác phấn khởi trước vận may vô cùng tận lan tỏa khắp người nó; nó cảm thấy như
thể nó có khả năng làm được mọi việc, bất cứ việc gì… và việc lấy ký ức của thầy Slughorn bỗng nhiên có vẻ chẳng những có thể thực hiện được mà còn
rất khả quan…
Nó đứng lên, mỉm cười và tràn đầy tin tưởng.
“Xuất sắc,” nó nói. “Thiệt là xuất sắc. Đúng… mình sẽ đi xuống chòi của bác Hagrid.”
“Cái gì?” Ron và Hermione cùng kêu lên kinh ngạc.
“Không phải đâu, Harry – bồ phải đi gặp thầy Slughorn chứ, nhớ không?” Hermione nói.
“Không,” Harry nói một cách tự tin. “Mình sẽ đến nhà bác Hagrid, mình có một cảm giác tuyệt vời là phải đi gặp bác ấy.”
“Bồ cảm thấy tuyệt vời về việc một con nhện khổng lồ hả?” Ron sửng sốt hỏi.
“Ừ,” Harry nói, rút tấm áo khoác tàng hình ra khỏi túi xách của nó. “Mình cảm thấy đó mới chính là địa điểm mình cần có mặt tối nay, mấy bồ có hiểu mình
nói gìkhông?”
“Không,” Ron và Hermione đồng thanh, cả hai bây giờ trông hoảng hốt thực sự.
“Mình đoán chắc là tại Phúc Lạc dược chăng?” Hermione lo lắng nói, vừa giơ cái bình ra ngoài ánh sáng. “Bồ còn chai nào khác chứa đầy… Mình không
biết nữa…”
“Cuồng Dược hả?” Ron đặt giả thuyết, trong khi Harry tung cái áo choàng qua vai.
Harry cười to, Ron và Hermione trông càng hoảng sợ hơn.
“Tin mình đi! Mình biết mình đang làm gì…. hay ít ra thì…” Nó tự tin bước ra cửa, “…Phúc Lạc Dược biết mình đang làm gì.”
Nó kéo tấm Áo Khoác Tàng Hình trùm lên đầu và bắt đầu đi xuống cầu thang, Ron và Hermione nhanh chóng đi theo sau nó. Đến chân cầu thang, Harry
nhẹ nhàng lướt qua một cánh cửa mở.
“Anh làm cái trò gì với con đó ở trên ấy, hả!” Lavender Brown ré lên, trừng mắt nhìn xuyên qua Harry để thấy Ron và Hermione cùng nhau đi từ phòng ngủ
nam sinh. Harry nghe Ron lắp bắp đằng sau, trong lúc nó băng nhanh qua phòng bỏ xa tụi kia.
Chui qua cái lỗ chân dung là chuyện đơn giản, khi nó đến gần cái lỗ, Ginny và Dean vừa chui qua, Harry có thể len vô giữa hai đứa đó. Lúc nó làm vậy, nó
ngẫu nhiên đụng phải Ginny.
“Làm ơn, đừng có xô em mà, Dean,” cô bé nói, giọng bực bội. “Anh cứ làm vậy hoài, em có thể tự chui qua một mình một cách hoàn hảo…”
Bức chân dung đóng lại sau lưng Harry, nhưng nó cũng kịp nghe Dean tức tối cự nự lại… Cảm giác hồ hởi phấn khởi của nó càng tăng lên, Harry sải
bước ra khỏi tòa lâu đài. Nó không cần phải thập thò rón rén, bởi vì nó chẳng gặp ai trên đường đi, nhưng điều đó chẳng làm nó ngạc nhiên chút nào: tối
nay, nó là người may mắn nhất trường Hogwarts.
Nó không biết tại sao đi đến chỗ bác Hagrid lại là một hành động đúng đắn. Có vẻ như cứ mỗi vài ba bước thì thuốc hên lại chiếu sáng lối nó đi: tuy nó
không thể thấy được đích đến cuối cùng, nó không thể thấy thầy Slughorn từ đâu ra, nhưng nó biết nó đang đi đúng hướng để lấy được ký ức của thầy.
Khi đi đến tiền sảnh, nó nhận thấy là thầy Flich đã quên khóa cửa trước. Harry tươi cười, mở của và hít thở hương thơm của cỏ và không khí trong lành
một lúc trước khi bước xuống bậc thềm đi vào bóng hoàng hôn.
Khi bước xuống bậc thềm cuối cùng, tự nhiên nó cảm thấy sẽ dễ chịu biết bao nếu đi ngang qua mảnh vườn rau trên đường đi tới căn chòi của bác
Hargid. Mảnh vườn rau không hẳn nằm ngay trên đường đi, nhưng dường như đối với Harry đây rõ là một ngẫu hứng khôn ngoan mà nó nên làm. Thế là
nó lập tức đổi hướng đôi chân về phía vười rau, chính ở đó, nó hài lòng, nhưng không đến nỗi ngạc nhiên lắm, khi gặp thầy Slughorn đang chuyện trò với
cô Sprout. Harry núp sau bức tường đá thấp, cảm thấy an hòa với cả thế gian và lắng nghe cuộc chuyện trò của hai thầy cô.
“Tôi hết sức cảm ơn cô đã dành cho nhiều thời giờ, cô Pomona à,” thầy Slughorn nhã nhặn nói. “Hầu hết những ai có thẩm quyền đều đồng ý là chúng sẽ
có hiệu quả nhất nếu được hái vào lúc chạng vạng tối,”
“Ồ, tôi hoàn toàn đồng ý,” giáo sư Sprout nhiệt tình nói. “Nhiêu đó đủ chưa?”
“Nhiều lắm, nhiều lắm rồi,” thầy Slughorn nói, Harry thấy thầy mang một ôm đầy lá cây. “Nhiêu đây là đủ để chia cho mỗi học sinh năm thứ ba vài lá và còn
dư một ít dự phòng trường hợp đứa nào đó hầm chúng quá như… Thôi, chào cô, một lần nữa cảm ơn cô nhiều lắm.”
Giáo sư Sprout đi về khoảng tối phía những nhà lồng kiếng, và thầy Slughorn hướng bước chân về đúng nơi mà Harry đang đứng, vô hình.
Một mong muốn lộ diện ngay tức thìthôi thúc Harry, nó bèn vung tay một cái, cởi bỏ tấm Áo Khoác.
“Con chào thầy.”
“Úi cha cha, Harry, trò làm thầy hết hồn,” thầy Slughorn đứng khựng giữa đường, điệu bộ cảnh giá. “Làm sao trò ra khỏi toà lâu đài được?”
“Con nghĩlà thầy Flich quên khóa cửa chính,” Harry phấn khởi nói, và cảm thấy vui hết sức khi thầy Slughorn nổi quạu.
“Thầy sẽ phải báo cáo về tay giám thị này. Nếu trò hỏi thầy, thìthầy cho rằng hắn lo lắng chuyện rác rưởi nhiều hơn vấn đề an ninh đúng mực…. Nhưng tại
sao trò lại ra ngoài này, Harry?”
“Dạ thưa thầy, đó là vìbác Hagrid,” Harry nói, nó biết rằng bây giờ cứ nói sự thật là đúng. “Bác ấy đang buồn khổ… Nhưng thầy đừng nói cho ai biết, thầy
nhé? Con không muốn gây rắc rối cho bác ấy…”
Óc tò mò của thầy Slughorn rõ ràng đã bị dựng dậy, “Chà, thầy không thể hứa như vậy,” thầy nói hơi cộc cằn. “Nhưng thầy biết cụ Dumbldore hoàn toàn
tin tưởng bác ấy, cho nên thầy chắc rằng bác ấy không thể làm điều gìrùng rợn lắm đâu…”
“Dạ, chẳng là có một con nhện khổng lồ, bác ấy đã làm bạn với nó nhiều năm… Nó sống trong khu rừng… Nó có thể nói và đủ thứ hết…”
“Thầy cũng nghe đồn bác ấy có mấy con Khổng Nhện trong rừng,” thầy Slughorn nói nhỏ, hướng mắt về phía đám rừng cây đen hù. “Vậy đúng thiệt sao?”
“Dạ,” Harry nói. “Nhưng mà con này, conAragog, là con đầu tiên mà bác Hagrid có được, nó đã chết tối hôm qua. Bác ấy suy sụp tinh thần. Bác ấy cần
có bầu bạn khi chon cất con đó và con nói là con sẽ đến.”
“Cảm động thay, cảm động thay,” thầy Slughorn nói một cách đãng trí, hai con mắt sùm sụp của thầy chăm chú nhìn về phái có ánh đèn xa xa của cặp chòi
bác Hagrid. “Nhưng nọc độc Khổng Nhện rất quí hiếm… Nên con quái vật đó chỉ mới chết thì nọc của nó chắc là chưa khô cạn… Dĩ nhiên rồi, thầy sẽ
không làm điều gìvô ý nếu bác Hagrid đang buồn khổ… Nhưng giá như có cách gìđó để lấy được một ít… Thầy muốn nói là, hầu như vô phương lấy nọc
của một con Khổng Nhện khi nó còn sống…”
Lúc này thầy Slughorn dường như đang nói chuyện với chính mình hơn là nói với Harry.
“… xem ra thì thiệt là phí phạm khủng khiếp nếu không lấy được nọc… một xị có thể đáng giá cả trăm Galleon… thành thật mà nói, tiền lương của thầy
đâu có nhiều…”
Và bây giờ Harry thấy rõ ràng nó phải làm gì, “Dạ thưa thầy,” nó nói, với điệu bộ ngập ngừng hùng hồn nhất, “nếu thầy muốn đến đó, chắc là bác Hagrid
sẽ mừng lắm… Chắc thầy cũng biết, để cho Aragog được tiễn đưa tử tế hơn…”
“Ừ, dĩ nhiên rồi,” thầy Slughorn nói, mắt thầy giờ đây lóe lên lòng hăng hái. “Harry à, thầy nói với trò điều này, thầy sẽ gặp trò dưới đó, đem theo một hai
chai… Chúng ta sẽ uống vì sức… Ờ… không được khỏe của con quái vật tội nghiệp đó… nhưng đằng nào chúng ta cũng sẽ đưa tiễn nó đúng lễ nghi,
khi mà nó được chôn cất. Và thầy sẽ thay cà vạt khác, cái cà vạt nhỏ này coi hơi hoa mỹ trong tình huống này…”
Thầy hối hả quay trở lại lâu đài, và Harry đi nhanh tới chỗ bác Hagrid, híha híhửng trong lòng.
“Con tới đó hả,” bác Hagric làu bàu, khi mở cửa và thấy Harry từ trong tấm Áo Khoác Tàng Hình hiện ra trước mặt.
“Dạ… nhưng mà Ron và Hermione không tới được,” Harry nói, “tụi nó thực tình xin lỗi bác.”
“Hông… hông sao… dù gìthìcậu ấy cũng cảm động… là… là con đã tới.”
Bác Hagrid khóc nấc lên thiệt to, bác đã tự làm một cái băng đeo màu đen trên cánh tay, trông như một miếng giẻ lau được nhúng vào xi đánh giày, và
đôi mắt bác sưng hụp, đỏ ngầu. Harry vỗ nhè nhẹ vào cùi chỏ bác để an ủi, cùi chỏ là điểm cao nhất của bác mà nó có thể với tới.
“Chúng ta sẽ chôn nó ở đâu ạ?” Nó hỏi. “Trong rừng hả bác?”
“Không đâu, quỉ thần ơi,” bác Hagrid nói, vừa quẹt nước mắt đang chảy ròng ròng xuống vạt áo. “Bây giờ Aragog lìa đời rồi, những con nhện khác không
cho bác đến gần mạng bọn chúng. Hóa ra chúng chưa ăn thịt bác là do lệnh của Aragog! Tin nổi điều đó không, Harry?”
Câu trả lời rất thành thật là: “Có”; Harry nhớ lại với một sự dễ chịu ,à đau đớn cái cảnh nó và Ron đã phải đương đầu với lũ Khổng nhện. Tụi nó hiểu quá
rõ rằng Aragog là trở ngại duy nhất khiến bọn kia không ăn thịt được bác Hagrid.
“Trước đây có chỗ nào trong rừng mà bác không đến được chứ!” Bác Hagrid lúc lắc đầu nói. “Bác có thể nói với con… đem được cái xác Aragog ra
khỏi đó không dễ chút nào… bọn Khổng nhện hay ăn thịt xác chết đồng loại, con hiểu không…. Nhưng bác muốn cậu ấy được chôn cất tử tế… được tiễn
đưa đàng hoàng…”
Bác lại nức nở khóc rống lên một lần nữa và Harry lại vỗ vỗ lên cùi chỏ bác, vừa làm vậy vừa nói (bởi vì dường như thuốc hên xúi rằng làm như vậy là
đúng), “Bác Hagrid à, gs Slughorn bắt gặp con lúc đi xuống đây.”
“Con đâu có bị rắc rối gìhả?” Bác Hagrid nói, ngước nhìn lên có vẻ cảnh giác. “Con không nên ra khỏi lâu đài vào ban đêm, bác biết, đó là lỗi của bác…”
“Không sao, không sao hết, khi thầy ấy biết chuyện con đang làm thìthầy ấy nói là thầy ấy cũng muốn đến phân ưu và nói lời vĩnh biệt đối với Aragog…”
“Ổng làm vậy thiệt sao?” Bác Hagrid nói, tỏ vẻ vừa ngạc nhiên vừa xúc động. “Thiệt… thiệt là một người tử tế lắm lắm, mà đúng là… ổng đâu có bắt con
về nộp. Trước đây bác chưa từng giao du nhiều với Horace Slughorn… vậy mà ổng đến tiễn đưa Aragog? Chắc cậu ấy sẽ khoái lắm,Aragog sẽ…”
Harry nghĩ riêng trong lòng rằng Aragog hẳn sẽ khoái Thầy Slughorn lắm vì cái khối lượng dồi dào thịt ăn được trên người thầy, nhưng nó chỉ đi tới cửa
sổ sau của căn chòi bác Hagrid, ở đó nó thấy cảnh tượng ghê rợn là con nhện khổng lồ đã nằm chết nửa, giơ lên những cái chân co quắp và mắc míu
vào nhau.
“Bác Hagrid, chúng ta sẽ chôn nó ở đây, trong vườn của bác hả?”
“Bác nghĩ là ngay ở bên kia đám bí rợ,” bác Hagrid nói trong tiếng nấc. “Bác đã đào… con biết đấy… cái huyệt. Chỉ nghĩ là chúng ta sẽ nói đôi điều tử tế
về cậu ấy… những kỷ niệm vui vui, con biết đấy…”
Giọng bác run run và đứt đoạn. Có tiếng gõ cửa, bác bèn quya ra tiếp khách, vừa mở cửa vừa hỉ mũi vô cái khăn mù xoa dơ hầy. Thầy Slughorn lật đật
bước qua ngưỡng cửa, kẹp nách mấy chai rượu và đeo một cái cà vạt màu đen ảm đạm.
“Bác Hagrid,” thấy nói bằng giọng trang nghiêm sâu sắc. “Thành kính paahn ưu trước mất mát của bác.”
“Thầy thiệt là có lòng tốt,” bác Hagrid nói. “Cám ơn thầy nhiều lắm. Cũng cám ơn thầy không phạt Harry cấm túc…”
“Không hề nghĩđến chuyện đó,” Thầy Slughorn nói. “Đêm buồn, đêm tang tóc… Sinh vật tội nghiệp đó ở đâu?”
“Ngoài kia,” bác Hagrid nói giọng run run. “Vậy, chúng ta có nên… Nên bắt đầu chăng?”
Ba người bước ra vườn sau. Lúc này trăng đang tỏa ánh sáng nhợt nhạt xuống rừng cây và ánh trăng pha lẫn ánh đèn hắt ra từ cửa sổ căn chòi của bác
Hagrid soi tỏ cái xác conAragog nằm bên mép một cái hố khổng lồ bên cạnh một đống đất mới đào lên cao chừng ba thước.
“Tuyệt vời,” Thầy Slughorn nói, đi đến gần đầu con nhện, nơi có tám con mắt trắng đục ngó thẳng lên bầu trời và hai cái nanh càng vĩ đại cong vòng bất
động sáng bóng dưới ánh trăng. Harry tưởng như nó nghe được tiếng lanh canh của mấy cái chai va vào nhau khi Thầy Slughorn cúi khom người xuống
đôi nanh vàng, làm như xem xét cái đầu đầy lông bự chảng.
“Không phải ai cũng đánh giá đúng vẻ đẹp của chúng,” bác Hagrid nói với cái lưng Thầy Slughorn, nước mắt bác ứa ra từ khóe mắt nhăn nheo. “Tôi
không dè thầy lại quan tâm đến những sinh vật như Aragog, thầy Horace à.”
“Quan tâm hả? Bác Hagrid thân mến ơi, tôi sùng bái chúng ấy chứ,” Thầy Slughorn nói, lùi ra xa cái xác. Harry nhìn thấy ánh lấp lánh của một cái chai
khuất bên dưới tấm áo khoác, nhưng bác Hagrid, lại chùi nước mắt một lần nữa, nên chẳng để ý thấy gìcả.
“Bây giờ… mình tiến hành tang lễ chứ hả?” Thầy Slughorn nói.
Bác Hagrid gật đầu và tiến tới trước. Bác cố nâng con nhện khổng lồ trong đôi tay và lăn nó xuống cái huyệt tối hù kèm theo một tiếng rên thiệt to. Cái xác
chạm đáy huyệt mạnh ghê gớm, vang lên một tiếng huỵch thiệt lớn, bác Hagrid lại khóc nữa.
“Dĩ nhiên, thật khó khăn cho bác, người hiểu nó nhất,” Thầy Slughorn nói, cũng giống như Harry, thầy không thể vói cao hơn cùi chỏ của bác Hagrid,
nhưng thầy vẫn vỗ về cùi chỏ của bác Hagrid. “Bác cho phép tôi nói đôi lời tiễn biệt nhé?”
Harry nghĩắt hẳn Thầy Slughorn đã lấy được khá nhiều nọc độc của conAragog, bởi vìthầy nở một nụ cười mãn nguyện khi bước tới bên miệng huyệt và
nói bằng giọng chậm rãi gây xúc động sâu sắc, “Vĩnh biệtAragog, vua của loài nhện, những người từng biết mi sẽ không bao giờ quên được tình bạn lâu
dài và chung thủy của mi! Cho dù thi thể mi sẽ hủy hoại, vong linh mi sẽ vẫn phảng phất những nơi vắng vẻ đầy mạng nhện trong rừng nhà của mi. Nhiều
hậu duệ đa-nhãn của mi sẽ phát triển thịnh vượng và những bạn bè thuộc loài người của mi sẽ nguôi ngoai nỗi mất mát mà họ phải chịu đựng.”
“Đó đó… thiệt là… hay!” Bác Hagrid rú lên và ngã nhào lên đống phân ủ, càng khóc to hơn bao giờ hết.
“Thôi thôi,” Thầy Slughorn nói, vừa vẫy cây đũa phép của thầy để cho đống đất khổng lồ dâng lên rồi rớt xuống, kèm tiếng bình bịch khi chạm vào xác con
nhện chết, lấp lại thành một cái gò phẳng phiu. “Chúng ta hãy vô nhà uống tí rượu. Harry, con hãy đứng qua bên kia của bác Hagrid… Đúng rồi… Đi thôi,
bác Hagrid… Xong xuôi tốt đẹp rồi…”
Hai thầy trò kè bác Hagrid vô nhà, đặt bác ngồi xuống ghế bên cạnh cái bàn. Fang, con chó đã trốn kỹ trong cái ổ của nó suốt tang lễ, bây giờ mới chui ra
lỏn lẻn đi ngang qua mọi người để đến đặt cái đầu bự chảng của nó lên đùi Harry như thường lệ. Thầy Slughorn mở rút một trong những chai rượu thầy
mang tới.
“Thầy đã cho kiểm tra chất độc tất cả rồi,” thầy cam đoan với Harry, trong khi rót gần hết chai vô cái ca bự bằng cái xô của bác Hagrid rồi đưa cho bác.
“Sau chuyện xảy ra cho thằng bạn khốn khổ Rupert của trò, thầy luôn cho một gia tinh nếm thử rượu trong từng chai.”
Harry thấy, hiện lên trong đầu nó, vẻ mặt Her như thế nào nếu cô nàng biết đến sự hành hạ gia tinh này và nó quyết định không đời nào nói cho cô nàng
biết.
“Một ly cho Harry…”
Thầy Slughorn nói, chia chai thứ hai vô hai cái ca.
“…và một ly cho ta. Tốt.”
Thầy giơ cao cái ca của thầy.
“Để tưởng nhớ Aragog.”
“Aragog,” Harry và bác Hagrid cùng nói. Cả Thầy Slughorn lẫn bác Hagrid uống một hơi dài. Tuy nhiên, Harry nhờ Phúc lạ dược soi đường dẫn lối nên
hiểu là nó không nên uống, thế là nó chỉ làm bộ hớp một ngụm rồi đặt cái ca trên bàn trước mặt nó.
“Thầy biết không, tôi đã nuôi nấng nó từ lúc còn là cái trứng,” bác Hagrid rầu rầu nói. “Khi nó mới nở ra, nó nhỏ xíu xìu xiu, chỉ bằng một con chó lùn mà
thôi.”
“Dễ thương,” Thầy Slughorn nói.
“Trước đây vẫn để nó trong chạn bát của trường cho đến khi, chà…”
Vẻ mặt bác Hagrid tối sầm lại và Harry biết tại sao : Tom Riddle đã âm mưu tính toán để bác Hagrid bị đuổi ra khỏi trường, vì bị đổ cho tội đã mở cửa
Phòng chứa Bí mật. Tuy nhiên, Thầy Slughorn không tỏ vẻ lắng nghe ; thầy đang nhìn lên trần nhà, trên đó có treo một số nồi đồng cùng với một cuộn lông
bạc trắng mượt mà.
“Có phải lông bạch kỳ mã đó không, bác Hagrid ?”
“Ờ phải,” bác Hagrid thản nhiên nói. “Bứt từ đuôi chúng, thầy biết đó, chúng hay làm vướng trên cành cây và các thứ khác trong rừng…”
“Nhưng ông bạn thân mến à, ông có biết cái đó đáng giá bao nhiêu không ?”
“Tôi dùng lông đó để may vá băng bó vân vân khi có sinh vật bị thương,” bác Hagrid nhún vai nói. “Cực kỳ hữu ích… rất hiệu nghiệm.”
Thầy Slughorn ực thêm một hơi nữa từ cái ca của thầy, mắt thầy lúc này đang cẩn thận đảo quanh căn chòi, Harry biết, để tìm kiếm thêm những kho báu
mà thầy có thể sẽ biến thành nguồn trao đổi phong phú với rượu mật rừng sồi, kẹo khóm dẻo và áo khoác nhung. Thầy lại rót đầy ca rượu của bác
Hagrid và ca rượu của chính mình, rồi hỏi thăm bác về những sinh vật sống trong rừng dạo này và bác Hagrid làm thế nào có thể chăm sóc tất cả bọn
chúng. Dưới ảnh hưởng của rượu và sự quan tâm phỉnh phờ cảu Thầy Slughorn, bác Hagrid trở nên cởi mở hết lòng, bác bèn thôi lau nước mắt và vui
vẻ bắt đầu một cuộc giảng giải dông dài về nghề chăn nuôi cần cù vất vả.
Đúng thời điểm này, Phúc lạc dược thúc Harry một cái và nó nhận thấy số lượng rượu mà Thầy Slughorn mang đến đang cạn nhanh. Harry chưa bao giờ
thực hiện thành công bùa Đầy lại mà không cần hô thần chú ra miệng, nhưng cái ý nghĩ nó có thể không làm nổi điều đó đêm nay thiệt đáng cười nhạo.
Quả có vậy, Harry đã tự cười roe toét với mình : không bị cả bác Hagrid lẫn Thầy Slughorn chú ý (lúc này thầy đang thù tạc câu chuyện mua bán trứng
rồng bất hợp pháp) Harry cầm cây đũa phép của nó dưới gầm bàn chĩa vào mấy vỏ chai rỗng và mấy cái chai này lập tức đầy lại.
Khoảng một giờ sau hay cỡ đó, bác Hagrid và Thầy Slughorn bắt đầu nâng ly chúc mừng tá lả : mừng trường Hogwarts, mừng cụ Dumbledore, mừng
rượu gia tinh pha chế và mừng…
“Harry Potter !” bác Hagrid rống lên, làm sóng sánh một ít rượu trong cái xô rượu thứ mười bốn của bác, tràn cả xuống cằm khi bác nốc cạn.
“Ừ, đúng vậy,” Thầy Slughorn kêu lên, giọng hơi lè nhè, “Pary Otter, Thằng Bé được chọn… chà,,, hay cái gì đó na ná như vậy,” thầy nói trệu trạo, rồi cũng
nốc cạn cái ca rwouj của thầy.
Chẳng bao lâu sau đó, bác Hagrid đã ràn rụa nước mắt ép toàn bộ cái đuôi bạch kỳ mã cho Thầy Slughorn, thầy nhét nó vô túi kèm theo tiếng hô, “Mừng
cho tình bạn ! Mừng tấm lòng hào hiệp ! Mừng một sợi lông đáng giá mười Galleon!”
Và sau đó một hồi lâu bác Hagrid và Thầy Slughorn cứ ngồi bên cạnh nhau, ôm nhau hát một bài hát buồn bã lê thê về cái chết của một pháp sư tên là
Odo.
“Ôi, người tốt chết yểu,” bác Hagrid lẩm bẩm, gục thấp xuống mặt bàn, mắt đã gần híp lại, trong khi Thầy Slughorn tiếp tục ngâm nga điệp khúc. “Má thầy
chẳng sống được lâu… mà má trò với ba trò cũng thế, Harry ơi à…”
Những giọt nước mắt
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)
6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)

More Related Content

PDF
Nghệ thuật yêu đương (169p)
PDF
Cara belanja mallkita
PDF
Hạt giống tâm hồn 10 theo dòng thời gian (178p)
PDF
Phải đến harvard học kinh tế (399p)
PDF
Người giỏi không phải là người làm tất cả (115p)
PPTX
Pemanfaatan jamur pada makanan
PDF
Crompton-greaves-tefc-squirrel-cage-motors-Catalogue (eff level 2)
DOCX
Imperio bizantino
Nghệ thuật yêu đương (169p)
Cara belanja mallkita
Hạt giống tâm hồn 10 theo dòng thời gian (178p)
Phải đến harvard học kinh tế (399p)
Người giỏi không phải là người làm tất cả (115p)
Pemanfaatan jamur pada makanan
Crompton-greaves-tefc-squirrel-cage-motors-Catalogue (eff level 2)
Imperio bizantino

Recently uploaded (8)

PPTX
20240310 - Ao Dai Viet Nam - Tuyetkypowerpoint (1).pptx
DOCX
TÀI LIỆU KỸ THUẬT IoMT GATEWAY GIÁM SÁT THIẾT BỊ Y TẾ.docx
DOC
Mẫu giáo án giảng dạy dành cho cao đẳng, đại học
PPTX
hoooooooooooooooooooooooooooooooooooo.pptx
PPTX
Tinh than yeu nuoc cua nguoi Ha Noi.pptx
PPTX
thuyết trình về dậy sớm mà t làm từ năm lớp 11 (bị lỗi font r hihihi)
PDF
TÌM HIỂU VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ BAO BÌ TỰ PHÂN HỦY.pdf
PDF
đồ án thiết kế hệ thống dẫn động băng tải
20240310 - Ao Dai Viet Nam - Tuyetkypowerpoint (1).pptx
TÀI LIỆU KỸ THUẬT IoMT GATEWAY GIÁM SÁT THIẾT BỊ Y TẾ.docx
Mẫu giáo án giảng dạy dành cho cao đẳng, đại học
hoooooooooooooooooooooooooooooooooooo.pptx
Tinh than yeu nuoc cua nguoi Ha Noi.pptx
thuyết trình về dậy sớm mà t làm từ năm lớp 11 (bị lỗi font r hihihi)
TÌM HIỂU VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ BAO BÌ TỰ PHÂN HỦY.pdf
đồ án thiết kế hệ thống dẫn động băng tải
Ad
Ad

6. harry potter và hoàng tử lai (148bp)

  • 1. J.K. Rowling Bản dịch: Lý Lan Harry Potter và Hoàng tử lai Chương 1 Ông Thủ Tướng kia Đã gần nửa đêm và ông Thủ tướng đang ở một mình trong văn phòng, đọc một cái biên bản dài lòng thòng cứ trôi tuồn tuột khỏi đầu óc ông mà không để lại đằng sau một tíxíu vết tích ý nghĩa. Ông đang đợi cú điện thoại của ông Tổng thống ở một nước rất xa, và vừa tự hỏi chừng nào thìcái ông chết tiệ ấy sẽ gọi, vừa cố gắng đàn áp cái ký ức khó chịu về những chuyện đã xảy ra trong một tuần lễ khó khăn, mệt mỏi và dài lê thê vừa qua, nên chẳng còn chỗ đâu trong đầu để chứa thêm cái gìkhác nữa. Ông Thủ tướng càng cố gắng tập trung vào cái điều in trên trang giấy trước mặt, thìông càng thấy rõ hơn bộ mặt lãng đãng của một tay trong đám đối thủ chính trị của ông. Cái tay đối thủ cá biệt này đã xuất hiện trên báo chímỗi ngày, không những điểm qua tất cả những chuyện khủng khiếp đã xảy ra trong tuần vừa qua (làm như thể người ta cần nhắc nhở vậy) mà hắn còn giải thích nguyên nhân của mỗi chuyện và mọi chuyện hóa ra đều là sai lầm của chính quyền. Cứ nghĩvề mấy vụ buộc tội này là nhịp tim của ông Thủ tướng lại tăng nhanh, bởi vìđó toàn là những cáo buộc tầm bậy và oan ức.Chứ làm cách nào mà chính phủ có thể ngăn cây cầu sập xuống? Người nào cho rằng chính quyền đã không chi đủ tiền bảo quản cây cầu thìđúng là muốn sỉ nhục. Cây cầu ấy chưa đầy mười tuổi, và những chuyên gia giỏi nhất cứ ú ớ khi phải giải thích tại sao mà nó lại đứt đôi gọn gàng, tống hàng tá xe hơi xuống đáy nước của con sông chảy dưới gầm cầu. Và làm sao có kẻ lại dám cho rằng vìthiếu cảnh sát nên mới có cái hậu quả là có hai vụ sát nhân ghê tởm nổi đình nổi đám ấy? Hoặc cho rằng chính quyền đáng lẽ ra phải làm cách nào đó nhìn thấy trước trận cuồng phong quái đản ở Miền Tây đã gây ra vô số thiệt hại cho người lẫn của cải? Và chẳng lẽ đó cũng là lỗi của ông Thủ tướng nốt khi một trong mấy ông Phó Thủ tướng, ông Herbert Chorley, lại chọn đúng cái tuần lễ này để có hành vi khác thường là bỏ ra khối thìgiờ ở nhà hủ hỉ với vợ con? “Đất nước ta đang mắc kẹt trong một tình thế ngặt nghèo.” Gã đối thủ đã kết luận như vậy, chả cần giấu giếm nụ cười toe toét nham nhở của mình. Mà rủi thay, điều nay lại hoàn toàn đúng. Chính ông Thủ tướng cũng cảm thấy như vậy; người ta quả thật có vẻ sầu thảm hơn mọi khi. Đến cả thời tiết cũng trở nên ảm đạm; cả cái trận sương mù lạnh cóng giữa tròi tháng bảy này nữa… Thật chẳng đúng gìcả, thật chẳng bình thường… Ông lật qua trang hai của biên bản, thấy nó còn tiếp tục lê thê hơn nữa, đành dẹp nó đi như một công việc nuốt không trôi. Vươn tay qua khỏi đầu để duỗi thân, ông Thủ tướng rầu rĩnhìn quanh văn phòng của mình. Đó là một căn phòng đẹp, có một cái lò sưởi bằng đá hoa cương đối diện với những cửa sổ dài có khung kính trượt đã được đóng kín gài kỹ để ngăn cơn sương giá trái mùa. Khẽ rùng mình, ông Thủ tướng đứng dậy đi tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài màn sương mỏng đang cố ép vào lớp kính cửa sổ. Chính lúc đó, ông đang đứng quay lưng về phía căn phòng, ông nghe một tiếng ho nhẹ sau lưng mình. Ông đứng chết trân, giáp mặt với chính cái bóng khiếp sợ của gương mặt mình trong kính cửa sổ tối om. Ông đã biết rành tiếng ho đó. Ông đã từng nghe nó trước đây. Ông từ từ xoay người lại đối diện với căn phòng vắng hoe. “Chào?” Ông nói, với giọng cố gắng tỏ ra có can đảm. Trong một thoáng ngắn ngủi, ông tự cho phép mình có một niềm hy vọng không thể xảy ra là sẽ chẳng có ai đáp lời cả. Thế nhưng ngay lập tức, một giọng nói đáp lại liền, một giọng đanh thép cả quyết nghe như thể đang đọc một tuyên bố đã được soạn sẵn. Theo như ông Thủ tướng từng biết qua lần ho đầu tiên, thìgiọng nói đó xuất phát từ một gã đàn ông nhỏ thó trông như con ếch đội một đầu tóc giả óng ánh bạc, được vẽ trong một bức tranh sơn dầu nhỏ nhắn đặt ở mút trong góc phòng. “Kính gửi ông Thủ tướng dân Muggle. Chúng ta cần gặp mặt khẩn cấp. Vui lòng hồi âm tức thì. Thành kính, Fudge.” Gã đàn ông trong bức tranh nhìn ông Thủ tướng dò hỏi. “Ờ,” ông Thủ tướng nói, “Thế này nhé… lúc này không thuận tiện cho tôi lắm… Anh biết đấy, tôi đang chờ một cú điện thoại… của ông Tổng Thống nước…” “Cái đó có thể dàn xếp lại.” Người trong tranh nói chặn ngay. Trái tim ông Thủ tướng chùng xuống. Ông đã lo ngại chuyện đó. “Nhưng thực tình tôi có phần mong muốn nói chuyện...” “Chúng tôi có thể dàn xếp để cho ông Tổng Thống quên béng đi vụ gọi điện thoại. Bù lại ông sẽ gọi vào tối mai,” gã đàn ông nhỏ thó nói. “Hãy lịch sự hồi âm ông Fudge ngay lập tức.” “Tôi… ơ… thôi được.” Ông Thủ tướng yếu ớt đáp. “Vâng, tôi sẽ gặp ông Fudge vậy.” Ông Thủ tướng vội vã trở lại bàn làm việc, vừa bước đi vừa chỉnh lại cái cà vạt. Ông chưa kịp ngồi xuống ghế và điều chỉnh gương mặt mình cho ra cái vẻ mà ông hy vọng là đỉnh đạc thong dong, thìnhững ngọn lửa xanh biếc chợt bùng cháy lên bên dưới cái bệ lò sưởi bằng đá hoa cương. Ông Thủ tướng nhìn, cố gắng không để lộ ra một títẹo ngạc nhiên hay sợ hãi nào, khi một người đàn ông bệ vệ xuất hiện từ trong ngọn lửa, xoay tít như con vụ. Chỉ giây lát sau, ông ta trèo ra khỏi lò sưởi, bước lên tấm thảm thuộc loại đồ cổ xinh xắn, phủi bụi tro bám hai ống tay của chiếc áo khoác dài bằng vải sọc nhuyễn, và cầm trong tay ông ta là một cái nón tròn như trái dưa màu xanh vỏ chanh. “A… Chào ông Thủ tướng.” Ông Cornelius Fudge vừa sải dài bước chân tiến về phía trước vừa chìa bàn tay ra. “Hân hạnh gặp lại ông.” Ông Thủ tướng không thể thành thật đáp lại lời chào mừng đó, nên chẳng nói năng gìcả. Ông ta chẳng có tíxíu hân hoan nào trong chuyện gặp gỡ ông Fudge, người mà những lần xuất hiện đặc biệt thường có nghĩa là ông Thủ tướng sắp phải nghe toàn điều chẳng lành, không kể chính sự xuất hiện của ông ta đã là sự rất chẳng lành rồi. Đã thế, ông Fudge lại tỏ ra lo lắng đến tiều tụy một cách rõ ràng. Trông ông ta gầy đi, đầu hói thêm, tóc bạc thêm, và bộ mặt ông ta thìtrông thiệt là bèo nhèo thê thảm. Ông Thủ tướng đã từng nhìn thấy trước đây vẻ bèo nhèo tương tự nơi những chính khách, và vẻ mặt kiểu đó chẳng khi nào báo trước điềm lành. “Chẳng hay tôi có thể giúp gìđược cho ông?” Ông Thủ tướng nói, hờ hững bắt tay ông Fudge và ra dấu về phía cái ghế ít êm ái nhất trong đám ghế đặt đằng trước bàn giấy của ông. “Thật khó mà biết bắt đầu từ đâu.” Ông Fudge lẩm bẩm, vừa kéo cái ghế, ngồi xuống, và đặt cái nón hình trái dưa xanh lên đầu gối. “Cái tuần gìđâu, cái tuần gìmà...” “Ông cũng trải qua một tuần lễ nát bét sao?” Ông Thủ tướng hỏi giọng cứng cỏi, hy vọng thông qua đó truyền đạt cái ý là chưa có thêm ông Fudge thì chính ông cũng đã có đủ chuyện để bù đầu rồi. “Vâng, tất nhiên rồi.” Ông Fudge nói, mệt mỏi dụi hai con mắt của mình, rồi buồn bã ngó ông Thủ tướng. “Tôi cũng bị một tuần te tua như ông, ông Thủ tướng à. Cây cầu Brockdale... rồi vụ ám sát Bones và Vance... ấy là chưa kể vụ um xùm ở Miền Tây...” “Ông... Ơ... Dân ông... Ýtôi muốn nói là, một số thành viên trong giới của ông có... có dính líu tới mấy... mấy sự kiện đó, đúng không?” Ông Fudge trân cho ông Thủ tướng một cái nhìn khá nghiêm khắc. Ông nói, “Dĩnhiên rồi. Chứ ông không nhận thấy chuyện gìđang diễm ra à?” “Tôi...” Ông Thủ tướng ấp úng. Đây đích thị là cái kiểu cư xử đã khiến cho ông Thủ tướng không mấy ưa những cuộc viếng thăm của ông Fudge cho lắm. Nói cho cũng, ông đường đường là một vị Thủ tướng và chẳng thích thú gìkhi bị bẽ mặt như một đứa học trò dốt nát. Nhưng mà dĩnhiên, cái kiểu cư xử này vốn đã như vậy ngay từ lần gặp đầu tiên giữa ông và ông Fudge, trong ngay cái đêm đầu tiên ông mới trở thành Thủ tướng. Ông nhớ vụ đó rõ như thể mới xảy ra ngày hôm qua và biết rõ vụ đó sẽ ám ảnh ông mãi cho tới ngày chết mới thôi. Lúc đó ông đang đứng một mình trong chính căn phòng này, thưởng thức hương vị chiến thắng mà ông đã tốn bao nhiêu năm mưu đồ, mơ ước mãi mới
  • 2. đạt được, thìchợt nghe một tiếng ho đằng sau lưng, giống y như tối nsy, và khi quay lại thìông nhận ra bức chân dung xấu xíđang nói chuyện với ông, thông báo là ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật sắp đến viếng thăm xã giao. Đương nhiên lúc đó ông cứ tưởng là chiến dịch tranh cử căng thẳng và kéo dài đã khiến cho ông mụ mẫm. Ông đã cực kỳ kinh hoảng khi phát hiện ra một bức chân dung đang nói chuyện với mình, mặc dù chuyện này chẳng thấm thía vào đâu so với cảm giác của ông sau đó, khi một kẻ tự xưng là pháp sư vọt ra từ trong lò sưởi đến bắt tay ông. Ông đã cứ thế mà nín khe trong suốt buổi ông Fudge giải thích rằng hãy còn những phù thủy và pháp sư đang sống bímật trên khắp thế giới, đồng thời cam đoan rằng ông Thủ tướng chẳng cần phải bận tâm rối trívề họ làm gìbởi vìđã có Bộ Pháp thuật chịu trách nhiệm về toàn bộ cộng đồng Pháp thuật và ngăn cách không cho dân chúng phi-pháp-thuật dính dáng gìtới họ cả. Ông Fudge có nói đó là một công tác khó khăn bao gồm mọi thứ, từ những qui định về việc sử dụng có trách nhiệm những cây chổi bay đến việc kiểm soát dân số rồng. (Ông Thủ tướng nhớ là nghe tới điểm này ông đã bíu vô bàn mới ngồi vững được.) Ông Fudge lúc đó với cái giọng cha người ta đã vỗ vai ông Thủ tướng đang khiếp đảm đến ngọng luôn. “Đừng lo,” ông ta nói. “Rất có thể là ông sẽ chẳng bao giờ gặp lại tôi lần nào nữa. Tôi sẽ chỉ quấy rầy ông nếu bên phía chúng tôi xảy ra chuyện gìđó thực sự nghiêm trọng, chuyện có thể ảnh hưởng dân Muggle- đúng ra tôi nên nói là dân chúng phi-pháp-thuật. Ngoài ra, mạnh ai nấy sống. Và tôi phải nói thêm, ông đã tiếp thu khá hơn nhiều so với ông Thủ tướng trước. Cái ông đó đã tính quẳng tôi qua cửa sổ, tưởng tôi là đồ xỏ lá do phe đối lập dàn dựng ra.” Tới đây, ông Thủ tướng bỗng kiếm lại được cái lưỡi của mình, bèn hỏi: “Vậy... ông... ông không phải là đồ xỏ lá hả?” Thực tình đó là hy vọng tha thiết cuối cùng của ông Thủ tướng. “Không.” Ông Fudge nhẹ nhàng đáp. “Không. Tôi e rằng không phải. Xem đây.” Và ông đã biến xong cái tách trà của ông Thủ tướng thành ra một con chuột lóc chóc. “Nhưng,” ông Thủ tướng thều thào nói, vừa ngó cái tách trà của ông gậm nhấm cái góc của bài diễn văn sắp tới của ông. “Nhưng tại sao... tại sao không ai báo cho tôi biết...?” “Bộ trưởng Pháp thuật chỉ tiết lộ bímật về mình cho đương kim Thủ tướng mà thôi.” Ông Fudge vừa nói vừa nhét cây đũa phép vô trong áo khoác. “Chúng tôi nhận thấy đó là cách giữ bímật tốt nhất.” “Nhưng vậy thì...” Ông Thủ tướng línhí, “Tại sao ông Thủ tướng tiền nhiệm không báo trước cho tôi...?” Nghe câu này ông Fudge thực sự lăn ra cười. “Thưa ông Thủ tướng yêu quícủa tôi, liệu chính ông có định nói cho bất cứ ai biết không?” Vẫn còn cười khà khà, ông Fudge quăng một ít bột vô trong lò sưởi, bước vô ngọn lửa màu xanh biếc, và biến mất trong một tiếng vút. Ông Thủ tướng vẫn đứng đó, hoàn toàn bất động, và hiểu rằng mình sẽ không đời nào, cho đến hết đời, dám kể với bất cứ sinh linh nào về cuộc gặp gỡ này, bởi vìai trong cái thế gian rộng lớn này tin ông được chớ? Mất một lúc lâu cơn sốc mới qua đi. Có lúc ông Thủ tướng đã cố tự thuyết phục mình rằng ông Fudge thực ra chỉ là một ảo giác, hậu quả của sự thiếu ngủ trong suốt chiến dịch tranh cử khốc liệt. Trong một cố gắng vô ích nhằm gạt bỏ hết tất cả những gìgợi nhớ đến cuộc gặp mặt khó chịu này, ông đã đem con chuột lóc chóc cho đứa cháu gái mừng húm và ra lệnh cho viên thư ký riêng gỡ xuống bức chân dung gã đàn ông nhỏ thó xấu xíđã thông báo về cuộc viếng thăm của ông Fudge. Tuy nhiên, bức chân dung đã chứng tỏ là nó bất khả di dịch, khiến ông Thủ tướng sa sút tinh thần ghê gớm. Khi mấy người thợ mộc, một hay hai thợ hồ, một sử gia nghệ thuật, và cả ngài Chưởng ấn kho tàng quốc gia đều đã không thành công trong cố gắng nạy bức tranh ra khỏi bức tường, ông Thủ tướng đành phải bãi bỏ lệnh đó và giải quyết vấn đề một cách đơn giản là hy vọng cái đồ đó cứ ở yên một chỗ và lặng thinh cho đến hết nhiệm kỳ của ông. Ông Thủ tướng dám thề, rằng thỉnh thoảng, ông thoáng thấy bằng đuôi mắt, cái lão trong tranh có ngáp dài hoặc ngoáy mũi, thậm chímột hay hai lần lão còn đi ra khỏi khung tranh, bỏ lại đằng sau vỏn vẹn tấm vải bố màu nâu bùn. Tuy nhiên, ông Thủ tướng đã tự rèn luyện mình không nhìn vô bức tranh thường xuyên lắm, và nếu mà có lỡ nhìn thấy chuyện lạ diễn ra trong tranh thìông luôn luôn khẳng định với chình mình là chẳng qua con mắt mình đã đánh lừa mình ấy thôi. Thế rồi, cách đây ba năm, vào một đêm rất giống đêm nay, ông Thủ tướng đang ở trong văn phòng một mình thìcái chân dung lại một lần nữa thông báo cuộc viếng thăm sắp sửa diễn ra của ông Fudge. Ông này lại vọt ra từ lò sưởi, ướt lem nhem và trong trạng thái hơi bị hoảng hốt. Trước khi ông Thủ tướng kịp hỏi tại sao ông khách lại nhễu nước khắp Dinh Thủ tướng, thìông Fudge đã thao thao nói về một cái nhà tù mà ông Thủ tướng chẳng bao giờ nghe nói tới, và một người đàn ông nào đó tên Black “Nghiêm trọng”, cùng một cái gìđó kêu là “Hogwarts”, với một thằng nhóc tên Harry Potter, mà chẳng có cái nào gợi lên một títẹo ý nghĩa nào đối với ông Thủ tướng. “...Tôi vừa từ Azkaban đến đây,” ông Fudgevừa thở hổn hển vừa giũ một đống nước trên vành cái nón hình trái dưa vô túi áo. “Ở giữa biển Bắc, ông biết đấy, chuyến bay cực quá... Bọn giám ngục đang náo loạn,” – ông rùng mình - “trước đây chúng có bao giờ gặp cảnh tù vượt ngục đâu. Nhưng thôi, tôi phải gặp ông, ông Thủ tướng à. Black là một tay giết dân Muggle nổi tiếng và có thể đang tái đầu quân cho Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy... Nhưng dĩ nhiên, ông cũng đâu có biết Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy!” Ông Fudge ngó chằm chằm ông Thủ tướng một cách tuyệt vọng một lúc, rồi nói: “Thôi được, ngồi xuống, ngồi xuống, tôi nên giải thích cho ông thìtốt hơn... làm một ly rượu whisky nhé...” Ông Thủ tướng bị biểu ngồi xuống trong chính văn phòng của ông đã đủ để nổi khùng rồi, huống chi còn bị mời bằng chính rượu whisky của mình nữa, nhưng dù sao thìông cũng ngồi xuống. Ông Fudge rút ra cây đũa phép của ông, phù phép từ trong không khíra hai cái ly to đầy ắp một chất lỏng màu hổ phách, ấn một ly vô tay ông Thủ tướng, rồi kéo một cái ghế lại gần để ngồi. Ông Fudge nói một hơi hơn một tiếng đồng hồ. Có một chỗ ông không chịu nói to lên một cái tên mà chỉ viết nó ra một mảnh giấy da, rồi nhét nó vô bàn tay không bị cầm ly rượu của ông Thủ tướng. Cuối cùng khi ông Fudge đứng dậy để ra đi, ông Thủ tướng cũng đứng dậy. “Vậy là ông cho rằng...” Ông Thủ tướng liếc mắt xuống cái tên trong bàn tay trái của mình. ”Chúa tể Vol...” “Kẻ-chớ-gọi-tên-ra!” Ông Fudge nạt ngay. “Xin lỗi... Vậy là ông cho rằng, Kẻ-chớ-gọi-tên-ra vẫn còn sống?” “Ừ, cụ Dumbledore nói kẻ ấy còn sống.” ÔNg Fudge vừa nói vừa gài chặt cái áo khoác bằng vải có sọc lên tới tận cằm. “Nhưng chúng tôi vẫn chưa tìm ra kẻ ấy. Nếu ông muốn biết thìkẻ ấy hiện không nguy hiểm trừ khi có được sự hỗ trợ, cho nên chính gã Black mới là mối lo lắng cần quan tâm. Thế ông sẽ cho phát ra thông báo cảnh giác chứ? Vậy tốt, tôi mong chúng ta sẽ không phải gặp nhau lần nữa, ông Thủ tướng à. Chúc ngủ ngon.” Nhưng rồi hai ông lại phải gặp nhau nữa. Chưa đầy một năm sau, một ông Fudge trông thê thảm hết chỗ nói lại từ không khíhiện ra trong văn phòng Thủ tướng để thông báo cho ông Thủ tướng biết là đã xảy ra một tình huống gây phiền phức trong giải Cúp thế giới Kwidditch (hay cái gìđó nghe na ná vậy) và nhiều dân Muggle đã bị “dính líu” vô; nhưng chuyện đó ông Thủ tướng cũng khỏi cần lo , cái sự kiện mọi người nhìn thấy Dấu hiệu của Kẻ-mà-ai-cũng- biết-là-ai-đấy thực ra không có nghĩa gìhết; ông Fudge tin chắc rằng đó chỉ là một sự cố riêng lẻ, và trong khi họ đang nói chuyện ở đây thìSở Bịp dân Muggle đang thanh toán tất cả các vụ điều hòa trínhớ. “À, suýt nữa tôi quên mất” Ông Fudge nói thêm. “Chúng tôi đang nhập khẩu ba con rồng ngoại quốc và một con Nhân sư cho kỳ thi đấu Tam Pháp thuật, cũng thông thường thôi, nhưng Bộ Qui định và Kiểm soát Sinh vật huyền bíbáo cáo cho tôi biết là theo như sách hướng dẫn thìtôi cần lưu ý ông nếu chúng tôi đem vào đất nước này những sinh vật cực kỳ nguy hiểm.” “Tôi... cái gì... Rồng hả?” Ông Thủ tướng lắp ba lắp bắp.
  • 3. “Ừ, ba con” Ông Fudge nói. “Và một con nhân sư. Thôi, chúc ông một ngày tốt lành.” Ông Thủ tướng đã hy vọng hơn cả hy vọng rằng rồng và nhân sư là những thứ ghê gớm hết mức rồi, nhưng ai dè đâu. Chưa đầy hai năm sau, ông Fudge lại vọt ra từ lửa một phen nữa, lần này với thông tin là đã xảy ra một cuộc vượt ngục tập thể ở nhà tùAzkaban. “Một cuộc vượt ngục tập thể à?” Ông Thủ tướng lặp lại bằng giọng khàn khàn. “Không phải lo! Không phải lo!” Ông Fudge quát, một chân đã thò vô ngọn lửa. “Chúng tôi sẽ gom chúng lại ngay thôi – chẳng qua tôi nghĩrằng ông cũng nên biết!” Và trước khi ông Thủ tướng kịp quát lại, “Khoan, chờ cho một phút!” Thìông Fudge đã biến mất trong một chùm tung tóe những tia sáng lóe xanh biếc. Cho dù báo chíhay phe đối lập có nói gìđi nữa, thìông Thủ tướng vẫn không phải là một thằng ngu. Ông đâu có dễ bỏ qua mà không nhận thấy rằng, bất chấp sự cam đoan của ông Fudge trong lầm gặp gỡ đầu tiên, giờ đây họ gặp gỡ hơi bị nhiều, và cứ mỗi lần gặp ông Fudge lại càng te tua rối rắm. Mặc dù ông Thủ tướng không muốn suy nghĩnhiều về ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật (hay, theo như cách của ông luôn gọi ông Fudge trong trílà ông Thủ tướng kia), ông Thủ tướng này không thể nào không lo sợ rằng lần sau ông Fudge mà tái xuất hiện thìlại sẽ có thêm tin xấu trầm trọng hơn nữa. Do vậy, cái cảnh mà ông Fudge bước ra khỏi ngọn lửa một lần nữa, trông tả tơi, cáu gắt và ngạc nhiên một cách nghiêm khắc về cái sự ông Thủ tướng không biết chính xác tại sao ông lại có mặt tại đây, báo hiệu điều này sẽ tồi tệ nhất trong những điều đã xảy ra trong diễn biến của tuần lễ cực kỳ tăm tối vừa qua. “Làm sao tôi biết được chuyện gìđang xảy ra trong... ơ... cộng đồng phù thủy chứ?” Bây giờ thìông Thủ tướng nạt lại. “Tôi có cả một đất nước phải cai trị với đủ mối bận tâm và không cần thêm...” “Chúng ta có cùng mối bận tâm.” Ông Fudge ngắt lời ông Thủ tướng. “Cây cầu Brokdale không sập vìcũ quá. Vụ cuồng phong không thực sự là cuồng phong. Những vụ giết người không phải tội ác của dân Muggle. Và gia đình ông Herbert Chorley sẽ được an toàn hơn nếu không có ông ta. Hiện giờ chúng tôi đang dàn xếp để ông ta được chuyển đến bệnh viện Thánh Mungo chuyên Điều trị thương tích và Bệnh tật pháp thuật. Việc chuyển viện sẽ được thực hiện tối nay.” “Ông muốn... Tôi e là tôi... Cái gì?” Ông Thủ tướng lắp bắp. Ông Fudge hít một hơi thở sâu, nói, “Ông Thủ tướng à, tôi rất tiếc là tôi phải báo cho ông biết kẻ ấy đã trở lại. Kẻ-chớ-gọi-tên-ra ấy.” “Trở lại? Khi ông nói “trở lại”... có nghĩa là hắn còn sống à? Ýtôi nói...” Ông Thủ tướng cố mò trong ký ức những chi tiết về cuộc đối thoại cách đây ba năm, khi ông Fudge báo cho ông biết về vị pháp sư đáng sợ hơn hết thảy, vị pháp sư đã thực hiện một ngàn tội ác khủng khiếp trước khi biến mất một cách bímật mười lăm năm trước. “Vâng, còn sống.” Ông Fudge nói. “Ấy là – tôi chẳng rõ – có thể nói một người là vẫn còn sống nếu không cách nào giết được hắn chăng? Tôi không thực sự hiểu điều đó lắm, và cụ Dumbledore sẽ không giải thích một cách thỏa đáng – nhưng dù sao chăng nữa, kẻ ấy nhất định đã có được một hình hài, và đang đi lại, đang nói năng, đang giết chóc; cho nên, để cho cuộc nói chuyện của chúng ta trôi chảy, tôi cho là, vâng; kẻ ấy còn sống.” Ông Thủ tướng không biết nói sao về chuyện này, nhưng một thói quen bướng bỉnh mong muốn tỏ ra mình được thông báo đầy đủ về bất cứ đề tài nào đã khiến cho ông cố lục lọi những chi tiết mà ông có thể nhớ được về những cuộc đối thoại trước đây. “Có phải Serious Black là… ơ… Kẻ-chớ-gọi-tên-ra?” “Black? Black hả?” Ông Fudge bối rối nói, vừa xoay tít cái nón trái dưa trong mấy ngón tay. “Ông muốn nói Sirius Black hả? Quỷ thần ơi, không phải. Black đã chết rồi. Hóa ra chúng tôi đã… ơ… sai lầm về Black. Ông ta rốt cuộc vô tội. Và ông ta cũng không hề liên minh với Kẻ-chớ-gọi-tên-ra. Ýtôi nói là,” ông nói thêm với vẻ phân trần, cái nón trong tay ông càng bị xoay nhanh hơn nữa, “tất cả chứng cớ đều cho thấy vậy – chúng tôi có hơn năm mươi nhân chứng mà – nhưng dù sao đi nữa, như tôi đã nói, ông ta cũng đã chết rồi. Thực ra là đã bị ám sát rồi. Ngay trong cơ quan Bộ Pháp thuật. Đúng là sẽ có một cuộc điều tra…” Ở điểm này ông Thủ tướng ngạc nhiên nhận ra mình thoáng cảm thấy tội nghiệp cho ông Fudge. Tuy nhiên, cảm giác đó hầu như tức thìbị khuất lấp ngay bằng một luồng hưng phấn ích kỷ khi nghĩrằng cho dù bản thân mình có kém cỏi trong lãnh vực hiện hình ra từ lò sưởi, nhưng ông chưa từng để xảy ra vụ ám sát nào trong bất kỳ một cơ quan công quyền nào dưới trướng của mình... Dù sao thìcũng chưa... Trong khi ông Thủ tướng bímật mân mê mặt gỗ của cái bàn giấy, ông Fudge tiếp tục nói, “Nhưng giờ đây Black đã là chuyện-cho-qua rồi. Vấn đề là chúng ta đang lâm chiến, ông Thủ tướng à, và chúng ta phải hành động.” “Lâm chiến?” Ông Thủ tướng lo lắng lặp lại. “Chắc là ông có hơi cường điệu một tíchứ?” “Kẻ-chớ-gọi-tên-ra giờ đây đã được bọn vượt ngục Azkaban hồi tháng giêng theo phò tá.” Ông Fudge nói càng lúc càng nhanh, và quay mòng mòng cái nón của ông nhanh đến nỗi trông nó như một cục màu xanh lờ mờ. “Từ khi chúng chuyển ra hoạt động công khai, chúng đã phá hoại tàn hại. Vụ cây cầu Brokdale – chính kẻ ấy đã gây ra, ông Thủ tướng à. Kẻ ấy đe dọa một cuộc tàn sát tập thể dân Muggle trừ khi tôi bước ra một bên tránh đường hắn và…” “Hay dữ à. Vậy ra do lỗi của ông mà người ta bị giết và tôi thìđang phải trả lời chất vấn về thiết bị lắp đặt cùn gỉ và những khớp nối giãn nở hao mòn và tôi không biết còn thêm gìnữa.” Ông Thủ tướng tức tối nói. “Lỗi của tôi hả?” Ông Fudge nổi nóng lên, nói “Chẳng lẽ ông đang nói là đáng ra phải nhượng bộ một sự hăm dọa như thế sao?” “Có thể không.” Ông Thủ tướng nói, vừa đứng dậy và sải bước quanh căn phòng, “nhưng nếu là tôi thìtôi sẽ đặt tất cả nỗ lực của mình vào việc bắt cho được kẻ hăm dọa trước khi hắn thực hiện bất kỳ một hành động tàn bạo nào như thế!” “Chẳng lẽ ông thực tình cho rằng tôi đã không thực hiện tất cả mọi nỗ lực sao?” Ông Fudge vặn hỏi trong cơn giận bừng bừng. “Mỗi Thần Sáng của Bộ Pháp thuật đã và đang cố gắng truy lùng hắn, nhưng chúng ta chẳng may đang nói về một trong những pháp sư quyền lực nhất của mọi thời đại, một pháp sư đã đào thoát trong gần ba thập niên!” “Vậy thìtôi đồ rằng ông sắp nói cho tôi biết là cũng chính hắn đã gây ra vụ cuồng phong ở miền Tây?” Ông Thủ tướng nói, cơn bực tức của ông tăng theo đà mỗi sải chân ông bước. Ông nổi điên lên khi mình thìđược biết nguyên nhân của tất cả những tai họa kinh hoàng này trong khi lại không thể công bố cho dân chúng nghe, mà như vậy thìthậm chícòn tệ hơn là cứ coi phứt đi đó là lỗi của chính quyền. “Đó không phải là cuồng phong. ” Ông Fudge rầu rĩnói. “Xin lỗi à! ” Ông Thủ tướng quát lên, lúc này ông đã chuyển sang dậm lên đạp xuống từng bước chân chắc nịch. “Cây cối tróc gốc, nóc nhà bị tốc bay, cột đèn đường cong vòng, thương vong khủng khiếp…” “Đó là do bọn Tử thần thực tử gây ra. ” Ông Fudge nói. “Bọn tay chân của Kẻ-chớ-gọi-tên-ra ấy. Và… và chúng tôi nghi ngờ có sự tham gia của người khổng lồ. ” Ông Thủ tướng đứng khựng lại như đụng phải một bức tường vô hình. “Sự tham gia của cái gì?” “Lần trước hắn đã sử dụng người khổng lồ, khi hắn muốn đạt được hiệu quả lớn,” ông Fudge nhăn nhó. “Sở Tin Thất thiệt hiện đang làm việc ngày đêm, chúng tôi đã phái những toán Cán sự Lú đi điều hòa trínhớ của tất cả những Muggle nào đã chứng kiến những gìđã thực sự xảy ra, chúng tôi đã cử hầu hết nhân viên của Bộ Qui định và và Kiểm soát Sinh vật huyền bíchạy quanh khu vực Somerset, nhưng vẫn chưa thể tìm ra người khổng lồ, thật là một đại nạn.”
  • 4. “Ông đừng có than!” Ông Thủ tướng điên tiết nói. “Tôi sẽ không chối cãi là tinh thần ở Bộ đang xuống thấp.” Ông Fudge nói “Được gìvới tất cả những chuyện đó, để rồi lại mấtAmelia Bones.” “Mất ai?” “Amelia Bones. Trưởng phòng Thi hành Luật Pháp thuật. Chúng tôi cho là rất có thể đích thân Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đã giết cô ấy, bởi vìcô ấy là một phù thủy rất tài giỏi và tất cả bằng chứng cho thấy cô ấy đã trải qua một cuộc chiến đấu ác liệt.” Ông Fudge tằng hắng, và có vẻ như bằng một nỗ lực lớn, đã ngừng được việc xoay tít cái nón trái dưa. “Nhưng vụ giết người đó có đăng báo,” ông Thủ tướng nói, tạm thời xao nhãng cơn thịnh nộ của mình. “Báo của chúng tôi.Amelia Bones... Báo chỉ đăng cô ta là một phụ nữ trung niên sống một mình. Vụ... vụ giết người đó thiệt bi thảm há? Vụ đó nổi tiếng lắm. Cảnh sát đang bó tay, ông biết đó.” Ông Fudge thở dài. “Vâng, dĩnhiên là họ bó tay.” Ông nói “Cô ta bị giết trong một căn phòng khóa trái từ bên trong, đúng không? Chúng tôi ngược lại biết chính xác ai đã ra tay, nhưng điều đó cũng chẳng giúp chúng tôi tóm được thủ phạm. Và rồi đến Emmeline Vance, có lẽ ông chưa từng nghe nói đến tên người này...” “Ồ, tôi có biết chứ!” Ông Thủ tướng kêu lên. “Đúng ra, vụ đó xảy ra ngay ở góc đường gần đây thôi, báo chíđược dịp đưa tin nóng: Suy đốn luật pháp và kỷ cương ngay trong sân sau Dinh Thủ tướng...” “Và làm như thế tất cả ngần ấy vẫn chưa đủ,” ông Fudgenói, hầu như chẳng buồn để tai đến lời ông Thủ tướng. “Chúng tôi gặp giám ngục tủa ra khắp nơi, tấn công người cánh tả, cánh hữu, và cả trung lập...” Vào cái thời xa xưa còn vui vẻ hơn bây giờ, câu nói này ắt hẳn là bất khả tri đối với ông Thủ tướng, nhưng giờ đây ông đã khôn ngoan hơn nhiều. “Tôi tưởng là bọn giám ngục canh gác tù nhân ở Azkaban chứ?” Ông dè dặt nói. “Trước đây.” Ông Fudge mệt mỏi nói. “Bây giờ thôi rồi. Chúng đã bỏ nhiệm sở ở nhà tù mà đi theo Kẻ-chớ-gọi-tên-ra. Tôi sẽ không giả bộ làm như chuyện này không phải là một cú đấm vô mặt.” “Nhưng,” ông Thủ tướng nói, với ý thức về một nỗi hải hùng đang ló dạng, “có phải ông từng nói với tôi chúng là những sinh vật rút cạn hy vọng và hạnh phúc của người ta không?” “Đúng vậy. Và chúng đang sinh sôi. Đó là nguyên nhân của tất cả mớ bòng bong này.” Ông Thủ tướng rũ xuống, đầu gối bủn rủn, ngồi sụp xuống một cái ghế gần đó. Cái ý nghĩvề những sinh vật vô hình đột kích khắp thành thị và thôn quê, làm lây lan nỗi cùng đường tuyệt vọng trong lòng đám cử tri, khiến ông Thủ tướng cảm thấy suýt ngất xỉu. “Thế này nhé ông Fudge... Ông cần phải làm điều gìđó! Đó chính là trách nhiệm của ông với tư cách Bộ trưởng Bộ Pháp thuật!” “Ông Thủ tướng thân mến của tôi ạ, thực lòng ông không thể nghĩ rằng tại sao tôi vẫn còn giữ chức Bộ trưởng Bộ Pháp thuật sau tất cả những vụ việc này à? Tôi đã bị mất chức cách đây ba ngày rồi! Toàn thể cộng đồng Pháp thuật đã kêu gào tôi từ chức trong vòng nửa tháng. Tôi không hề biết họ đoàn kết đến như vậy trong suốt thời tôi còn tại chức!” Ông Fudge nói, cố gắng nở một nụ cười. Ông Thủ tướng tạm thời không kiếm ra từ để nói. Bất chấp cơn phẫn nộ về cái vị thế mà ông bị đặt vào, ông vẫn cảm thấy tội nghiệp người đàn ông bộ dạng quắt queo ngồi đối diện mình. “Tôi rất lấy làm áy náy.” Cuối cùng ông nói. “Tôi có thể giúp gìđược không?” “Ông thiệt là tử tế, ông Thủ tướng à. Nhưng chẳng làm được gì đâu. Đêm nay tôi được phái đến đây để giúp ông cập nhật hóa kiến thức về những sự kiện gần đây và để giới thiệu ông với người kế nhiệm tôi. Tôi cho rằng lẽ ra giờ này ông ta đã có mặt ở đây, nhưng dĩ nhiên lúc này ông ta rất bận, với bao nhiêu là chuyện đang diễn ra.” Ông Fudge ngoái đầu ngó bức chân dung người đàn ông nhỏ thó xấu xí đội một đầu tóc giả màu bạc dài thoòng xoăn tít, cái ông này đang ngoáy lỗ tai bằng đầu nhọn của một cái lông ngỗng. Bắt được ánh mắt của ông Fudge, bức chân dung nói, “Chút xíu nữa là ông ấy tới. Ông ấy đang viết cho xong một lá thư gửi cụ Dumbledore.” “Tôi cầu chúc ông ta may mắn.” Ông Fudge nói, lần đầu tiên nghe ông tỏ vẻ cay đắng. “Trong vòng nửa tháng qua tôi đã viết thư cho cụ Dumbledore hai lần mỗi ngày, nhưng cụ chẳng hề lay chuyển. Nếu ông ta chỉ chuẩn bị để thuyết phục cậu bé, thì tôi vẫn còn có thể... Mà thôi, biết đâu ông Scrimgeour lại chẳng thành công hơn.” Ông Fudge chìm vào một cõi rõ ràng là yên lặng phiền muôn, nhưng hầu như ngay tức thì bức chân dung phá tan cái cõi yên lặng đó bằng cách thình lình cất lên cái giọng rành rọt trịnh trọng: “Kính gửi ông Thủ tướng dân Muggle. Yêu cầu hội kiến. Khẩn cấp. Vui lòng hồi âm tức thì. Rufus Scrimgeour, Bộ trưởng Bộ Pháp thuật.” “Vâng, vâng, được.” Ông Thủ tướng luống cuống nói, và ông ta không chút nao núng khi ngọn lửa trong lò sưởi bùng lên màu xanh biếc, bốc cao, hiện hình ra vị pháp sư thứ hai đang quay mòng mòng ở giữa ngọn lửa, và trong tích tắc sau đó đã vọt ra đứng lên tấm thảm đồ cổ ngoạn. Ông Fudge đứng lên, và sau một thoáng ngập ngừng, ông Thủ tướng cũng làm theo, quan sát người mới đến đang chỉnh đốn trang phục, phủi bụi bám trên tấm áo choàng đen dài và nhìn quanh. Ý nghĩ đầu tiên hơi ngốc nghếch của ông Thủ tướng là cái tay Rufus Scrimgeour này trông hơi giống một con sư tử già. Có mấy vệt tóc bạc trên mớ tóc bờm hung hung và bộ lông mày rậm rạp. Ông ta có đôi mắt vàng vàng sắc sảo ẩn sau cặp kiếng viền kim loại và có một vẻ duyên dáng uyển chuyển uy nghi nhất định, mặc dù bước đi hơi cà thọt. Ấn tượng ngay tức thì là sự khôn ngoan và kiên định; ông Thủ tướng nghĩ ông hiểu tại sao cộng đồng Pháp thuật lại chọn ông Scrimgeour thay cho ông Fudge làm lãnh tụ trong thời kỳ nguy biến này. “Chào ông.” Ông Thủ tướng lịch sự nói, giơ tay ra. Ông Scrimgeour bắt tay ông Thủ tướng rất nhanh, mắt ông lướt qua khắp căn phòng, rồi ông rút ra một cây đũa phép từ dưới tấm áo chùng. “Ông Fudge đã nói với ông tất cả rồi hử?” Ông ta sải chân bước tới cánh cửa, gõ cây đũa phép của ông lên cái lỗ khóa. Ông Thủ tướng nghe ổ khóa đóng một cái kịch. “Ờ... vâng,” ông Thủ tướng nói. “Và nếu ông không phiền, tôi thích để cánh cửa ấy không khóa hơn.” “Tôi thìthích không bị chen ngang hay rình mò hơn.” Ông Scrimgeour nói ngắn gọn. Ông chỉa cây đũa phép về phía cửa sổ, khiến cho tấm màn kéo ngang che kín mít, nói thêm: “Được, thế này, tôi là một người bận rộn, cho nên chúng ta hãy bàn ngay vào công việc. Trước tiên, chúng ta cần thảo luận về sự an toàn của ông.” Ông Thủ tướng rướn người lên hết mức chiều cao của mình, và đáp, “Tôi tuyệt đối hài lòng về sự an toàn mà tôi đã có, cám ơn ông rất...” “Chà, chúng tôi thì không.” Ông Scrimgeour cắt ngang. “Dân Muggle sẽ không có được sự canh phòng tử tế nếu ông Thủ tướng của họ bị ếm phải Lời nguyền độc đoán. Viên thư ký mới của ông ở phòng ngoài...” “Tôi sẽ không gạt bỏ ông Kingsley Shacklebolt đâu, nếu ông tính đề nghị như vậy.” Ông Thủ tướng nóng nảy nói. “Ông ta rất năng nỗ, mẫn cán, làm việc nhanh gấp hai lần tất cả đám còn lại...” “Bởi vì ông ta là một pháp sư,” ông Scrimgeour nói mà không hề hé một cái mỉm cười. “Một Thần sáng được huấn luyện cao cấp, người được ủy thác nhiệm vụ bảo vệ ông.” “Khoan, chờ một tí!” Ông Thủ tướng tuyên bố, “Ông không thể ngang nhiên cài đặt người của ông vô văn phòng của tôi, tôi quyết định nhân sự làm việc cho tôi...” “Tôi tưởng ông hài lòng với ông Shacklebolt mà?” Ông Scrimgeour lạnh lùng nói. “Tôi thì... Ấy là nói... Tôi đã...” “Vậy thìkhông có vấn đề gìhết, phải không?” Ông Scrimgeour nói. “Tôi... thôi được, miễn là công việc của ông Shacklebolt vẫn tiếp tục... ơ... xuất sắc.” Ông Thủ tướng nói lọng ngọng, nhưng ông Scrimgeour dường như
  • 5. chẳng buồn nghe ông nữa. “Bây giờ đến lượt ông Herbert Chorley, Phó Thủ tướng của ông,” ông Scrimgeour tiếp tục. “Cái ông lâu nay đang giải trí cho công chúng bằng cách thủ vai một con vịt.” “Ông ta làm sao?” Ông Thủ tướng hỏi. “Ông ta rõ ràng là đang phản ứng lại một Lời nguyền độc đoán bị ếm vụng về.” Ông Scrimgeour nói. “Nó khiến ông ta quẫn trí, nhưng ông ta vẫn có thể trở nên nguy hiểm.” “Ông ta đâu có kêu cạp cạp!” Ông Thủ tướng nói một cách yếu ớt. “Chắc là chỉ một chút cả hơi... Có thể uống hơi nhiều...” “Một đội chữa thương của bệnh viện Thánh Mungo chuyên Điều trị thương tích và Bệnh tật pháp thuật đang khám nghiệm cho ông ta trong lúc này. Cho tới lúc này, ông ta đã tính vặn cổ ba người trong đội.” Ông Scrimgeour nói. “Tôi nghĩ tốt nhất là chúng ta nên đem ông ấy ra khỏi xã hội Muggle một thời gian.” “Tôi... Chà... ông ta sẽ không sao, phải không?” Ông Thủ tướng nói một cách lo lắng. Ông Scrimgeour chỉ nhún vai, lúc đó ông ta đã đi về phía lò sưởi. “Thôi, đó quả thật là tất cả những gì tôi phải nói. Tôi sẽ thông báo cho ông để nắm kịp tình hình tiến triển, ông Thủ tướng ạ. Hay ít nhất, nếu tôi quá bận không thể đích thân tới được, thìtrong trường hợp đó tôi sẽ phái ông Fudge đến đây. Ông ấy đã đồng ý tiếp tục phục vụ với tư cách cố vấn.” Ông Fudge cố gắng mỉm cười, nhưng không thành công lắm. Trông ông chỉ giống như đang nhức răng. Ông Scrimgeour đã lục lọi trong túi áo một thứ bột bí mật khiến cho ngọn lửa trở nên xanh lè. Ông Thủ tướng ngó chằm chằm hai vị phù thủy một lát trong tuyệt vọng, thế rồi những lời lẽ mà ông đã cố hết sức đè nén trong suốt cả buổi tối cuối cùng đã vọt ra. “Nhưng trời đất quỉ thần ơi... Các ông là phù thủy! Các ông biết làm pháp thuật! Chắc chắn là các ông biết giải quyết... Chà... bất cứ vấn đề gì!” Ông Scrimgeour chậm rãi xoay người lại tại chỗ và trao đổi một ánh mắt ngờ vực với ông Fudge, lần này ông Fudge đã cố bẹo ra được một nụ cười khi tử tế nói: “Rắc rối là ở chỗ, đối phương cũng có thể làm pháp thuật nữa, ông Thủ tướng à.” Và sau mấy lời đó, cả hai phù thủy lần lượt bước vào ngọn lửa xanh lè chói lọi mà biến mất. Chương 2 Đường Bàn xoay Làn sương mù lạnh lẽo ép vô cửa sổ văn phòng ông Thủ tướng đã lãng đãng trôi xa cách đó vài dặm đến một dòng sông bẩn thỉu uốn éo chảy giữa đôi bờ tràn ngập rác rưởi đổ bừa. Một cột ống khói khổng lồ, tàn tích của một nhà máy không còn hoạt động nữa, chọc lên trời, trông như một cía bóng lờ mờ và xíu quẩy. Chẳng có âm thanh nào khác ngoại trừ tiếng rìrào của dòng nước đen, và chẳng có dấu hiệu nào của sự sống ngoại trừ một con cáo ốm lòi xương đã lén lút mò xuống bờ sông để hít hửi trong hy vọng tràn trề tìm ra được mấy miếng bao bìgói cá và khoai tây chiên vứt lẫn trong đám cỏ cao. Thế nhưng, đồng thời với một tiếng nổ bốp mơ hồ, một hình thù mảnh khảnh đội mũ trùm xuất hiện từ trong không khí ngay trên mép sông. Con cáo đứng ngây ra, đôi mắt cảnh giác bám chặt vòa hiện tượng mới mẻ lạ lùng này. Cái hình thù ấy có vẻ mất vài phút để ổn định vóc dáng, rồi bắt đầu di chuyển với những bước chân dài, nhẹ nhàng, nhanh chóng, với vạt áo khoác dài của nó loạt soạt trên cỏ. Cùng lúc với một tiếng bốp thứ hai, nghe to hơn, một hình thù đội mũ trùm khác cũng hiện hình. “Chờ với!” Tiếng kêu khàn khàn làm con cáo giật mình, lúc đó gần như đang ép dẹp lép thân mình trên mặt đất. Nó nhảy vọt ra khỏi chỗ ẩn nấp và phóng ngược lên phía bờ sông. Một tia sáng xanh lè lóe lên, một tiếng kêu ăng ẳng phát ra, và con cáo rớt lại xuống mặt đất, chết queo. Cái hình thù thứ hai dùng đầu ngón chân lật ngược xác con thú. “Chỉ là một con cáo.” Giọng của một người đàn bà vang lên một cách thô lỗ từ dưới cái mũ trùm. “Ta cứ tưởng có thể một Thần sáng… Cissy, chờ với.” Nhưng cái hình thù mà mụ ta theo đuổi, lúc nãy dừng chân và ngoái đầu nhìn lại khi ánh sáng lóe lên, giờ lại đang trèo lên phía bờ sông mà con cáo rớt xuống. “Cissy… Narcissa… Nghe lời tôi này…” Người đàn bà thứ hai bắt kịp người đàn bà thứ nhất và túm lấy cánh tay của bà ta, nhưng bà này giật mạnh tay ra. “Về đi, Bella!” “Cô phải nghe lời tôi!” “Em đã nghe rồi. Em đã quyết định, giờ để em yên!” Người đàn bà tên Narcissa đã lên tới chỗ cao nhất của bờ sông, chỗ có một đường rầy xe lửa cũ kỹ tách con sông ra khỏi con đường rải đá cuội. Người đàn bà kia, Bella, bám sát theo tức thì. Họ đứng bên cạnh nhau cùng nhìn qua bên kia con đường, nơi hàng dãy tiếp hàng dãy những căn nhà gạch đổ nát, cửa sổ âm u mịt mờ trong bóng tối. “Nó sống ở đây à?” Bella hỏi bằng giọng khinh khỉnh. “Ở đây? Ngay trong đống cứt dân Muggle à? Chị em mình ắt hẳn là những người đầu tiên trong giới chúng ta đặt chân tới...” Nhưng Narcissa chẳng buồn lắng nghe; bà ta đã tuột qua một chỗ trống trên đường rầy rỉ sét và vội vã băng qua đường. “Cissy, chờ với!” Bella đuổi theo, tấm áo khoác phấp phới phía sau, và mụ ta thấy Narcissa xẹt qua một con hẻm nằm giữa những căn nhà để đến con đường thứ hai, cũng giống hệt con đường thứ nhất. Một số đèn đường đã bể, hai người đàn bà chạy giữa mấy bệt ánh snags và bóng tối mịt mùng. Người rượt theo đã bắt kịp người bị theo đuổi vừa khi người này định quẹo qua một góc đường. Lần này mụ ta tóm giữ được cánh tay của người kia và xoay mạnh người đó lại để hai bên nhìn thẳng vào mặt nhau. “Cissy, cô không được làm điều này, cô không thể tin tưởng thằng ấy...” “Chúa tể Hắc ám tin tưởng ông ấy, đúng không?” “Chúa tể Hắc ám bị... Chị tin là... bị lầm.” Bella thở hổn hển, đôi mắt mụ long lên một thoáng dưới lớp mũ trùm khi nhìn quanh kiểm tra để chắc chắn là quả thực chỉ có mỗi mình họ mà thôi. “Trong trường hợp nào đi nữa, chúng ta đã được dặn là không tiết lộ kế hoạch cho bất cứ ai. Làm vầy là phản bội lại lệnh của Chúa tể Hắc ám…” “Thôi đi, Bella.” Narcissa gầm gừ, và rút cây đũa phéphù thủyừ dưới lớp áo khoác ra, chĩa nó vô mặt người kia đầy đe dọa. Bella chỉ cười. “Cissy, dọa chính chị của cô à? Cô chẳng…” Narcissa thở gấp, có dấu hiệu của chứng cuồng loạn trong giọng nói, và khi bà ta hạ cây đũa phép xuống như chém một nhát dao, một tia snags nữa lóe lên. Bella buông cánh tay em gái ra như thể bị phỏng. “ Narcissa!” Nhưng Narcissa đã chạy ù tới trước. Vừa xoa vuốt bàn tay của mình, người săn đuổi bà ta lại rượt theo, nhưng giờ đây giữ một khoảng cách an toàn, khi cả hai đi sâu vào mê cung hoang vắng của những ngôi nhà gạch. Cuối cùng, Narcissa bước vội lên một con phố có tên Đường Bàn xoay, vươn cao bên trên phố này là cột ống khói nhà máy sừng sững hăm he như một ngón tay khổng lồ giơ lên đe nẹt. Bước chân của Narcissa khua vang trên nền đá cuội khi bà ta đi ngang qua mấy cái cửa sổ bị bể kiếng được đóng bít lại bằng giấy bồi, đến tận ngôi nhà cuối cùng, nơi có chút ánh sáng lờ mờ le lói
  • 6. của một căn phòng tầng trệt. Narcissa đã gõ cửa trước khi Bella bắt kịp, vừa thở vừa nguyền rủa. Hai người cùng đnưgs đợi với nhau, trống ngực khẽ đập, hít thở cái mùi bốc lên từ dòng sông bẩn thỉu được làn gió đêm nhẹ thổi về phía họ. Sau vài giây, họ nghe có sự chuyển động đằng sau cánh cửa và rồi cửa mở ra một cái cạch. Một người đàn ông ló chút thân mình ra nhìn họ; một người đàn ông với tóc đen dài rẽ ngôi giữa tém qua hai bên gương mặt vàng bủng có đôi mắt đen. Narcissa trật cái mũ trùm ra sau. Bà ta xanh xao đến nỗi trông gần như sáng lên trong bóng tối; mái tóc vàng dài thả đổ xuống lưng tạo cho bà cái vẻ của người chết trôi. “Narcissa!” Người đàn ông kêu lên, mở cánh cửa rộng hơn một chút, để cho ánh sáng rọi tới soi tỏ Narcissa cùng bà chị. “Thật là một ngạc nhiên thú vị!” “Severus.” Narcissa nói bằng giọng thìthào căng thẳng. “Tôi có thể nói chuyện với ông được không? Khẩn cấp!” “Dĩnhiên là được.” Người đàn ông đứng lùi lại để cho Narcissa bước vào trong nhà. Bà chị của bà ta vẫn đội mũ trùm cũng đi theo vào không cần mời. “Snape,” mụ nói khi đi ngang. “Bellatrix!” thầy Snape đáp lại, cái miệng mỏng dính cong lên thành một nụ cười mai mỉa khi thầy đóng cánh cửa lại một cái cạch sau lưng hai người đàn bà. Họ đi thẳng vào trong một căn phòng khách nhỏ, căn phòng này tạo cảm giác như thể đó là một cái xà lim kín mít. Những bức tường được bịt kín hoàn toàn bằng sách, hầu hết những cuốn sách này đề được đóng bìa da nâu, da đen cũ kỹ. Có một cái ghế sofa đã mòn trơ chỉ, một cái ghế bành, và một cái bàn ọp ẹp, cả đám đứng túm tụm với nhau thành đám trong một vũng sáng lờ mờ phát ra từ một cây đèn thắp bằng nến thòng từ trên trần xuống. Nơi này có một vẻ bị bỏ bê, mặc dù không hẳn thường xuyên là không có người ở. Thầy Snape ra dấu cho Narcissa ngồi xuống ghế sofa. Bà ta cởi áo khoác ra, quẳng nó qua một bên và ngồi xuống, đăm đăm nhìn hai bàn tay trắng bệch và run lẩy bẩy của mình đang đặt trên đùi. Bellatrix hạ mụ trùm xuống một cách chậm rãi hơn. Bà em mụ tái nhợt bao nhiêu thì mụ đen đúa bấy nhiêu, với đôi mắt có quầng có nọng nặng nề và một bộ xương hàm chắc khỏe, mụ chẳng hề rời mắt khỏi thầy Snape trong lúc di chuyển ra đứng đằng sau lưng Narcissa. “Vậy, tôi có thể làm gìđược cho bà?” Thầy Snape hỏi, tự mình an tọa trong cái ghế bành đối diện hai chị em. “Chúng ta… chúng ta không có ai khác nữa chứ?” Narcissa khẽ khàng hỏi. “Dĩnhiên là có. Vâng, Đuôi Trùn đang ở đây, nhưng chúng ta đâu có tính đến sâu bọ, phải không?” Thầy Snape chĩa cây đũa phép vô một bức tường đầy sách đằng sau lưng mình và một tiếng nổ vang lên, một cánh cửa bí mật bật mở ra, để lộ một cầu thang hẹp và một gã đàn ông loắt choắt đang đứng sững như trời trồng trên cầu thang. “Đuôi Trùn, chắc mi cũng thấy rõ là chúng ta đang có khách.” Thầy Snape nói bằng giọng uể oải. Gã đàn ông loắt choắt khòm lưng rón rén bò xuống mấy bậc thang cuối cùng để di chuyển vô trong phòng. Gã có đôi mắt nhỏ hí ươn ướt, một cái mũi nhọn và đeo một nụ cười màu mè chẳng thoải mái chút nào. Bàn tay trái của gã đang xoa xoa bàn tay phải, bàn tay này trông như thể bọc trong một cái găng tay bằng bạc. “Bà Narcissa!” Gã chào bằng một giọng rin rít như chuột kêu. “Và bà Bellatrix! Thật là quyến rũ biết bao…” “ Đuôi Trùn sẽ bưng nước cho chúng ta, nếu các bà muốn uống,” Thầy Snape nói. “Và rồi hắn sẽ trở về phòng ngủ của hắn.” Đuôi Trùn nhăn mặt như thể Thầy Snape vừa mới quăng cái gìđó vô mặt gã. “Tôi không phải đầy tớ của ông!” Gã rít lên, lẩn tránh ánh mắt của Thầy Snape. “Vậy sao? Ta lại có cảm tưởng là Chúa tể Hắc ám đặt mi ở đây để trợ giúp ta chứ?” “Trợ giúp ông, ừ… nhưng không phải làm việc bưng nước cho ông và… lau nhà cho ông!” “ Đuôi Trùn à, ta đâu biết mi ao ước những công tác hiểm nghèo hơn,” Thầy Snape nói giọng ngọt xớt. “Chuyện này cũng dễ dàn xếp thôi: ta sẽ nói với Chúa tể Hắc ám…” “Tôi cũng có thể tự nói chuyện với Chúa tể Hắc ám nếu tôi muốn!” “Dĩ nhiên là mi có thể.” Thầy Snape cười nhếch mép, nói. “Nhưng tạm thời trong lúc này, mi hãy bưng nước cho chúng ta. Loại rượu gia tinh pha chế nào đó cũng được.” Đuôi Trùn dùng dằng một lát, trông như thể muốn cãi tiếp, nhưng rồi gã quay lưng đi về phía cánh cửa bí mật thứ hai. Mọi người nghe tiếng cửa đóng một cái rầm và tiếng ly tách chạm nhau kêu tanh tách. Chỉ vài giây sau gã đã trở lại, bưng một cái mâm trên đó có một cái chai bám đầy bụi bặm và ba cái ly. Gã liệng mấy thứ này xuống cái bàn ọp ẹp rồi mau mắn đi khuất mắt mọi người, đóng sập cánh cửa ngụy trang bằng kệ sách lại sau lưng. Thầy Snape rót ra ba cái ly một thứ rượu đỏ như máu và đưa hai ly cho hai chị em. Narcissa lẩm bẩm mấy tiếng cám ơn, trong khi mụ Bellatrix chẳng thốt một lời nào, nhưng vẫn tiếp tục nhìn Thầy Snape trừng trừng. Điều này xem ra chẳng làm Thầy Snape bối rối tínào ; ngược lại, ông còn tỏ ra khoái trá. “Chúc sức khỏe Chúa tể Hắc ám.” Thầy Snape nói, nâng ly lên uống cạn. Hai chị em làm theo ông ta. Thầy Snape lại rót đầy ly của họ. Khi Narcissa uống hết ly rượu thứ hai, bà ta hấp tấp nói. “Ông Severus, tôi xin lỗi đã đến đây như thế này, nhưng tôi phải gặp ông. Tôi nghĩông là người duy nhất có thể giúp tôi…” Thầy Snape giơ một bàn tay ra để ngăn Narcissa, rồi chĩa cây đũa phép của ông về phía cửa cầu thang bí mật một lần nữa. Một tiếng nổ to vang lên và một tiếng thét ré lên, tiếp theo là tiếng Đuôi Trùn lật đật bò trở lên lầu. “Tôi xin lỗi,” Thầy Snape nói. “Dạo gần đây hắn đâm ra nhiễm cái trò rình nghe ở cửa, tôi chẳng biết hắn làm vậy để làm gì… Bà Narcissa, bà đang nói…” Narcissa hít một hơi thở vĩđại đến rùng mình và bắt đầu lại một lần nữa. “Ông Severus, tôi biết tôi không nên đến đây, tôi đã được căn dặn là không được nói với bất cứ ai, nhưng…” “Vậy thìcô nên liệu mà giữ mồm giữ miệng!” Mụ Bellatrix nạt ngang. “Đặc biệt với người có mặt tại đây.” “Người có mặt ở đây à?” Thầy Snape nhắc lại một cách nhạo báng. “Và tôi nên hiểu điều đó như thế nào đây, thưa bà Bellatrix?” “Nghĩa là tôi không tin ông, Thầy Snape à, như ông đã biết quá rõ rồi!” Narcissa bật ra một âm thanh có thể gọi là tiếng khóc than, và đưa hai tay bưng mặt. Thầy Snape đặt cái ly của mình lên mặt bàn rồi ngồi thẳng lại, hai bắp tay ông đặt trên chỗ tựa tay của cái ghế bành, cười mỉm với gương mặt trâng tráo của Bellatrix. “Bà Narcissa à, tôi nghĩ chúng ta nên nghe điều mà bà Bellatrix đang hăm hở nói; để tránh những sự chõ mỏ phát mệt. Nào, tiếp tục đi chứ, bà Bellatrix,” Thầy Snape nói. “Tại sao mà bà không tin tôi?” “Có hằng trăm lý do!” Bellatrix nói to, bước vòng qua cái ghế sofa để dằn mạnh cái ly của mụ ta lên bàn. “Bắt đầu từ đâu đây! Khi Chúa tể Hắc ám suy sụp thì ông ở đâu hả? Tại sao ông không bao giờ ra sức tìm kiếm ngài khi biến mất hả? Suốt những năm tháng mà ông sống trong túi áo của lão Dumbledore ông đã làm những gìhả? Tại sao ông cản trở Chúa tể Hắc ám thu phục Hòn đá Phù thủy hả? Tại sao ông không trở lại ngay tức thìkhi Chúa tể Hắc ám phục sinh hả? Ông đã ở đâu cách đây mấy tuần lễ khi chúng tôi chiến đấu để phục hồi lời Tiên tri cho Chúa tể Hắc ám hả? Và tại sao hả, Thầy Snape, tại sao mà Harry Potter vẫn sống nhăn trong khi nó nằm trong bàn tay sinh sát của ông suốt năm năm trời hả?” Khi mụ tạm ngừng lấy hơi, ngực mụ phập phồng, hai má đỏ ửng. Sau lưng mụ, Narcissa ngồi bất động, mặt vẫn còn vùi trong hai bàn tay.
  • 7. Thầy Snape mỉm cười. “Trước khi tôi trả lời bà – À vâng, bà Bellatrix à, tôi sẽ trả lời bà chứ! Bà có thể nói lại lời của tôi cho những người khác, những người ngồi lê đôi mách sau lưng tôi, rồi loan truyền những câu chuyện tầm bậy vè sự bội bạc của tôi đối với Chúa tể Hắc ám! Trước khi tôi trả lời bà, tôi có đề nghị, hãy để cho tôi được hỏi bà một câu trước. Bà có thực sự nghĩlà Chúa tể Hắc ám đã chẳng hỏi tôi từng vấn đề một trong những vấn đề bà vừa nêu ra không? Bà có thực sự nghĩrằng nếu tôi đã không thể nào đưa ra được câu trả lời thỏa đáng, thìliệu tôi còn có thể ngồi đây mà hầu chuyện cùng bà được chăng?” Mụ Bellatrix lúng túng. “Bà nghĩ là ngài lầm chăng? Hay là tôi bằng cách nào đó bưng tai bịt mắt ngài chăng? Chúa tể Hắc ám, pháp sư vĩ đại nhất, bậc quảng đại thần thông xuất chúng nhất mà thế giới từng được chiêm ngưỡng lại bị lừa sao?” Mụ Bellatrix không nói gì, nhưng lần đầu tiên trông có vẻ nối rối. Thầy Snape không bồi thêm vòa điểm chí tử ấy nữa. Ông lại cầm ly rượu của mình lên, nhấm nháp, rồi nói tiếp. “Bà hỏi tôi đã ở đâu khi Chúa tể Hắc ám suy sụp à. Tôi đã ở nơi mà ngài ra lệnh cho tôi phải có mặt, tại Hogwarts – trường đào tạo Phù thủy và Pháp sư, bởi vì ngài muốn tôi do thám Albus Dumbledore. Tôi xin mạo muội nói rằng, bà cũng biết, tôi nhận lãnh công việc ở trường Hogwarts là do lệnh của Chúa tể Hắc ám.” Bellatrix gật đầu một cách khó nhận thấy và toan mở miệng, nhưng Thầy Snape đã cướp lời mụ trước. “Bà hỏi tại sao tôi đã không cố gắng tìm kiếm ngài khi ngài biến mất. Lý do của tôi tương tự như lý do của Avery, Yaxley, gia đình Carrow, Greyback, Lucius...” thầy nhẹ nghiêng đầu về phía bà Narcissa , “và nhiều người khác cũng đã không nỗ lực tìm kiếm ngài. Tôi tin là ngài đã yên nghỉ ngàn thu. Tôi chẳng lấy làm hảnh diện gìvề chuyện này, tôi đã lầm, nhưng sự thể là vậy... Nếu ngài đã không tha thứ cho chúng ta, những kẻ đã đãnh mất lòng tin lúc ấy, thìngài hẳn sẽ còn lại rất ít đồ đệ.” “Ngài vẫn còn có tôi!” Mụ Bellatrix nói một cách say sưa. “Tôi, người đã nằm ngục Azkaban bao nhiêu năm trời vìngài!” “Vâng, quả thực đáng khâm phục nhất,” Thầy Snape nói bằng giọng chán chường. “Dĩ nhiên, nằm ngục thì bà cũng chẳng được tích sự gì cho ngài cả, nhưng làm điệu làm bộ thìchắc chắn là hay rồi...” “Làm điệu làm bộ à!” Bellatrix ré lên; trong cơn cuồng nộ, trông mụ ta hơi giống một con mẹ điên. “Trong khi tôi chịu đựng lũ giám ngục, ông vẫn an nhiên ở lại Hogwarts, thoải mái đóng vai con chó cưng của lão Dumbledore!” “Đâu có được như vậy! bà biết đấy, lão đời nào chịu giao cho tôi bộ môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám. Dường như lão nghĩ rằng điều đó có thể, ừ, đưa đến chuyện ngựa quen đường cũ… cám dỗ tôi trở lại cuộc sống trước đây.” “Việc này mà tính là cả một sự hy sinh của ông cho Chúa tể Hắc ám. Sao, cái chuyện ông không được dạy bộ môn mà ông khoái nhất ấy?” Mụ Bellatrix buông lời giễu cợt. “Tại sao ông cứ ở lỳ nơi đó suốt thời gian ấy hả Thầy Snape? Tiếp tục do thám lão Dumbledore cho ông chủ mà ông tin là đã chết rồi à?” “Không hẳn vậy,” Thầy Snape nói. “Mặc dù Chúa tể Hắc ám hào lòng là tôi đã không bao giờ rời bỏ nhiệm sở : tôi có mười sáu năm tình báo về Dumbledore để giao cho ngài khi ngài trở lại, một món quà chào mừng ngài có ích hơn những hoài niệm vô tận về sự nằm ngục Azkaban khó chịu như thế nào…” “Nhưng ông đã ở lại…” “Phải, bà Bellatrix à, tôi đã ở lại,” Thầy Snape nói, lần đầu tiên để lộ dấu hiệu thiếu kiên nhẫn. “Tôi có một công việc dễ chịu mà tôi thích hơn cái việc ở Azkaban. Lúc đó họ đang lùng bắt các Tử thần thực tử, như bà biết. Sự bảo vệ của Dumbledore đã giúp tôi khỏi bị tống vô ngục; đó là một lợi thế hết sức tốt, và tôi đã tận dụng. Tôi nhắc lại: Chúa tể Hắc ám không phàn nàn việc tôi ở lại Hogwarts, thì mắc gì bà lại càm ràm. Tôi nghĩ điều tiếp theo mà bà muốn biết,” Thầy Snape hối hả nói tiếp, hơi lớn giọng, bởi vìBellatrix đã tỏ dấu hiệu muốn ngắt lời ông, “là tại sao tôi đứng chắn giữa Chúa tể Hắc ám và Hòn đá phù thủy. Điều này dễ giải thích thôi. Lúc đó ngài chưa biết là ngài có tin được tôi hay không. Ngài nghĩ, giống như bà, rằng tôi đã biến từ một Tử thần thực tử trung thành ra một con rối của Dumbledore. Ngài đang ở trong hoàn cảnh đáng thương, rất yếu ớt, và phải nương náu trong hình hài của một tay phù thủy tầm thường. Ngài đã không dám để lộ thân phận mình cho một đồng minh trước đây nếu đồng minh đó có thể giao nộp ngài cho Dumbledore hay cho Bộ. Tôi thực sự lấy làm tiếc là ngài đã không tin tưởng tôi lúc đó. Chứ nếu ngài có lòng tin thì ngài đã phục hồi quyền lực sớm hơn ba năm. Trong tình thế lúc đó, tôi thấy chỉ có mỗi tay Quirell tham lam đê tiện đang timd cách đánh cắp hòn đá, và tôi thừa nhận, tôi đã làm hết sức mình để cản trở hắn.” Mồm Bellatrix méo xệch như thể mụ ta đã nuốt phải một liều thuốc đắng. “Nhưng ông đã không trở về khi ngài trở lại, ông đã không bay về với ngài ngay lập tức khi ông cảm thấy Dấu hiệu Hắc ám cháy bỏng…” “Đúng. Tôi đã trở về sau đó hai tiếng đồng hồ. Tôi đã trở về theo lệnh của Dumbledore.” “Theo lệnh của Dumbledore…?” Bellatrix bắt đầu la lên, giọng điên tiết. “Hãy suy nghĩ!” Thầy Snape nói, lại mất kiên nhẫn. “Hãy nghĩ cho kỹ đã! Bằng cách chờ hai tiếng đồng hồ sau, chỉ hai tiếng đồng hồ thôi, tôi đã đảm bảo được việc tôi có thể lưu lại trường Hogwarts để do thám! Bằng việc để cho Dumbledore tưởng rằng việc tôi trở về với Chúa tể Hắc ám chỉ là làm theo lệnh của ông ta, tôi đã có thể chuyển giao thông tin về Dumbledore và Hội Phượng hoàng từ ấy đến giờ! Hãy cân nhắc, bà Bellatrix à: Dấu hiệu Hắc ám đã trở nên càng lúc càng mạnh trong nhiều tháng trời. Lúc ấy tôi đã biết ngài ắt hẳn sắp trở lại, tất cả mọi Tử thần thực tử đều biết. Tôi đã có rất nhiều thì giờ để suy nghĩvề điều mà tôi muốn làm, để chuẩn bị cho hành động kế tiếp, để đào thoát như Karkaroff, đúng không?” “Chúa tể Hắc ám lúc đầu cũng không vui vẻ về việc trì hoãn của tôi, nhưng tôi cam đoan với bà, sự không hài lòng đó biến mất hoàn toàn khi tôi giải thích rằng tôi vẫn trung thành mặc dù Dumbledore tưởng rằng tôi đã là người của ông ta. Phải, Chúa tể Hắc ám đã tưởng đâu tôi rời bỏ ngài vĩnh viễn, nhưng ngài đã lầm.” “Nhưng ông được tích sự gìtừ ấy đến giờ hả?” Bellatrix cười chế nhạo. “Chúng tôi nhạn được thông tin hữu ích gìtừ ông hả?” “Tin tình báo của tôi được chuyển giao trực tiếp cho Chúa tể Hắc ám,” Thầy Snape nói. “Nếu ngài chọn phương án không nói cho bà biết…” “Ngài chia sẻ với tôi mọi thứ,” Bellatrix bùng lên cơn giận đùng đùng. “Ngài nói tôi là người trung thành nhất, thủy chung nhất…” “Vậy sao?” Thầy Snape nói, giọng của thầy biến âm một cách tinh vi để bày tỏ sự nghi ngờ. “Liệu ngài có nói vậy nữa không sau trận thảm bại ở Bộ?” “Đó đâu phải là lỗi của tôi!” Bellatrix đỏ ửng mặt lên. “Trong quá khứ Chúa tể Hắc ám đã giao phó cho tôi điều quí báu nhất… nếu như lão Lucius đừng…” “Chị đừng… chị liệu hồn đừng có đổ lỗi cho chồng tôi!” Narcissa nói, ngước lên nhìn bà chị, giọng nói nhỏ mà lạnh lùng sắc lẹm. “Đổ lỗi qua lại chẳng đi tới đâu cả,” Thầy Snape nói, giọng êm ái. “Chuyện gìxong thìđã xong rồi.” “Nhưng ông thì chưa xong!” Bellatrix tức điên lên. “Chưa đâu, ông lại vắng mặt một lần nữa trong khi tất cả chúng tôi xông pha vào nguy hiểm, có không Thầy Snape?” “Tôi được lệnh ở lại tuyến sau,” Thầy Snape nói. “Có lẽ bà bất đồng ý kiến với Chúa tể Hắc ám, có lẽ bà nghĩ rằng Dumbledore sẽ không chú ý nếu tôi tham dự vào lực lượng các Tử thần thực tử để đánh nhau với Hội Phượng hoàng chăng? Và – sin lỗi – bà nói chuyện xông pha vào nguy hiểm… bà đã đương đầu với sáu đứa tuổi choai choai, phải không nào?” “Chỉ lát sau là chúng được hỗ trợ, như ông thừa biết, bởi một nửa Hội Phượng hoàng,” Bellatrix gầm gừ. “Và trong khi chúng ta nhắm vô cái Hội đó, ông vẫn cứ khăng khăng tuyên bố ông không thể tiết lộ tổng hành dinh của chúng ở đâu, có không?” “Tôi đâu phải Quản gia. Tôi không thể nói tên của nơi đó. Tôi nghĩ bà thừa biết bùa ngải hiệu lực ra sao. Chúa tể Hắc ám đã hài lòng với tin tình báo về Hội mà tôi đã chuyển giao cho ngài. Có lẽ bà cũng đoán được, tin tức đó đã đưa đến việc bắt cóc và ám sát Emmeline Vance, và chắc chắn là giúp ích cho việc khử trừ Sirius Black, mặc dù tôi xin nhường cho bà tất cả công trạng kết liễu đời hắn.”
  • 8. Thầy Snape nhẹ nghiêng đầu và nâng cốc chúc mừng Bellatrix. Vẻ mặt của mụ ta vẫn không dịu đi chút nào. “Ông đang né tránh câu hỏi cuối cùng của tôi, Thầy Snape à. Harry Potter. Lẽ ra ông đã có thể giết nó bất kỳ lúc nào trong suốt năm năm qua. Ông đã không làm chuyện đó. Tại sao?” “Thế bà đã thảo luận vấn đề này với Chúa tể Hắc ám lần nào chưa?” Thầy Snape hỏi lại. “Ngài… gần đây, chúng tôi… tôi đang hỏi ông mà Thầy Snape!” “Nếu tôi đã ám sát Harry Potter, thìChúa tể Hắc ám đã không thể sử dụng máu của nó để tái sinh năng lượng, giúp cho ngài bất khả chiến bại…” “Ông cho là mình tiên đoán được việc ngài sẽ sử dụng thằng bé ấy à?” Bellatrix nhạo báng. “Tôi không cho là gìcả. Tôi chẳng biết gìhết về âm mưu của ngài ; Tôi vừa thú nhận là tôi đã tưởng Chúa tể Hắc ám đã chết. Tôi chỉ cố gắng giải thích tại sao Chúa tể Hắc ám không thấy tiếc cái việc mà Harry Potter vẫn sống sót, ít nhất thìcũng cho đến cách đây một năm...” “Nhưng tại sao ông cứ để cho nó sống?” “Bà vẫn chưa hiểu tôi ư? Chính vì sự bảo vệ của ông Dumbledore mà tôi không bị tống vô ngục Azkaban! Bà có đồng ý rằng việc ám sát đứa học trò cưng của ông ta rất có thể khiến ông ta coi tôi là thù địch không? Nhưng có nhiều lý do hơn thế nữa. Tôi thấy nên nhắc bà nhớ rằng khi Potter mới đến trường Hogwarts đã có nhiều câu chuyện đồn đãi về nó, người ta đồn rằng chính nó là một pháp sư Hắc ám vĩ đại, suy ra từ cái cách mà nó đã sống sót qua cuộc tấn công của Chúa tể Hắc ám. Thực ra, nhiều đồ đệ cũ của Chúa tể Hắc ám đã tưởng Harry Potter là một ngọn cờ mà tất cả chúng ta có thể tập hợp xung quanh môt lần nữa. Tôi nhìn nhận là tôi có tò mò và chẳng có chút ý đồ ám sát nó vòa cái thời điểm mà nó đặt chân vô tòa lâu đài.” “Dĩ nhiên, chẳng bao lâu sau tôi đã thấy rất rõ ràng rằng nó chẳng có chút thiên tài xuất chúng nào cả. Nó đã xoay sở thoát được khỏi một số tình huống ngặt nghèo chỉ nhờ sự kết hợp giữa may mắn thuần túy và đám bạn bè tài giỏi hơn. Nó là một thằng nhóc tầm thường hạng bét, mặc dù nó cũng độc địa và tự mãn y chang thằng cha nó trước đây. Tôi đã làm hết sức mình để khiến nó bị đuổi khỏi trường Hogwarts, tôi cho là nó chẳng thuộc về chốn ấy chút nào, nhưng giết nó, hay để nó bị giết trước mặt tôi ấy à? Tôi đâu có ngu đến nỗi chơi liều như vậy ngày trong tầm tay của Dumbledore.” “Và qua tất cả những việc này, ông cho rằng chúng tôi vẫn tin rằng lão Dumbledore chẳng bao giờ nghi ngờ ông tới một tẹo sao?” Bellatrix hỏi. “Chẳng lẽ lão không hề biết lòng trung thành thực sự của ông à? Lão vẫn còn tin tưởng ông tuyệt đối sao?” “Tôi đã đóng vai của mình rất tốt,” Thầy Snape nói. “Và bà đã bỏ qua nhược điểm lớn nhất của Dumbledore: ông ta phải tin tưởng vào phần tốt nhất trong con người ta. Tôi đã từng xạo một câu chuyện về sự ăn năn hối cải sâu sắc của tôi khi mới gia nhập giáo ban của ông ta, từ thời tôi mới là Tử thần thực tử, và ông ta đã giang rộng cánh tay ôm lấy tôi… mặc dù, như tôi đã kể, ông ta vẫn không đời nào chịu cho tôi tới gần bộ môn Nghệ thuật hắc ám. Dumbledore là pháp sư vĩđại nhất từ trước tới nay - Ừ, đúng vậy, chính ông ấy (bởi vìBellatrix khịt một tiếng đầy khinh miệt). Chính Chúa tể Hắc ám cũng phải nhìn nhận điều đó. Tuy nhiên, tôi cũng vui mừng mà nói rằng Dumbledore đang già đi. Trận đấu tay đôi hồi tháng trước với Chúa tể Hắc ám đã chấn động ông ta sâu sắc. Từ trận đó ông đã phải chống chỏi với một vết thương trầm trọng bởi vì phản ứng của ông giờ đây chậm chạp hơn trước kia. Nhưng trải qua suốt những năm tháng này, ông ta chưa bao giờ thôi tin tưởng Severus Snape này, và do vậy tôi trở nên rất có giá đối với Chúa tể Hắc ám.” Bellatrix vẫn không được vui vẻ, mặc dù mụ ta tỏ ra không biết chắc cách nào tốt nhất để tấn công tiếp Thầy Snape. Tận dụng lúc bà chị đang im lặng, Thầy Snape quay sang bà em : “Sao… Bà đến nhờ tôi giúp đỡ à, bà Narcissa?” Narcissa ngước nhìn Thầy Snape, gương mặt của bà hiện rõ nỗi tuyệt vọng. “Vâng, thưa ông Severus. Tôi… tôi nghĩông là người duy nhất có thể giúp tôi, tôi không còn biết bám víu vào đâu nữa.Anh Lucius đang ở tù và...” Bà nhắm mắt lại và hai giọt nước mắt to tướng ứa ra từ bên dưới mímắt của bà. “Chúa tể Hắc ám đã cấm tôi nói về chuyện đó,” Narcissa vẫn nhắm mắt và tiếp tục nói. “Ngài không muốn cho ai biết về kế hoạch. Nó rất… rất bí mật. Nhưng…” “Nếu ngài đã cấm, thìbà không nên nói ra,” Thầy Snape nói ngay. “Lời của Chúa tể Hắc ám là luật.” Narcissa há hốc sững sờ, như thể Thầy Snape vừa dội nước lạnh xuống đầu bà ta. Lần đầu tiên, Bellatrix trông có vẻ hài lòng, kể từ khi mụ bước vô căn nhà này. “Thấy chưa!” Mụ nói với bà em bằng giọng đắc thắng. “Ngay cả Thầy Snape cũng nói thế: em đã được lệnh không nói thìcứ ngậm miệng lại!” Nhưng Thầy Snape đã đứng lên và sải dài bước chân đi tới khung cửa sổ nhỏ, chăm chú nhìn qua khe tấm màn quan sát con đường hoang vắng, rồi giật thót mình khép tấm màn lại. Ông ta quay lại đối diện với Narcissa, vẻ mặt đăm chiêu. “Chẳng qua ngẫu nhiên mà tôi có biết đến kế hoạch đó,” ông ta nói bằng giọng thìthào. “Tôi cũng là một trong vìa người mà Chúa tể Hắc ám nói cho biết. Tuy nhiên nếu tôi mà không nằm trong kế hoạch bímật, thìbà ắt hẳn đã phạm tội lớn phản bội Chúa tể Hắc ám.” “Tôi nghĩông cần phải biết về kế hoạch đó!” Narcissa nói, hít thở thong thả hơn. “Ngài tin tưởng ông biết bao, ông Severus…” “Thế ông biết về kế hoạch à?” Bellatrix hỏi, vẻ hài lòng vừa thoáng hiện trên mặt mụ đã bị thay thế bằng cơn thịnh nộ. “Ông biết à?” “Đương nhiên,” Thầy Snape nói. “Nhưng bà Narcissa à, bà cần giúp đỡ chuyện gì hở? Nếu bà tưởng tôi có thể thuyết phục Chúa tể Hắc ám thay đổi quyết định thìtôi e rằng chẳng có hy vọng đâu, không ai làm được chuyện đó cả.” “Ông Severus,” Narcissa thìthầm, nước mắt lăn dài xuống đôi gò má nhợt nhạt. “Con trai tôi… Đứa con trai duy nhất của tôi…” “Thằng Draco nên tự hào,” Bellatrix dửng dưng nói. “Chúa tể Hắc ám đang ban cho nó một danh dự lớn. Và tôi sẽ nói điều này thay cho Draco: cháu nó không hề lùi bước trước nhiệm vụ, cháu còn có vẻ vui mừng có được một cơ hội để tự khẳng định chính mình, rất háo hức trước viễn cảnh…” Trong khi Bellatrix thao thao thìNarcissa đã bắt đầu khóc lóc van xin, tha thiết nài nỉ Thầy Snape. “Là bởi vì con tôi mới mười sáu tuổi và chẳng biết cài gì nằm trong rọ! Tại sao vậy, ông Severus? Tại sao lại là con trai tôi? Chuyện đó nguy hiểm quá! Đây là sự trả thù cho sai lầm của anh Lucius, tôi biết mà!” Thầy Snape không nói gì cả. Ông ta trnahs nhìn cái cảnh nước mắt bà rơi như thể những giọt nước mắt rơi không đúng với khuôn phép lịch thiệp, nhưng ông không thể nào giả vờ không nghe thấy tiếng khóc của bà ta. “Đó chính là lý do chọn Draco, đúng không? Để trừng phạt anh Lucius phải không?” Narcissa đay nghiến. “Nếu Draco thành công,” Thầy Snape nói, vẫn tránh nhìn Narcissa, “thìtrò ấy sẽ được vinh danh trên tất cả nhưng học sinh khác.” “Nhưng nó sẽ không thành công,” Narcissa nức nở. “Làm sao nó thành công nổi trong khi chính Chúa tể Hắc ám còn…” Bellatrix há hốc mồm sững sờ; Narcissa dường như mất trírồi. “Tôi chỉ muốn nói… Chưa có ai thành công cả… Ông Severus … làm ơn làm phước… Ông là… ông luôn là người thầy Draco yêu quí nhất… Ông lại là bạn cũ của anh Lucius… Tôi van lạy ông… Ông là cố vấn được tin cậy nhất của Chúa tể Hắc ám… Xin ông hãy nói với ngài, thuyết phục ngài…” “Chúa tể Hắc ám sẽ không dễ bị thuyết phục, và tôi thì không ngu đến mức thử làm chuyện đó,” Thầy Snape nói thẳng thừng. “Tôi không thể nào giả bộ nói là Chúa tể Hắc ám không giận ông Lucius. Ông Lucius được coi là lãnh chịu cái trách nhiệm đó. Ông để cho bản thân bị bắt cùng nhiều người khác, trả cái giá đắt như vậy mà vẫn không phục hồi được lời tiên tri cho đáng. Ừ, quả thật Chúa tể Hắc ám đang giận, bà Narcissa à, rất giận.” “Vậy ra tôi đúng, ngài đã chọn Draco để trả thù!” Narcissa nấc lên uất nghẹn. “Ngài đâu có cần nó thành công, ngài chỉ muốn nó bị giết khi đang cố gắng!” Khi Thầy Snape không nói gì thì Narcissa dường như đánh mất một chút xíu sự tự kiềm chế mà bà ta có được. Bà ta đứng lên, lảo đảo bước đến bên Thầy Snape và nắm lấy vạt trược tấm áo chùng của ông. Mặt bà ta sát mặt Thầy Snape, nước mắt bà ta rơi thấm ngực áo ông, miệng bà ta há hốc không thở được. “Ông có thể làm được chuyện đó thay cho Draco, ông Severus à. Ông sẽ thành công, dĩ nhiên ông sẽ thành công, và ngài sẽ ban thưởng cho ông nhiều
  • 9. hơn cho tất cả chúng tôi…” Thầy Snape nắm lấy hai cổn tay của Narcissa và gỡ hai bàn tay bíu chặt của bà ta ra. Cúi xuống nhìn gương mặt lem luốc nước mắt của bà ta, ông chậm rãi nói. “Tôi nghĩ, ngài có ý định để tôi làm việc đó vòa phút cuối. Nhưng ngài quyết định là Draco nên thử trước. Bà hiểu chứ, trong tình huống ít xảy ra là Draco thành công, tôi vẫn có thể tiếp tục ở lại trường Hogwarts lâu thêm một chút, hoàn tất vai trò do thám của tôi.” “Nói cách khác là nếu Draco bị giết thìcũng chẳng thành vấn đề gì!” “Chúa tể Hắc ám đang rất tức giận,” Thầy Snape lặng lẽ nhắc lại. “Ngài đã không nghe được lời tiên tri. Bà cũng biết rõ như tôi, bà Narcissa à, rằng ngài không dễ dàng tha thứ.” Narcissa ngã gục, té xuống chân Thầy Snape, thổn thức rên rỉ trên sàn nhà. “Con trai duy nhất của tôi… con trai duy nhất của tôi…” “Cô nên tự hào!” Bellatrix nói một cách tàn nhẫn. “Nếu tôi mà có con trai, tôi sẽ vui mừng cống hiến chúng để phục vụ Chúa tể Hắc ám!” Narcissa khẽ gào lên tuyệt vọng và giật giật mái tóc dài vàng óng của mình. Thầy Snape cúi khom người xuống, nắm lấy hai cánh tay của Narcissa, nâng bà ta lên và dìu bà ta ngồi trở lại trên ghế sofa. Rồi ông rót thêm rượu cho Narcissa và ấn cái ly vô tay bà ta. “Bà Narcissa à, đủ rồi. Uống cái này đi. Nghe tôi nói.” Narcissa nín lặng một chút ; bà run run hớp một ngụm, làm đổ rượu xuống chính người mình. “Cũng có thể có khả năng… tôi giúp được Draco.” Narcissa đứng dậy, mặt bà ta trắng như tờ giấy, hai mắt mở to ra. “Ông Severus… Ôi, ông Severus… Ông sẽ giúp cháu nó? Ông sẽ canh chừng nó, sẽ lo cho nó không bị nguy hiểm?” “Tôi có thể cố gắng.” Narcissa quăng cái ly trong tay bà ta đi. Cái ly lăn ngang qua cái bàn khi bà ta tuột khỏi ghế sofa để quì gối dưới chân Thầy Snape, nắm lấy bàn tay ông trong cả hai tay mình, rồi ép môi lên đó. “Nếu ông ở đó để bảo vệ cháu nó… Ông Severus, ông có chịu thề không? Ông có chịu phép Thề Không Bội không?” “Thề Không Bội?” Vẻ mặt của Thầy Snape ngây ra, khó hiểu. Tuy nhiên Bellatrix phát ra một tràng cười khùng khùng đắc thắng. “Cô không nghe sao, Narcissa? Ôi, ông ấy sẽ cố gắng, tôi biết chắc mà… Những lời nói sáo rỗng thông thường, hành động phỉnh phờ cho qua chuyện… Ôi, đương nhiên là theo lệnh của Chúa tể Hắc ám!” Thầy Snape không nhìn Bellatrix. Đôi mắt đen của ông ta nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh đầy nước mắt của Narcissa trong khi bà ta tiếp tục níu chặt lấy tay ông. “Nhất định, bà Narcissa à, tôi sẽ chịu phép Thề Không Bội,” Thầy Snape nói khẽ. “Có lẽ bà chị của bà sẽ vui lòng làm Người Chứng giám cho chúng ta.” Bellatrix há hốc mồm. Thầy Snape hạ thấp người xuống để có được tư thế quì gối đối diện Narcissa. Dưới cái nhìn trợn trừng đầy kinh ngạc của Bellatrix, hai người nắm lấy tay mặt của nhau. “Bà phải cần đến cây đũa phép của bà đấy, bà Bellatrix,” Thầy Snape lạnh lùng nhắc. Bellatrix rút cây đũa phép ra, vẫn còn vẻ kinh ngạc. “Và bà cần phải tiến đến gần hơn chút xíu nữa,” Thầy Snape nói. Bellatrix bước tới trước để đứng ở vị trícao hơn hai người kia, và đặt đầu cây đũa phép lên hai bàn tay nối nhau của họ. Narcissa nói. “Ông Severus, ông thề sẽ trông chừng con trai tôi, Draco, khi nó cố gắng hoàn thành ước nguyện của Chúa tể Hắc ám?” “Tôi thề,” Thầy Snape nói. Một tia lửa mảnh sáng rực phóng ra từ đầu cây đũa phép uốn vòng quanh bàn tay của hai người giống như một sợi dây kim loại nóng đỏ. “Và ông thề sẽ làm hết kahr năng của mình để bảo vệ con trai tôi khỏi hiểm nguy?” “Tôi thề.” Một tia lửa thứ hai bắn ra từ cây đũa phép quấn bện vào tia thứ nhất, tạo thành một sợi xích rực rỡ xinh đẹp. “Và, nếu như cần thiết… nếu có vẻ như Draco sẽ thất bại…” Narcissa thì thào (bàn tay của Thầy Snape bị kẹp chặt trong bàn tay của Narcissa, nhưng ông không rút tay ra) “ông thề sẽ thực hiện hành động mà Chúa tể Hắc ám ra lệnh cho Draco thực hiện?” Có một thoáng im lặng. Bellatrix quan sát, cây đũa phép của mụ đặt trên hai bàn tay siết chặt của hai người, hai mắt mở banh. Thầy Snape nói. “Tôi thề.” Bộ mặt sững sờ của Bellatrix đỏ ửng lên trong ánh sáng lóe lên từ tia lửa thứ ba bắn ra từ cây đũa phép, xoắn bện với hai tia kia, rồi tự kết dày đặc quanh hai bàn tay siết chặt, giống như một sợi dây thừng, giống như một con rắn lửa. Chương 3 Sẽ và không Harry Potter đang ngáy như sấm. Nó đã ngồi lì suốt bốn tiếng đồng hồ trong một cái ghế đặt cạnh cửa sổ phòng ngủ, đăm đăm ngó ra đường phố đang tối dần, và rốt cuộc lăn đùng ra ngủ, vẫn áp một bên mặt lên lớp kính cửa sổ lạnh, cặp mắt kính của nó bị lệch đi, và miệng thì há rộng. Hơi thở của nó để lại một vết mờ mờ ẩm ẩm trên tấm kính cửa sổ sáng lóe màu vàng cam của ngọn đèn đường bên ngoài, và ánh sáng nhân tạo này đã làm tiêu hết màu sắc trên gương mặt nó, khiến cho gương mặt bên dưới mái tóc đen bù xù ấy trông có vẻ ma quái. Căn phòng vương vãi những của nả riêng đủ loại, lẫn lộn với không ít thứ cầm như là rác rưởi. Lông chim cú, lõi trái táo và giấy gói kẹo vứt bừa bãi trên sàn, một số sách thần chú nằm lung tung lộn xộn trong đống áo chùng nhàu nát lọan xà ngầu trên giường, và một đống hổ lốn báo chínằm ườn trong vùng chiếu sáng của ngọn đèn để trên bàn học của nó. Một số báo đó có cái tít lớn khá nổ: HARRYPOTTER: KẺ ĐƯỢC CHỌN? Tin đồn tiếp tục lan nhanh về vụ gây náo động mới đây ở Bộ Pháp thuật, và trong vụ này Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đã xuất hiện một lần nữa. “Chúng tôi không được phép nói về chuyện này, đừng hỏi tôi bất cứ điều gì.” Một chuyên viên Lú không muốn nêu tên đã nói như vậy khi rời khỏi Bộ Pháp thuật tối hôm qua. Tuy nhiên, những nguồn tin rất đáng tin cậy từ bên trong Bộ Pháp thuật đã xác nhận rằng vụ gây náo động tập trung ở một địa điểm truyền thuyết là Sảnh đường Tiên tri. Mặc dù pháp sư phát ngôn của Bộ Pháp thuật cho đến giờ vẫn từ chối xác nhận thậm chícả sự tồn tại của một nơi như thế, một số ngày càng đông trong cộng đồng Pháp thuật vẫn tin là những Tử thần thực tử hiện đang bị giam cầm trong nhà ngục Azkaban về tội xâm phạm và mưu toan trộm cắp đã ra sức đánh cắp một lời tiên tri. Không ai biết được bản châts của lời Tiên tri, mặc dù sự suy đoán lan tràn khắp nơi cho là nó có liên quan đến Harry Potter, người duy nhất từ trước đến nay được biết đến như kẻ sống sót qua Lời nguyền Giết chóc, và là người cũng đã có mặt ở Bộ Pháp thuật trong cái đêm xảy ra vụ náo động. Một số người còn đoán già thêm, gọi Harry Potter là “Kẻ Được Chọn”, họ tin là lời tiên tri chỉ định cậu bé là người duy nhất sẽ có khả năng trừ khử cho chúng ta Kẻ-chớ-gọi-tên-ra. Lời tiên tri hiện giờ ở đâu, nếu quả là nó tồn tại, vẫn không ai biết, mặc dù (xem tiếp trang 2, cột 5)
  • 10. Một tờ báo thứ hai nằm cạnh bên tờ thứ nhất. Tờ này mang cái tít: SCRIMGEOUR KẾ NHIỆM FUDGE Chiếm gần hết trang đầu là một bức ảnh trắng đen to tướng của một người đàn ông có bờm tóc dày giống như bờm sư tử và một gương mặt khá dạn dày phong sương. Bức ảnh đó đang cử động – người đàn ông trong ảnh đang vẫy tay với cái trần nhà. Rufus Scrimgeour, giám đốc Sở Thần Sáng trước đây, vừa nhận chức Bộ trưởng Pháp thuật thay cho ông Cornelius Fudge. Việc bổ nhiệm này đã được cộng đồng Pháp thuật đón nhận nồng nhiệt, mặc dù chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi ông Scrimgeour nhậm chức đã nổi lên những lời đồn đại về sự bất đồng chính kiến giữa ông Bộ trưởng mới và Albus Dumbledore, vị Tổng Tư lệnh mới được phục chức của Quân đoàn Pháp thuật. Đại diện của ông Scrimgeour nhìn nhận rằng ông Bộ trưởng có gặp ông Dumbledore ngay sau khi nhận lãnh công việc tối cao, nhưng từ chối bình luận về những đề tài đã được hai bên bàn thảo. Ông Dumbledore được coi là (xem tiếp trang 3, cột 2) Bên trái tờ báo này là một tờ báo khác, được lật ra và gấp lại ở chỗ có thể thấy được một bài báo mang tựa đề BỘ PHÁP THUẬT BẢO ĐẢM AN NINH CỦA HỌC SINH. Vị Bộ trưởng Pháp thuật mới được bổ nhiệm, ông Rufus Scrimgeour, hôm nay đã nói về những biện pháp mới nghiêm ngặt được Bộ của ông thực hiện để đảm bảo an toàn cho học sinh trở lại trường đào tạo pháp sư và phù thủy Hogwarts vào mùa thu này. “Vì những lý do hiển nhiên, Bộ sẽ không đi sâu vào chi tiết của những kế hoạch an ninh mới rất chặt chẽ của Bộ,” ông Bộ trưởng nói vậy, mặc dù một người trong Bộ xác nhận rằng những biện pháp đó bao gồm các bùa chú phòng vệ, một sự bố trí phức tạp các bùa phản nguyền, và một đội công tác nhỏ thuộc lực lượng Thần Sáng chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ trường Hogwarts. Lập trường dứt khoát của ông Bộ trưởng về vấn đề an ninh của học sinh đã đảm bảo cho hầu hết các biện pháp đó. Bà Augusta Longbottom nói “Cháu nội của tôi, Neville - một người bạn tốt của Harry Potter, đã ngẫu nhiên cùng chiến đấu chống lại bọn Tử thần thực tử bên cạnh Potter ở Bộ Pháp thuật hồi tháng 6 và... Phần còn lại của câu chuyện không thể đọc được vì bị một cái lồng chim bự chảng ngồi chình ình ngay trên mặt bài báo. Bên trong lồng là một con cú trằng như tuyết đẹp lộng lẫy. Đôi mắt màu hổ phách của con cú quan sát toàn bộ căn phòng một cách ta đây là chủ, đầu nó thỉnh thoảng xoay lại ngó chằm chằm cậu chủ của mình đang nagys pho pho. Một hay hai lần nó mổ lách cách một cách sốt ruột, nhưng Harry ngủ say đến nỗi chẳng hề nghe thấy. Nằm ngày giữa phòng là một cái rương to đùng. Nắp rương để mở, trông như thể chuẩn bị hành trang, thế nhưng cái rương hầu như vẫn còn trống rỗng, ngoại trừ mấy thứ còn sót lại tận dưới đáy rương như đồ lót, kẹo, lọ mức rỗng, viết lông ngỗng đã gãy. Gần đó, nằm tênh hênh trên sàn, một tờ bướm màu tím nổi bật những dòng chữ: Được ban hành nhân danh Bộ Pháp thuật BẢO VỆ NHÀ CỬA VÀ GIA ĐÌNH MÌNH CHỐNG LẠILỰC LƯỢNG HẮC ÁM Cộng đồng Pháp thuật hiện nay đang bị đe dọa bởi một tổ chức gọi là Tử thần thực tử. Tuân theo những hướng dẫn an ninh đươn giản sau đây sẽ giúp quívị, gia đình quívị, và nhà cửa quívị khỏi bị tấn công. 1. Quívị không nên rời khỏi nhà một mình. 2. Đặc biệt cẩn thận vào những thời khắc tối trời. Nơi nào khả dĩthìnên tính toán sao cho những cuộc hành trình được hoàn tất trước khi trời tối. 3. Xem xét lại sự bố trí an ninh xung quanh ngôi nhà của quí vị, bảo đảm sao cho tất cả thành viên trong gia đình biết đến những biện pháp cao cấp như Bùa Khiên và Bùa Giải hoang tưởng, và đối với những thành viên nhỏ tuổi trong gia đình, cần biết tới Bùa Độn thổ ké. 4. Thống nhất với gia đình và bạn bè thân thiết những câu hỏi an ninh để phát hiện Tử thần thực tử giả dạng trà trộn bằng cách sử dụng Đa Quả dược (xem trang 2) 5. Nếu quí vị cảm thấy một thành viên của gia đình, hay đồng nghiệp, bạn bè, hay hàng xóm, có hành vi lạ lùng, hãy tiếp xúc ngay tức thì với Đội Đặc nhiệm thi hành Luật Pháp thuật. Họ có thể đã bị khống chế bởi Lời nguyền Độc đoán (xem trang 4) 6. Nếu Dấu hiệu hắc ám xuất hiện bên trên nơi quícị cư trú hay tòa nhà khác, THÌĐỪNG VÀO, mà hãy liên lạc ngay tức thìvới Sở Thần Sáng. 7. Một số quan sát chưa được xác định cho rằng Tử thần thực tử hiện giờ có thể sử dụng Âm binh (xem trang 10). Bất cứ sự nhìn thấy Âm binh nào, hay gặp phải việc tương tự, phải được báo cáo cho Bộ Pháp thuật NGAYLẬP TỨC. Harry làu bàu mớ ngủ và cái mặt của nó trượt khỏi mặt kính cửa sổ chừng ba phân hay cỡ đó, khiến cho cặp kính cận của nó càng nằm lệch thêm, nhưng nó vẫn không thức giấc. Một cái đồng hồ báo thức, được Harry sửa lại cách đây nhiều năm, kêu tích tắc om xòm trên ngưỡng cửa sổ, báo mười một giờ kém năm phút. Bên cạnh cái đồng hồ là một đống giấy da đầy những chữ viết xiên xiên gầy gầy bị bàn tay thả lỏng của Harry đè lên tại chỗ. Từ khi lá thư được gửi đến cách đây ba ngày, Harry đã đọc đi đọc lại thường xuyên đến nỗi lá thư bây giờ nằm phẳng lìmặc dù nó vốn được cuộn tròn rất chặt. Harry mến, Nếu thuận tiện cho con, thầy sẽ đến thăm con ở ngôi nhà số bốn đường Privet Drive vào thứ sáu tuần này lúc mười một giờ đêm để đưa con đến trang trại Hang Sóc, nơi con được mời ở lại chơi đến hết kỳ nghỉ hè. Nếu con đồng ý, thầy cũng sẽ vui mừng được con giúp đỡ về một vấn đề mà thầy hy vọng giải quyết trên đường đến Hang Sóc. Thầy sẽ giải thích đầy đủ hơn về điều này khi gặp con. Vui lòng gửi hồi âm theo bưu cú này. Hy vọng gặp con vào thứ sáu. Thầy đây, thân yêu nhất của con, Albus Dumbledore Mặc dù đã thuộc nằm lòng lá thư, Harry vẫn cứ vài phút lại liếc chừng lá thư từ lúc mới bảy giờ chiều hôm đó, khi nó bắt đầu đóng đô ở cửa sổ phòng ngủ, chỗ mà từ đó có thể nhìn ra hai đầu đường Privet Drive. Nó biết dù có đọc đi đọc lại những lời của cụ Dumbledore thì cũng chẳng được tích sự gì; nó đã gởi ngay câu trả lời “vâng” cho con cú đưa thư theo như yêu cầu, và tất cả những gìmà nó có thể làm bây giờ là chờ đợi: cụ Dumbledore sắp đến, hoặc là cụ sẽ không đến. Nhưng Harry vẫn chưa chuẩn bị xong hành lý. Cái chuyện nó sắp được cứu vớt ra khỏi gia đình Dursley chỉ sau hai tuần lễ chung sống với họ sao mà có vẻ hay ho tới mức khó tin. Nó không thể nào rũ bỏ được cái cảm giác là có chuyện gì đó bất ổn sắp diễn ra... Biết đâu hồi âm của nó cho lá thư của cụ Dumbledore có thể thất lạc; cụ Dumbledore có thể bị trở ngại trong việc đi đón nó; lá thư biết đâu lại chẳng hóa ra là đồ bịp, một trò đùa, hay một cái bẫy, chứ không phải do cụ Dumbledore gởi đi. Harry đã không thể nào để tâm trí vô chuyện sắp xếp hành lý, rồi nó bỗng chán nản thất vọng và lại giở hành lý ra. Hành động duy nhất mà nó đã thực hiện để cho cuộc hành trình có thể xảy ra là nhốt con cú trằng như tuyết của nó, con Hedwig, vô trong lồng một cách an toàn. Cây kim phút của cái đồng hồ báo thức quay đến số mười hai, và đúng ngay boong lúc đó, ngọn đèn đường bên ngoài cửa sổ tắt phụt.
  • 11. Harry thức giấc như thể cái bóng tối thình lình ấy là còi báo thức. Vội vàng chỉnh sửa lại cặp mắt kính và gỡ cái mặt mình ra khỏi mặt kính cửa sổ, nó lại in mũi lên cửa sổ, liếc mắt xuống mặt đường. Một hình thù cao cao trong bộ áo khóac dài phất phới đang đi lên lối mòn trong vườn. Harry nhảy cẫng lên như thể nó vừa bị điện giật, hất cái ghế ngã chổng kềnh, và bắt đầu quơ quào bất cứ thứ gì và tất cả mọi thứ trong tầm tay trên sàn phòng rồi quăng hết vô cái rương. Đương khi nó đang với chụp một bộ áo chùng, hai cuốn sách Thần chú, và một gói bánh phồng ở đầu kia căn phòng, tì chuông cửa reo. Dưới nhà, trong phòng khách, dượng Vernon quát: “Ai cả gan kêu cửa vào đêm hôm như vầy hả?” Harry đứng lặng trang với cái kính thiên văn bằng đồng đang cầm trong tay và một đôi giày thể thao trong tay kia. Nó đã hoàn toàn quên bén chuyện nên báo trước cho gia đình Dursley về cuộc thăm viếng có thể xảy ra của cụ Dumbledore. Vừa cảm thấy hỏang hốt vừa tức cười, nó trèo qua cái rương và vặn khóa mở cánh cửa phòng ngủ vừa vặn lúc nghe một giọng nói thầm trầm: “Chào ông. Ắt hẳn ông là ông Dursley. Tôi đồ rằng Harry đã nói với ông rằng tôi sẽ đến đón trò ấy?” Harry nhảy ào xuống cầu thang từng hai bặc một, nhưng còn cách chân cầu thang nhiều bậc thìnó chợt đứng khựng lại, bởi vìkinh nghiệm lâu dài đã dạy nó là cứ nên ở ngoài tầm tay của của dượng nó khi nào có thể. Kìa đứng ở ngưỡng cửa chính là một người đàn ông gầy gò cao cao với mái tóc và bộ râu bạc phơ dài tới tận eo. Cặp mắt kính nửa vầng trăng trễ trên sóng mũi khoằm, và cụ mặc một cái áo khoác đi đường dài màu đen, đội một cái mũ chóp nhọn. Ông Vernon Dursley có một bộ ria cũng rậm rạp gần giống với bộ râu của thầy Dumbledore, chỉ có điều màu đen, và ông đang mặc một cái áo ngủ màu cánh dán. Ông trợn mắt ngó chòng chọc vị khách như thể không tin được đôi mắt ti hícủa mình. “Đoán theo vẻ hoài nghi sửng sốt của ông, thì Harry đã không báo cho ông biết trước là tôi sẽ đến,” cụ Dumbledore dịu dàng nói. “Tuy nhiên, chúng ta cứ coi như ông đã thân tình mời tôi vô ngôi nhà của ông. Giữa thời buổi lộn xộn này, cù cưa quá lâu ở bậc thềm thìkhông khôn ngoan lắm.” Cụ nhanh nhẹn bước qua bậu cửa và đóng lại cánh cửa sau lưng. “Kể cũng khá lâu tính từ lần cuối cùng tôi đến thăm ông,” cụ Dumbledore nói, chăm chú ngó xuống dượng Vernon qua cánh mũi khoằm. “Tôi phải nói, tướng tá nghi phong của ông sung mãn thịnh vượng.” Ông Vernon Dursley không nói năng gì cả. Harry không nghi ngờ chút nào rằng cái lưỡi của ông sẽ hoạt động lại, và sớm thôi – vì nhịp đập của mạch máu nổi cộm trên thái dương của dượng đang gia tăng đến mức nguy hiểm – nhưng có một cái gì đó ở cụ Dumbledore nhất thời làm cho dượng ngạt thở. Có thể là do ngoại hình mang vẻ pháp sư rành rành, nhưng cũng có thể do dượng Vernon cảm nhận được đây là một con người đừng có hòng ăn hiếp. “À, chào Harry,” cụ Dumbledore nói, ngước lên nhìn Harry qua cặp mắt kính nửa vầng trăng với một vẻ hài lòng. “Xuất sắc, xuất sắc.” Những lời này dường như làm sôi máu dượng Vernon. ĐIều quá hiển nhiên đối với dượng là, bất cứ người nào có thể nhìn Harry mà nói “xuất sắc” thì dượng không bao giờ nhìn vào mắt người đó được. “Tôi không có ý thô lỗ...” Dượng bắt đầu nói, bằng một giọng hăm he sự thô bạo trong mỗi âm tiết. “Nhưng, buồn thay, sự thô bạo cứ ngẫu nhiên xảy ra với mật độ thường xuyên tới mức báo động,” cụ Dumbledore nghiêm trang hoàn tất câu nói. “Tốt nhất là đừng nói gìhết, thưa ông thân mến. À, đây ắt hẳn là bà Petunia.” Cửa nhà bếp vừa mở ra, và dì của Harry đứng đó, mang một đôi găng tay bằng cao su và một tấm khoác trong nhà choàng bên ngoài bộ đồ ngủ, hẳn nhiên là dì đang làm dở dang công việc dọn dẹp nhà bếp trước khi đi ngủ. Gương mặt dài ngoằng như mặt ngựa của dì không biểu hiện cái gì khác ngoài vẻ sửng sốt. “Tôi là Albus Dumbledore,” cụ Dumbledore nói, khi dượng Dursley không chủ động giới thiệu khách. “Dĩnhiên, chúng ta có thư từ với nhau trước đây.” Harry nghĩ đây là một cách nhắc lại không hay lắm cho dì Petunia nhớ rằng đã có lần cụ đã gởi cho dì một thư sấm, nhưng dì Petunia không thừa nhận thuật ngữ đó. “Và đây ắt hẳn là con trai của bà, cậu Dursley?” Lúc đó Dudley đã thò đầu qua cửa phòng khách dáo dác nhìn ngó: cái đầu bự đội mái tóc vàng óng của nó nhô bên trên cái cổ áo có sọc của bộ đồ ngủ trông lặc lìa quái gở, mồm nó ngoác ra vìkinh ngạc và khiếp sợ. Cụ Dumbledore chờ cho một hay hai giây, rõ ràng là để xem có ai trong gia đình Dursley muốn nói gìkhông, nhưng khi thấy ai cũng lặng như tờ, cụ mỉm cười. “Tôi có nên cho rằng quívị sẽ mời tôi vô phòng khách không nhỉ?” Dudley lật đật tránh đường cho cụ Dumbledore bước qua. Harry, tay vẫn cầm cái kính thiên văn và đôi giày thể thao, nhảy xuống mấy bậc thang cuối cùng để đi theo cụ Dumbledore. Cụ đã tự mình an tọa trong cái ghế bành gần lò sưởi nhất và đang thưởng thức cảnh trí chung quanh với một vẻ mặt thích thú nhân hậu. Trông cụ nổi bật trong quang cảnh ấy. “Thưa thầy... chúng ta sắp đi chưa ạ?” Harry lo lắng hỏi. “Ừ, thực ra chúng ta sắp đi rồi, nhưng có vài vấn đề cần bàn bạc trước,” cụ Dumbledore nói. “Và thầy muốn làm chuyện đó trong nhà hơn là ở nơi công cộng. CHúng ta nên tận dụng lòng hiếu khách của dìvà dượng trò thêm một chút nữa.” “Ông sẽ làm thế thật à?” Dượng Vernon Dursley cũng đã trở vô phòng khách, dìPetunia bám sát sau vai chồng, và thập thò đằng sau cả hai là Dudley. “Vâng, tôi sẽ làm thế.” Cụ Dumbledore nói một cách đơn giản. Cụ rút cây đũa phép ra lẹ đến nỗi Harry hầu như không nhìn thấy; chỉ bằng một cái phẩy nhẹ bình thường, cái ghế sofa vọt tới trước và tông vô đầu gối từ phía dưới chân ba người nhà Dursley khiến cho họ té nhào lên đó thành một đống. Một cái phẩy nhẹ kahcs của cây đũa phép khiến cái ghế sofa bay trở lại vị tríban đầu. “Chúng ta thế là đều được thoải mái,” cụ Dumbledore nói một cách vui vẻ. Khi cụ cất cây đũa phép vô túi áo, Harry nhận thấy bàn tay của cụ bị nám đen và teo quắt lại; trông như thể cơ bắp của bàn tay đã bị thui cháy. “Thưa thầy... chuyện gìđã xảy ra với...” “Để sau đã, Harry,” cụ Dumbledore nói. “Con hãy ngồi xuống.” Harry ngồi xuống cái ghế bành còn lại, chọn thế làm sao cho khỏi phải nhìn thấy gia đình Dursley, họ có vẻ choáng váng trong im lặng. “Tôi cứ tưởng ông sẽ thết đãi tôi chút trà bánh,” cụ Dumbledore nói với dượng Vernon. “Dè đâu bằng chứng nãy giờ cho thấy cứ lạc quan quá đáng như vậy thìthành ra ngu.” Một cái phẩy thứ ba của cây đũa phép, và một cái chai bụi bặm cùng năm cái ly xuất hiện giữa cõi thinh không. Cái chai bật nút và rót vô mỗi ly một lượng hào phóng chất lỏng màu mật, rồi mỗi cái ly tự trôi đến tay mỗi người trong căn phòng. “Đây là món rượu mật ong rừng sồi ngon nhất của bà Rosemerta,” cụ Dumbledore nói, nâng ly với Harry. Nó đón lấy ly của mình và hớp một ngụm. Nó chưa từng nếm qua cái gì tương tự như vậy trước đây, nhưng cũng khoái vô cùng. Gia đình Dursley, sau cái nhìn thật nhanh đày khiếp đảm, đã cố tình phớt lờ hoàn toàn mấy cái ly phần họ, quả là một thành tích khó khăn, bởi vìmấy cái ly cứ huých huých nhè nhẹ bên đầu họ. Harry không thể nào nén được nỗi nghi ngờ rằng cụ Dumbledore đang tự giải trícho mình. “Này, Harry,” cụ Dumbledore quay sang phía Harry và nói, “có một chuyện khó khăn phát sinh mà thầy hy vọng con có thể giải quyết cho chúng ta. Khi nói chúng ta, thầy muốn nói Hội Phượng hoàng. Nhưng trước tiên thầy phải nói với con rằng di chúc của Sirius đã được tìm thấy cách đây một tuần và chú ấy để lại cho con tất cả những gìthuộc về chú ấy.” Cái đầu của dượng Vernon xoay phía trên cái ghế sofa, nhưng Harry chẳng buồn nhìn ông ấy, cũng không thể nghĩ ra điều gì để nói ngoại trừ mấy tiếng “Ô, được thôi.”
  • 12. “Điều này về cơ bản, khá minh bạch,” cụ Dumbledore tiếp tục. “Con tăng thêm một số lượng vàng đáng kể vào tài khoản của con trong ngân hàng Gringotts, và con thừa hưởng tất cả sở hữu cá nhân của chú Sirius. Phần hơi có vấn đề của di sản...” “Cha đỡ đầu của nó chết rồi hả?” Từ cái ghế sofa, dượng Vernon nói to. Cả cụ Dumbledore lẫn Harry đều quay đầu lại nhìn ông ta. Cái ly rượu mật ong lúc này cứ thế mà khỏ vô chẩm đầu của dượng Vernon; ông ta thìcố gắng đánh đuổi nó đi. “Ổng chết rồi hả? Cha đỡ đầu của nó ấy?” “Ừ,” cụ Dumbledore nói. Cụ không hỏi tại sao Harry đã không tâm sự gìvề đời nó với gia đình Dursley. “Vấn đề của chúng ta là,” cụ tiếp tục nói với Harry, như thể đã không hề óc sự gián đoạn nào. “Chú Sirius cũng để lại cho con cả căn nhà số mười hai Quảng trường Grimmauld.” “Ổng để lại một căn nhà hả?” Dượng Vernon nói với vẻ tham lam, hai con mắt nhỏ xíu của ông ta nheo lại ti hí, nhưng chẳng ai buồn trả lời ông ta cả. “Thầy có thể tiếp tục sử dụng nó làm tổng hành dinh,” Harry nói. “Con không bận tâm. Thầy cứ lấy đi. Con thực sự không muốn lấy nó.” Harry không bao giờ muốn đặt chân vào số mười hai Quảng trường Grimmauld một lần nữa nếu nó có thể tránh được. Nó nghĩ nó có thể bị ám ảnh mãi mãi bởi ký ức về chú Sirius vơ vẩn trong những căn nhà mốc meo tăm tối một mình, bị cầm tù trong cái nơi mà chú đã khao khát rời bỏ. “Thế là hòa phóng,” cụ Dumbledore nói. “Tuy nhiên, tạm thời chúng ta bỏ trống tòa nhà.” “Tại sao?” “Chà...” cụ Dumbledore nói, phớt lờ tiếng nói của dượng Vernon. Lúc này ông ta đang bị ly rượu mật kiên trì khỏ ngay đỉnh đầu để cưỡng ép một cách quyết liệt. “Truyền thống gia đình Black qui định rằng ngôi nhà phải được truyền lại theo trực hệ cho người nam tiếp theo trong dòng họ mang họ “Black’. Chú Sirius là người nam cuối cùng trong dòng họ chính thống này, bởi vìem trai chú ấy, Regulus, đã chết trước chú ấy, và cả hai đều không có con. Trong khi di chúc của chú Siriusnói một cách hoàn toàn rõ ràng rằng chú ấy muốn con thừa hưởng căn nhà, nhưng dù vậy có thể có một số thần chú hoặc bùa ểm đã được ếm lên tòa nhà ấy để bảo đảm là nó không thể bị sở hữu bởi bất cứ ai không thuần huyết thống.” Một hình ảnh sống động về bức chân dung treo trên tường của bà mẹ chú Sirius gào thét và nhổ nước miếng nháng lên trong đầu Harry. Nó nói. “Con cá có bùa là cái chắc.” “Khá nhiều,” cụ Dumbledore nói. “Và nếu có một thứ bùa ểm như thế thì quyền sở hữu rất có thể được truyền lại cho người bà con vai vế cao nhất còn đang sông của chú Sirius, có nghĩa là cho người chị họ của chú ấy, bà Bellatrix Lestrange.” Harry đứng bật dậy mà không nhận thức được điều mình đang làm; cái kính thiên văn và đôi giày thể thao văng từ trên đùi nó qua tuốt bên kia sàn. Mụ Bellatrix Lestrange, kẻ đã giết chú Sirius, mà thừa kế căn nhà ư? “Không,” nó kêu lên. “Ừ, hiển nhiên là chúng ta cũng không muốn bà ấy thừa kế căn nhà. Tình huống đầy nguy hiểm và phức tạp. Chúng ta không biết liệu các thứ bùa ểm mà chính chúng ta đã ếm lên căn nhà, thí dụ bùa Bất Khả định vị, có còn hiệu lực nữa không một khi quyền sở hữu căn nhà không còn thuộc về chú Sirius nữa. Rất có thể Bellatrix sẽ về đến ngay ngưỡng cửa bất kỳ lúc nào. Đương nhiên chúng ta phải dời đi cho đến thời điểm mà chúng ta làm rõ được sở hữu của địa điểm đó.” “Nhưng làm sao mà thầy biết được là liệu con có được phép sở hữu nó hay không?” “May mắn thay,” cụ Dumbledore nói, “có một phép kiểm tra đơn giản.” Cụ đặt cái ly rỗng của mình lên cái bàn nhỏ bên cạnh cái ghế, nhưng trước khi cụ có thể làm bất cứ điều gì, dượng Vernon đã gào lên: “Ông có dẹp dùm mấy cái thứ đồ chết tiệt này cho chúng tôi nhờ không?” Harry quay lại nhìn: tất cả ba người nhà Dursley đang dùng tay che đỡ bên trên đầu của mình, bởi vì mấy cái ly cứ khỏ tưng tưng xuống mấy cái sọ dừa của họ, khiến cái thứ đựng bên trong ly văng tung tóe khắp nơi. “Ôi, tôi xin lỗi,” cụ Dumbledore nhã nhặn nói, rồi giơ cây đũa phép lên một lần nữa. Cả ba cái ly đều biến mất. “Nhưng quívị cũng biết là có cách tốt hơn mà, ấy là cứ uống đi cho rồi.” Có vẻ như dượng Vernon sắp nổ tung ra với vô số phản đối khó chịu, nhưng ông ta chỉ thụp trở xuống đám gối nệm cùng với dì Petunia và Dudley mà không nói gìcả, hai con mắt heo ti hícứ ngó chừng cây đũa phép của cụ Dumbledore. “Con thấy đó,” cụ Dumbledore nói, quay lại với Harry, và một lần nữa chuyện trò như thể dượng Vernon đã không hề chen ngang vô tiếng nào. “Nếu con thực sự thừa kế căn nhà thìcon cũng được thừa kế...” Cụ Dumbledore phẩy cây đũa phép lần thứ năm. Một tiếng “cách” lớn vang lên, và một gia tinh xuất hiện với một cái vòi thế chỗ cho cái mũi, hai cái tai dơi khổng lồ, và đôi mắt ngầu đỏ to thô lố, đang phủ phục trên tấm thảm dày của nhà Dursley, mình mẩy phủ toàn giẻ rách bẩn thỉu. Dì Petunia thốt ra một tiếng thét dựng tóc gáy, chưa bao giờ trong lịch sử từng có một vật bẩn thỉu như thế bước chân vô nhà dì. Dudley co đôi chân trần hồng hào béo tốt của nó lên khỏi sàn và cứ ngồi với hai chân giơ lên gần quá đầu, như thể nó tưởng cái sinh vật đó có thể chạy lên theo ống quần ngủ của nó. “Cái đồ quỉ gìvậy?” Dượng Vernon rống lên. “Kreacher,” cụ Dumbledore nói dứt câu. “Kreacher không, Kreacher không, Kreacher không.” Con gia tinh la ông ổng, tiếng gần to bằng tiếng của dượng Vernon, dẫm thình thình hai chân cáu bẩn và kéo giật hai vành tai tổ chảng của nó. “Kreacher thuộc về cô Bellatrix, ừ, đúng, Kreacher thuộc về dòng họ Black, Kreacher muốn cô chủ mới, Kreacher không muốn theo thằng ranh con hỗn xược Potter, Kreacher không, không, không.” “Như con có thể thấy đó, Harry,” cụ Dumbledore nói to, át mấy tiếng không, không, không. “Kreacher đang cho thấy có một sự miễn cưỡng nhất định trong việc chuyển giao quyền sở hữu sang con.” “Con không quan tâm,” Harry nói một lần nữa, ghê tởm nhìn con gia tinh đang lăn lộn gào thét. “Con không muốn nó.” “Không, không, không, không…” “Chẳng lẽ con lại muốn chuyển quyền sở hữu nó sang cho Bellatrix hơn à? Hãy nhớ rằng nó đã sống ở Tổng hành dinh của Hội Phượng hoàng trong suốt năm qua.” “Không, không, không, không…” Harry nhìn chằm chằm cụ Dumbledore. Nó hiểu Kreacher không thể nào được phép ra đi và đến sống với Bellatrix Lestrange, nhưng cái ý nghĩ phải làm chủ Kreacher, phải chịu trách nhiệm về một sinh vật đã từng phản bội chú Sirius khiến nó thấy tởm lợm. “Hãy ra lệnh cho nó,” cụ Dumbledore nói. “Nếu nó đã được chuyển giao cho con làm chủ, thì nó sẽ phải vâng lời. Nếu không, lúc đó chúng ta sẽ phải nghĩ đến những biện pháp khác để cách ly nó với bà chủ hợp pháp của nó.” “Không, không, không, KHÔNG!” Giọng của Kreacher cất cao lên thành một tiếng rú. Harry không thể nghĩra cái gìđể nói, ngoại trừ: “Kreacher, im mồm!” Trong một thoáng, có vẻ như Kreacher sắp tắt thở. Nó chụp lấy cổ họng, mồm nó vẫn còn láp váp một cách điên cuồng, hai con mắt nó lồi hẳn ra. Sau vài giây hớp hơi một cách điên cuồng, nó tự quăng mình nằm sấp lên tấm thảm (dì Petunia khóc thút thít) và đấm đá cái sàn bằng cả hai tay và hai chân, tự chuyển mình qua một cơn cuồng nộ dữ dội, nhưng hoàn toàn yên lặng. “Tốt, điều đó đơn giản hóa nhiều vấn đề,” cụ Dumbledore phấn khởi nói. “Dường như chú Sirius hiểu điều mà chú ấy làm. Con là người thừa kế hợp
  • 13. pháp của số mười hai Quảng trường Grimmauld và của Kreacher.” “Con có phải... có phải giữ nó bên mình không?” Harry thất kinh hồn vía hỏi lại trong khi Kreacher quẫy đập quanh chân nó. “Không, nếu con không muốn,” cụ Dumbledore nói. “Nếu được, thầy đề nghị con nên gởi nó tới trường Hogwarts để làm việc trong nhà bếp của trường. Bằng cách đó, những gia tinh khác có thể trông chừng nó.” “Phải đó!” Harry reo lên nhẹ nhõm. “Phải đó, con sẽ làm như vậy. Ơ... Kreacher… ta muốn mi tới trường Hogwarts và làm việc trong nhà bếp của trường với những gia tinh khác.” Kreacher lúc này đã xoay ra nằm ngửa trên sàn, giơ cả hai chân hai tay lên không trung, ngó Harry ngược từ dưới lên trên bằng cái nhìn kinh tởm sâu sắc nhất, rồi cùng với một tiếng “cạch” lớn, nó biến mất. “Tốt,” cụ Dumbledore nói. “Cũng còn một vấn đề về con bằng mã Buckbeak bây giờ đã thuộc về con, cho nên nếu muốn thu xếp cách khác…” “Không,” Harry nói ngay. “Nó có thể ở lại với bác Hagrid. Con nghĩBuckbeak thích như vậy hơn.” “Hagrid sẽ vui mừng lắm,” cụ Dumbledore nói. “Bác ấy rất xúc động khi gặp lại con Buckbeak. Nhân tiện, chúng ta đã quyết định, vì sự an toàn của Buckbeak, tạm thời sửa lại tên của nó là Witherwings, mặc dù thầy không tin rằng Bộ có thể đoán ra nó chính là con bằng mã mà họ đã từng kêu án tử hình. Thôi, Harry, hòm xiểng của con xong chưa?” “Dạ…” “Con nghi ngờ là thầy không đến sao?” cụ Dumbledore nói một cách sắc xảo. “Con sẽ đi… và ơ… làm xong ngay,“ Harry hấp tấp nói, vội vàng nhặt nhạnh lại cái kính thiên văn và đôi giày thể thao. Nó mất chừng hơn mười phút một tí để tìm ra những thứ mà nó cần; cuối cùng nó cũng loay hoay rút ra được cái Áo khoác tàng hình từ dưới gầm giường, vặn lại cái nút hũ mực đổi màu, và ấn được cái nắp rương đóng đè xuống cái vạc cố nhét bên trong. Xong, một tay cố kéo cái rương, tay kia xách cái chuồng con Hedwig, nó đi trở xuống cầu thang. Nó thất vọng thấy cụ Dumbledore không chờ nó ở trong hành lang, có nghĩa là nó phải trở lại phòng khách. Chẳng ai nói năng gì cả. Cụ Dumbledore đang ngâm nga khe khẽ, hiển nhiên là thoải mái dễ chịu, nhưng không khí còn đặc hơn cả cái bánh trứng nguội lạnh, và Harry không dám nhìn gia đình Dursley khi nó nói: “Thưa giáo sư, con đã sẵn sàng rồi ạ.” “Tốt,” cụ Dumbledore nói. “Vậy thì chỉ còn một chuyện nữa thôi.” Và cụ quay qua nói chuyện với gia đình Dursley một lần nữa. “Chắc chắn là ông bà biết, Harry sẽ tới tuổi trưởng thành trong vòng một năm nữa.” “Không,” dìPetunia nói, lần đầu tiên kể từ khi cụ Dumbledore bước vô nhà. “Cho phép tôi hỏi lại?” cụ Dumbledore nói một cách lịch sự. “Không, nó chưa đủ tuổi trưởng thành. Nó nhỏ hơn Dudley một tháng, và tới năm sau của năm sau nữa Dudley mới đủ mười tám tuổi.” “A,” cụ Dumbledore vui vẻ nói. “Nhưng trong thế giới Pháp thuật, chúng tôi trưởng thành khi đủ mười bảy tuổi.” Dượng Vernon lẩm bẩm, “Lố bịch,” nhưng cụ Dumbledore phớt lờ ông ta. “Giờ đây, như ông bà biết, vị pháp sư tên là Voldermort đã trở lại đất nước này. Cộng đồng Pháp thuật hiện đang lâm vào tình trạng chiến tranh công khai. Harry, người mà chúa tể Voldermort đã cố gắng giết đi trong nhiều dịp, giờ đây ở trong tình cảm còn nguy hiểm hơn cả cái ngày mà tôi bỏ nó trên ngạc cửa nhà ông bà cách đây mười lăm năm, kèm một lá thư giải thích về việc cha mẹ nó bị ám sát và bày tỏ niềm hy vọng rằng ông bà sẽ chăm sóc nó như thể con cái mình.” Cụ Dumbledore ngừng lại, mặc dù giọng nói của cụ vẫn nhẹ nhàng bình tĩnh, và cụ chẳng tỏ dấu hiệu nào của sự giận dữ, Harry vẫn cảm thấy một cơn lạnh thấu gìđó phát ra từ cụ và nó nhận thấy gia đình kia co cụm lại sát với nhau. “Ông bà đã không làm đúng như tôi yêu cầu. Ông bà chưa bao giờ đối xử với Harry như con cái. Nó chẳng nhận được gì từ tay ông bà, ngoại trừ sự bỏ bê và ác nghiệt. Điều tốt nhất còn kể ra được là ít ra thì nó cũng đã thoát được sự hư hỏng đáng sợ mà ông bà đã gây ra cho thằng bé bất hạnh đang ngồi giữa ông bà kia.” Cả dìPetunia và dượng Vernon đều ngoái đầu nhìn ra sau theo bản năng, như thể trông mong nhìn thấy một ai đó khác Dudley đang ngồi nép vô giữa hai người. “Chúng tôi... chúng tôi mà đối xử tệ bạc với Dudders à? Ông muốn nói...” Dượng Vernon bắt đầu nói một cách giận dữ, nhưng cụ Dumbledore giơ ngón tay lên để giữ yên lặng, một sự yên lặng như thể cụ đã táng cho dượng Vernon một cái khờ luôn. “Pháp thuật mà tôi khơi lên cách đây mười lăm năm có ý nghĩa là Harry có được sự bảo vệ mạnh mẽ khi nó còn có thể gọi căn nhà này là ‘nhà’. Cho dù ở đây nó đã khốn khổ thế nào đi nữa, cho dù nó bị ghẻ lạnh thế nào đi nữa, cho dù nó bị đối xử tàn tệ thế nào đi nữa, ông bà đã cho nó một mái nhà, dù một cách bất đắc dĩ. Pháp thuật này sẽ hết hiệu lực khi Harry đủ mười bảy tuổi; hay nói cách khác, khi nó trở thành một người dàn ông. Tôi chỉ yêu cầu điều này: rằng ông bà hãy cho phép Harry trở về căn nhà này một lần nữa, trước sinh nhật thứ mười bảy của nó, điều này sẽ bảo đảm rằng nó còn tiếp tục có được sự bảo vệ cho tới lúc đó. Chẳng người nào trong gia đình Dursley nói lời nào. Dudley hơi cau mày, mặc dù nó vẫn còn đang cố gắng suy ra xem nó từng bị đối xử tệ bạc hồi nào. Dượng Vernon thìtrông như thể bị cái gìđó vướng mắc trong cổ họng; tuy nhiên, dìPetunia thìlại xúc động một cách kỳ cục. “Thôi, Harry... đã tới lúc chúng ta lên đường.” Cuối cùng cụ Dumbledore cũng lên tiếng. Cụ đứng lên và kéo cho ngay lại tấm áo khoác dài màu đen. “Hẹn đến lúc chúng ta gặp lại,” cụ nói với gia đình Dursley, mấy người này tỏ vẻ như thể thời khắc đó có thể mãi mãi không bao giờ tới. Và sau khi đội mũ, cụ lướt đi ra khỏi phòng. “Chào,” Harry vội vã nói với gia đình Dursley, rồi bước theo cụ Dumbledore. Cụ đnưgs cạnh cái rương của Harry, bên trên rương đặt cái chuồng của con Hedwig. “Lúc này chúng ta không muốn bị vướng víu những thứ này,” cụ nói, lại rút cây đũa phép ra một lần nữa. “Thầy sẽ gởi chúng tới Hang Sóc đợi chúng ta ở đó. Tuy nhiên, thầy muốn con mang theo bên mình Áo khoác tàng hình... phòng khi cần đến.” Harry rút tấm áo khoác của nó ra khỏi cái rương một cách khó khăn, cố gắng không bày cho cụ Dumbledore thấy cái đống hầm bà lằng hổ lốn bên trong cái rương. Khi nó đã nhét tấm áo vô một cái túi bên trong cái áo gió, cụ Dumbledore vẫy cây đũa phép, và cái rương, cái chuồng, cùng con Hedwig đều biến mất. Cụ Dumbledore lại vẫy cây đũa phép một lần nữa, và cánh cửa trước mở ra một bóng tối mù sương mát lạnh. “Và bây giờ, Harry à, chúng ta hãy ra đi, bước vào đêm và đuổi theo cô ả phù phiếm – cuộc phiêu lưu.” Chương 4 Horace Slughorn Bất chấp cái việc Harry đã giành hết từng giây phút không ngủ trong mấy ngày qua hy vọng một cách tha thiết rằng cụ Dumbledore sẽ đến đón mình đi thực sự, nó vẫn cảm thấy lúng túng lộ liễu khi hai thầy trò ra tới đường Privet Drive. Trước giờ nó chưa từng trải qua một cuộc chuyện trò thực sự nào với thầy hiệu trưởng ở bên ngoài khuôn viên trường Hogwarts; giữa hai người luôn có một cái bàn làm việc. Ký ức về cuộc gặp gỡ mặt-đối-mặt vừa qua giữa hai người lại cứ hay trỗi dậy, và chuyện đó càng làm Harry bối rối thêm; nó đã la thét hơi nhiều trong dịp đó, ấy là không kể nó đã thi thố hết tài năng để làm tan tành nhiều món đồ đạc được cụ Dumbledore tưng tiu nhất.
  • 14. Tuy nhiên, cụ Dumbledore có vẻ hoàn toàn thư thái. Cụ rạng rỡ nói: “Thủ sẵn cây đũa phép của trò nhé, Harry” “Nhưng thưa thầy, con tưởng con không được phép sử dụng pháp thuật bên ngoài trường học chớ?” “Nếu có một cuộc tấn công,” cụ Dumbledore nói, “thầy cho phép con sử dụng bất cứ phép kháng-bùa hay lời nguyền nào mà con biết xài. Tuy nhiên, thầy không nghĩrằng con cần phải lo lắng về chuyện bị tấn công vào tối nay.” “Thưa thầy, tại sao không ạ?” “Con đang ở bên thầy,” cụ Dumbledore nói một cách đơn giản. “Điều này đủ đảm bảo an toàn, Harry à.” Cụ đột ngột dừng chân giữa đường Privet Drive. “Dĩnhiên là con chưa trải qua kỳ Sát hạch Độn thổ, đúng không?” cụ hỏi “Dạ chưa,” Harry đáp. “Con tưởng phải đủ mười bảy tuổi mới được thi.” “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Vậy là con phải bám vô cánh tay thầy thật chặt. Tay trái, nếu không phiền… như con đã nhận thấy đó, tay cầm cây đũa phép của thầy lúc này hơi yếu.” Harry bám chặt cánh tay cụ Dumbledore đưa ra. Cụ bảo: “Tốt lắm. Nào, chúng ta đi.” Harry cảm thấy cánh tay cụ Dumbledore xoắn tuột khỏi bàn tay nó. Nó bèn bám chặt hơn nữa. Việc tiếp theo mà nó nhận ra là mọi thứ bỗng đen hù; nó bị ép rất mạnh từ mọi hướng; nó không thể thở nổi, có những đai sắt chằng quanh ngực nó; tròng mắt nó bị đẩy ngược vô tuốt bên trong đầu, màng tai nó bị đẩy sâu hơn vô trong hộp sọ và rồi… Nó há họng đớp đầy phổi làn khí lạnh ban đêm và mở to đôi mắt đang trào nước. Nó cảm thấy như thể mới vừa bị nhét qua một cái ống cao su rất chặt. Nó mất vài giây định thần mới nhận ra con đường Privet Drive đã biến mất. Nó và cụ Dumbledore lúc này đang đứng ở một nơi có vẻ như một sân làng hoang phế, ở giữa sân có một tượng đài kỷ niệm chiến tranh và vài băng ghế dài. Khi đầu óc đã băts kịp cảm xúc, Harry hiểu ra nó vừa mới được độn thổ lần đầu tiên trong đời. “Con có sao không?” Cụ Dumbledore ngó xuống nó lo lắng hỏi. “Cảm giác đó rồi sẽ quen đi.” “Con không sao.” Harry nói, chà xát hai lỗ tai, có vẻ như hai lỗ tai nó hơi bất đắc dĩ phải rời bỏ con đường Privet Drive. “Nhưng con thấy khoái chổi bay hơn...” Cụ Dumbledore mỉm cười, kéo tấm áo khoác lữ hành lên sát quanh cổ hơn một chút, và nói: “Đi lối này.” Cụ bước đi rất nhanh, băng qua một cái quán tọ trống không và vài căn nhà. Theo như cái đồng hồ trên tháp một nhà thờ kế đó thì đã gần nửa đêm. Cụ Dumbledore nói: “Nào Harry, nói cho thầy nghe, cái thẹo của con… dạo này còn đau không?” Harry đưa bàn tay lên trán một cách vô thức và xoa xoa cái dấu hình tia chớp. Nó nói: “Dạ không. Và con đang thắc mắc về việc đó. Con tưởng nó sẽ phải rát hơn bao giờ hết chớ, vìbây giờ Voldermort đã lại có quyền lực rồi.” Nó ngước nhìn lên cụ Dumbledore và thấy vẻ hài lòng trên mặt cụ. Cụ Dumbledore nói: “Nhưng thầy thì nghĩ ngược lại. Chúa tể Voldermort cuối cùng đã nhận ra rằng lâu nay con hơi khoái việc tiếp cận nguy hiểm vào suy nghĩ và tình cảm của hắn. Có vẻ như bây giờ hắn đang xài bùa Bế quan chống lại con.” “Thế cũng được. Con cũng chẳng phiền,” Harry nói. Nó chẳng tiếc nhớ gì cả những giấc chiêm bao đầy xáo trộn đến những phát nháng đến sững sờ rọi vô bên trong đầu óc Voldermort. Hai người quẹo qua một góc đường, đi ngang qua một trạm điện thoại công cộng và một trạm chờ xe buýt. Harry lại nhìn ngang cụ Dumbledore một lần nữa. “Thưa thầy…” “Gìhở Harry?” “Ơ… Chúng ta đang ở đâu đây?” “Harry à, đây là làng Budleigh Babberton xinh đẹp.” “Chúng ta sẽ làm gìở đây ạ?” “À phải, đương nhiên rồi, thầy chưa nói với con,” cụ Dumbledore đáp. “Chà, thầy đã đếm hết nổi số lần thầy đã nói điều này trong những năm gần đây, nhưng một lần nữa thầy lại phải nói rằng chúng ta thiếu một thành viên trong giáo ban. Chúng ta tới đây để thuyết phục một đồng nghiệp cũ của thầy đừng nghỉ hưu nữa để trở về dạy ở trường Hogwarts.” “Thưa thầy, con giúp gìđược trong chuyện này ạ?” “À, thầy nghĩsẽ kiếm được chỗ để xài tới con,” cụ Dumbledore nói một cách mơ hồ. “Quẹo trái, Harry.” Hai người đi lên một con đường hẹp rất dốc, hai bên nhà cửa san sát. Tất cả cửa sổ đều tối thui. Trận lạnh giá kỳ quái đã tan từ hai tuần trước ở đường Privet Drive, nhưng vẫn còn dai dẳng ở đây. Nghĩđến bọn giám ngục, Harry ngoái lại sau liếc mắt nhìn, nắm chặt lấy cây đũa phép trong túi áo. “Thưa thầy, tại sao chúng ta không độn thổ thẳng vô nhà đồng nghiệp của thầy cho gọn?” “Bởi vì như vậy thì bất lịch sự không kém gì đá tông vô cửa nhà người ta,” cụ Dumbledore nói. “Phép lịch sự đòi hỏi chúng ta phải chừa lại cho các pháp sư cơ hội từ chối đón tiếp chúng ta. Vả lại, hầu hết nhà cửa của dân pháp thuật đều được bảo vệ bằng bùa chống lại những cuộc đột nhập bằng độn thổ. Chẳng hạn ở trường Hogwarts…” “Không ai có thể độn thổ ở bất cứ đâu bên trong lâu đài hay ngoài sân vườn. Hermione Granger có nói với con như vậy,” Harry nhanh nhẩu nói. “Và trò ấy hoàn toàn đúng. Chúng ta quẹo trái một lần nữa.” Đằng sau hai thầy trò, chuông đồng hồ nhà thờ điểm nửa đêm. Harry thắc mắc tại sao cụ Dumbledore không coi việc đến thăm đồng nghiệp cũ vào đêm hôm khuya khoắt như vầy cũng là bất lịch sự, nhưng giờ đây hai thầy trò đã trò chuyện thoải mái rồi, Harry có nhiều câu hỏi cấp bách hơn để mà hỏi. “Thưa thầy, con coi trên Nhật báo Tiên Tri ông Fudge đã bị mất chức…” “Đúng,” cụ Dumbledore đáp. Lúc này cụ đang đi ngược lên phía dốc đứng của con đường. “Thầy chắc là con cũng có đọc thấy rằng ông ấy đã bị ông Rufus Scrimgeour thay thế. Ông này vốn là Giám đốc Sở Thần sáng.” “Ông ấy… Thầy có nghĩlà ông ấy tốt không?” Harry hỏi. “Một câu hỏi thú vị,” cụ Dumbledore nói. “Chắc chắn là ông ấy có khả năng. Một tính cách mạnh mẽ cả quyết hơn ông Cornelius.” “Dạ, nhưng ý con…” “Thầy hiểu ý con. Rufus là một người hành động, và vì đã từng chiến đấu chống các phù thủy Hắc ám gần như suốt cả đời công tác, nên không đánh giá thấp Chúa tể Voldermort.” Harry chờ đợi, nhưng cụ Dumbledore chẳng nói gì tới chuyện cụ bất đồng với ông Scrimgeour mà tờ Nhật báo Tiên Tri đã tường thuật, và nó cũng chẳng dám theo đuổi chủ đề đó, cho nên nó đổi đề tài: “Và… thưa thầy… Con có đọc tin về bà Bones.” “Ừ,” cụ Dumbledore khẽ nói. “Một mất mát kinh khủng. Bà ấy là một phù thủy vĩđại. Thầy nghĩ, ngay ở đây thôi… Ối.” Cụ đã chỉ hướng bằng bàn tay bị thương. “Thưa thầy, chuyện gìđã xảy ra với bàn tay của…”
  • 15. “Bây giờ thầy không có đủ thì giờ để giải thích cho con,” cuh Dumbledore nói. “Đó là cả một câu chuyện gay cấn mà thầy muốn dành cho nó lượng thời gian xứng đáng hơn.” Cụ mỉm cười với Harry. Nó hiểu rằng cụ không muốn làm cho nó cụt hứng, và rằng nó được phép tiếp tục hỏi. “Thưa thầy… Con nhận được bằng bưu cú một tờ bướm của Bộ Pháp thuật, về những biện pháp an ninh mà tất cả chúng ta cần thực hiện để chống lại bọn Tử thần thực tử…” “Ừ, chính thầy cũng nhận được một bản,” cụ Dumbledore nói, vẫn mỉm cười. “Con có thấy tờ đó có ích gìkhông?” “Không ích gìmấy ạ.” “Thầy cũng nghĩlà không. Nãy giờ con đã không hỏi thầy, thídụ, mùi mứt nào thầy thích nhất, để kiểm tra coi thầy có đúng thật là giáo sư Dumbledore chứ không phải một kẻ giả danh đội lốt không.” “Con không…” Harry chỉ mới mở miệng, không hoàn toàn chắc là liệu có phải thầy đang rầy nó hay không. “Để dùng trong tương lai, Harry à, con nên biết đó là mùi mứt dâu đỏ… Mặc dù, dĩ nhiên, nếu thầy là một Tử thần thực tử thì thầy ắt sẽ phải nghiên cứu sở thích mùi mứt của chính thầy trước khi hóa thân thành chính thầy.” “Ơ… Đúng vậy,” Harry nói. “À, trong tờ bướm có nói cái gìđó về Âm binh. Chính xác là gìvậy thầy? Tờ bướm nói không rõ lắm.” “Chúng là những xác chết,” cụ Dumbledore bình tĩnh nói. “Những xác chết đó đã bị phù phép để làm theo lệnh của một phù thủy Hắc ám. Tuy nhiên, lâu lắm rồi chẳng ai nhìn thấy Âm binh đâu cả, kể từ khi Voldermort đầy quyền lực lần cuối… Hắn đã giết đủ người để thành lập cả một đội quân xác chết, tất nhiên. Chỗ này đây, Harry, ngay đây…” Hai thầy trò đang ở gần một ngôi nhà nhỏ xây bằng đá xinh xắn giữa một khu vườn riêng. Harry còn đang bận tiêu hóa cái khái niệm khủng khiếp về bọn Âm binh nên chẳng còn tâm trí đâu để ý đến cái gì khác, nhưng khi hai người đi tới gần cổng trước, cụ Dumbledore chợt đứng khựng lại khiến Harry đâm sầm vào cụ. “Ối, ôi thôi, ôi ôi…” Harry nhướng mắt theo cái nhìn chăm chú của Dumbledore vào lối đi nhỏ được chăm chút kỹ lưỡng phía trước nhà và cảm thấy trái tim nó chùng xuống. Cửa chính ngôi nhà đã bị bung khỏi bản lề. Cụ Dumbledore liếc nhìn từ đầu đường đến cuối đường. Con đường hoàn toàn vắng ngắt. Cụ khẽ nói: “Rút đũa phép ra và đi theo thầy, Harry.” Cụ mở cánh cổng và bước vừa nhanh vừa lặng lẽ trên lối đi nhỏ băng qua khu vườn, Harry bám sát gót thầy. Rồi cụ Dumbledore chầm chậm đẩy cánh cửa chính, cây đũa phép của cụ giơ cao và sẵn sàng. “Tỏa sáng.” Đầu cây đũa phép của cụ Dumbledore bùng lên ngọn lửa, soi ánh sáng của nó lên một hành lang hẹp. Một cánh cửa khác ở ngay bên trái để mở. Giơ cao cây đũa phép có đốm lửa, cụ Dumbledore đi vô phòng khách với Harry bám sát sau lưng. Mắt họ thấy một cảnh tan hoang hoàn toàn. Một cái đồng hồ cổ bể tanh banh nằm ngay dưới chân hai thầy trò, mặt đồng hồ rạn nứt, còn quả lắc bị văng ra nơi xa giống như một thanh kiếm rớt. Bên cạnh đó là một cây đàn dương cầm, phím của nó cũng bị văng ra sàn nhà. Mảnh vở của cây đèn chùm bị rớt nằm lấp lánh gần đó. Mấy cái gối nằm bẹp dí, lông nhồi gối phòi ra từ vết rạch; mảnh vụn của đồ sứ và thủy tinh bị nát như bột phủ lên mọi thứ. Cụ Dumbledore giơ cây đũa phép cao hơn nữa, để ánh sáng của nó rọi lên những bức tường, nơi có cái gì đó màu đỏ sậm và nhơn nhớt được trét lên giấy dán tường. Harry hít vô một hơi ngắn khiến cụ Dumbledore quay nhìn lại. Cụ nói một cách nặng nhọc: “Không đẹp lắm, hả?” Cụ di chuyển cẩn thận vô giữa phòng, chăm chú xem xét những mảnh vụn dưới chân. Harry đi theo, dáo dác nhìn quanh, có phần sợ sệt nhỡ đâu bắt gặp cái gìđó ẩn náu đằng sau đống tan nát của cây đàn dương cầm hay cái ghế sofa bị lật úp, nhưng chẳng có dấu vết của ai cả. “Thưa thầy, có lẽ đã có một trận quyết đấu và… và chúng đã lôi xác ông ấy đi.” Harry đưa ra giả thuyết, cố gắng không tưởng tượng rằng người đó ắt là bị thương nặng lắm mới để lại những vết máu văng tung tóe lên lưng chừng những bức tường. “Thầy không nghĩvậy,” cụ Dumbledore nói khẽ, chăm chú nhìn phía sau của một cái ghế bành nhồi quá căng nằm lăn một bên. “Thầy muốn nói là ông ấy…” “Vẫn còn ở đâu đây. Đúng vậy.” Và không hề báo trước, cụ Dumbledore thụp xuống, thọc cây đũa phép vào chỗ ngồi của cái ghế bành nhồi quá căng ấy. Cái ghế bèn kêu ré lên: “Ối!” “Chào anh, Horace,” cụ Dumbledore nói. Cụ đứng thẳng trở lại. Harry há hốc miệng. Ở chỗ trước đó nửa giây vốn là cái ghế bành thì giờ đây lại ngồi thu lu một ông già đầu hói cực kỳ mập mạp. Ông ta đang xoa xoa bụng và liếc xéo lên cụ Dumbledore bằng đôi mắt buồn phiền ươn ướt. “Đâu có cần phải thọc cây đũa phép mạnh dữ vậy. Đau chết đi.” Ánh sáng của cây đũa phép soi lấp lánh cái sọ bóng lưỡng và đôi mắt lồi, bộ ria hải mã vĩ đại, và bộ nút được đánh bóng ngời ngời của tấm áo khoác nhung mà ông ta mặc bên ngoài bộ đồ ngủ màu tím hồng. Đỉnh đầu ông chưa nhóng tới cằm cụ Dumbledore. “Cái gì làm lộ vậy ta?” Ông càu nhàu khi lảo đảo đứng lên, vẫn xoa xoa cái bụng phệ. Bị phát hiện ra đang giả dạng một cái ghế bành như vậy mà ông vẫn chẳng hề nao núng thìquả là đáng nể. “Anh Horace thân mến của tôi ơi,” cụ Dumbledore nói, có vẻ vui thích. “Nếu bọn Tử thần thực tử thực sự đến tìm anh, thì phía trên mái nhà phải xuất hiện Dấu hiệu Hắc ám chớ.” Vị phù thủy vỗ một bàn tay múp míp lên cái trán rộng. “Dấu hiệu Hắc ám,” ông lẩm bẩm. “Đã biết là có cái gì đó... ờ, đúng vậy. Đằng nào thì cũng không có thì giờ, tôi chỉ mới bày biện xong đám đồ đạc khi anh bước vô phòng.” Ông ta thở khìra một cái thiệt to khiến cho bộ ria run nhè nhẹ. “Anh có cần tôi dọn dẹp giúp giúp một tay không?” cụ Dumbledore lịch thiệp đề nghị. “Vâng, làm ơn,” ông ta đáp. Hai người đứng đâu lưng lại với nhau, một pháp sư gầy cao lêu nghêu và một pháp sư tròn quay lùn xủn, và cả hai cũng vẫy cây đũa phép của mình trong cùng một động tác quét y hệt nhau. Bàn ghế bay vèo vèo trở lại vị trí ban đầu của chúng. Chùm đèn trang trí lại treo lơ lửng trên không, lông nhồi gối chui hết trở vô gối, sách rách te tua tự lành lại khi bay lên kệ, đền dầu bay vút lên mặt bàn nhỏ và thắp sáng trở lại. Một đám khổng lồ những cái khung tranh bằng bạc bay vi vút ngang qua căn phòng và đáp xuống trên cái bàn làm việc, nguyên vẹn và không chút tì vết. Khắp nơi, những vết xước, vết nứt, những lỗ hổng đều tự bít lại, và những bức tường tự lau chùi sạch sẽ. “Nhân tiện xin hỏi, đó là loại máu gìvậy?” cụ Dumbledore hỏi to để át tiếng gõ boong boong của cái đồng hồ cổ vừa mới hết bể. “Trên tường hả? Rồng,” vị phù thủy tên là Horace hét lên, trong tiếng nghiến ken két và kêu leng keng của chùm đèn treo đang tự rút mình treo lên trần phòng. Một tiếng tưng cuối cùng vang ra từ cây đàn dương cầm, rồi im ắng. “ Ừ, rồng,” vị phù thủy lặp lại trong cơn hứng chuyện trò. “Chai cuối cùng của tôi, và giá cả lúc này thìcao tận trời. Dù vậy, có thể dùng lại được.” Ông chồm tới vớ một chai thủy tinh nhỏ để trên đầu tủ ly chén và giơ nó ra phía ánh sáng xem xét cái chất lỏng đậm đặc bên trong chai.
  • 16. “Hừm, hơi dơ.” Ông đặt cái chai trở lại đầu tủ và thở dài. Chính lúc đó cái nhìn chăm chú của ông rớt xuống Harry. “Ố ồ,” ông nói, con mắt tròn to của ông lượn lờ trên vầng trán của Harry và cái thẹo hình tia chớp của nó. “À há.” “Đây,” cụ Dumbledore nói, di chuyển tới trước để giới thiệu. “Đây là Harry Potter. Harry, đây là một người bạn và đồng nghiệp cũ của thầy, thầy Horace Slughorn.” Slughorn quay sang cụ Dumbledore, mặt ông nhăn lại. “Thế ra đây là cách anh tưởng sẽ thuyết phục được tôi à? Chà, câu trả lời là không, anhAlbus à.” Ông đẩy Harry qua một bên, ngoảnh mặt đi một cách cương quyết với cái vẻ của một người dang cố gắng kháng cự lại một ham muốn. “Thìít nhất chúng ta cũng có thể làm một ly. Để ôn kỷ niệm xa xưa,” cụ Dumbledore nói. Ông Slughorn ngập ngừng. “Thôi được, một ly vậy,” ông nói một cách miễn cưỡng. Cụ Dumbledore mỉm cười với Harry và dẫn nó đến một cái ghế, không giống cái mà ông Slughorn đã giả dạng, đặt ngay bên cạnh cái lò sưởi vừa được đốt lên và ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng rực rỡ. Harry ngồi xuống ghế với một cảm tưởng rõ rệt rằng cụ Dumbledore, vì lý do nào đó, muốn cho người ta phải luôn thấy nó rõ. Rõ ràng là ông Slughorn, lúc ấy đang bận bịu với bình cổ cong và ly pha lê, khi quay mặt lại căn phòng một lần nữa, thì ngay lập tức ánh mắt rớt trúng phải Harry. “Hừm,” ông nói, nhìn thiệt lẹ sang hướng khác như thể sợ làm đau mắt mình. “Đây...” ông đưa ly rượu cho cụ Dumbledore, cụ đã ngồi xuống mà không cần mời mọc, đoạn ông đẩy cái khay về phía Harry, rồi ngồi lọt thỏm vô đống gối trên cái ghế sofa đã được sửa sang, và rồi một sự im lặng khó chịu lan ra. Chân của ông ngắn quá nên không chạm tới sàn. “Sao, dạo này sức khỏe ra sao, anh Horace?” “Không khá lắm,” ông Horace đáp ngay. “Phổi yếu. Khò khè. Thấp khớp nữa. Không thể đi đứng như trước đây. Ôi, tất phải vậy thôi. Già rồi. Mệt mỏi.” “Thế nhưng mà anh ắt là di chuyển khá lẹ mới chuẩn bị được một cuộc đón tiếp chúng tôi ngoạn mục như vầy, với thời gian báo trước quá ngắn đó chớ,” cụ Dumbledore nói. “Anh đâu có được báo trước nhiều hơn ba phút đâu nhỉ?” Ông Slughorn nói, nửa quạo quọ nửa tự hào: “Hai. Không nghe cái bùa Đột nhập của tôi báo động, tại đang tắm. Dù vậy,” ông nghiêm trang nói thêm, dường như đang cố gắng lấy lại thế tự chủ, “cái sự thật vẫn sờ sờ ra đó, tôi là một ông già, anhAlbus à. Một ông già về hưu xứng đáng có được một đời sống yên tĩnh và chút ít rượu ngon.” Ông chắc chắn là đang có những thứ đó, Harry vừa nghĩ, vừa nhìn chung quanh căn phòng. Căn phòng ngột ngạt và lộn xộn, nhưng đừng ai nói là nó không tiện nghi thoải mái; có ghế nệm êm và ghế gác chân, có rượu và sách, mấy hộp sôcôla và mấy cái gối phồng xốp. Nếu Harry không biết ai sống ở đây, nó sẽ tưởng chủ nhân là một bà già giàu có và kiểu cọ. “Anh đâu đã già bằng tôi, anh Horace?” cụ Dumbledore nói. “Ừ, có lẽ chính anh cũng nên nghĩđến chuyện về hưu đi,” ông Slughorn huỵch tẹt. Hai con mắt xanh nhạt màu trái chùm ruột của ông đã nhìn thấy bàn tay bị thương của cụ Dumbledore. “Phản xạ không còn như xưa nữa, tôi hiểu.” “Anh hoàn toàn đúng,” cụ Dumbledore nói một cách bình thản, hất ống tay áo ngược lên để lộ đầu những ngón tay bị phỏng và thâm đen; cảnh tượng này làm Harry nổi gai ốc một cách khổ sở. “Tôi chắc chắn chậm hơn xưa. Nhưng mặc khác...” Cụ nhún vai và xòe bàn tay rộng ra, như thể muốn nói rằng tuổi tác cũng có sự đền bù, và Harry nhận thấy một chiếc nhẫn đeo trên bàn tay không bị thương của cụ mà nó chưa từng thấy cụ đeo trước đây: chiếc nhẫn đó to, hơi thô, làm bằng một thứ có lẽ là vàng, và được nạm bằng một viên đá đen đã bị nứt xuống ở chính giữa. Đôi mắt của ông Slughorn cũng ve vãn chiếc nhẫn một lát, và Harry nhìn thấy một tícau mày thoáng qua làm nhăn vầng trán rộng của ông. “Vậy, tất cả những sự đề phòng chống đột nhập này, anh Horace à... chúng nhằm chống lại bọn Tử thần thực tử, hay là tôi?” cụ Dumbledore hỏi. “Bọn Tử thần thực tử thìcần gìở một cái gối đệm cũ te tua tội nghiệp như tôi?” ông Slughorn hỏi vặn lại. “Tôi cho rằng chúng muốn anh biến những tài năng đáng kể của mình thành áp bức, tra tấn, và ám sát.” Cụ Dumbledore nói. “Chẳng lẽ anh đang nói với tôi rằng chúng chưa tìm đến anh để chiêu dụ sao?” Ông Slughorn nhìn cụ Dumbledore một cách độc địa trong một lát, rồi làu bàu: “Tôi chưa tạo cho chúng cơ hội nào. Tôi đã di chuyển liên tục trong suốt một năm qua. Không bao giờ ở một nơi nào lâu hơn một tuần lễ. Cứ dọn hết từ nhà dân Muggle này sang nhà dân Muggle khác... Chủ nhân ngôi nhà này đang đi nghỉ ở quần đảo Canary – thiệt là thoải mái dễ chịu, thiệt là tiếc khi phải ra đi. Một khi mình biết cách rồi thì cũng dễ thôi, chỉ cần một lá bùa Đông cứng dán lên mấy cái còi báo động chống trộm ngớ ngẩn mà họ dùng thay vì mấy cái Kính Mách lẻo và liệu sao cho bà con lối xóm không dò ra chuyện mình khuân vô một cây đàn dương cầm.” “Tài tình thật,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng tồn tại kiểu đó nghe cũng hơi mệt đối với một cái gối đệm cũ te tua muốn tìm một cuộc sống yên tĩnh. Này nhé, nếu anh chịu trở về trường Hogwarts...” “Nếu anh định nói với tôi là cuộc sống của tôi sẽ bình yên hơn ở cái trường thổ tả đó, thì anh nên để dành hơi, anhAlbus à! Rất có thể là tôi sống ẩn dật lâu nay, nhưng mấy chuyện đồn đại khôi hài vẫn lọt vào tai tôi kể từ khi bà Dolores Umbridge ra đi! Nếu đó là cách anh đối xử với giáo viên vào những ngày này...” “Giáo sư Umbridge đã húc vô một đàn nhân mã,” cụ Dumbledore nói. “Tôi nghĩ anh, anh Horace à, anh chắc phải biết điều hơn khi rảo bước vô rừng và gọi một đám nhân mã đang cơn giận là nhân mã đồ lai căng bẩn thỉu’.” “Bà ta đã nói vậy hả?” Ông Slughorn nói. “Mụ này ngu thiệt. Chưa bao giờ ưa được.” Harry chắt lưỡi và cả cụ Dumbledore lẫn ông Slughorn đều quay lại nhìn nó. Harry vội vã phân bua: “Con xin lỗi. Chẳng qua… Con cũng chẳng ưa gìbà ấy.” Cụ Dumbledore đột ngột đứng dậy. “Anh đi hả?” ông Slughorn hỏi ngay tức thì, vẻ hớn hở đầy hy vọng. “Không, tôi đang thắc mắc là tôi có thể dùng nhà vệ sinh của anh không?” cụ Dumbledore nói. “Ồ,” ông Slughorn nói, rõ ràng là thất vọng. “Đi xuống hành lang, cửa thứ hai, bên trái.” Cụ Dumbledore rảo bước ra khỏi phòng. Khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng, chỉ còn lại sự im lặng. Một lát sau, ông Slughorn đứng dậy nhưng dường như không biết chắc là mình định làm gì. Ông lén ngó Harry một cái, rồi đi tới bên lò sưởi và quay lưng lại để sưởi ấm tấm lưng rộng thênh thang của mình. Bỗng nhiên ông nói: “Đừng tưởng là tôi không biết tại sao lão dắt theo cậu tới đây.” Harry chỉ ngước nhìn ông Slughorn. Đôi mắt ươn ướt của ông lướt qua cái thẹo trên trán của Harry, lần này nhìn luôn cả gương mặt nó. “Cậu trông rất giống cha cậu.” “Dạ, con có nghe nói vậy,” Harry đáp. “Ngoại trừ đôi mắt, cậu thừa hưởng đôi mắt của…” “Mẹ con. Dạ, đúng vậy.” Harry đã nghe nhận xét đó thường xuyên đến nỗi nó phát mệt. “Hừm. Ừ, phải. Với tư cách thầy giáo, mình không nên có học trò cưng, dĩ nhiên rồi, nhưng con bé ấy là một trong những học trò cưng của tôi. Mẹ cáu ấy
  • 17. mà.” Ông Slughorn nói thêm, để đáp lại cái nhìn thắc mắc của Harry. “Lily Evans. Một trong những học sinh thông tuệ nhất mà tôi từng dạy. Lanh lợi, cậu biết đấy. Một nữ sinh duyên dáng. Tôi thường nói với trò ấy là đáng ra trò ấy phải thuộc về Nhà của tôi. Tôi cũng thường nhận được những câu trả lời rất táo tợn.” “Thầy thuộc nhà nào ạ?” “Tôi là giáo viên chủ nhiệm Nhà Slytherin,” ông Slughorn đáp. “Ôi thôi,” ông nói tiếp rất nhanh, do thấy cảm xúc hiện lên mặt Harry; ông ngoe nguẩy một ngón tay múp míp trước mặt nó. “Đừng cớ trách tôi về chuyện đó! Tôi đoán là cậu cũng thuộc nhà Gryffindor như mẹ cậu chứ gì? Ừ, thường là theo gia đình. Mặc dù không phải lúc nào cũng thế. Có nghe nói đến Sirius Black không? Ắt hẳn là cậu có nghe – đăng báo đầy ra đấy trong suốt hai năm qua – Chết cách đây vài tuần lễ.” Như thể có một bàn tay vô hình đang vặn ngoéo ruột gan Harry và bóp chặt lại. “Thôi, dù sao đi nữa hắn cũng là một người bạn lớn của cha cậu. Toàn bộ dòng họ Black đều vô Nhà của tôi, nhưng Sirius lại lọt vô Nhà Gryffindor, thật là xấu hổ. Hắn là một học sinh tài giỏi. Tôi thìđược người em của hắn, Regulus, khi cậu ấy xuất hiện, nhưng tôi vẫn khoái có cả bộ.” Ông nói như thể một nhà sưu tập máu me vừa mua hụt món cổ ngoạn ở một cuộc bán đấu giá. Rõ ràng là bị chìm đắm trong ký ức, ông đăm đăm nhìn bức tường đối diện, lười nhác xoay qua xoay lại tại chỗ cho đến khi bảo đảm hơi nóng phả đều lên cả tấm lưng. “Mẹ của cậu là một phù thủy gốc Muggle, dĩnhiên. Không thể tin nổi lúc phát hiện điều đó. Tưởng trò ấy phải thuộc dòng thuần huyết, trò ấy giỏi quá mà.” “Một trong những người bạn thân nhất của con cũng có gốc Muggle,” Harry nói. “Và bạn ấy là học sinh giỏi nhất trong lứa tụi con.” “Thỉnh thoảng xảy ra chuyện như vậy, thiệt là khôi hài hả?” ông Slughorn nói. “Không hẳn,” Harry lạnh lùng đáp. Ông Slughorn ngó xuống nó ngạc nhiên. “Cậu chớ có nghĩ rằng tôi thành kiến. Không, không, không! Chẳng phải tôi vừa nói mẹ của cậu là một trong những học trò cưng muôn thuở của tôi đó sao? Rồi nào là Dirk Cresswell trong lứa sau mẹ cậu một năm – bây giờ là Giám đốc đầu ngành Sở Liên lạc Yêu tinh, tất nhiên – một trò nữa cũng gốc Muggle, một học sinh xuất sắc, và vẫn còn cho tôi những thông tin nội bộ tuyệt vời về hiện tình ở Gringotts!” Ông Slughorn hơi nhún lên nhún xuống một tí, mỉm cười kiểu tự mãn nguyện, và chỉ vào vô số khung hình lấp lánh trên đầu tủ ngăn kéo, trong mỗi khung có hình một người tíhon đang nhúc nhích. “Tất cả cựu học sinh, đều có chữ ký. Cậu sẽ nhận thấy có Barnabas Cuffe, chủ bút tờ Nhật báo Tiên Tri, trò ấy luôn khoái nghe tôi bình luận tin tức trong ngày. Và Ambrosius Flume, tiệm Công tước Mật – cả thùng mỗi lần sinh nhật, và tất cả chỉ vì tôi đã giới thiệu hắn với Ciceron Harrykiss, người đã cho hắn công việc đầu tiên. Và ở hàng sau – cậu có thể thấy nếu cậu chịu khó nhóng cổ lên – đó là Gwenog Jones, đương nhiên là người cầm đầu tập đoàn Holyhead Harrypies... Người ta cứ luôn ngạc nhiên khi nghe tôi nằm trong danh sách khách hàng thân thiết của Harrypies, và vé miễn phí bất cứ khi nào tôi muốn!” Ýtưởng này dường như khiến ông Slughorn phấn khởi hẳn lên. “Và tất cả những người này đều biết thầy ở đâu mà tìm, mà gởi đồ cho thầy à?” Harry hỏi, nó vẫn không thể không thắc mắc tại sao bọn Tử thần thực tử vẫn còn chưa dò ra tông tích của ông Slughorn khi mà những thùng kẹo, vé coi Quidditch, và những người đến xin lời khuyên hay ý kiến đều có thể kiếm ra thầy. Nụ cười tuột khỏi gương mặt ông Slughorn nhanh y như vết máu biến mất khỏi bức tường. “Dĩnhiên là không,” ông đáp, ngó ngó xuống Harry. “Tôi đâu có tiếp xúc với bất kỳ ai trong suốt một năm qua.” Harry có một ấn tượng là những lời nói đó khiến chính ông Slughorn cũng giật mình. Ông có vẻ bồn chồn một lúc. Rồi ông nhún vai. “Tuy nhiên... pháp sư khôn ngoan đều nhẫn nhục trong những lúc như thế. Dumbledore nói cái gì thì cũng tốt cả, nhưng nhận một vị trí ở trường Hogwarts lúc này thì cũng cầm như tuyên bố tôi đồng minh công khai với Hội Phượng hoàng! Tôi thì vẫn tin chắc họ là những người dũng cảm và đáng ngưỡng mộ và đủ thứ tốt vân vân, nhưng tôi, với tư cách cá nhân, tôi không tưởng tượng nổi tỉ lệ tử vong...” “Thầy đâu cần phải gia nhập Hội mới được dạy ở trường Hogwarts,” Harry nói. Nó không thể hoàn toàn giữ cho giọng nói của nó đừng lộ ra sự chế giễu. Thật khó mà thông cảm với cách sống bo bo giữ miếng của ông Slughorn khi nó nhớ đến chú Sirius lúc đó thu mình trong một cái hang và sống bằng những con chuột. “Phần lớn các giáo sư đâu có ở trong Hội, và chẳng có ai bị giết cả - À, trừ khi thầy tính đến Quirrel, nhưng đáng đời ông ta vì ông ta làm tay sai cho Voldermort.” Harry đã biết chắc ông Slughorn là một trong những phù thủy không thể chịu đựng nổi khi nghe tên của Voldermort được nói to lên, và nó đã không thất vọng: ông Slughorn rùng mình và kêu oai oái phản đối, nhưng Harry cứ giả nai. Nó tiếp tục nói: “Con cho rằng khi cụ Dumbledore là hiệu trưởng thì giáo ban được an toàn hơn so với hầu hết những người khác. Cụ được coi là người duy nhất mà Voldermort sợ, đúng không ạ?” Ông Slughorn nhìn đăm đăm vào khỏang không một lúc: dường như ông đang ngẫm nghĩvề những lời Harry vừa nói. “Ừ, phải, đúng là Kẻ-chớ-gọi-tên-ra chưa bao giờ tìm cách đánh nhau với Dumbledore,” ông làu bàu với vẻ miễn cưỡng. “Và tôi cho rằng người ta có thể lập luận rằng bởi vì tôi không gia nhập bọn Tử thần thực tử, thì Kẻ-chớ-gọi-tên-ra đời nào coi tôi như một người bạn... Trong trường hợp đó nếu tôi gần gũi anh Albus hơn thì có thể an toàn hơn... Tôi không thể giả bộ như cái chết của Amelia Bones không làm tôi rúng động... Nếu cô ấy, có tất cả những quan hệ và sự bỏa vệ ở Bộ Pháp thuật thế, mà còn...” Cụ Dumbledore quay trở lại căn phòng và ông Slughorn nhảy dựng lên như thể ông quên mất có cụ trong nhà. Ông nói: “A, đây rồi, anhAlbus.Anh ở trong ấy lâu dữ à, bị đau bụng hả?” “Không, tôi chỉ đọc mấy tờ tạp chí Muggle,” cụ Dumbledore nói. “Tôi quả thực khoái những mẫu đan. Thôi, Harry, chúng ta lợi dụng lòng hiếu khách của anh Horace đủ lâu rồi; thầy nghĩđã đến lúc chúng ta phải ra đi thôi.” Harry đứng phắt dậy, chẳng cần miễn cưỡng vâng lời chút nào. Ông Slughorn dường như bị dội. “Anh đi à?” “Ừ, đi thật. Tôi nghĩcó gặp thìmới hiểu thế nào là một sự nghiệp tiêu tùng.” “Tiêu tùng...?” Ông Slughorn dường như bị kích động. Ông xoay xoay hai ngón tay cái mập mạp và bồn chồn bứt rứt khi nhìn cụ Dumbledore thắt chặt tấm áo choàng đi đường, và Harry kéo dây khóa cái áo gió của nó. “Thôi vậy, tôi rất tiếc là anh đã không nhận công việc, anh Horace à,” cụ Dumbledore nói. Cụ giơ bàn tay không bị thương ra để chào giã biệt. “Trường Hogwarts sẽ rất vui mừng đón anh trở lại. Mặc dù an ninh của chúng tôi phải tăng cường ghê gớm, chúng tôi vẫn sẽ luôn rộng cửa đón tiếp anh, nếu anh muốn đến thăm trường.” “Vâng... ừ... rất tử tế... như tôi nói...” “Vậy thì, tạm biệt nhé.” “Chào thầy,” Harry nói. Hai thầy trò vừa đi tới cửa chính thìnghe một tiếng hét đằng sau lưng họ. “Được rồi! Được rồi! Tôi sẽ nhận!” Cụ Dumbledore quay lại thấy ông Slughorn đứng nín thở trong hành lang từ phòng khách ra cửa chính.
  • 18. “Anh sẽ không nghỉ hưu nữa?” “Ừ, ừ,” ông Slughorn nôn nóng. “Chắc là tôi điên rồi, nhưng mà, ừ.” “Tuyệt vời!” Cụ Dumbledore tươi cười, nói. “Vậy thìanh Horace à, chúng tôi sẽ đón anh vào ngày một tháng chín.” “Ừ, tôi dám nói là các anh sẽ gặp tôi vào tháng chín,” ông Slughorn lẩm bẩm. Khi hai thầy trò đi xuống con đường nhỏ băng qua vườn, giọng nói của ông Slughorn vẫn còn đuổi theo họ. “Anh Dumbledore, tôi muốn được lên lương!” Cụ Dumbledore cười hì hì. Cổng khu vườn đóng lại sau lưng hai thầy trò, và họ bắt đầu đi ngược xuống đồi xuyên qua bóng tối và làn sương mù xoắn đặc. “Giỏi lắm, Harry,” cụ Dumbledore nói. “Con đâu có làm gìđâu?” Harry ngạc nhiên nói. “Ồ, có chứ. Con đã chỉ ra cho thầy Horace chính xác bao nhiêu lợi lộc thầy ấy đạt được khi trở lại trường Hogwarts. Con có thích thầy Horace không?” “Ơ...” Harry không biết chắc là liệu nó có thích thầy Slughorn hay không. Nó cho rằng thầy dễ chịu theo cách của thầy, nhưng thầy cũng có vẻ hời hợt, và cho dù thầy có nói ngược lại đi chăng nữa, thìcó vẻ cái việc một người gốc Muggle trở nên một phù thủy xịn đối với thầy vẫn là quá bất ngờ. Để giải tỏa cho Harry cái trách nhiệm nói ra bất cứ điều nào trong suy nghĩcủa nó, cụ Dumbledore nói: “Thầy Horace thích sự an nhàn của thầy ấy. Thầy ấy cũng thích bầu bạn với những người nổi tiếng, người thành công và có quyền lực. Thầy ấy khoái cái cảm giác rằng mình có ảnh hưởng với những người ấy. Thầy ấy chẳng bao giờ muốn tự mình lên ngôi; thầy ấy thích ngồi ghế sau hơn – rộng chỗ duỗi chân tay, con hiểu chứ. Trước đây thầy ấy thường tuyển chọn học trò cưng ở trường Hogwarts, đôi khi dựa theo tham vọng hay trí tuệ của chúng, đôi khi dựa theo sự duyên dáng hay tài năng của chúng, và thầy ấy có cái sở trường kỳ lạ chọn được những người về sau tiếp tục trở nên xuất chúng trong nhiều lĩnh vự khác nhau. Thầy Horace lập ra một loại câu lạc bộ của những học trò cưng với cái trung tâm là chính thầy ấy, để giới thiệu, tạo ra những giao lưu hữu ích giữa các thành viên, và để đổi lại thầy ấy luôn luôn thu hái được lợi lộc gì đó, hoặc là một hộp mứt khóm khoái khẩu miễn phí, hoặc là một cơ hội để tiến cử nhân viên trẻ cho Sở Liên lạc Yêu tinh.” Harry chợt thấy rõ ràng trong đầu hình ảnh một con nhện mập căng khổng lồ, dệt cái mạng chung quanh nó, giăng đây một sợi tơ, kia một sợi tơ, để dụ mấy con ruồi to và mập đến gần hơn. “Thầy nói với con tất cả những điều này không phải để con chống lại thầy Horace – hay giáo sư Slughorn,” cụ Dumbledore tiếp tục nói. “Bây giờ chúng ta phải gọi ông ấy như vậy –nhưng là để cho con tự cảnh giác. Chắc chắn thầy ấy sẽ cố gắng tuyển chọn con, Harry à. Con sẽ là châu báu trong bộ sưu tập của thầy ấy; ’Đứa trẻ sống sót’... hay như danh hiệu mà họ gán cho con lúc này, ’Kẻ được chọn’.” Cùng lúc với những lời này, một cơn lạnh thấu không ăn nhập gì với làn sương mù chung quanh lẻn luồn vô người Harry. Những lời đó gợi nó nhớ tới những lời mà nó đã nghe cách đây vài tuần lễ - những lời mang ý nghĩa đặc biệt và khủng khiếp đối với nó. Không thể nào trong cả hai có thể sống khi mà kẻ kia tiếp tục tồn tại... Cụ Dumbledore đã dường bước ngang chỗ ngôi nhà thờ mà họ đã đi quan trước đây. “Sẽ ổn thôi, Harry. Nếu con bám chặt cánh tay thầy.”sức phen này, Harry đã sẵn sàng cho cuộc độn thổ, nhưng vẫn còn thấy khó chịu. Khi áp lực biến mất và thấy mình đã thở lại được rồi, thì nó nhận ra mình đang đứng bên cạnh cụ Dumbledore trên một con đường quê và nhóng nhìn tới trước về phía cái bóng ngoằn ngoèo của tòa nhà yêu dấu thứ hai của nó trên thế giới này: trang trại Hang Sóc. Bất chấp cái cảm giác kinh hoàng vừa quét qua người nó, tinh thần của nó không thể nào không phấn chấn lên khi nhìn thấy ngôi nhà. Ron ở trong đó... Bà Weasley cũng ở trong đó, bà là người nấu ăn ngon hơn bất cứ người nào mà nó biết... “Nếu con không phiền, Harry à...” cụ Dumbledore nói khi hai thầy trò đi ngang qua cánh cổng, “thì thầy muốn nói vài lời với con trước khi chia tay. Bí mật. Có lẽ nên nói ở đây?” Cụ Dumbledore chỉ về phía một ngôi nhà phụ xây bằng đá đã xiêu vẹo là nơi mà gia đình Weasley để cán chổi. Hơi bối rối, Harry đi theo cụ Dumbledore qua cánh cửa kêu cọt kẹt để vào một chỗ còn nhỏ hơn cái tủ chén cỡ trung bình một tí. Cụ Dumbledore thắp cây đũa phép của cụ để nó sáng lên như cây đuốc, và mỉm cười với Harry. “Thầy hy vọng con sẽ tha lỗi cho thầy về việc lại nhắc tới chuyện đó, Harry, nhưng thầy hài lòng và hơi tự hào là con dường như đương đầu khá tốt sau mọi chuyện xảy ra ở Bộ. Cho phép thầy nói rằng thầy nghĩchú Sirius sẽ tự hào về con.” Harry nuốt nước miếng, tiếng nói dường như đã bỏ rơi nó. Nó không nghĩ là nó có thể chịu đựng nổi chuyện trò về chú Sirius; nghe cái câu dượng Vernon nói “cha đỡ đầu nó chết rồi hả?” đã đủ đau đớn rồi, và nghe tên chú Sirius bị thầy Slughorn phun ra một cách tùy tiện còn đau tệ hơn nữa. Cụ Dumbledore nói một cách dịu dàng: “Thật là tàn nhẫn khi mà con và chú Sirius chỉ ở bên nhau một thời gian ngắn. Một kết thúc tàn khốc của một điều đáng ra phải là một quan hệ hạnh phúc và lâu dài.” Harry gật đầu, mắt nó nhìn trân trân con nhền nhện lúc này đang bò lên mũ của cụ Dumbledore. Nó có thể nói rằng cụ Dumbledore đã hiểu, rằng cụ có thể không tin, nhưng mãi cho đến khi lá thư của cụ được gởi đến, thì Harry đã dành gần như tất cả thời gian ở nhà Dursley để nằm dài trên giường, không buồn ăn và chỉ đăm đăm nhìn vào khung cửa sổ mờ sương, đầy nỗi trống trải lạnh giá mà nó đã phải trải qua khi tiếp cận bọn giám ngục. Cuối cùng Harry nói, giọng chùng xuống: “Thật khó mà tin được là chú ấy sẽ không viết thư cho con nữa.” Mắt nó chợt nóng rát và nó chớp chớp mắt. Nó cảm thấy ngu ngốc khi phải thừa nhận điều đó, nhưng quả thật rằng chuyện còn có ai đó bên ngoài trường Hogwarts quan tâm đến những gì xảy ra cho nó, gần như một bậc cha mẹ quan tâm tới con, đã từng là điều đẹp đẽ nhất trong chuyện nó phát hiện ra người cha đỡ đầu của mình... Vậy mà giờ đây bọn bưu cú sẽ chẳng bao giờ còn mang đến cho nó niềm an ủi đó nữa... “Chú Sirius đã đại diện cho nhiều thứ mà trước đó con chưa từng biết đến,” cụ Dumbledore nói dịu dàng. “Đương nhiên, sự mất mát đó quá là tan nát...” “Nhưng khi con ở nhà Dursley...” Harry ngắt lời cụ Dumbledore, giọng nó trở nên mạnh mẽ hơn. “Con đã hiểu rằng con không thể tự cô lập mình hay... hay sụp đổ. Chú Sirius đâu có muốn con như vậy, phải không? Và dù sao đi nữa, cuộc sống quá ngắn ngủi... Hãy nghĩ tới Bà Bones, nghĩ tới bà Emmeline Vance... Có thể con là người tiếp theo, biết đâu? Nhưng nếu có là thế,” Harry nói năng quyết liệt, bây giờ nó đã nhìn thẳng vào đôi mắt xanh lấp lánh ánh đuốc của cụ Dumbledore, “con chắc chắn sẽ đem theo thật nhiều Tử thần thực tử chết cùng, kể cả Voldermort nếu con thanh toán nổi.” “Nói năng vừa giống con trai của cha mẹ con vừa là con trai đỡ đầu thực sự của chú Sirius!” cụ Dumbledore vừa nói, vừa vỗ nhè nhẹ lên lưng Harry tán thành. “Thầy phải ngả mũ trước con... Hay đúng ra là thầy sẽ ngả mũ rồi, nếu thầy không sợ gởi cho con con nhền nhện. Và bây giờ Harry à, về một đề tài rất gần gũi đây... Thầy tình cờ biết là con đặt mua Nhật báo Tiên Tri trong hai tuần lễ vừa qua?” “Dạ,” Harry nói, tim nó đập nhanh hơn. “Vậy thìcon có nhận thấy là có nhiều rò rỉ tùm lum về cuộc phiêu lưu của con trong Sảnh đường Tiên Tri chứ?” “Dạ,” Harry lại nói. “Và bây giờ mọi người đều biết con là kẻ...” “Không, họ không biết,” cụ Dumbledore ngắt lời. “Chỉ có hai người trên cả thế giới này biết nội dung đầy đủ của lời tiên tri được phán về con và chúa tể Voldermort, và cả hai người đó đang đứng trong căn chòi để chổi hôi hám đầy bụi bám nhện giăng này. Tuy nhiên, đúng là nhiều người đã đoán, chính xác là Voldermort đã phái bọn Tử thần thực tử của hắn đi đánh cắp lời tiên tri, và lời tiên tri có liên quan đến con. Bây giờ, thầy nghĩ là thầy đúng nếu nói rằng con chưa kể cho bất cứ ai chuyện con biết lời tiên tri đó nói gìchứ?”
  • 19. “Vâng,” Harry đáp. “Một quyết định khôn ngoan, về mọi mặt,” cụ Dumbledore nói. “Mặc dù thầy nghĩ con nên thoải mái tâm sự với bạn bè thân thiết của con như Ron Weasley và cô Hermione Granger. Ừ...” Cụ tiếp tục nói khi thấy Harry tỏ vẻ sửng sốt. “Thầy nghĩ họ cũng nên biết. Nếu con mà không giải bày với họ một điều quan trọng như vầy thìcầm như chơi khăm họ.” “Con không muốn...” “...làm họ lo lắng hay sợ hãi hả?” Cụ Dumbledore nói. Cụ đưa mắt nhìn qua bên trên cặp kính nửa vầng trăng để dò xét gương mặt Harry. “Hay cũng có thể, con không muốn thú nhận là chính con cũng lo lắng và sợ hãi? Con cần bạn bè, Harry à. Như con đã nói rất đúng, chú Sirius đâu có muốn con tự cô lập mình.” Harry không nói gì, nhưng cụ Dumbledore không có vẻ đòi hỏi câu trả lời. Cụ nói tiếp: “Về một đề tài khác, mặc dù cũng có liên quan, ấy là thầy muốn niên học sắp tới con sẽ theo học một lớp riêng với thầy.” “Lớp riêng... với thầy?” Harry nói, ngạc nhiên đến buột miệng, phá vỡ sự im lặng nãy giờ của mình. “Ừ, thầy nghĩđã đến lúc thầy cần can thiệp nhiều hơn vào việc giáo dục con.” “Thưa thầy, thầy tính sẽ dạy con môn gì?” “À, một chút môn này, một chút môn kia,” cụ Dumbledore ung dung nói. Harry chờ đợi trong hy vọng tràn trề, nhưng cụ Dumbledore không nói tỉ mỉ, nên nó bèn hỏi về một chuyện khác đã từng khiến nó hơi điêu đứng. “Nếu con theo học lớp riêng với thầy, con sẽ được miễn học Bế Quan bíthuật với ông Snape, phải không ạ?” “Giáo sư Snape, Harry à... Ừ, khỏi. Con được miễn.” Harry thở phào. “Hay quá. Bởi vìmấy buổi học đó...” Nó ngừng lại, cẩn thận không nói ra những gìnó nghĩ. “Thầy nghĩtừ ’hỏng bét’ là một từ hay đáng dùng trong trường hợp này,” cụ Dumbledore gật đầu nói. Harry bật cười. “Hay quá. Vậy nghĩa là từ nay con sé không phải gặp giáo sư Snape thường xuyên nữa,” nó nói. “Bởi vìthầy ấy sẽ không cho con theo học lớp Độc dược trừ khi con đạt điểm Xuất sắc trong kỳ thi Pháp thuật Thường đẳng (O.W.L.), mà con biết là con sẽ không đạt nổi.” “Đừng có đếm cú trước khi chúng được giao,” cụ Dumbledore nghiêm trang nói. “À, nhân nói chuyện này, kết quả thi sẽ được cú đưa đến trong ngày hôm nay. Bây giờ còn hai chuyện nữa trước khi chúng ta chia tay, Harry à. Thứ nhất, thầy muốn từ bây giờ trở đi con luôn luôn giữ bên mình tấm Áo khoác tàng hình. Ngay cả khi con ở trong trường Hogwarts. Để đề phòng thôi, con có hiểu ý thầy không?” Harry gật đầu. “Và sau cũng, trong thời gian con ở đây, trang trại Hang Sóc được canh phòng an ninh ở mức cao nhất mà Bộ Pháp thuật có thể bố trí. Những biện pháp an ninh này chắc chắn gây ra rất nhiều phiền phức cho ông Arthur và bà Molly – thí dụ, tất cả bưu kiện của họ đều bị đưa về Bộ kiểm tra trước khi được gởi đi. Họ chẳng hề lấy làm phiền chút xíu nào hết, bởi vì mối quan tâm duy nhất của họ là sự an toàn của con. Tuy nhiên, nếu trong thời gian con ở đây với họ mà con làm điều gìliều lĩnh, thìđó sẽ là một sự đền đáp tệ bạc.” “Con hiểu,” Harry nói nhanh. “Vậy thì, tốt lắm,” cụ Dumbledore vừa nói, vừa đẩy cửa cái nhà để chổi và bước ra sân. “Thầy thấy có ánh đèn trong nhà bếp. Chúng ta không nên trìhoãn lâu hơn cái cơ hội ca cẩm của bà Molly về cái sự ốm nhom ốm nhách của con.” Chương 5 Hơi bị nhớt Harry và cụ Dumbledore tiến đến gần cửa sau của Hang Sóc, chung quanh vương vãi những thứ đồ vứt đi thân quen như ủng cũ và vạc rỉ; Từ đây Harry có thể nghe tiếng những con gà mái ngái ngủ cục cục vọng lại từ chuồng gà ở xa xa. Cụ Dumbledore gõ cửa ba lần và Harry thấy có một chuyển động thình lình bên trong cửa sổ nhà bếp. Một giọng lo lắng vang lên mà Harry nhận ra ngay là giọng của bà Weasley: “Ai đó? Hãy tự danh.” “Tôi đây, Dumbledore, đem Harry đến.” Cửa mở ra tức thì. Và đứng nagy cửa là bà Weasley, thấp người, phúng phính, và mặc một cái áo ngủ màu xanh lá đã cũ. “Ôi, Harry cưng! Phước đức quá, cụAlbus, cụ làm tôi hơi hoảng, cụ nói đừng có trông cụ cho tới trước khi trời sáng mà!” “Tại chúng tôi hên,” cụ Dumbledore nói, đẩy Harry bước qua ngưỡng cửa. “Thầy Slughorn tỏ ra dễ dụ khi hơn là tôi tưởng. Dĩ nhiên là chính Harry làm được việc ấy.A, chào cô Nymphadora!” Harry ngó quanh và nhận thấy bà Weasley không ở một mình trong bếp, mặc dù vào cái giờ khuya khoắt này. Một phù thủy trẻ có gương mặt hình trái tim nhợt nhạt và một mái tóc nâu xù đang ngồi bên cạnh bàn, ấp một cái tách bự giữa hai bàn tay. Cô ta nói: “Chào giáo sư. Khỏe hả Harry!” “Chào cô Tonks.” Harry nghĩ cô Tonks trông có vẻ u sầu, thậm chí bệnh, và có gì đó gượng gạo trong nụ cười của cô. Chắc chắn là bề ngoài của cô kém màu mè hơn bình thường khi cô không trang điểm bằng cái tán quen thuộc của mái tóc màu hồng kẹo bong bóng. “Tôi phải đi thôi,” cô nói vội, vừa khoác tấm áo choàng quanh vai. “Bà Molly, cám ơn bà đã mời trà và thông cảm.” “Xin đừng ra đi chỉ vì tôi đến đấy,” cụ Dumbledore khách sáo nói. “Tôi không thể ở lại lâu đâu, tôi còn vài vấn đề khẩn cấp cần bàn bạc với ông Rufus Scrimgeour.” “Không, không. Tôi cần phải đi mà,” cô Tonks nói, tránh nhìn vào mắt cụ Dumbledore. “Ngủ ngon!” “Này cưng, sao không ghé ăn cơm tối vào cuối tuần, cả Remus và Mắt-điên cũng tới…?” “Không, thực tình là không thể, bà Molly à… Dù sao cũng cám ơn bà… Chúc tất cả ngủ ngon nhé.” Cô Tonks bước vội ngang qua cụ Dumbledore và Harry để đi ra sân, cách ngưỡng cửa vài bước, cô đứng quay tại chỗ và biến mất vào không trung. Harry nhận thấy bà Weasley có vẻ phiền muộn. “Thôi, thầy sẽ gặp lại con ở trường Hogwarts, Harry!” cụ Dumbledore nói. “Bảo trọng. Thưa bà Molly, kẻ tôi tớ xin cáo từ.” Cụ cúi rạp trước bà Weasley rồi nối bước cô Tonks, biến mất tại đúng y cùng một địa điểm. Bà Weasley đóng cánh cửa mở ra khoảng sân trống trơn và rồi nắm vai Harry xoay trong vùng sáng rạng rỡ của ngọn đèn trên bàn để kiểm tra vóc dáng nó. “Con giống thằng Ron,” bà thở dài, nhìn nó từ trên xuống. “Cả hai đứa bay trông như là bị ếm xì bùa Kéo giãn. Bác thề là thằng Ron đã cao thêm một tấc hai kể từ khi bác mua cho nó bộ đồng phục năm ngoái. Con có đói không, Harry?” “Dạ, con đói,” Harry nói, bất thình lình nhận ra nó đang đói cồn cào. “Ngồi xuống đi cưng. Bác sẽ dọn ra cái gìđó.” Khi Harry ngồi xuống, một con mèo lông xù vàng khè có cái mặt tròn bạnh như trái bầu nhảy phóc lên đầu gối của nó an tọa rồi kêu rừ rừ. “Vậy là Hermione cũng ở đây ạ?” Harry vui vẻ hỏi, vừa cù nhẹ sau tai con mèo Crookshanks. “Ờ phải, con bé vừa tới ngày hôm kia,” bà Weasley đáp, vừa gõ nhẹ vào cái nồi sắt tổ tướng bằng cây đũa phép. Cái nồi nhảy phóc lên mặt lò, kêu lên một tiếng keng to và ngay lập tức bắt đầu sôi ùng ục.
  • 20. “Mọi người đều đang ngủ, dĩnhiên rồi, vìbọn bác tưởng còn mấy tiếng đồng hồ nữa con mới đến. Đây, con ăn đi.” Bà lại gõ cái nồi một lần nữa, nó tự nhấc mình lên không trung, bay về phía Harry, rồi lật nghiêng, bà Weasley đẩy một cái tô tới ngay bên dưới cái nồi vừa đúng lúc để đón món súp hành đặc bốc khói đang chảy xuống. “Bánh mìkhông con?” “Cám ơn, bác Weasley.” Bà vẫy cây đũa phép qua vai; một ổ bánh mì và một con dao cắt bành duyên dáng bay ào tới đáp xuống bàn ăn; khi ổ bánh mì đã tự cắt ra thành từng lát và cái nồi súp đã rớt xuống mặt lò, bà Weasley ngồi xuống đối diện với Harry. “Vậy là con đã thuyết phục được thầy Horace Slughorn đi dạy lạ?” Harry gật đầu, mồm miệng nó đang ngốn đầy súp nóng nên nó không thể nói được. Bà Weasley nói: “Thầy từng dạy cả bác trai Arthur và bác. Thầy đã dạy ở Hogwarts từ thời xưa lơ xưa lắc, bác nghĩthầy bắt đầu dạy cùng thời với cụ Dumbledore. Con có thích thầy ấy không?” Miệng Harry giờ đây lại ngốn đầy bánh mì, nó chỉ nhún vai và đung đưa cái đầu một cách vô thưởng vô phạt. “Bác hiểu ý con,” bà Weasley nói, gật gù một cách khôn ngoan. “Dĩ nhiên khi nào thầy ấy muốn thành hấp dẫn thì cũng thành hấp dẫn, nhưng bác Arthur chẳng bao giờ ưa thầy ấy. Bộ Pháp thuật bây giờ bừa phứa bọn hot cưng của thầy ấy, chúng luôn luôn giỏi giang chuyện thằng quan tiến chức, nhưng chẳng bao giờ dành nhiều thì giờ cho bác Arthur – dường như chẳng hề nghĩ là bác ấy có đủ tham vọng trèo đèo. Thôi, chỉ là nói cho con biết, ngay cả Thầy Slughorn cũng phạm sai lầm. Bác không biết Ron có viết thư cho con chưa – chuyện mới đây thôi – nhưng bác Arthur của con vừa được thăng chức!” Quá rõ ràng là bà Weasley chỉ lăm le nổ ra tin sốt dẻo này. Harry nuốt một họng đầy súp rất nóng và nghĩrằng nó cảm giác được cổ họng mình đang phồng rộp lên. Nó thổi phều phều, nói: “Tuyệt quá!” “Con thiệt là dễ thương,” bà Weasley cười rạng rỡ, có lẽ tưởng nó ứa nước mắt vì mừng vui cảm động trước cái tin đó. “Ừ, ông Rufus Scrimgeour đã thiết lập thêm nhiều Sở mới để đáp ứng tình hình hiện tại, và bác Arthur hiện nay đnưgiáo sư đầu Sở Phát hiện và Tịch thu Bùa chú phòng chống và Vật thể Bảo vệ giả mạo. Đó là một công tác lớn lao, dưới quyền của bác ấy bây giờ có tới mười người báo cáo.” “Chính xác thì…” “Chà, con thấy đó, trong cơn hoảng hốt vìKẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, khắp nơi rộ lên bán đủ thứ kỳ cục, những thứ được coi là để bảo vệ chống lại Kẻ- mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy và bọn Tttt. Con có thể hình dung ra những thứ đó – như cái gọi là Độc dược bảo vệ thực ra là nước xốt pha thêm một chút mủ củ hạch, hay hướng dẫn phòng vệ tà ma thìlại làm văng mất vành tai người ta… Ôi, đại để là thủ phạm mấy vụ đó chỉ là những người như lão Mundungus Fletcher, những người chẳng bao giờ làm được một ngày công trung thực trong đời và đang thừa lúc mọi người quá hoảng sợ mà trục lợi. Thỉnh thoảng đó đây lại xuất hiện những thứ đáng kinh tởm. Hôm nọ bác Arthur tịch thu được một cái hộp Kính Mách lẻo đã ếm bùa mà gần như có thể chắc chắn là do một Tttt gài đặt. Vậy là, con hiểu chứ, đó là một công tác rất quan trọng, và bác nói với bác trai thiệt là ngu nếu không xử lý luôn mấy cái bu-gi ô tô và đám lò nướng bánh bằng điện cùng tất cả những thứ còn lại trong mớ rác rưởi của dân Muggle.” Bà Weasley kết thúc bào diễn văn bằng một cái nhìn nghiêm nghị, như thể chính Harry là kẻ đề xuất rằng bỏ qua mấy cái bugi là tự nhiên thôi. “Bác trai vẫn còn ở sở làm ạ?” Harry hỏi. “Ừ, bác trai đang làm việc. Thực ra thìbác ấy về trễ một chut… bác trai nói sẽ về nhà vào khoảng nửa đêm…” Bà quay lại nhìn cái đồng hồ to tướng đang ngồi chông chênh trên một đống vải trải giường trong giỏ đồ chờ đem giặt ở cuối cái bàn. Harry nhận ra cái đồng hồ ngay tức thì. Nó có chín cây kim, mỗi cây khắc tên của một người trong gia đình, và thường thường được treo trong phòng khách nhà Weasley, mặc dù vị trí hiện giờ của nó cho thấy là bà Weasley đã rinh nó đi khắp nhà với bà. Lúc này mỗi cây kim trong tổng cộng chín cây đều chỉ vào chữ nguy hiểm chết người. “Dạo này nó cứ chỉ như vậy,” bà Weasley nói bằng một giọng tự nhiên không được thuyết phục lắm, “từ hồi Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy trở lại công khai. Bác cho là bây giờ ai cũng lâm vào cảnh nguy hiểm chết người… bác không nghĩ chỉ riêng gia đình mình… nhưng bác không biết ai khác nữa có cái đồng hồ giống như cái này, nên không thể kiểm tra được. Ô!” Kêu lên một tiếng đột ngột, bà Weasley chỉ vào mặt đồng hồ. Cây kim ông Weasley đã chệch snag chữ đang đi lại. “Ảnh sắp về nhà!” Vừa đúng, chỉ một tísau là có tiếng gõ cửa. Bà Weasley bật dậy vội vàng chạy ra cửa; một tay đặt lên núm cửa và áp sát mặt vào lớp gỗ, bà gọi khẽ: “Arthur, anh đó hả?” “Ừ,” giọng mệt mỏi của ông Arthur vang lên. “Nhưng nếu anh là một Tttt anh cũng nói vậy, cưng à. Hãy hỏi một câu nào đi!” “Ôi, thiệt tình…” “Molly!” “Được rồi, được rồi… Tham vọng tha thiết nhất của anh là gì?” “Tìm ra cách thức làm sao máy bay giữ được trên trời.” Bà Weasley gật đầu và vặn núm cửa, nhưng rõ ràng là ông Weasley đang nắm chặt nó ở phía bên kia cửa, bởi vìcánh cửa vẫn đóng vững vàng. “Molly! Anh phải hỏi em câu hỏi của em trước!” “AnhArthur, thiệt tình, chuyện này chỉ là trò ngốc…” “Em muốn anh gọi em là gìkhi chỉ có hai đứa mình với nhau?” Thậm chí trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn lồng Harry cũng có thể thấy bà Weasley ngượng đỏ cả mặt; chính nó cũng bỗng nhiên cảm thấy ấm quanh tai và cổ, và nó hấp tấp húp súp sồn sột, khua muỗng trong tô thiệt to. “Molly lắc lư,” một bà Weasley thẹn thùa thìthầm vào cái khe của kẹt cửa. “Đúng,” ông Weasley nói. “Bây giờ thìem có thể để anh vô nhà.” Bà Weasley mở cửa để hiện ra ông chồng của mình, một phù thủy gầy, hói, tóc đỏ hoe, đeo một cặp kính gọng sừng và mặc một cái áo choàng lữ hành dài và bụi bặm. “Em vẫn không hiểu tại sao chúng ta cứ phải thông qua thủ tục đó mỗi lần anh trở về nhà,” bà Weasley nói, mặt bà vẫn còn hồng hồng khi giúp chồng cởi áo choàng. “Ýem nói là một Tttt vẫn có thể ép anh phun ra câu trả lời trước khi hắn giả dạng anh được mà.” “Anh biết, em à, nhưng đó là thủ tục của Bộ, và anh phải làm gương. Mùi gì thơm quá… súp hành hả?” Ông Weasley khấp khởi hy vọng quay về phía cái bàn ăn và kêu lên, “Harry! Bọn bác cứ tưởng tới sáng mới được gặp con!” Hai bác cháu bắt tay nhau, và ông Weasley ngồi phịch xuống một cái ghế bên cạnh Harry trong khi bà Weasley đặt một tô súp trước mặt ông. “Cám ơn em, Molly. Thiệt là một đêm vất vả. Có một thằng điên nào đó bắt đầu tung ra bán Mề-đay Biến-dạng. Chỉ cần đeo nó quanh cổ là mình có thể biến đổi ngoại hình theo ý muốn. Một trăm ngàn kiểu ngụy trang, giá chỉ có mười Galleon!” “Mà thực ra sẽ có chuyện gìxảy ra nếu đeo nó vô?” “Hầu hết trường hợp thì người ta chỉ biến đổi sang một màu cam hơi dị, nhưng có hai người đã nổi mụn cóc giống gai tua bạch tuộc khắp mình mẩy. Làm như thể bệnh viện Thánh Mungo còn thiếu việc để làm ấy!” “Nghe giống như mấy cái thứ mà thằng Fred với thằng George thấy vui ấy,” bà Weasley ngập ngừng nói. “Anh có chắc là…”
  • 21. “Dĩnhiên anh chắc,” ông Weasley nói. “Mấy thằng nhóc sẽ không làm mấy thứ như thế, nhất là khi ai nấy đang khao khát tìm sự bảo vệ.” “Vậy đó là lý do anh về trễ à, mấy cái Mề-đay Biến-dạng ấy?” “Không, bọn anh đánh hơi ra một Bùa Phản thùng bậy bạ dưới chỗ Con voi và Lâu đài, nhưng hên là khi bọn anh tới nơi thì Đội Thi hành Luật Pháp thuật đã giải quyết xong vấn đề rồi…” Harry ráng nhịn một cái ngáp dài sau bàn tay che miệng. “Đi ngủ,” một bà Weasley không thể bị qua mắt nói ngay lập tức. “Bác đã dọn phòng của Fred và George cho con, nó sẽ là phòng riêng của con.” “Ủa, hai anh đâu ạ?” “Ôi, tụi nó ở dưới Hẻm Xéo, ngủ trong một căn phòng nhỏ ngay bên trên cái tiệm giỡn của tụi nó tại vì tụi nó bận lắm,” bà Weasley nói. “Bác phải nói là ban đầu bác không tán thành lắm, nhưng rồi tụi nó có vẻ cũng có một chút nhạy bén trong kinh doanh. Thôi, đi ngủ đi con, hòm xiểng của con ở trên phòng rồi.” “Chúc bác ngủ ngon, bác Weasley,” Harry nói, đẩy lui cái ghế. Con Crookshanks nhảy xuống khỏi đùi nó và lỉnh ra khỏi phòng. “Ngủ ngon, Harry,” ông Weasley nói. Khi rời khỏi nàh bếp, Harry thấy bà Weasley liếc vào cái đồng hồ ngồi trong cái giỏ đồ giặt. Tất cả kim đồng hồ lại một lần nữa cùng chỉ vào chữ nguy hiểm chết người. Phòng ngủ của Fred và George ở trên tầng thứ hai. Bà Weasley chĩa cây đũa phép lên một ngọn đèn đặt trên cái bàn cạnh giường ngủ, cái đèn bật sáng lên ngay tức thì, tràn ngập căn phòng một thứ ánh sáng vàng óng dễ chịu. Mặc dù một bình hoa to tướng đã được đặt trên bàn giấy trước một cái cửa sổ nhỏ, hương hoa vẫn không ngụy trang được một mùi hôi vướng vất trong phòng mà Harry nghi là mùi thuốc súng. Một phần khá lớn mặt bằng căn phòng được dành chỗ cho một số lượng khổng lồ những cái hộp giấy cạc tông dán kín và không ghi dấu hiệu gì hết. Nằm giữa đống hộp đó là cái rương của Harry. Căn phòng trông có vẻ như đã được tạm thời làm kho chứa. Con Hedwig rúc lên mừng rỡ chào Harry từ chỗ nó đậu trên nóc tủ quần áo, rồi bay qua cửa sổ; Harry biết là nó đã chờ gặp lại Harry rồi mới đi săn mồi. Harry chúc bà Weasley ngủ ngon, rồi mặc quần áo ngủ vào, và trèo lên một cái giường. Có cái gìđó cưng cứng trong chiếc gối nó nằm. Nó mò mẫm bên trong gối và lôi ra được một cục kẹo tím-và-cam, mà nó nhận ra là kẹo ói. Tự mỉm cười một mình, Harry trở mình và ngủ ngay tức thì. Mấy giây sau, (hay là Harry nghĩ như vậy), nó bị đánh thức bởi một thứ nghe như tiếng nổ của súng thần công khi cánh cửa mở bung ra. Ngồi bật dậy, nó nghe soàn soạt tiếng tấm màn bị kéo ra: ánh nắng chói chang dường như chọc mạnh vô hai mắt nó. Giơ một tay che mắt, Harry dùng tay kia mò mẫm tìm đôi mắt kính của nó một cách không mấy hy vọng. “Cứi gìvựi?” “Tụi này không dè bồ đã ở đây rồi!” Một giọng nói to và hào hứng vang lên, và Harry nhận được một cú đấm thình lình ngay trên đỉnh đầu. “Ron, đừng đánh trò ấy!” Một giọng con gái đầy vẻ quở trách. Bàn tay của Harry đã tìm được cặp kính, nó bèn đeo ngay vào, tuy nhiên ánh snagiáo sư vẫn chói lọi khiến nó đằng nào cũng chẳng thấy gì. Một cái bóng to thù lù và dài sọc đung đưa ngay trước mặt nó, nó chớp chớp mắt và Ron Weasley hiện rõ ra, đang nhe răng cười với nó. “Có sao không?” “Chưa bao giờ đã hơn vầy,” Harry nói, vừa xoa đỉnh đầu, vừa thụp trở xuống đống gối. “Còn bồ?” “Không đến nỗi nào,” Ron đáp, kéo một cái thùng các tông tới gần và ngồi lên. “Bồ đến hồi nào? Má mới nói cho tụi này biết tức thì!” “Khoảng một giờ sáng nay.” “Mấy người Muggle ra sao? Họ đối xử với bồ OK không?” “Vẫn như mọi khi,” Harry nói, trong khi Hermione ngồi ghé lên mép giường của nó. “Họ chẳng nói gì nhiều với mình, nhưng mình lại thích vậy hơn. Còn bồ thìsao, Hermione?” “Ôi mình vẫn khỏe,” Hermione nói. Cô nàng chăm chú ngắm Harry như thể thằng này đang khó ở trong mình vìcái gìđó. Harry nghĩ là nó biết đằng sau điều này là cái gì, và bởi vì nó chẳng có chút lòng dạ nào mà chuyện trò về cái chết của chú Sirius hay bất cứ một đề tài khốn khổ nào khác vào lúc này, nó nói: “Mấy giờ rồi ta? Mình lỡ bữa điểm tâm rồi sao?” “Đừng lo chuyện đó, má đang bưng lên cho bồ nguyên một khay, má cho là bồ bị suy dinh dưỡng,” Ron nói, hai mắt trợn dọc. “Vậy, có chuyện gì xảy ra hả?” “Chẳng có gìnhiều. Thìmình lâu nay vẫn kẹt ở nhà dìdượng mình thôi, đúng chưa nào?” “Thôi đi bồ!” Ron nói. “Bồ đi suốt với cụ Dumbledore mà!” “Đâu có ly kỳ vậy! Cụ chỉ muốn mình giúp cụ thuyết phục một ông giáo già đừng nghỉ hưu nữa. Tên ổng là Horace Slughorn.” “Ôi, tụi này cứ tưởng...” Ron nói, tỏ ra thất vọng. Hermione bèn nhá một tia mắt răn đe về phía Ron, và Ron đổi hướng một cái rẹt, “...tưởng tượng ra chuyện gìđại loại vậy.” “Vậy hả?” Harry tức cười. “Phải... phải rồi, bây giờ mụ Umbridge đã ra đi, thì rõ ràng chúng ta cần một giáo viên Phòng chống nghệ thuật hắc ám mới, đúng không? Vậy, ơ, ổng như thế nào?” “Ổng trông hơi giống một con hải mã, và trước đây từng là giáo viên Chủ nhiệm Nhà Slytherin,” Harry nói. “Chuyện gìvậy Hermione?” Hermione đang chăm chăm ngắm Harry như thể chờ đón những triệu chứng lạ có thể bộc lộ bất thình lình. Cô nàng vội vàng điều chỉnh lại nét mặt bằng một nụ cười chẳng thuyết phục lúc nào. “Không, dĩnhiên là không có gì! Vậy, ơ, Thầy Slughorn coi bộ có là một thầy giáo tốt không?” “Ai mà biết,” Harry nói. “Nhưng chắc không thể tệ hơn mụ Umbridge được, đúng không?” “Em biết có người còn tệ hơn mụ Umbridge,” một giọng nói vang lên từ phía cửa. Cô em gái của Ron lững thững đi vô phòng, vẻ mặt cáu kỉnh. “Chào anh Harry.” “Em mắc chứng gìvậy?” Ron hỏi. “Bả chứ chứng gì!” Ginny nói rồi quăng mình ngồi xuống giường Harry một cái phịch. “Bả làm em phát điên.” Hermione tỏ ra thông cảm: “Bả lại làm cái gìnữa vậy?” “Cái kiểu bả nói chuyện với em ấy – chị mà nghe thìtưởng em mới lên ba!” “Chị biết,” Hermione hạ thấp giọng. “Bả quá tự phụ.” Harry hết sức kinh ngạc khi nghe Hermione nói về bà Weasley như thế và không có gìđáng trách khi Ron giận dữ nói: “Hai người không thể bỏ bả qua một bên chừng năm giây hay sao?” Ginny cự lại: “Ờ phải mà, bênh bả đi. Tụi này biết thừa là anh chưa thấy ớn bả mà.” Lời chỉ trích này nếu dành cho má Ron thìdường như hơi nặng. Nên Harry bắt đầu cảm thấy dường như có cái gìđó mình chưa hiểu, nó hỏi: “Mấy bồ đang nói về ai…?” Nhưng câu hỏi chưa kịp hỏi xong thì đã được trả lời. Cánh cửa phòng ngủ lại mở rộng một lần nữa, và Harry theo phản xạ tự nhiên kéo chăn trải giường lên tới cằm mạnh đến nỗi cả Hermione và Ginny đều bị tuột xuống sàn.
  • 22. Một phụ nữ trẻ đang đứng ngay ngưỡng cửa, một phụ nữ mà vẻ đẹp hớp hồn khiến cho căn phòng dường như thiếu không khí một cách lạ lùng. Nàng cao và yểu điệu với mái tóc dài màu vàng và dường như tỏa ra một vầng ánh sáng bạc lung linh. Để hoàn chỉnh hình ảnh hoàn hảo này, nàng bưng đến một cái khay chất đầy đồ điểm tâm. “Arry. Cũn khá lâu mới gặp lại há?” Nàng nói bằng giọng cổ họng hơi khàn khàn. Khi nàng lướt ra khỏi ngưỡng cửa đi về phía Harry, bà Weasley hiện ra, xàng xê theo sau bước chân nàng, trông đến khốn khổ. “Không cần bưng khay lên đâu, tôi sắp tự xuống nhà bếp ăn mà.” “Không có chi,” FLEUR DELACOUR nói, vừa đặt cái mâm lên đầu gối Harry rồi xà xuống hôn lên cả hai má nó. Harry cảm thấy chỗ mà môi cô nàng chạm tới nóng bừng lên. “Tôi vữn mong gặp lại cậu ấy. Cậu còn nhớ em gái của tôi không Gabrielle ấy? Em nó cứ nhắc mãi anh Arry Potter. Nó sẽ rớt mừng được gặp lại cậu đó.” Harry rầu rĩthốt lên: “Ối… bạn ấy cũng ở đây à?” “Không… không, chú ngốc ạ,” Fleur bật ra một tiếng cười ngân nga. “Ýtôi nói là vào mùa hè tới, khi tụi này… Nhưn mà cậu biết chưa?” Đôi mắt to màu xanh lơ của cô nàng mở lớn nhìn bà Weasley với vẻ hờn trách, bà Weasley bèn nói: “Chúng tôi chưa có đủ thìgiờ để quây quần nói chuyện với Harry.” Fleur bèn quay lại nhìn Harry, hất hất mái tóc ánh bạc khiến nó quất ngang mặt bà Weasley. “Anh Bill và tôi sắp kết hôn!” “Ồ,” Harry vô tư kêu lên. Nó không thể không nhận thấy tất cả mọi người, từ bà Weasley đến Ginny và Hermione đều tránh nhìn vào mắt nhau như thế nào. “Chà. Ơ... Chúc mừng!” Nàng lại sà xuống Harry và hôn nó. “Lúc này anh Bill rứt bận, làm việc vất vã, và tôi chĩ làm việc bán thời gian ở Gringotts đễ luyện tiếng Anh, cho nên anh Bill đưa tôi về đơi đễ hiễu gia đình anh ấy rõ hơn. Tôi đã rất vui lúc nghe tin cậu sắp đến đơi... Ỡ đơi chẵng có gì nhiều đễ làm cã, trừ khi cậu thích nấu nướng và gà qué. Thôi... dùng bữa điễm tâm cũa cậu đi,Arry!” Nói xong những lời này, nàng duyên dáng quay đi và dường như lướt nhẹ ra khỏi phòng, khẽ khàng đóng lại cánh cửa sau lưng mình. Bà Weasley phát ra một âm thanh nghe như: “Chà.” “Má ghét bả,” Ginny khẽ nói. “Má không ghét nó!” Bà Weasley thìthầm vẻ chịu đựng. “Má chỉ nghĩlà hai đứa nó hơi vội vàng đính ước, thế thôi.” “Họ biết nhau cả năm trời rồi,” Ron nói, trông nó có vẻ choáng váng và vẫn còn đang nhìn đăm đăm cánh cửa đã đóng lại. “Ối, một năm thìđâu có gìlà lâu. Dĩnhiên là má biết tại sao lại xảy ra như vậy. Chỉ tại tình hình bất an này với việc trở lại của Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy, mọi người cứ nghĩ có thể chết ngay vào ngày mai, cho nên họ hấp tấp trong đủ loại quyết định mà thường thì vẫn phải dành cho nhiều thời gian hơn. Lần trước khi hắn đang hùng mạnh cũng tương tự như vậy, thiên hạ lấy nhau tán loạn, cánh tả cũng lấy, cánh hữu cũng lấy, trung lập cũng lấy...” “Kể cả ba và má,” Ginny ranh mãnh nói. “Ừ thì, ba tụi mày và má được tạo ra là để cho nhau thì chờ đợi mà làm gì?” bà Weasley nói. “Trong khi đó, Bill và Fleur... hừm... hai đứa nó thì có điểm nào giống nhau hả? Bill là một loại người siêng năng thực tế, trong khi con đó là...” “Một con bò cái,” Ginny gật đầu nói. “Nhưng anh Bill cũng chẳng được thực tế cho lắm. Ảnh là một Phá-nguyền-sư, đúng không, ảnh hơi bị khoái phiêu lưu, khoái cái đẹp huyền ảo... Con đoán đó là nguyên nhân ảnh mẹ con mẹ Nhớt.” “Đừng có gọi nó như vậy, Ginny,” bà Weasley rầy ngay, trong khi Hermione và Harry phá ra cười. “Thôi, má đi lo công chuyện thìhơn... Harry, con ăn trứng đi kẻo nguội.” Bà Weasley ra khỏi phòng, vẻ hốc hác vìlo lắng. Ron trông vẫn còn có vẻ lừ đừ; nó thử lúc lắc cái đầu như một con chó đang rũ nước khỏi vành tai. Harry hỏi: “Sống chung một nhà mà các bạn không quen được chị ấy sao?” “Ôi, riết rồi quen thôi,” Ron nói. “Nhưng nếu như bà ấy cứ đột nhiên nổi khùng với mình, giống như kỳ đó...” “Thiệt là thống thiết,” Hermione tức tối nói, rảo bước đi thật xa khỏi Ron, đến tận bức tường rồi quay lại khoanh tay nhìn Ron. Ginny hỏi Ron một cách ngờ vực: “Anh đâu có thực lòng muốn bả ở chung mãi mãi hả?” Khi Ron chỉ nhún vai đáp lại, Ginny nói: “Chà, má sắp hành động để ngăn chặn vụ này, em dám cá bất cứ thứ gìluôn.” “Bác gái sẽ thu xếp thế nào?” Harry hỏi. “Má cứ cố mời cô Tonks đến ăn tối. Em nghĩ má đang hy vọng anh Bill sẽ phải lòng cô Tonks thay vì bà Nhớt. Em hy vọng ảnh sẽ thích cô Tonks, em thích cô Tonks trong gia đình mình hơn.” “Ừ, như vậy hay à,” Ron chế nhạo. “Nghe đây nhé. Không thằng nào đầu óc sáng suốt mà lại phải lòng cô Tonks trong khi có Fleur quanh quẩn bên cạnh. Ýanh nói là cô Tonks trông cũng được khi cổ không làm những chuyện ngốc nghếch với đầu tóc và cái mũi của ấy, nhưng...” “Cô ấy tỉ lần đẹp hơn con mẹ Nhớt,” Ginny nói. Và Hermione từ góc phòng bổ sung. “Và cô Tonks thông minh hơn, cô ấy là một Thần Sáng!” “Fleur cũng đâu có ngu,” Harry nói. “Chị ấy đủ giỏi để vô chung kết cuộc Thi đấu Tam Pháp thuật mà.” Hermione nói giọng chua chát: “Thìbồ cũng đâu có ngu.” Ginny hỏi giọng khinh miệt: “Em đoán là anh khoái cái kiểu Nhớt gọi anh ‘Arry à’ lắm há?” “Đâu có,” Harry nghĩphải chi nãy giờ mình đừng nói gìhết. “Anh chỉ muốn nói… Nhớt, tức là Fleur ấy…” Ginny nói: “Em thích có cô Tonks trong gia đình mình hơn. Ít ra cô ấy là một người vui nhộn.” “Dạo gần đây cô ấy chẳng còn là một người vui nhộn nữa.” Ron nói. “Mỗi lần anh gặp cô ấy, trông cô càng giống con ma khóc nhè Myrtle.” “Không công bằng!” Hermione chen ngang nói nhanh. “Cô Tonks vẫn chưa hồi phục lại sau những gì đã xảy ra… Mấy bồ biết mà… Ý mình nói, chú ấy là bà con của cô ấy.” Trái tim Harry chùng xuống. Họ lại nói tới chú Sirius. Nó cầm lên cây nĩa và bắt đầu xúc món trứng chiên vô miệng, hy vọng né tránh được những lời rủ rê tham gia vào phần này của cuộc chuyện trò. “Cô Tonks và chú Sirius hồi ấy gần như không biết nhau,” Ron nói. “Chú Sirius bị giam trong ngục Azkaban một thời gian bằng nửa cuộc đời của cô Tonks, và trước đó gia đình họ chưa hề gặp gỡ nhau.” “Đó không phải là nguyên nhân chính,” Hermione nói. “Cô Tonks nghĩchú Sirius chết vìlỗi của cô ấy.” “Làm sao mà cô ấy lại kết luận như vậy?” Harry buột miệng hỏi, bất chấp ý đồ của mình.
  • 23. “Thì vầy, cô ấy đang chiến đấu với mụ Bellatrix Lestrange, đúng không? Mình nghĩ cô ấy cảm thấy là nếu cô ấy dứt điểm được mụ Bellatrix, thì mụ ta đâu có thể giết chú Sirius.” “Tầm bậy!” Ron nói. “Đó là mặc cảm tội lỗi của người sống sót.” Hermione nói. “Mình biết thầy Lupin đã cố gắng giải tỏa cho cô ấy, nhưng cô ấy vẫn cứ sa sút tinh thần. Cô ấy đang thực sự gặp khó khăn với kỹ năng biến hình của cô ấy.” “Kỹ năng gì...?” “Cô ấy không thể thay đổi hình dạng như cô ấy thường làm trước đây nữa,” Hermione giải thích. “Mình nghĩ sức mạnh của cô ấy bị chấn thương, hay bị sao sao đó.” “Mình không hề biết là chuyện đó có thể xảy ra,” Harry nói. “Mình cũng không dè,” Hermione nói. “Nhưng mình nghĩnếu người ta thực sự suy nhược tinh thần...” Cánh cửa lại mở ra và bà Weasley thò đầu vô. Bà thìthầm: “Ginny, xuống bếp phụ má nấu bữa trưa.” “Con đang nói chuyện với mọi người mà!” Ginny nói, vô cùng tức tối. “Xuống ngay!” bà Weasley nói, và thụt đầu ra. “Má chỉ muốn em có mặt để khỏi phải ở một mình với mụ Nhớt,” Ginny cấm cẳn. Nó hất mái tóc dài ra sau trong một điệu bộ nhái giống y như Fleur rồi nhảy tưng lên, băng ngang qua căn phòng với hai cánh tay giơ cao như một nữ diễn viên vũ ba lê. “Mấy người cũng nên xuống nhà lẹ lên!” Cô bé nói khi đi ra khỏi phòng. Harry bèn lợi dụng sự im lặng ngay lúc đó để ăn nhiều hơn. Hermione thì săm soi mấy cái hộp của Fred và George, mặc dù thỉnh thoảng cô nàng lại liếc chừng về phía Harry. Ron, lúc này đang ăn ké món bánh mìnướng của Harry, vẫn còn mơ màng chằm chằm nhìn ra cánh cửa. “Cái gìđây?” cuối cùng, Hermione hỏi, vừa giơ lên một cái gìđó giống như một cái kính thiên văn nhỏ. “Ai mà biết!” Ron nói. “Nhưng nếu anh Fred và George để nó lại đây, thì có lẽ nó chưa thật sẵn sàng để bày bán ở ngoài tiệm giỡn, thành ra hãy cẩn thận.” “Má bồ nói cái tiệm làm ăn khấm khá lắm,” Harry nói. “Nói Fred và George thực sự có óc kinh doanh nhạy bén.” “Ấy là nói bớt đi rồi,” Ron nói. “Họ đang kiếm ra bạc Galleon! Mình háo hức muốn coi cái tiệm đó lắm, tụi mình vẫn chưa đi Hẻm Xéo, bởi vì má nói ba phải đến đó để tăng cường an ninh, vìvậy ba bận việc ghê lắm, nhưng mà cái tiệm nghe có vẻ tuyệt vời.” “Còn anh Percy ra sao?” Harry hỏi. Người con trai lớn thứ ba trong nhà Weasley đã rơi ra khỏi quỹ đạo của gia đình. “Anh ấy có nói chuyện lại với ba má bồ không?” “Không,” Ron nói. “Nhưng bây giờ đây anh ấy cũng đã biết là ba bồ đúng hết trong vụ Voldermort trở lại rồi...” “Cụ Dumbledore nói người ta dex dàng tha thứ cho người khác vìđã sai hơn là đã đúng,” Hermione nói. “Mình nghe cụ nói vậy với má bồ, Ron à.” “Nghe đúng kiểu mấy điều thông thái mà cụ Dumbledore vẫn hay nói,” Ron đáp. “Thầy sắp dạy riêng mình niên học này,” Harry vui chuyện, nói. Ron sặc miếng bánh mìnướng, còn Hermione thìhá hốc miệng. “Bồ kín tiếng dữ à!” Ron nói. “Mình mới sực nhớ ra thôi,” Harry thành thật nói. “Thầy mới nói với mình hồi hôm trong cái chòi để chổi của nhà bồ.” “Mèn ơi... Lớp riêng với cụ Dumbledore!” Ron nói, coi bộ hơi sững sờ. “Mình thắc mắc là không biết tại sao cụ...” Giọng Ron nhỏ dần đi. Harry thấy Ron và Hermione trao đổi ánh mắt với nhau. Harry đặt dao và nĩa xuống, tim nó đập khá nhanh mặc dù chẳng làm gì ngoài việc ngồi im trên giường. Cụ Dumbledore nói nó phải làm việc đó... Tại sao không làm ngay bây giờ? Nó chăm chú ngó cái nĩa đang sáng óng lên trong ánh nắng tràn vào tận đùi nó, và nói: “Mình không biết chính xác tại sao thầy lại mở lớp riêng cho mình, nhưng mình nghĩchắc vìlời tiên tri.” Cả Hermione lẫn Ron không nói gì. Harry có ấn tượng là cả hai đều sững sờ. Nó tiếp tục, vẫn nói với cái nĩa của mình. “Mấy bồ biết đó, cái mà chúng đã cố gắng đánh cắp khỏi Bộ ấy.” “Nhưng mà đâu có ai biết cái đó nói gì?” Hermione nói nhanh. “Nó bị bể rồi mà.” “Mặc dù tờ Tiên tri nói...” Ron mới mở đầu câu thìHermione đã “suỵt...” “Tờ Tiên tri nói đúng,” Harry nói, với một cố gắng lớn ngước nhìn lên hai người bạn: Hermione dường như hoảng sợ và Ron hết sức kinh ngạc. “Trái cầu thủy tinh đã bể nát đó không phải là bản ghi duy nhất của lời tiên tri. Mình được nghe toàn bộ lời tiên tri trong văn phòng cụ Dumbledore, lời tiên tri là nhắm cho cụ, nên cụ có thể nói với mình. Từ những gì lời tiên tri nói...” Harry hít một hơi thở sâu, “thì có vẻ như mình là kẻ phải kết liễu Voldermort... ít nhất thìlời tiên tri nói một trong hai người không thể sống khi kẻ kia còn tồn tại.” Ba người bạn đăm đăm nhìn nhau trong im lặng một hồi. Rồi một tiếng nổ đùng thiệt to và Hermione biến mất sau làn khói đen. “Hermione!” Harry và Ron thét lên; cái khay đồ điểm tâm tuột xuống sàn bể loảng xoảng. Hermione hiện trở ra trong làn khói, ho sù sụ, tay nắm chặt cái kính thiên văn và khoe một con mắt tím đen sáng rực. “Mình véo nó và nó... nó thụi mình,” cô nàng vừa thở hổn hển vừa nói. Và đúng y vậy, giờ thìtụi nó thấy một nắm tay nhỏ xíu trên một cái lò xo nhô ra từ đầu cái kính thiên văn. “Đừng lo,” Ron nói, rõ ràng là đang cố gắng nín cười, “Má sẽ chỉnh lại cho, má rất giỏi chữa lành mấy thương tích lặt vặt...” “Ôi, thôi, đừng bận tâm chuyện đó lúc này,” Hermione vội vàng nói. “Harry, ồ Harry...” Cô nàng lại ngồi xuống bên cạnh giường Harry. “Lúc từ Bộ trở về, tụi này cũng thắc mắc... Rõ ràng, tụi này không muốn hỏi han gì bồ, nhưng từ những gì mà lão Lucius Malfoy nói về lời tiên tri, rằng nó nói về bồ và Voldermort ra sao, chà, tụi này cũng nghĩ dám là một chuyện gì đó giống như vậy... Ôi, Harry…” Cô nàng chăm chú nhìn Harry, rồi thì thầm, “Bồ có sợ không?” “Bây giò thì không sợ bằng trước đây,” Harry nói. “Khi mới nghe nó lần đầu, mình... nhưng bây giờ, có vẻ như là mình đã luôn luôn biết rằng cuối cùng rồi mình sẽ phải đương đầu với hắn.” “Khi tụi này nghe cụ Dumbledore đích thân đi đón bồ, tụi này cũng nghĩ có thể cụ sẽ nói với bồ điều gì đó hay chỉ cho bồ điều gì đó để đối phó với lời tiên tri,” Ron hăng hái nói. “vậy là coi như tụi này cũng đúng há? Cụ sẽ chẳng mở lớp dạy riêng cho bồ nếu cụ nghĩ bồ là đồ tiêu rồi; hơi đâu mà cụ phí sức... Cụ phải tin là bồ còn có thể làm được gìthìmới thế!” “Đúng đó!” Hermione nói. “Mình thắc mắc là cụ sẽ dạy bồ môn gì, Harry nhỉ? Pháp thuật phòng vệ cao cấp chính hiệu, dám lắm... Hay phản nguyền hùng mạnh... Hay chống tà...” Harry gần như không lắng nghe nữa. Một niềm ấm áp không liên quan gì tới ánh nawsg đang tỏa lan khắp người nó. Cơn tức thở ngột ngạt ở ngực nó dường như đã được khai thông. Nó biết Hermione và Ron bị sốc hơn là tụi nó biểu hiện ra ngoài, nhưng cái sự việc giản dị là tụi nó vẫn ở bên cạnh nó, nói với nó những lời an ủi hùng hồn, chứ không co lại tránh xa nó như thể nó bị bệnh truyền nhiễm hay gây nguy hiểm, đã là điều quí giá vô cùng mà nó không tài nào thổ lộ với hai đứa được. “...và bùa lẩn tránh nói chung,” Hermione đúc kết lại. “Chà, ít ra thì bồ cũng được biết một lớp mà bồ sẽ học trong niên học tới, đó là trội hẳn một lớp so với Ron và mình. Mình đang thắc mắc không biết khi nào thìtụi mình có kết quả kỳ thi Pháp thuật thường đẳng?”
  • 24. “Chắc không lâu nữa đâu. Gần cả tháng rồi còn gì!” Ron nói. “Chờ đó,” Harry nói, khi sực nhớ lại một phần của cuộc nói chuyện tối hôm qua. “Mình nghĩ là cụ Dumbledore có nói kết quả kỳ thi của tụi mình sẽ được gởi bằng bưu cú tới trong ngày hôm nay.” “Hôm nay?” Hermione rú lên. “Hôm nay? Nhưng tại sao bồ đã không… Ôi trời ơi… lẽ ra bồ nên nói…” Cô nàng đứng phắt dậy. “Mình phải đi coi coi có bưu cú nào đến chưa…” Nhưng khi Harry xuống tới nhà dưới mười phút sau đó, ăn mặc chỉnh tề và bưng cái khay sạch trơn, nó nhận thấy Hermione ngồi bên cạnh cái bàn nhà bếp với vẻ kích động ghê gớm, trong khi bà Weasley đang cố làm giảm đi cái bề ngoài nửa như con gấu trúc của cô nàng. “Nó chả thèm suy suyển đi chút nào,” bà Weasley đang nói một cách căng thẳng, bà đứng cao bên trên Hermione, tay cầm cây đũa phép và cuốn sách Trợ lý người chữa thương, mở ra chương ‘Bầm, Đứt, Trầy’. “Trước giờ cách này vẫn hiệu nghiệm mà, bác chẳng hiểu ra làm sao cả.” “Sáng kiến cho một trò giỡn tức cười của anh Fred và George là bảo đảm sao cho vết bầm không phai được,” Ginny nói. “Nhưng nó phải phai đi chứ!” Hermione kêu lên oai oái. “Chị không thể nào vác cái mặt như vầy đi quanh mãi được.” “Không đâu, cháu yêu quí, chúng ta sẽ tìm ra thuốc giải độc, đừng lo,” bà Weasley dỗ dành. “Anh Bill có kễ cho tôi nghe hai cậu Fred và George rớt vui tính,” Fleur nói, mỉm cười thanh thản. “Ừ, vui đến nỗi tôi cười không thở được,” Hermione boppháp sư chát. Cô nàng đứng bật dậy, bắt đầu đi loanh quanh nhà bếp, văn vẹo mấy ngón tay vào nhau. “Bác Weasley à, bác có chắc là sáng nay cú chưa tới không?” “Đúng vậy con à, bác có để ý mà,” bà Weasley kiên nhẫn nói. “Nhưng mới chín giờ sáng mà, hãy còn khối thìgiờ…” “Con biết là con lộn tùm lum trong bài thi Cổ ngữ Runes,” Hermione luýnh quýnh lầm bầm. “Con chắc chắn là phạm ít nhất một lỗi dịch thuật nghiêm trọng. Và môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám chẳng tốt chút nào cả. Con tưởng môn Biến hình khá tốt lúc ấy, nhưng coi lại…” “Hermione à, bồ nín dùm cho, bồ không phải là người duy nhất hồi hộp,” Ron quát. “Và khi mà bồ đạt mười một điểm Xuất sắc Pháp thuật Thường đẳng…” “Đừng, đừng, đừng!” Hermione nói, xua xua hai tay loạn xị lên. “Mình biết là mình hỏng hết mọi môn mà!” “Nếu mình thi hỏng thìsao há?” Harry hỏi trỏng cả phòng, nhưng lại chính Hermione là người trả lời. “Chúng ta sẽ thảo luận với giáo viên chủ nhiệm của mỗi Nhà về các lựa chọn, mình đã hỏi giáo sư McGonagall vào cuối học kỳ vừa rồi.” Bao tử của Harry quặn thắt. Nó ước gìnó đã không ăn một bữa điểm tâm vĩđại. “Ỡ Beauxbaton,” Fleur nói một cách đắc chí, “chúng tôi có mợt cách làm khác. Tôi nghĩcách đó tớt hơn. Chúng tôi mỡ kỳ thi vào năm thứ sáu, thay vìnăm thứ năm, và lúc đó…” Lời nói của Fleur chìm lỉm trong một tiếng rú. Hermione đang chỉ tay qua cửa sổ nhà bếp. Ba cái đốm đen đang hiện rõ dần trên nền trời, càng lúc càng to ra. “Chúng nhất định là cú rồi!” Ron nói, giọng khàn khàn, nhảy phắt dậy, đến đứng bên cửa sổ với Hermione. “Và có ba con cả thảy,” Harry nói, vội vàng đến đứng cạnh hai đứa kia. “Mỗi đứa mình một con,” Hermione nói với giọng thìthào hãi hùng. “Ôi, không…, ôi… không… ôi, không…” Cô nàng bấu chặt cứng cùi chỏ của cả Harry lẫn Ron. Những con cú bay thẳng đến Hang Sóc, ba con cú hung xinh đẹp, khi bay thấp xuống trên con đường nhỏ dẫn lên ngôi nhà, thì thấy rõ mỗi con đều đang mang theo một cái phong bìto vuông vức. “Ôi không,” Hermione ré lên. Bà Weasley chen qua ba đứa và mở cửa sổ nhà bếp ra. Một, hai, ba, bọn cú bay vù qua cửa sổ và đáp xuống mặt bàn theo một hàng ngang thẳng tắp. Tất cả ba con cú đều giơ chân phải lên. Harry di chuyển tới trước. Bức thư đề tên nó được buộc vào chân của con cú đứng ở giữa. Nó tháo bức thư ra bằng mấy ngón tay run rẩy. Bên trái nó, Ron đang cố gắng tháo gỡ cái kết quả của chính nó; và ở bên phải, bàn tay Hermione run đến nỗi cô nàng làm cho chính con cú đưa thư cũng phát run. Không ai trong nhà bếp nói năng gì. Cuối cùng, Harry cũng xoay sở mở được cái phong bì. Nó xé toạc phong bì ra thiệt nhanh và mở tấm giấy da bên trong. KẾT QUẢ PHÁP THUậT THƯỜNG ĐẲNG Điểm đậu: Xuất sắc (XS) Điểm rớt: Kém (K) Giỏi quá kỳ vọng (G) Tồi dễ sợ (T) Xoàng (X) Bết (B) HARRYJAMES POTTER ĐÃ ĐẠT THÀNH TÍCH: Thiên văn học: X Chăm sóc sinh vật huyền bí: G Bùa ngải: G Phòng chống nghệ thuật hắc ám: XS Thần học: K Thảo dược học: G Lịch sử Pháp thuật: T Độc dược: G Biến hình: G Harry đọc suốt tấm giấy da nhiều lần, hơi thở của nó trở nên hòa dịu hơn sau mỗi lần đọc. Vậy là ổn cả: nó vốn luôn biết là nó sẽ rớt môn Thần học, và nó đã chẳng hòng đậu nổi môn Lịch sử Pháp thuật, trong hoàn cảnh nó đã gục ngã nửa chừng trong kỳ thi. Nhưng nó đã đậu tất cả các môn còn lại! Nó rà ngón tay dọc điểm số… Nó đã đậu môn Biến hình và môn Thảo dược học dễ dàng, nó thậm chí giỏi quá kỳ vọng ở môn Độc dược! Và khoái hơn cả là nó đạt được điểm “xuất sắc” môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám. Nó nhìn quanh. Hermione đang quay lưng lại và đầu cô nàng cúi xuống, nhưng Ron trông hớn hở ra mặt. “Chỉ rớt môn Thần học và Lịch sử Pháp thuật, mà ai bận tâm tới mấy thứ đó chớ?” Ron vui vẻ nói với Harry. “Đây nè… đổi…” Harry liếc xuống hạng của Ron: chẳng có cái “xuất sắc” nào cả… “Biết bồ giỏi nhất môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám mà,” Ron nói, vừa thoi một đấm vô vai Harry. “Tụi mình ngon lành, há?” “Giỏi lắm!” bà Weasley nói một cách tự hào, xoa rối bù mái tóc của Ron. “Bảy chứng chỉ Pháp thuật Thường đẳng, vậy là nhiều hơn cả Fred và George cộng lại!” “Hermione?” Ginny ngập ngừng gọi, vìHermione vẫn không quay mặt lại. “Kết quả của chị ra sao?” “Chị… không đến nỗi tệ,” Hermione nói nhỏ. “Thôi mà, đừng giấu nữa!” Ron nói, rảo bước qua chỗ Hermione, hớt nhanh cái kết quả trong tay cô nàng. “Đúng… mười “xuất sắc” và một “giỏi quá kỳ vọng” môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám,” nó ngó xuống Hermione, nửa khoái, nửa cáu. “Bồ thất vọng thiệt ấy hả?”
  • 25. Hermione lắc đầu, nhưng Harry bật cười. “Này bây giờ tụi này là bậc Phù thủy Tận sức rồi nhé!” Ron toe toét cười. “Má ơi, còn xúc xích không?” Harry nhìn lại kết quả của nó. Kết quả tốt như nó đã hy vọng. Nó chỉ hơi nhói đau khi cảm thấy tiếc là… Thế là kết thúc tham vọng trở thành Thần Sáng của nó. Nó đã không bảo đảm được điểm yêu cầu của môn Độc dược. Nó vẫn luôn biết là nó sẽ không đạt được, nhưng nó vẫn cảm thấy nặng nề trong gan ruột khi nhìn lại cái điểm G nhỏ màu đen. Kể cũng quái dị, thực vậy, lại chính một Tttt cải trang là người đầu tiên nói với Harry rằng nó có thể trở thành một Thần Sáng giỏi, nhưng chẳng biết sao cái ý tưởng đó lại bám riết lấy nó, và nó chẳng hề mơ ước trở thành cái gìngoài điều đó. Hơn nữa có vẻ như đó là một định mệnh chính xác của nó bởi vì nó đã nghe lời tiên tri cách đây mấy tuần lễ… một trong hai người không thể sống khi kẻ kia còn tồn tại... Vậy nếu như nó được gia nhập đội ngũ nhưng phù thủy được huấn luyện siêu đẳng để làm công việc tìm và diệt Voldermort, thìchẳng phải là nó sẽ được sống theo đúng lời tiên tri và tự giành cho mình một cơ hội tốt nhất để sống sót sao? Chương 6 Khúc ngoặt của Draco Harry vẫn ở lại trong khuôn khổ khu vườn của Hang Sóc suốt vài tuần lễ kế tiếp. Nó dành hầu hết ngày giờ để chơi bóng Quidditch hai-người-một-đội trong vườn cây ăn trái của gia đình Weasley (nó và Hermione đấu với Ron và Ginny; Hermione thìdở khiếp còn Ginny thìchơi giỏi, cho nên tụi nó cân sức cũng khá hợp lý), và buổi tối nó ăn tới ba phần bất cứ món gìbà Weasley dọn ra trước mặt. Đó đáng lẽ là kỳ nghỉ hè thanh bình, vui vẻ, nếu không có những câu chuyện về mất tích, tai nạn kỳ quái, thậm chí chết chóc bây giờ xuất hiện hầu như mỗi ngày trên tờ Tiên tri. Đôi khi Bill và ông Weasley đem tin tức về nhà trước khi báo kịp đăng. Bà Weasley đã không hài lòng chút nào khi lễ sinh nhật thứ mười sáu của Harry bị những cơn thủy triều rùng rợn mà thầy Remus Lupin mang tới bữa tiệc làm cho hỏng bét. Thầy Lupin dạo này trông hốc hác dữ tợn, mớ tóc nâu của thầy pha sọc dưa với mái tóc bạc, quần áo thìcáng te tua vá víu hơn bao giờ hết. “Lại có thêm hai vụ giám ngục tấn công khác nữa,” thầy Lupin thông báo khi bà Weasley đưa cho thầy một miếng bánh sinh nhật to. “Và người ta tìm thấy xác Igor Karkaroff trong một căn chòi tuốt trên miền Bắc. Có Dấu hiệu Hắc ám ếm trên cái chòi – Hù, thành thật mà nói, tôi ngạc nhiên là hắn còn sống sót gần một năm trời sau khi ly khai bọn Tử thần thực tử; theo như tôi nhớ thìRegulus, em trai chú Sirius, chỉ xoay sở được có vài ngày.” “Ừ, thôi,” bà Weasley cau mày. “Có lẽ chúng ta nên nói về cái gìđó khác…” “Chú có nghe về Florean Fortescue không, chú Remus?” Bill hỏi, nãy giờ bị Fleur chuốc rượu vang tới tấp. “Cái ông điều hành…” “Tiệm kem ở Hẻm Xéo hả?” Harry chen ngang với một cảm giác trống tuột khó chịu trong hốc bao tử. “Hồi trước bác ấy hay cho em cà rem miễn phí. Có chuyện gìvới bác ấy ạ?” “Bị trục đi, căn cứ vào hiện trường cái tiệm của ông ấy.” “Tại sao?” Ron hỏi, trong khi bà Weasley quắc mắt ngó Bill. “Ai mà biết. Chắc là ông ấy phải chọc giận chúng kiểu gìđó. Ông Florean ấy là một người tốt.” “Nói tới Hẻm Xéo,” ông Weasley nói, “hình như ông Ollivander cũng biến mất rồi.” “Ông làm đũa phép ấy hả?” Ginny hỏi, vẻ sửng sốt. “Chính ông đó. Cửa hàng trống rỗng. Không hề có dấu vết của một cuộc chiến đấu. Không ai biết liệu ông ta tự nguyện ra đi hay là bị bắt cóc.” “Nhưng những cây đũa phép… người ta làm sao mà có đũa phép bây giờ?” “Họ sẽ đặt những người khác làm,” thầy Lupin nói. “Nhưng Ollivander là người giỏi nhất, và nếu đối phương có được ông ấy thì việc đó chẳng hay ho gì cho chúng ta cả.” Ngày hôm sau bữa tiệc trà sinh nhật hơi u ám này, thư gọi nhập học và danh mục sách giáo khoa của lũ trẻ được gởi tới từ trường Hogwarts. Phần của Harry có kèm thêm một sự ngạc nhiên: nó được chọn làm Đội trưởng Quidditch. “Như vầy bồ sẽ có địa vị ngang hàng với Huynh trưởng!” Hermione reo lên vui vẻ. “Từ nay bồ có thể sử dụng phòng tắm đặc biệt, và mọi thứ!” “Chà mình nhớ khi anh Charlie đeo một trong những cái này,” Ron nói, hân hoan xem xét cái huy hiệu. “Harry à, chuyện này thiệt hay đó, bồ là đội trưởng của mình… nếu bồ cho mình trở lại, mình cho là, hà hà…” “Hừm, má không nghĩ là chúng ta có thể trì hoãn lâu thêm nữa chuyến đi mua sắm ở Hẻm Xéo nữa đâu, vì con cần sắm những thứ này.” Bà Weasley thở dài, ngó xuống cái danh mục sách giáo khoa của Ron. “Chúng ta sẽ đi vào ngày thứ bảy nếu như ba con không bị kẹt công việc một lần nữa. Má sẽ không tới đó mà không có ba các con đi cùng đâu.” “Má à, má có thực sự nghĩlà Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy sẽ núp trong một kệ sách trong tiệm Flourish và Blotts không?” Ron cười khì. “Chứ ông Fortescue và ông Ollivander chỉ đi nghỉ hề thôi, hả?” Bà Weasley phản công lại tức thì. “Nếu con nghĩ an ninh là chuyện giỡn chơi thì con có thể ở nhà và má sẽ tự đi mua mọi thứ dùm con…” “Không, con muốn đi, con muốn xem cái tiệm giỡn của anh Fred và George.” Ron vội vã nói. “Vậy thìcậu chỉ cần thắt đai an toàn những ý tưởng của cậu lại, cậu trẻ à, trước khi tôi quyết định là cậu còn quá non nớt không thể cùng đi với chúng tôi!” Bà Weasley giận dữ nói, chụp lấy cái đồng hồ của bà, tất cả chín cây kim đồng hồ đều chỉ vào chữ nguy hiểm chết người -“và hãy liệu hồn cảnh giác như thế luôn trong cả chuyện trở về nhập học trường Hogwarts!” Ron trợn mắt quay sang ngó Harry chòng chọc, trong khi mẹ nó hai tay bưng cái giỏ đồ cần giặt và cái đồng hồ ngồi chông chênh trên đó, đùng đùng đi ra khỏi phòng. “Ôi trời… Ở đây giỡn một chút cũng không được nữa rồi…” Nhưng Ron cũng cẩn thận không nói năng báng bổ về Voldermort trong mấy ngày kế đó. Ngày thứ bảy ló dạng mà không nổ ra thêm cơn giận nào của bà Weasley, mặc dù bà có vẻ rất căng thẳng trong bữa điểm tâm. Anh Bill sẽ ở nhà với Fleur (khiến Hermione và Ginny mừng húm). Anh chuyền ngang qua mặt bàn một bịch đầy tiền cho Harry. “Phần của em đâu?” Ron đòi hỏi ngay lập tức, hai mắt mở to. “Đây là tiền của Harry, ngốc ạ.” Anh Bill nói. “Harry, anh đã rút tiền trong kho của em ra dùm em, bởi vì dạo này công chúng muốn rút vàng ra khỏi nhà băng phải mất tới năm tiếng đồng hồ. Các yêu tinh nhà băng đã thắt chặt kiểm soát an ninh. Cách đây hai ngàyArkie Philport bị gắn một cái bùa Khảo sát trung thực… Thôi, cứ tin anh đi, cách này dễ hơn.” “Cám ơn anh Bill,” Harry nói, nhét bịch vàng vô túi. “Anh ới luôn luôn chu đáo,” Fleur vừa vuốt mũi Bill vừa rù rì một cách trìu mến. Ginny diễn kịch câm ói vô cái chén bột điểm tâm của nó đằng sau lưng Fleur. Harry mắc nghẹn miếng bánh bột bắp, còn Ron thìđấm thùm thụp lên lưng Harry. Hôm đó là một ngày đầy mây ảm đạm. Một trong mấy cái xe của Bộ Pháp thuật, cái mà Harry từng đi trước đây, đang chờ ở trước sân khi họ vừa kéo áo choàng trùm kín người vừa nhô ra khỏi nhà. “Thiệt hay là ba có thể kiếm cho tụi mình những thứ này một lần nữa,” Ron nói giọng tán dương, vươn duỗi một cách phè phỡn trong lúc chiếc xe chạy êm ru ra khỏi Hang Sóc, Bill và Fleur vẫy tay chào họ từ cửa sổ nhà bếp. Ron, Harry, Hermione và Ginny cũng nhau ngồi thoải mái ở băng ghế sau rộng rãi. “Đừng có nhiễm thói quen đó, chẳng qua là vì Harry thôi,” ông Weasley nói vọng ra sau. Ông và bà Weasley ngồi ở băng ghế trước với tài xế của Bộ; Ghế hành khách ở hàng đầu đã được kéo ra thành một thứ giống như ghế sofa hai chỗ. “Harry được đặt ở tình trạng bảo vệ cao nhất. Rồi chúng ta sẽ còn có thêm bổ sung an ninh ở Hẻm Xéo.” Harry không nói gì; nó không mê gì lắm chuyện mua sắm mà cứ bị một tiểu đoàn Thần Sáng vây quanh. Nó đã nhét tấm Áo khoác tàng hình vào cái ba lô
  • 26. của mình và cảm thấy rằng, nếu cụ Dumbledore nghĩ làm như vậy là tốt, thì Bộ Pháp thuật ắt cũng cho là tốt, mặc dù khi nghĩ như vậy, nó không biết chắc là Bộ có biết về tấm Áo khoác tàng hình của nó không. Một thoáng sau, nhanh đến nỗi đáng ngạc nhiên, người lái xe mở miệng, lần đầu tiên, trong khi vẫn lái cho xe chậm lại trên đường Charing Cross rồi đậu ngay bên ngoài quán Cái Vạc Lủng: “Đấy, quívị đã đến nơi. Tôi sẽ chờ quívị, có biết quívị sẽ đi bao lâu không?” “Tôi chắc chừng hai tiếng đồng hồ,” ông Weasley nói. “A, hay quá, ông ta kìa!” Harry bắt chước ông Weasley thò đầu ra ngoài cửa sổ xe, tim nó nhảy thót lên. Chẳng thấy Thần Sáng nào canh gác bên ngoài quán cả, nhưng thay vào đó là bóng dáng khổng lồ với bộ râu đen của bác Hagrid, người giữ sân của trường Hogwarts. Bác mặc một cái áo khoác dài bằng da hải ly, cười toe toét khi thấy mặt Harry và hiển nhiên là khiến đám bộ hành Muggle kinh ngạc. “Harry!” Bác kêu oang oang, vừa lướt nhanh tới cuốn Harry vào trong một cái ôm siết thân thương đến gãy xương, khi nó mới bước ra khỏi chiếc xe. “Buckbeak – tức là Whiterwings ấy - ừ, con phải gặp nó, Harry à, nó vui hết cỡ khi được trở về sống ngoài trời...” “Nó vui là mừng rồi,” Harry nói, nhăn răng cười trong khi xoa nắn mấy khớp xương sườn của mình. “Tụi con đâu dè ’an ninh’ lại là bác!” “Bác biết, giống như hồi xưa, đúng hông? Biết hông, Bộ Pháp thuật tính đặc phái một đám Thần Sáng, nhưng cụ Dumbledore nói bác làm được tất,” bác Hagrid nói một cách tự hào, ngực bác phồng lên, và hai ngón tay cái ngéo vào mép túi áo. “Nào, chúng ta đi... Xin mời đi trước thưa ông Arthur và bà Molly...” Quán Cái Vạc Lủng hoàn toàn trống vắng, lần đầu tiên, theo trí nhớ của Harry. Chỉ có ông Tom chủ quán, người khô xác lại không răng, là người còn sót lại của đám đông ngày xưa. Ông ta ngước nhìn lên tràn trề hy vọng khi đám Harry bước vào quán, nhưng trước khi ông ta kịp mở miệng, bác Hagrid đã trịnh trọng nói: “Bữa nay chỉ đi ngang qua thôi, ông Tom à, chắc ông hiểu rồi, công tác Hogwarts, ông biết đấy.” Ông Tom gật đầu buồn bã và quay ra lau mấy cái ly; Harry, Hermione, bác Hagrid, và đám Weasley đi băng qua quán để ra một cái sân nhỏ lạnh lẽo ở đằng sau quán, nơi để mấy thùng rác. Bác Hagrid giơ cây dù hồng của bác lên và gõ một viên gạch nào đó trên tường, bức tường nứt ra ngay tức thì, tạo thành một cái cổng vòm mở ra một con đường lát gạch quanh co. Họ bước qua cổng và nhìn quanh. Hẻm Xéo đã thay đổi. Những cửa hàng lộng lẫy sặc sỡ màu sắc trưng bày sách thần chú, nguyên liệu Độc dược và chảo vạc đã bị khuất tầm nhìn sau những áp phích vĩ đại của Bộ Pháp thuật giăng áng hết những mặt tiền cửa hàng. Hầu hết những áp phích tím thẫm âm u này in phiên bản phóng lớn của những lời khuyên an ninh trong tờ bướm Bộ Pháp thuật đã gởi đi khắp nơi suốt mùa hè; nhưng cũng có mấy tấm áp phích khác trưng ra những bức ảnh đen trắng cử động được của những Tử thần thực tử được biết là đang đào tẩu. Mụ Bellatrix Lestrange đang nhếch môi cười khinh khỉnh ở mặt tiền một tiệm thuốc gần đó nhất. Một số cửa hàng đã bị đóng ván niêm phong, bao gồm tiệm kem của ông Florean Fortescue. Nhưng mặt khác, một số quầy hàng trông nhếch nhác lại mọc rộ lên dọc theo con đường. Cái quầy gần đó nhất, được dựng lên ngay bên ngoài nhà sách Flourish và Blotts, phía dưới một tấm vải bạt sọc rằn lem luốc, có một tấm bảng hiệu bằng giấy bồi gài ở phía trước: Bùa Hộ mạng: chống Nười sói, Giám ngục, và Âm binh hiệu quả Một pháp sư nhỏ thó vẻ tiều tụy đang lúc lắc một mớ những biểu tượng bằng bạc xâu thành chuỗi để mời khách qua đường. “Một cái cho cô gái nhỏ của bà nhé?” Lão chào mời bà Weasley khi họ đi ngang, mắt lão liếc đểu Ginny. “Để bảo vệ cái cổ nõn nà của cô bé nhé?” “Nếu tôi mà đang thi hành nhiệm vụ...” Ông Weasley trừng mặt giận dữ ngó lão ban bùa hộ mệnh. “Ừ, nhưng đừng có đi bắt ai lúc này, anh yêu ạ, chúng ta đang vội,” bà Weasley nói, lo lắng tham khảo một cái danh sách những thứ cần mua sắm. “Má nghĩchúng ta nên đến tiệm Bà Malkin’s trước tiên, Hermione muốn mua vài tấm áo chùng mới, áo chùng cũ đi học của Ron cũng đã ngắn hổng mắt cá nó quá nhiều rồi, và con cũng cần áo mới nữa, Harry à, con cũng lớn nhanh quá... Naod, mọi người, đi nào...” “Molly à, mọi người cũng kéo đến tiệm Bà Malkin’s thìchẳng hợp lý chút nào. Tại sao không để ba đứa nó tới đó cùng với bác Hagrid, còn chúng ta thìđi đến tiệm Flourish và Blotts để mua sách cho tất cả tụi nó?” “Em không biết,” bà Weasley lo lắng nói, rõ ràng là bị giằng co giữa ước muốn mua sắm cho thiệt nhanh với mong muốn bám nhau thành một đoàn. “Bác Hagrid, bác nghĩsao?...” “Đừng sơ, chị Molly, tụi nó đi với tôi được mà,” bác Hagrid nói một cách dịu dàng, quơ quơ một bàn tay lông lá to bằng cái nắp thung rác. Bà Weasley có vẻ không được thuyết phục hoàn toàn, nhưng cũng cho phép xẻ đàn, rồi gấp rút đi về phía tiệm Flourish và Blotts cùng chồng và Ginny, trong khi Harry, Ron, Hermione và bác Hagrid đi về phía tiệm Bà Malkin’s. Harry để ý thấy nhiều người đi ngang qua tụi nó cũng có cái vẻ lo âu, phiền muộn như bà Weasley, và không ai dừng chân trò chuyện nữa; những người mua sắm đi cùng nhau thành từng nhóm và bám nhau chặt chẽ, lăm lăm đi lo cho xong công việc của mình. Dường như chẳng có ai đi bát phố mua sắm một mình. “Tất cả cùng vô đó thì hơi chạt một tí,” bác Hagrid nói, dừng chân bên ngoài tiệm Bà Malkin’s và cúi xuống dòm qua cửa sổ. “Bác đứng canh bên ngoài, được hông?” Thế là Harry, Hermione và Ron cùng nhau đi vô cái tiệm nhỏ. Thoạt nhìn thì thấy có vẻ như tiệm vắng khách, nhưng ngay sau khi cánh cửa tiệm mở ra rồi khép lại sau lưng, chúng đã nghe một giọng nói quen thuộc phát ra từ sau một dãy giá treo áo chùng viền màu xanh lục và xanh lơ. “...không còn con nít nữa, trong trường hợp mẹ không nhận ra, mẹ à. Con hoàn toàn đủ khả năng tự đi mua sắm một mình!” Có tiếng tạc lưỡi nghe như gà mái cục tác và một giọng nói mà Harry nhận ra là giọng của bà Malkin, chủ tiệm. “Ấy, cậu thân mến, mẹ của cậu hoàn toàn đúng đấy, chẳng ai trong chúng ta lại tính chuyện đi lang thang một mình vào thời buổi này nữa, cái đấy thìkhông liên quan gìđến chuyện còn con nít...” “Để ý tới chỗ bà đâm cái kim gài ấy, được không?” Một thằng tuổi mới lớn có gương mặt nhọn trắng nhợt nhạt và mái tóc vàng ánh trắng hiện ra đằng sau giá treo áo, nó mặc một bộ áo chung thanh lịch màu xanh lục sậm lấp lánh kim gài quanh lai và đường viền tay áo. Nó rảo bước đến tấm gương soi và tự ngắm nghía mình; chỉ tích tắc sau là nó nhận thấy Harry, Hermione và Ron trong gương, sau lưng nó. Đôi mắt xám của nó híp lại. “Nếu mẹ thắc mắc cái mùi gìthum thủm, mẹ à, ấy là vìmột con Máu bùn vừa bước vô tiệm,” Draco Malfoy nói. “Tôi cho là không cần thiết phải dùng ngôn ngữ như thế,” bà Malkin nói, vội vàng bước ra từ phía sau giá treo quần áo, tay cầm một cuộn thước dây và một cây đũa phép. “Và tôi cũng không muốn có đũa phép chĩa ra trong tiệm của tôi!” Bà hấp tấp nói thêm, khi liếc về phía cửa và thấy cả Harry lẫn Ron đang đứng đó rút đũa phép ra chĩa về phía Malfoy. Hermione đưng hơi khuất đằng sau hai đứa này, khẽ nói: “Đừng, ôi xin đừng... thực lòng, chẳng đáng...” “Chà, coi bộ chúng mày dám xài Pháp thuật ở ngoài trường ha,” Malfoy khinh khỉnh nói. “Ai làm bầm mắt mày thế, Hermione? Tao muốn gởi hoa tặng kẻ đó.” “Thôi đủ rồi,” bà Malkin nói giọng sắc đanh, vừa ngoái nhìn ra sau để tìm sự hỗ trợ. “Thưa bà, xin vui lòng...” Bà Narcissa Malfoy thong thả bước ra từ đằng sau giá treo áo. “Dẹp mấy thứ đó đi!” Bà ta lạnh lùng nói với Harry và Ron. “Nếu chúng mày tấn công con trai tao một lần nữa, tao sẽ cam đoan đó sẽ là hành động cuối cùng trong đời chúng mày.” “Thiệt hả?” Harry tiến tới trước một bước và đăm đăm nhìn vào gương mặt kiêu căng phẳng lì tuy tái nhợt nhưng vẫn giống y gương mặt của bà chị. Bây giờ Harry đã cao bằng bà ta. “Sắp kêu thêm vài tên Tử thần thực tử chícốt đến thanh toán chúng tôi chứ gì?”
  • 27. Bà Malkin rú lên và ép chặt trái tim. “Thực tình, cậu không nên cáo buộc... nói thế là nguy hiểm... làm ơn cất đũa phép đi!” Nhưng Harry chẳng chịu hạ thấp cây đũa phép của nó. Narcissa Malfoy mỉm cười khó chịu. “Tao nhận thấy việc là một học trò cưng của lão Dumbledore đã khiến cho mày có ý thức sai lầm về sự an toàn, Harry Potter à. Nhưng lão Dumbledore đâu có thể lúc nào cũng có mặt để bảo vệ mày.” Harry ngó quanh cái tiệm vẻ chế giễu: “Chà... nhìn quanh coi... cụ không có mặt ở đây lúc này! Thế tại sao còn chưa ra tay? Biết đâu họ có thể kiếm ra một buồng giam đôi trong nhà ngục Azkaban cho bà và ông chồng chiến bại của bà!” Malfoy làm một cử động tức giận về phía Harry, nhưng vấp té phải vạt áo chùng dài quá khổ mà nó đang mặc. Ron bật cười to. “Mày dám nói năng như vậy với mẹ tao hả, thằng Potter?” Malfoy gầm gừ. “Không hề gì Draco,” Narcissa nói, quặp mấy ngón tay trắng gầy của mình lên vai thằng con. “Mẹ chờ coi thằng Potter sẽ sum họp với thằng chú Sirius yêu dấu của nó trước khi mẹ tái hợp với ba Lucius.” Harry giơ cây đũa phép của nó cao hơn. “Harry, đừng!” Hermione rên rỉ, chụp lấy cánh tay nó và cố gắng kéo xuôi xuống bên hông. “Hãy suy nghĩ... Bồ còn phải... Bồ sẽ bị rắc rối...” Bà Malkin run cầm cập tại chỗ mất một lúc, rồi dường như quyết định phải hành động như thể không có chuyện gì đang xảy ra, với hy vọng là sẽ không xảy ra chuyện gì. Bà cúi xuống về phía Malfoy, nó vẫn đang trừng mắt nhìn Harry. “Tôi cho là ống tay áo trái có thể được vén lên thêm một chút xíu nữa thôi, cậu à, hãy để tôi...” “Ui!” Malfoy rống lên, vả bàn tay bà Malkin bật ra. “Để mắt tới chỗ bà găm kim vô chứ, mụ! Mẹ... con nghĩcon không muốn bộ đồ này nữa...” Nó kéo tấm áo chùng qua khỏi đầu và quăng trả xuống sàn ngay chân bà Malkin. “Con đúng đấy, Draco,” Narcissa nói, kèm một cái liếc miệt thị về phía Hermione. “Bây giờ mẹ đã biết loại cặn bã nào mua sắm ở tiệm này... Chúng ta sẽ sắm được đồ tốt hơn ở tiệm Twilfit và Tatting’s.” Và nói thế xong, cả hai mẹ con rảo bước ra khỏi tiệm, Malfoy cố tình ra sức tông thiệt mạnh vô Ron trên đường đi ra cửa. “Chà, thiệt tình!” Bà Malkin nói, gom mớ áo chùng rớt dưới sàn và rà đầu cây đũa phép của bà khắp áo như một cái máy hút bụi để phụi hết bụi bặm. Bà bị hoang mang suốt buổi thử áo cho Ron và Harry, định bán cho Hermione áo chùng pháp sư thay vì áo thụng phù thủy, và cuối cùng khi bà cúi chào tiễn tụi nó ra khỏi tiệm, sắc mặt bà sáng lên niềm vui được nhìn thấy cái lưng của tụi nó. “Sắm đủ thứ rồi hả?” Bác Hagrid hớn hở hỏi khi thấy tụi nó xuất hiện bên cạnh. “Kể như đủ,” Harry nói. “Bác có thấy thằng Malfoy không?” “Có,” bác Hagrid nói, chẳng bận tâm. “Nhưng tụi nó chẳng dám gây chuyện giữa Hẻm Xéo đâu, Harry. Đừng lo tới tụi đó.” Harry, Ron và Hermione nhìn nhau, nhưng trước khi chúng có thể làm cho bác Hagrid nhận ra quan niệm của bác là sai lầm, ông bà Weasley và Ginny đã xuất hiện, người nào cũng tay xách nách mang những gói sách nặng ịch. “Mọi người ổn cả chứ?” Bà Weasley nói. “Mua áo chùng chưa? Vậy tốt, chúng ta có thể ghé qua tiệm thuốc Apothecary và Eeylopháp sư trên đường đến tiệm của Fred và George – Nào, đi sát vô nhau...” Cả Harry và Ron đều không mua chút nguyên liệu nào ở tiệm thuốc, vì nghĩ rằng chúng chẳng còn học môn Độc dược nữa, nhưng ở chợ Cú Eeylopháp sư, cả hai mua mấy hộp hạt cú to để làm quà cho Hedwig và Pigwidgeon. Kế đến, với bà Weasley kiểm tra cái đồng hồ của bà, chừng mỗi một hai phút một lần, mọi người đi tới dọc con đường để tìm tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley, một tiệm giỡn do Fred và George điều hành. “Chúng ta thực tình chẳng còn nhiều thời gian,” bà Weasley nói, “cho nên chúng ta chỉ tham quan ngắn gọn rồi trở về xe. Chúng ta phải đi sát vào nhau, kia là số chín mươi hai... chín mươi tư...” “Chu choa!” Ron nói, dừng bước trên đường đi. Nổi bật lên đám cửa hàng bị bao bọc bởi đám áp phích chán phèo, cửa hàng của Fred và George đập vô mắt người ta cảnh tượng giống như trình diễn pháo hoa. Khách bộ hành vô tình đi ngang đều ngoái đầu nhìn cửa hàng, và một số người có vẻ bị choáng váng đã thực sự dừng bước, ngẩn ngơ. Cửa sổ bày hàng bên trái làm hoa mắt người ta bằng đủ loại sản phẩm cứ chỏi dậy, nổ ra, lóe sáng, nảy tưng tưng, và gào rú; Harry bắt đầu nhòe nước mắt khi nhìn cửa hàng này. Cửa sổ bày hàng bên phải bị che bởi một tấm áp phích khổng lồ, màu tím giống như những tấm áp phích của Bộ Pháp thuật, nhưng được làm nổi bật lên những chữ màu vàng chớp nhá sau: Tại sao Quívị lại lo lắng về Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy? Quívị nên lo lắng về AI-CŨNG-KHÔNG-Ị Cái cảm giác táo bón đang kìm kẹp đất nước Harry bắt đầu cười lớn. Nó nghe một giọng ca cẩm yếu ớt bên cạnh và nhìn thấy bà Weasley đứng chết lặng dưới tấm áp phích. Môi bà mấp máy không thành tiếng khi cố đọc “AI-CŨNG-KHÔNG-Ị” “Tụi nó sẽ bị ám sát ngay trên giường ngủ!” Bà thìthào. “Không đời nào họ bị!” Ron nói, cũng giống như Harry, nó đang cười. “Cái này thiệt là thông minh!” Và nó cùng Harry dẫn đầu cả đám vô tiệm. Khách hàng đông chật cửa tiệm; Harry không thể nhích tới gần mấy cái kệ để hàng. Nó trố mắt nhìn chung quanh, ngước lên mấy cái hộp chất cao đến trần nhà: đây là những hộp Quà vặt Cúp cua mà hai anh em đã hoàn thiện trong niên học cuối dở dang của họ ở trường Hogwarts; Harry nhận thấy kẹo Nuga Máu cam rất được ưa chuộng, chỉ còn lại mỗi một hộp bị móp trên kệ. Có những cái thùng đựng đầy những cây đũa phép bịp, những cây rẻ nhất khi vung vẩy chỉ biến thành gà cao su hay một đôi quần đùi, cây mắc tiền nhất thì nện lên đầu lên cổ những người thiếu cảnh giác, và mấy hộp viết lông ngỗng được bày bán thành ba loại: Tự-bơm-mực, Tự-kiểm-tra-chính-tả, và Trả-lời-thông-minh. Có một chỗ hở trong đám đông, Harry bèn chen vô tiến về phía quầy tính tiền, nơi có một đám nhóc mười tuối loi choi hí hửng đứng xem một người gỗ nhỏ xíu đang từ từ leo lên cầu thang đến một bộ giá treo cổ, cả hai đều đặt trong một cái hộp có hàng chữ: Người treo cổ xài nhiều lần - Ếm đi kẻo hắn đánh đu! “Bùa Mơ mộng độc quyền sáng chế...” Hermione đã xoay sở chen tới được một chỗ trưng bày lớn gần quầy tính tiền và đang đọc thông tin trên nắp một cái hộp có vẽ một bức tranh màu sắc chói lọi của một chàng trẻ tuổi đẹp trai và một cô gái đẹp mê hồn đang đứng trên boong của một chiếc tàu cướp biển. “Chỉ một câu thần chú đơn giản và quí vị sẽ đi vào ba mươi phút mơ mộng cự kỳ thực, chất lượn tuyệt vời, dễ dàng gắn với một buổi học trung bình ở trường và hầu như khó lộ tẩy (tác dụng phụ bao gồm hồn phi phách tan và nhỏ dãi chút đỉnh), không bán cho người dưới mười sáu tuổi.” “Bồ biết đấy,” Hermione ngước lên nhìn Harry, nói, “đó thực sự là một trò ảo thuật phi thường!” “Vìthế, Hermione à,” một giọng nói vang lên đằng sau hai đứa, “em có thể được một cái miễn phí.” Một anh chàng Fred toe toét cười đang đứng trước mặt tui nó, mặc một bộ áo chùng màu đỏ tươi đối chọi một cách lộng lẫy với mái tóc hung rực rỡ. “Khỏe không, Harry?” Hai người bắt tay nhau. “Và con mắt em sao vậy Hermione?” “Cái kính thiên văn thụi của anh,” cô nàng nói một cách thảm não. “Ối, anh quên béng mất mấy cái đó,” Fred nói. “Đây...” Fred lấy trong túi ra một cái bình đưa cho Hermione; cô nàng thận trọng vặn mở cái nắp để lộ ra một chất đặc sệt màu vàng. “Chỉ cần chấm chấm nhẹ lên vết bầm, nó sẽ biến mất trong vòng một tiếng đồng hồ,” Fred nói. “Bọn anh đã phải tìm ra một loại thuốc tẩy bầm đứng đắn.
  • 28. Bọn anh đã thử nghiệm hầu hết sản phẩm lên chính mình.” Hermione tỏ ra lo lắng. “Thế có an toàn không?” “Dĩnhiên là an toàn,” Fred nói, giọng cam đoan. “Lại đây, Harry, anh dẫn em đi tham quan một vòng.” Harry để mặc Hermione chấm chấm thuốc tẩy bầm lên con mắt đen thùi, đi theo Fred về phía sau của cửa hàng, nơi nó thấy một quầy toàn những trò mánh bằng dây thừng và lá bài. “Mánh ảo thuật của dân Muggle!” Fred vui vẻ nói, lật tẩy chúng ra, “dành cho những người hâm mô kiểu ba anh, em biết đấy, ổng khoái đồ tác tạo của dân Muggle lắm. Không kiếm lời lớn, nhưng bọn anh đang làm ăn khấm khá, là hàng cực mới đó... Ô, George kìa...” Người anh sinh đôi của Fred bắt tay Harry thật chặt. “Đang tham quan hả? Đi ra đằng sau đi, Harry, đó mới là nơi tụi này kiếm tiền thực sự - cứ bỏ túi bất cứ thứ gìđi, nhóc, rồi sẽ phải nộp vô nhiều hơn bạc Galleon! ” Fred cảnh báo một thằng nhóc đang vội vã rút tay khỏi một cái bình có nhãn Dấu hiệu Hắc ám Ăn được – Chúng sẽ làm cho bất kỳ ai cũng phát bệnh! George đẩy vẹt một tấm màn bên cạnh những trò mánh của dân Muggle ra và Harry thấy một căn phòng vắng khách hơn, tối hơn. Bao bì của những sản phẩm sắp hàng trên kệ coi ít hung hăng khiêu khích hơn. “Bọn anh vừa mới phát triển mặt hàng nghiêm túc hơn này,” Fred nói. “Chuyện này xảy ra mới thiệt là tức cười...” “Em không thể nào tin nổi đâu, là có bao nhiêu người, kể cả những người làm việc ở Bộ Pháp thuật, không thể nào ếm nổi một lá Bùa chắn cho tử tế,” George nói. “Dĩnhiên, Harry à, tại họ đâu có được em dạy cho đâu.” “Đúng vậy... À, thế này, bọn anh nghĩ mấy cái Nón chắn là một trò vui, em biết đấy, đội nón vô rồi thách thằng bạn ếm xì bùa mình, rồi ngó cái bộ mặt nó bị bùa dội ngược lại. Vậy mà Bộ Pháp thuật mua năm trăm cái phát cho tất cả các cộng tác viên hỗ trợ của Bộ! Và bọn anh còn tiếp tục nhận đơn đặt hàng hàng loạt!” “Thành ra bọn anh mở rộng mặt hàng ra Áo khoác chắn, Găng tay chắn...” “...Nghĩa là, chúng chẳng được tích sự gì lắm trong việc chống lại lời Nguyền Không thể tha thứ, nhưng xài được với mấy lời rủa xả, tà ma từ loại nhảm đến trung bình...” “Và rồi bọn anh nghĩ bọn anh nên nhảy vô toàn bộ lĩnh vực Phòng chống nghệ thuật hắc ám, bởi vì đó quả là một mỏ vàng,” George nói tiếp một cách say sưa nhiệt thành. “Cái này hay. Này nhé, Bột tối hù ăn liền, bọn anh nhập khẩu từ Peru. Rất tiện lợi nếu em muốn chuồn nhanh.” “Và Pháo đánh lạc hướng của bọn này vừa mới chạy khỏi kệ, coi nè,” Fred nói, chỉ vào một số vật thể như cái còi ô tô màu đen coi rất quái dị, mấy vật này quả thật đang cố gắng lủi nhanh khỏi tầm mắt. “Em chỉ cần bímật thả một viên, nó sẽ chạy biến đi và nổ một cái đùng đã lỗ tai ở ngoài tầm mắt, đánh lạc hướng dùm em nếu em cần chiến thuật nghi binh.” “Tiện dụng thật,” Harry nói, rất ấn tượng. “Đây,” George nói, bắt được hai viên và quăng chúng cho Harry. Một phù thủy trẻ có mái tóc vàng ngắn thò đầu qua bức màn; Harry thấy cô ta cũng mặc áo chùng đỏ tươi của nhân viên cửa hàng. “Thưa ông Weasley và ông Weasley, có một khách hàng ngoài kia đang tìm một cái vạc giỡn.” Harry thấy hơi kỳ cụ khi Fred và George được gọi là “ông Weasley”. Nhưng hai anh chàng coi đó là nề nếp kinh doanh. “Tốt đấy, Verity, tôi ra liền.” George nói ngay, “Harry, em cứ tự tiện muốn lấy gìthìlấy, được chứ? Không tính tiền.” “Em không làm vậy được!” Harry nói; nó đã móc cái túi tiền ra để trả cho mấy viên Pháo đánh lạc hướng. “Ở đây em không cần trả tiền,” Fred kiên quyết, phủi vàng của Harry đi. “Nhưng…” “Em đã cho bọn anh vay món tiền khởi nghiệp, bọn anh không bao giờ quên,” George nghiêm nghị nói. “Cứ lấy bất cứ thứ gìem thích, chỉ cần nhớ nói với người ta nơi mà em kiếm ra mấy món hàng, nếu họ hỏi.” George lướt nhanh qua bức màn để đi tiếp khách, Fred dẫn Harry trở lại gian chính của cửa hàng để tìm Hermione và Ginny vẫn còn đang mải mê ngắm Bùa Mơ mộng độc quyền sáng chế. “Quícô nương đã thấy sản phẩm đặc biệt Phù thủy tuyệt vời của chúng tôi chưa?” Fred hỏi. “Xin mời quícô nương…” Gần cửa sổ là một dãy những sản phẩm hồng thắm sắp xếp ngay ngắn mà một đám con gái háo hức đang xúm xít chung quanh, khúc khích cười có vẻ hứng chílắm. Cả Hermione và Ginny đều muốn lùi lại, trông có vẻ lo lắng. “Đây thưa các cô,” Fred nói, “loại yêu được hay nhất mà các cô không thể tìm thấy ở bất cứ đâu.” Ginny nhướn một chân mày lên ngờ vực. “Có hiệu lực không?” Nó hỏi. “Chắc chắn là có hiệu lực, cho tới tối da hai mươi bốn giờ một lần xài, tùy theo trọng lượng của chàng trai được nói tới…” “…và tùy sức hấp dẫn của cô gái,” George nói, tái xuất hiện bất ngờ bên cạnh bọn họ. “Nhưng bọn anh sẽ không bán món này cho cô em gái của mình đâu,” nó nói thêm, trở nên nghiêm trang đột ngột. “Không thể, khi mà cô bé đã có chừng năm chàng trai cùng ngấp nghé, theo như bọn anh nghe đồn…” “Dù các anh nghe gì đi nữa từ miệng Ron thì đó cũng chỉ là chuyện dóc tổ,” Ginny bình tĩnh nói, chồm tới trước để lấy một bình nhỏ màu hồng ra khỏi kệ. “Cái gìđây?” “Thuốc Cam đoan tan mụn trong mười giây,” Fred nói. “Hiệu nghiệm thần sầu trên mọi thứ từ nhọt đinh đến mụn trứng cá, nhưng đừng có đổi đề tài. Em có đang hẹn hò với một chàng trai tên là Dean Thomas hay không đấy?” “Có,” Ginny nói. “Và lần cuối cùng em ngó thìnó chắc chắn chỉ là một thằng, không phải năm thằng. Mấy cái kia là gì?” Cô nàng chỉ vào một số những trái banh bằng bông tròn màu hồng và tím, tất cả lăn tròn chung quanh đáy của một cái chuồng và phát ra tiếng kêu lanh lảnh. “Bông Thoa Lùn,” George nói. “Bòng bòn xốp tíhon, bọn anh không nhân giống chúng kịp tốc độ tiêu thụ. Thế anh chàng Micheal Corner thìsao?” “Em vứt nó vô thùng rác rồi, nó là thằng tồi,” Ginny nói, thò một ngón tay qua song chắn của cái chuồng và ngắm mấy con Bông Thoa Lùn bu chung quanh. “Mấy con này thiệt dễ thương.” “Ừ, chúng hơi nhõng nhẽo,” Fred thừa nhận. “Nhưng em thay bạn trai có hơi lẹ, đúng không?” Ginny quay lại nhìn ông anh, hai bàn tay cô bé chống nạnh. Có một cái quăc mắt kiể Bà-Weasley trên mặt cô bé mà Harry ngạc nhiên thấy Fred chẳng chùn bước chút nào. “Mắc mớ gì tới anh hả? Và tôi sẽ cám ơn anh, nếu đừng có bịa thêm chuyện về tôi với hai người này nữa,” cô bé giận dữ nói thêm với Ron, anh chàng này vừa mới hiện ra bên cạnh George, hai tay vác đầy hàng hóa. “Hết thảy ba Galleon, chín Sickle, một Knut,” Fred kiểm tra mấy cái hộp trong tay Ron và nói. “Nhả ra.” “Em là em của anh mà!” “Và đó là đồ của bọn anh mà em đang xoáy. Ba Galleon, chín Sickle.Anh sẽ bớt cho một Knut.” “Nhưng mà em đâu có ba Galleon, chín Sickle!” “Thìtốt hơn em nên trả những thứ đó lại, và phiền em để lại đúng kệ giùm.” Ron làm rớt mấy cái hộp, chửi um lên, và làm một cử chỉ thô lỗ bằng tay về phía Fred, rủi thay lại bị bà Weasley bắt quả tang, bà đã chọn thiệt đúng lúc để xuất hiện. “Nếu má thấy con làm như vậy lần nữa, má sẽ trù cho ngón tay con dính vô nhau,” bà đanh giọng nói.
  • 29. “Má, con lấy một con Bông Thoa Lùn được không?” Ginny nói ngay. “Con gì?” Bà Weasley hỏi, giộng cảnh giác. “Coi nè, tụi nó dễ thương ghê...” Bà Weasley đi tới bên cạnh để ngắm mấy con Bông Thoa Lùn, và Harry, Ron cùng Hermione được một lúc nhìn ra cửa sổ mà không bị cản trở. Draco Malfoy đang một mình vội vã băng qua đường. Khi nó đi ngang qua tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley, nó liếc nhìn lại một cái. Chớp mắt sau đó nó đã đi ra khỏi tầm nhìn từ khuôn cửa sổ và tụi nhỏ không còn thấy nó nữa. “Không biết mẹ nó đâu ta?” Harry cau mày, nói. “Coi bộ bả để tuột mắt khỏi nó rồi,” Ron nói. “Nhưng mà tại sao?” Hermione hỏi. Harry không nói gì; nó đang suy nghĩ dữ dội. Bà Narcissa Malfoy sẽ không đời nào tự nguyện để cho cậu quí tử ra khỏi tầm mắt của mình; ắt hẳn là Malfoy đã phải cố gắng dữ lắm mới vùng ra được khỏi sự túm chặt của bà mẹ. Vìquá biết và quá tởm Malfoy, Harry chắc chắn nguyên nhân không hẳn là vô tư. Nó liếc nhìn quanh. Bà Weasley và Ginny đang cúi xuống xem mấy con Bông Thoa Lùn. Ông Weasley thì kiểm tra một cách vui sướng một bộ bài Muggle có đánh dấu. Cả Fred và George đều đang phục vụ khách hàng. Bên ngoài lớp cửa kính, bác Hagrid đang đứng quay lưng lại, nhìn lên ngó xuống con đường. “Chui vô đây, nhanh lên,” Harry nói, rút cái Áo khoác tàng hình ra khỏi ba lô. “Ôi… mình không biết, Harry à,” Hermione nói, vừa hoang mang nhìn về phía bà Weasley. “Thôi đi nào,” Ron nói. Cô bé ngập ngừng thêm một giây, rồi chui xuống dưới tấm áo khoác cùng với Harry và Ron. Không ai để ý tụi nó tàng hình; họ còn mải mê với những sản phẩm của Fred và George. Harry, Ron và Hermione chen lấn đi ra cửa nhanh hết cỡ, nhưng vào cái lúc tụi nó ra tới mặt đường, thì Malfoy đã mất dạng, tài tình y như kiểu tụi nó vừa tàng hình vậy. “Nó đi về hướng đó đó,” Harry thìthầm thật khẽ, để cho bác Hagrid đang ư ử ngân nga không nghe được. “Đi nào.” Tụi nó vội vàng đi dọc theo con đường, ngó trái ngó phải, qua cửa cái cửa sổ của các cửa tiệm, cho đến khi Hermione chỉ về phía trước. “Nó kìa, đúng không?” Cô bé thìthầm. “Quẹo trái nhé?” “Quá ngạc nhiên,” Ron thìthầm. Bởi vìchúng thấy Malfoy liếc nhìn quanh quât, rồi lẻn vào hẻm Knockturn, và mất dạng. “Nhanh lên, kẻo tụi mình mất dấu nó,” Harry vừa nói vừa rảo bước nhanh hơn. “Coi chừng chân tụi mình bị thấy!” Hermione lo lắng nói, khi tấm Áo khoác tàng hình đánh lật phật vô mắt cá chân của tụi nó; Cũng thiệt khó cho cả ba đứa nó giờ đây cùng trốn dưới một tấm áo khoác. “Không sao,” Harry sốt ruột nói. “Chỉ cần đi gấp lên!” Nhưng hẻm Knockturn, con đường ngang dành cho Nghệ thuật Hắc ám trông hoàn toàn vắng ngắt. Đi ngang qua cửa sổ nào tụi nó cũng ngó vô. Nhưng không một cửa hàng nào có vẻ có khách hàng cả. Harry nghĩ trong thời buổi nguy hiểm và mập mờ này mà mua, hay ít nhất bị nhìn thấy mua vũ khí Hắc ám, thìchẳng khác nào tự tố cáo mình. Bỗng Hermione véo mạnh vô cánh tay của nó. “Ui!” “Suỵt! Nhìn kìa! Nó ở trong đó!” Cô bé thìthào vào tai Harry. Tụi nó đã tới ngang cái cửa hàng duy nhất trong hẻm Knockturn mà Harry từng vào, tiệm Borgin và Burkes, một cửa hàng bán rất nhiều loại đồ vật hiểm độc. Ở đó, giữa những thùng đựng đầy đầu lâu và chai lọ cũ, Draco Malfoy đang đứng quay lưng về phía tụi nó, ở phía bên kia cái tủ lớn màu đen mà Harry đã từng trốn vô đó để tránh mặt Malfoy và cha nó. Căn cứ theo động tác cánh tay của Malfoy, thì suy ra thằng này đang nói năng sôi nổi lắm. Người chủ tiệm, ông Borgin, một người đàn ông gù lưng tôm, tóc bóng mướt đầu, đứng đối diện với Malfoy. Ông này đang đeo một vẻ mặt kỳ dị của căm hận trộn lẫn khiếp sợ. “Giá mà tụi mình có thể nghe được những gìhọ nói!” Hermione nói. “Có thể chứ!” Ron hăm hở nói. “Chờ đó… cà chớn!” Nó làm rớt thêm hai cái trong đám hộp mà nó vẫn đang cố ghị chặt trong lúc vụng về mò tìm cái hộp to nhất. “Coi đây, Bành Trướng nhĩ!” “Tuyệt vời!” Hermione nói, trong khi Ron tháo cuộn dây dài màu thịt tươi, và bắt đầu quăng về phía đãy của cánh cửa. “Ôi, mình hy vọng cửa không bị ếm Bùa Tỉnh bơ.” “Không,” Ron híhửng nói. “Nghe đây!” Tụi nó chụm đầu lại và chăm chú lắng nghe câu chuyện ở đầu dây bên kia, qua đó cái giọng của Malfoy nghe rõ mồn một, như thể một cái máy truyền thanh vừa được bật nút. “…ông biết chữa cách nào không?” “Có thể,” ông Borgin nói, bằng một cái giọng cho thấy ông chẳng tận tụy chút nào. “Tuy nhiên tôi cần phải thấy nó. Tại sao cậu không đem nó lại cửa hàng?” “Tôi không thể,” Malfoy nói. “Nó phải được để yên. Tôi chỉ cần ông nói cho tôi biết cách chữa thôi.” Harry thấy ông Borgin liếm môi một cách lo lắng. “Chà, không nhing thấy nó, tôi đành phải nói là công việc sẽ rất khó khăn, có thể không làm được. Tôi không thể đảm bảo gìhết.” “Không hả?” Malfoy nói, và Harry biết, chỉ căn cứ vào cái giọng nói, rằng Malfoy đang nhạo báng. “Có lẽ cái này sẽ khiến ông thêm tự tin.” Malfoy nhích về phía ông Borgin và bị khuất mắt sau cái tủ. Harry, Ron, và Hermione nhích chân qua bên cạnh để cố nhìn thấy thằng này, nhưng chỉ thấy ông Borgin, vẻ mặt ông này đầy hoảng sợ. “Hở ra cho ai biết,” Malfoy nói, “là có thưởng đẹp đấy. Ông biết Fenrir Greyback chứ? Ông ta là một người bạn của gia đình. Thỉnh thoảng ông ta sẽ ghé qua để biết chắc là ông dành hết tâm trívô vấn đề đó.” “Không cần phải…” “Tôi sẽ quyết định chuyện đó,” Malfoy nói. “Thôi, tôi phải đi. Và đừng quên giữ kỹ cái đó, tôi sẽ cần đến nó.” “Có lẽ cậu muốn lấy nó đi ngay bây giờ?” “Không, dĩ nhiên tôi không lấy đi bây giờ được. Ông bé ngu ạ, trông tôi sẽ như thế nào khi mang theo cái đó xuống phố chớ? Chỉ đừng bán mất cái đó thôi.” “Dĩnhiên là không, thưa… Ngài.” Ông Borgin cúi chào thật thấp, kiểu giống như Harry đã từng nhìn thấy ông ta chào Lucius Malfoy. “Không nói một lời với ai đấy nhé, ông Borgin, kể cả mẹ tôi, hiểu không?” “Đương nhiên, đương nhiên,” ông Borgin lẩm bẩm, lại cúi chào một lẫn nữa. Tiếp theo, chuông treo ở cửa kêu leng keng rất to khi Malfoy hiên ngang bước ra khỏi cửa hàng, trông có vẻ hết sức thỏa mãn với chính mình. Nó đi ngang qua, gần Harry, Ron và Hermione đến nỗi tụi nó cảm thấy tấm áo khoác một lần nữa xao động nhẹ quanh đầu gối. Bên trong cửa hàng, ông Borgin
  • 30. vẫn còn đứng sững chết lặng; nụ cười tiếp khách giả tạo của ông biến mất; trông ông lo lắng ra mặt. “Chuyện này là về cái gìvậy?” Ron thìthầm, quấn lại cái Bành Trướng nhĩ. “Không biết,” Harry nói, suy nghĩmuốn bể đầu. “Nó muốn chữa cái gìđó… và nó muốn giữ lại món gìđó trong tiệm… Mấy bồ có thấy nó chỉ cái gìkhi bảo ‘cái đó’ không?” “Không. Nó đứng khuất sau cái tủ to đùng ấy.” “Hai đứa bồ ở đây,” Hermione nói nhỏ. “Bồ định làm…?” Nhưng Hermione đã chui ra ngoài tấm áo khoác. Cô nàng soi gương sửa sang tóc tai rồi bước vào cửa hàng, khiến cái chuông treo cửa lại kêu leng keng. Ron vội vàng quăng cái Bành Trướng nhĩtrở lại phía dưới cánh cửa và đưa cho Harry một đầu dây. “Chào ông, một buổi sáng khủng khiếp, ông nhỉ?” Hermione rạng rỡ nói với ông Borgin, ông này không trả lời, chỉ quẳng cho cô bé một cái nhìn ngờ vực. Ngâm nga một cách vui vẻ, Hermione thong thả dạo quanh đám hàng hóa bày biện lung tung. “Cái vòng đeo cổ này có bán không?” Cô nàng hỏi, dừng chân bên cạnh một cái hộp có mặt trước bằng thủy tinh. “Nếu cô có một ngàn lẻ một Galleon,” ông Borgin lạnh lùng đáp. “Ồ… ơ… không, tôi không có nhiều tiền đến thế,” Hermione nói, tiếp tục bước. “Và… cái… ưm… cái đầu lâu… dễ thương này giá bao nhiêu?” “Mười sáu Galleon.” “Vậy là ông có thể bán nó? Nó không phải… giữ lại cho ai hết chứ?” Ông Borgin liếc mắt nhìn cô bé. Harry có một cảm giác bực bội khi nó biết chính xác Hermione đang muốn cái gì. Hiển nhiên là Hermione cũng cảm thấy bị lộ tẩy bởi vìbỗng nhiên cô nàng tung hê cho gió cuốn đi sự thận trọng. “Cái vật mà… ơ… anh chàng vừa mới ở đây ra – Draco Malfoy, ừ, anh ta là một người bạn của tôi, và tôi muốn kiếm cho anh ấy một món quà sinh nhật, nhưng nếu anh ấy đã đặt trước một món gìở đây, thìhiển nhiên là tôi chẳng muốn tặng anh ta một món tương tự, cho nên… ưm…” Theo ý Harry thìcâu chuyện nghe chẳng xuôi tai chút nào, và dường như ông Borgin cũng nghĩvậy. “Đia ra!” Ông ta đanh giọng quát. “Cút ngay!” Hermione không đợi được bảo lần thứ hai, vội vã đi ra cửa với ông Borgin bám sát gót. Khi chuông treo cửa kêu leng keng lẫn nữa, ông Borgin đóng sập cánh cửa đằng sau lưng Hermione và treo lên tấm bảng thông báo tiệm đóng cửa. “À há,” Ron nói, vừa quăng tấm áo khoác ra trùm lại Hermione, “cũng đáng công thử, nhưng mà bộ hơi bị lộ...” “Ừ, lần sau bồ có thể chỉ bảo mình cách làm như thế nào, thưa Bậc thầy Bíẩn!” Cô nàng cự lại ngay. Ron và Hermione cự cãi lăng nhẵng suốt quãng đường trở lại tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley, nơi hai đứa nó phải ngừng cãi lộn để tránh bị dò xét bởi một bà Weasley và một bác Hagrid đang lo lắng. Hai người này đã nhận ra sự vắng mặt của tụi nó. Khi đã trở vô tiệm rồi, Harry cởi phắt tấm Áo khoác tàng hình ra, giấu trong cái ba lô, và hợp sức với hai đứa kia khăng khăng nói rằng từ nãy giờ tụi nó ở suốt trong gian sau của cửa hàng, để đáp lại sự quở trách của bà Weasley, và phản pháo là bà có thể đã không nhìn ngó kỹ càng nên chẳng thấy tụi nó. Chương 7 Câu lạc bộ Slug Harry dành khá nhiều thì giờ của tuần lễ cuối kỳ nghỉ hè để nghiền ngẫm ý nghĩa hành vi của Malfoy ở hẻm Knockturn. Điều khiến nó bực mình nhất là cái vẻ mãn nguyện trên gương mặt Malfoy khi thằng này bước ra khỏi cửa hàng. Không có gì làm cho Malfoy vui đến thế lại có thể là tin lành. Tuy nhiên Harry hơi lấy làm buồn lòng rằng cả Ron lẫn Hermione đều dường như không được tò mò như nó về hoạt động của Malfoy; hay ít nhất là sau vài ngày tụi kia có vẻ đã phát chán bàn bạc về chuyện đó. “Ừ, mình đã đồng ý ngay từ đầu là nó rất đáng nghi, Harry à,” Hermione nói hơi thiếu kiên nhẫn. Cô nàng đang ngồi trên bệ cửa sổ trong phòng của Fred và George với hai chân gác lên một trong mấy cái hộp giấy bồi và chỉ miễn cưỡng rời mắt khỏi cuons sách mới của mình, cuốn Dịch thuật chữ Rune cao cấp, để ngước nhìn lên. “Nhưng chẳng phải là tụi mình đã đồng ý là có thể có nhiều cách giải thích sao?” “Có thể nó đã làm bể cái Bàn tay vẻ vang của nó.” Ron nói mơ hồ, trong khi cố gắng kéo thẳng lại cái đuôi chổi bị cong của mình. “Có nhớ cánh tay quắt queo mà Malfoy có không?” “Nhưng khi nó nói, ‘Đừng quên giữ kỹ cái đó cho an toàn’ là nó nói về chuyện gì chứ?” Harry hỏi đến lần thứ mười mấy. “Mình nghe có vẻ như ông Borgin còn có một cái khác của cái đã bị bể, và Malfoy muốn cả hai.” “Bồ tin vậy hả?” Ron nói, bây giờ nó đang cạo bùn đất khỏi cán chổi. “Ừ, mình tin vậy,” Harry nói. Khi cả Ron và Hermione đều không trả lời, nó nói tiếp, “Cha của Malfoy đang ở trong ngục Azkaban. Mấy bồ không nghĩ là nó muốn trả thù sao?” Ron ngẩng đầu lên, chớp chớp mắt. “Malfoy, trả thù à? Nó thìcó thể làm được gì?” “Mình không biết, đó chính là vấn đề!” Harry nói, hết sức nản lòng. “Nhưng nó đang âm mưu gìđó và mình nghĩtụi mình nên xem xét nghiêm túc chuyện đó. Cha của nó là một Tử thần thực tử và...” Harry ngừng nói, mắt nó dán vào cửa sổ đằng sau Hermione, miệng nó há ra. Một ý tưởng đáng sửng sốt vừa nảy ra trong đầu nó. “Harry?” Hermione kêu lên bằng giọng lo lắng. “Có chuyện gìvậy?” “Cái thẹo của bồ phát nhức lại hả?” Ron hỏi, giọng căng thẳng. “Nó là một Tử thần thực tử,” Harry chậm rãi nói. “Nó kế nghiệp cha nó làm một Tử thần thực tử!” Mọi người im lặng, rồi Ron phá ra cười. “Malfoy ấy à? Nó mới mười sáu tuổi mà Harry! Bồ tưởng Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy để cho Malfoy gia nhập à?” “Có vẻ như không phải vậy đâu, Harry,” Hermione nói bằng giọng cố kiềm chế. “Cái gìkhiến bồ nghĩ...?” “Trong tiệm bà Malkin. Bả không hề đụng tới nó, nhưng nó cứ kêu la rồi vùng cánh tay ra khỏi bả khi bả muốn xăn tay áo nó lên. Đó là cánh tay trái. Nó đã được xăm Dấu hiệu Hắc ám!” Ron và Hermione nhìn nhau. “Chà...” Ron nói, tỏ ra không hoàn toàn được thuyết phục. “Minhg nghĩnó chỉ muốn ra khỏi chỗ đó thôi, Harry à,” Hermione nói. “Nó đã chỉ cho ông Borgin cái gì đó mà chúng ta không nhìn thấy được,” Harry cứ khăng khăng một cách bướng bỉnh. “ Cái gì đó đã khiến cho ông Borgin vô cùng khiếp sợ. Đó chính là Dấu hiệu, mình biết cái đó – nó đã tỏ cho ông Borgin biết là ông ta đang giao thiệp với ai, mấy bồ có thể thấy ông ấy ngán sợ nó như thế nào!” Ron và Hermione trao đổi với nhau một cái nhìn nữa. “Mình không chắc, Harry à…” “Ừ, mình vẫn không cho là Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy chịu để cho Malfoy gia nhập...” Bực mình, nhưng chắc chắn tin là mình đúng, Harry quơ lấy một đống áo chùng hôi hám đã mặc khi chơi Quidditch và bỏ ra khỏi phòng; bà Weasley đã khuyên răn tụi nó bao nhiêu ngày rồi là đừng để quần áo đên phút cuối mới đem giặt và xếp vô rương. Khi xuống hết cầu thang, nó đụng đầu Ginny, cô bé đang quay về phòng mình với một đống quần áo mới giặt xong.
  • 31. “Em mà là anh thìem sẽ chẳng vô nhà bếp lúc này,” cô bé cảnh cáo Harry. “Chỗ nào cũng đầy Nhớt.” “Anh sẽ cẩn thận để không bị trợt vô đó,” Harry mỉm cười. Quả đúng vậy, khi Harry đi vô nhà bếp thì thấy ngay Fleur đang ngồi bên bàn, hào hứng nói về các kế hoạch đám cưới giữa nàng và Bill, trong khi bà Weasley không ngừng để mắt tới lũ măng tây đang tự gọt, trông bà cau có hết biết. “...Anh Bill và con gần như đã quyết định chĩ hai phù dâu thơi, Ginny và Gabrielle trông xẽ rớt ngọt ngào với nhao. Con đang nghĩ đến chuyện cho hai em ấy mặc áo vàn nhạt – màu hồng dĩnhiên là trông rất khũn khiếp với mái tóc cũa Ginny...” “A, Harry!” bà Weasley nói to, cắt ngang bài độc thoại của Fleur. “Tốt, bác muốn giải thích về sự sắp đặt an ninh cho chuyến đi đến trường Hogwarts ngày mai. Chúng ta lại mượn được xe của Bộ Pháp thuật một lần nữa, và sẽ có các Thần Sáng chờ ở nhà ga...”
  • 32. “Cô Tonks có ở đó không, bác?” Harry hỏi, đưa cho bà Weasley quần áo chơi Quidditch của nó. “Không, bác nghỉ là không, theo bác Arthur nói thìcô ấy được chốt ở đâu đó.” “Cô ấy đã tự cữ mình đi, cái cô Tonks ấy,” Fleur nói mơ màng, ngắm nghía chính hình bóng mê hoặc của mình trong đáy tách trà. “Nếu bác hõi thì con sẽ nói đó là một sai lầm lớn...” “Được, cám ơn,” bà Weasley nói giọng gay gắt, ngắt lời Fleur một lần nữa. “Con nên chuẩn bị hành lý đi, Harry, bác muốn nếu có thể thì hòm xiểng đều phải sẵn sàng hết vào tối nay, để chúng ta sẽ không bị rối tinh beng vào phút chót như mọi năm.” Và thật ra, cuộc khỏi hành của tụi nhỏ vào sáng sớm hôm sau suôn sẻ hơn mọi khi. Khi mấy chiếc xe của Bộ Pháp thuật lướt tới trước cửa Hang Sóc thì tụi nó đã đứng chờ sẵn, hòm xiểng sẵn sàng; con mèo của Hermione, Crookshanks, nằm an toàn trong cái rổ đi đường của nó; Hedwig, Pigwidgeon, con cú của Ron và con Bông Thoa Lùn mới sắm của Ginny, được đặt tênArnold, đều ở trong chuồng. “Au revoir, Arry,” Fleur nói giọng cổ họng, vừa hôn gió nó. Ron vội vã đi tới, có vẻ hy vọng, nhưng Ginny giơ cẳng ra ngáng Ron ngã lăn cù vô đám bụi dưới chân Fleur. Nổi khùng lên với bộ mặt đỏ bừng và văng bụi tùm lum, anh chàng lên xe gấp khỏi cần nói lời chia tay. Chẳng thấy bác Hag hớn hở chờ họ ở Nhà ga Ngã tư vua. Thay vào đó là hai Thần Sáng có bộ mặt khắc nghiệt đầy râu mặc quần áo Muggle màu đen tiến tới đón ngay khi mấy chiếc xe vừa dừng lại, và họ kẹp sát hông tất cả nhóm, hộ tống vô thẳng nhà ga mà chẳng nói lời nào. “Lẹ, lẹ lên, băng qua rào chắn,” bà Weasley nói, dường như bà hơi bối rối vìcái hiệu quả khắc khổ này. “Harry nên đi trước, với...” Bà nhìn một trong hai Thần Sáng một cách dò hỏi, người này nhẹ gật đầu, nắm lấy bắp tay trên của Harry, và cố gắng dẫn nó đi về phía hàng rào chắn giữa sân ga số chín và số mười. “Em đi được mà, cám ơn,” Harry bực dọc nói, giật cánh tay mình ra khỏi nắm tay của vị Thần Sáng. Nó đẩy cái xe hành lý của nó đâm thẳng vào hàng rào chắn vững chãi, lờ phắt đi người đồng hành im lặng, và một giây sau, nó nhận ra mình đang đứng trên sân ga chín ba phần tư, nơi tàu tốc hành Hogwarts đang nằm ợ ra hơi nước phả vào đám đông. Hermione và gia đình Weasley nhập bọn với nó trong vòng vài giây sau. Không cần chờ tham vấn vị Thần Sáng mặt mày khắc khổ của mình, Harry ra dấu gọi Ron và Hermione theo nó đi ngược lên sân ga, tìm một toa tàu trống. “Tụi này không thể đi cùng bồ, Harry à,” Hermione nói, tỏ vẻ xin lỗi. “Ron và mình sẽ phải đến toa tàu của Huynh trưởng trước tiên và rồi phải đi tuần tra hành lang tàu một tí.” “Ờ phải, mình quên mất,” Harry nói. “Tất cả các con nên lên tàu ngay, các con chỉ còn vài phút nữa là khởi hành,” bà Weasley nói, vừa tham khảo cái đồng hồ của bà. “Thôi, chúc con một học kỳ tốt đẹp, Ron...” “Thưa bắc Weasley, con có thể nói vài lời với bác không?” Harry nói, quyết định luôn trong hoàn cảnh gấp gáp ấy. “Dĩnhiên,” ông Weasley nói, vẻ mặt hơi ngạc nhiên, nhưng dù vậy ông vẫn đi theo Harry ra xa khỏi tầm tai những người khác. Harry đã suy nghĩ cặn kẽ và đã đi tới kết luận rằng, nếu nó cần nói với ai đó, thì người đó hẳn là ông Weasley; Trước tiên, bởi vì ông làm việc ở Bộ Pháp thuật và vì vậy là người ở vị trí tốt nhất để tiến hành những cuộc điều tra xa hơn, và thứ hai, bới vì nó nghĩ nếu ông Weasley nổi cơn thịnh nộ thì sẽ ít nguy hiểm hơn. Nó có thể thấy bà Weasley và vị Thần Sáng với bộ mặt khắc khổ liếc theo bác cháu nó khi hai người đi tách ra. “Khi tụi con ở Hẻm Xéo,” Harry bắt đầu nói, nhưng ông Weasley chặn đầu nó trước bằng một cái nhăn mặt. “Có phải bác sắp được khám phá ra nơi mà con, Ron và Hermione đã biến mất trong khi lẽ ra các con phải ở gian sau cửa hàng của Fred và George không?” “Làm sao bác...?” “Harry à, con đang nói chuyện với một người đã nuôi lớn Fred và George.” “Ơ... dạ, thôi thì, chúng con đã không ở gian sau...” “Tốt lắm, vậy bây giờ, chúng ta hãy nghe nốt phần dỡ nhất.” “Dạ, tụi con đi theo Draco Malfoy. Tụi con dùng tấm Áo khoác tàng hình.” “Các con có lý do đặc biệt nào không, hay đó chỉ là cao hứng?” “Bởi vì con nghĩ Malfoy đang âm mưu gì đó,” Harry nói, không đẻ ý vẻ mặt vừa bực bội vừa thích thú của ông Weasley. “Nó đã trốn má nó đi và con muốn biết tại sao.” “Dĩnhiên là con đã có lý do,” ông Weasley nói, nghe giọng nhẫn nại. “Thế con có tìm ra được tại sao không?” “Nó đi vô tiệm Borgin và Burkes,” Harry nói, “xong bắt đầu trấn áp người đàn ông trong tiệm, ông Borgin, bắt ông ta sửa cho nó cái gì đó. Và nó nói là nó muốn ông Borgin giữ cho nó cái gì đó nữa. Nghe thì có vẻ như cái đó cùng là một thứ với cái mà nó muốn sửa chữa. Có vẻ như hai cái đó là một cặp. Và…” Harry hít một hơi thở sâu. “Còn nữa. Tụi con thấy Malfoy nhảy vọt ra cả dặm khi bà Malkin thử chạm vô cánh tay trái của nó. Con nghĩ nó đã được xăm Dấu hiệu Hắc ám. Con nghĩ nó được thế chỗ cha nó làm một Tử thần thực tử.” Trông ông Weasley có vẻ sửng sốt. Một lát sau ông nói, “Harry à, bác không chắc là liệu Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy có cho phép một đứa trẻ mười sáu tuổi…” “Có ai biết chắc Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy làm cái gì hay không làm cái gì đâu?” Harry hỏi một cách tức tối. “Bác Weasley, con xin lỗi, nhưng chuyện đó không đáng điều tra sao? Nếu Malfoy muốn sửa chữa cái gìđó, và nó phải đe dạo ông Borgin làm chuyện đó, thìchuyện đó có thể là cái gìđó Hắc ám và nguy hiểm, đúng không?” “Thành thật mà nói, bác không chắc, Harry à,” ông Weasley nói chậm rãi. “Con cũng hiểu, khi Lucius Malfoy bị bắt, chúng ta đã lục soát nhà hắn. Chúng ta đã lấy đi mọi thứ có thể là hung khínguy hiểm.” “Con nghĩbác có thể đã bỏ sót cái gìđó,” Harry nói một cách bướng bỉnh. “Ừ, có thể,” ông Weasley nói, nhưng Harry có thể thấy là ông Weasley chỉ nói cho vừa lòng nó mà thôi. Một tiếng còi tàu vang lên sau lưng hai bác cháu; gần như mọi người đã lên tàu cả và cửa các toa đang đóng lại. “Con nên lẹ lên đi!” ông Weasley nói, trong khi bà Weasley giúp nó nhấc hành lý lên tàu. “Này, cưng, con sẽ về ăn lễ Noel với gia đình bác, đã thu xếp xong với cụ Dumbledore rồi, vậy là hai bác sẽ sớm gặp lại con thôi,” bà Weasley nói vói qua cửa sổ toa tàu trong khi Harry đóng sập cửa tàu lại sau lưng và chiếc xe lửa bắt đầu di chuyển. “Con nhớ tự chăm sóc mình và…” Đoàn tàu bắt đầu tăng tốc. “…học giỏi và…” bà Weasley chạy theo để kịp đoàn tàu. “…bảo trọng!” Harry vẫy tay cho đến khi đoàn tàu quẹo qua một khúc quanh và ông bà Weasley khuất dạng, rồi nó quay ra xem những đứa khá ở đâu. Nó đoán Ron và Hermione bị nhiệm vụ cầm chân trong toa tàu Huynh trưởng, nhưng Ginny thìđang ở trong hành lang cách nó một quãng ngắn, đang tán dóc với mấy đứa bạn. Nó đi về phía cô bé, kéo lê cái rương theo. Đám học trò trố mắt nhìn nó không ngượng ngùng khi nó đi đến gần. Chúng nó thậm chí áp mặt vào kính cửa sổ toa tàu để ngó cho được nó. Nó đã lường trước một làn sóng những cái miệng há hốc và những cặp mắt nhìn trâng tráo mà nó sẽ phải chịu đựng trong suốt học kỳ này sau tất cả những sự
  • 33. rùm beng về “Kẻ được chọn” đăng trên Nhật báo Tiên Tri , nhưng nó chẳng thích thú gì lắm cái cảm giác đứng ở nơi đèn đuốc sáng trưng. Nó vỗ nhẹ lên vai Ginny. “Kiếm thử một khoang tàu trống chứ hả?” “Em thìkhông được, anh Harry à, em có hẹn gặp Dean,” Ginny rạng rỡ nói. “Gặp lại anh sau nhé.” “Được,” Harry nói. Nó có một cảm giác nhói đau kỳ lạ khi Ginny bỏ đi, mái tóc dài màu hung đỏ của cô bé đung đưa sau lưng; Nó đã trở nên quá quen với sự hiện diện của cô bé trong kỳ nghỉ hè đến nỗi nó hầu như quên béng đi rằng Ginny giờ đây không còn lẵng nhẵng bám theo nó, Ron và Hermione khi ở trường nữa. Rồi nó chớp mắt nhìn quanh: Quanh nó là những cô gái bị tiếng tăm mê hoặc. “Chào Harry!” Một giọng nói qurn thuộc vang lên sau lưng nó. “Neville!” Harry reo lên nhẹ nhõm, khi quay lại nhìn thấy một cậu chàng mặt mày tròn trịa đang chen lấn để đến gần nó. “Chào Harry,” một cô nàng tóc dài với đôi mắt to mơ huyền xuất hiện ngay sau lưng Neville. “Chào Luna, em khỏe không?” “Rất khỏe, cám ơn anh,” Luna nói. Cô nàng đang ép chặt một tạp chí vào ngực mình; những chữ to trên trang bìa thông báo rằng bên trong có một cặp Kính chiếu yêu. “Tạp chí Kẻ Lý sự vẫn bán chạy chứ?” Harry hỏi, nó cảm thấy có một sự trìu mến với tờ tạp chí, và đã dành cho tờ tạp chí này một cuộc phỏng vấn độc quyền vào năm học trước. “Ồ, số lượng phát hành tăng tốt,” Luna nói một cách sung sướng. “Tụi mình kiếm chỗ ngồi đi,” Harry nói, và ba đứa cùng đi dọc đoàn tàu, băng qua những đoàn học sinh im lặng ngó theo chằm chằm. Cuối cùng cả ba tìm được một khoang còn trống, và Harry vội vã đi vào với vẻ biết ơn. “Họ nhìn chòng chọc cả tụi này nữa!” Neville nói, ám chỉ chính nó và Luna. “Chỉ vìtụi này đi với bồ.” “Họ ngó bồ bởi vì bồ cũng có mặt trong vụ xảy ra ở Bộ Pháp thuật,” Harry nói, trong lúc cố nhấc cái rương của nó để lên giá đỡ hành lý. “Cuộc phiêu lưu nho nhỏ của tụi mình được đăng khắp trên tờ Nhật báo Tiên Tri, chắc bồ đã xem rồi chứ?” “Có, mình tưởng bà mình sẽ nổi giận vì tất cả những chuyện rùm beng công khai đó,” Neville nói, “nhưng hóa ra bà lại khoái thực sự. Nói rằng rốt cuộc mình đã bắt đầu sống theo gương ba mình. Bà đã mua cho mình một cây đũa phép mới, coi nè!” Nó rút cây đũa phép ra và đưa cho Harry coi. “Gỗ anh đào và lông kỳ lân,” nó nói giọng tự hào. “Mình nghĩ đó là một trong những cây đũa phép cuối cùng mà ông Olv bán ra, ông ấy biến mất tiêu vào ngày hôm sau – Ôi, quay lại đây Trevor!” Và nó chui xuống dưới gầm ghế để thu hồi lại con cóc khi con vật này thực hiện một trong những nỗ lực trường kỳ tìm kiếm tự do cho mình. “Năm nay anh có tiếp tục mở những buổi họp ĐQD nữa không, anh Harry?” Luna hỏi, cô nàng đang gỡ cặp kính chiếu yêu ra từ giữa tờ Tạp chíKẻ Lý sự . “Bây giờ tụi mình đã dẹp được mụ Umbridge rồi, đâu còn lý do gì nữa, hả?” Harry vừa nói vừa ngồi xuống. Neville cụng đầu vô cái ghế khi chui ra từ dưới gầm. Trông nó thất vọng ra mặt. “Mình thích ĐQD lắm! Mình học được cả đống với bồ!” “Em cũng khoái những buổi họp đó lắm,” Luna hồn nhiên nói. “Giống như có nhiều bạn vậy.” Đây là một trong những điều không thoải mái nà Luna hay nói và khiến cho Harry có một cảm giác lẫn lộn loằng ngoằng giữa lòng thương hại với bối rối. Tuy nhiên, trước khi nó có thể trả lời, bên ngoài cửa khoang của tụi nó xảy ra một vụ ầm ĩ; một nhón học sinh năm thứ tư đang xầm xì và cười cợt với nhau bên kia lớp cửa kính toa tàu. “Bồ hỏi ảnh đi!” “Thôi, bồ ấy!” “Tôi sẽ làm chuyện đó!” Và một đứa trong đám đó, một đứa con gái vẻ mặt trơ trẽn có đôi mắt đen to, một cái cằm chìa tới trước, và mái tóc đen dài, đẩy cánh cửa to bước vô. “Chào anh Harry, em là Romilda, Romilda Vance,” con bé nói to và dõng dạc. “Sao anh không qua ngồi chung với toa tụi em? Anh không cần phải ngồi với tụi kia.” Con bé nói thêm bằng giọng thì thào rất kịch, chỉ vào mông của Neville, lúc ấy lại vừa nhô ra từ dưới gầm ghế một lần nữa khi đang mò mẫm kiếm Trevor, và Luna – mắt đang đeo cặp Kính chiếu yêu miễn phí, khiến cho trông càng giống một con cú có nhiều màu thật khùng. “Họ là bạn bè của tôi,” Harry lạnh lùng nói. “Ồ,” con bé nói, có vẻ ngạc nhiên. “Thôi vậy.” Và nó rút lui, kéo cánh cửa khoang tàu lại. “Người ta cứ nghĩanh phải có bạn bè bảnh hơn tụi này.” Luna nói, một lần nữa lại bộc lộ cái thói quen thành thực khiến người khác phải bối rối. “Em cũng bảnh vậy,” Harry nói ngay. “Không ai trong đám đó có mặt trong vụ Bộ Pháp thuật. Họ đâu có chiến đấu cùng tôi đâu.” “Anh nói vậy thiệt là tử tế,” Luna tươi cười. Rồi cô nàng đẩy cặp Kính chiếu yêu xa thêm trên sống mũi và bắt đầu đọc Tạp chíKẻ Lý sự. “Nhưng mà tụi này đâu có đối đầu với hắn,” Neville nói, hiện ra từ dưới gầm ghế cùng với bụi bặm và lông lá dính trên tóc, và một con Trevor nhẫn nhục trong tay. “Chỉ có bồ làm chuyện đó. Bồ nên nghe bà của mình nói về bồ. ‘Cậu Harry Potter ấy còn mạnh hơn toàn thể Bộ Pháp thuật gom lại!’ Bà sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có đứa cháu nội như bồ...” Harry bật cười không thoải mái lắm và thay đổi đề tài, chuyển qua kết quả kỳ thi Thường đẳng Pháp thuật ngay khi có thể. Trong khi Neville đọc lại vanh vách thứ hạng của nó và thắc mắc liệu nó có được phép theo học lớp Biến hình bậc Phù thủy Tận sưc không, khi mà nó chỉ có mỗi một điểm ‘Chấp nhận được’, Harry ngắm Neville mà không thực sự lắng nghe. Tuổi thơ của Neville cũng bị Voldermort đày đọa như tuổi thơ của Harry vậy, nhưng Neville không hề biết chút nữa thì số phận của nó chính là số phận của Harry. Lời Tiên tri có thể ứng với bất kỳ đứa nào trong hai đứa nó, thế nhưng vìnhững lý do bíhiểm của chính hắn, Voldermort đã chọn niềm tin rằng Harry là kẻ được ám chỉ trong lời Tiên tri. Nếu Voldermort chọn Neville, thì tình huống sẽ là Neville ngồi đối diện Harry mang cái thẹo hình tia chớp và gánh nặng lời Tiên tri... Mà liệu có thể không nhỉ? Liệu mẹ của Neville có chết đi để cứu mạng nó, như mẹ Lily đã hy sinh cho Harry không? Chắc chắn bà sẽ hy sinh... Nhưng nếu bà không thể đứng án giữa con trai mình và Voldermort thì sao? Liệu có một ‘Kẻ được chọn’ không? Hay chỉ là một cái ghế trống ở chỗ hiện giờ Neville đang ngồi và một thằng Harry không bị thẹo được chính mẹ mình chứ không phải mẹ của Ron hôn tạm biệt. “Bồ có sao không, Harry? Trông bồ tức cười quá,” Neville nói. Harry mới mở miệng nói, “Xin lỗi... mình...” “Anh bị XìTảo hả?” Luna nói đầy cảm thông, vừa ngắm Harry qua đôi kính màu nè bự chảng. “Tôi... cái gì?” “Xì Tảo... Nó vô hình. Nó bay xuyên qua lỗ tai anh làm cho đầu óc anh mờ mịt,” cô bé nói. “Em nghĩ em cảm thấy được có một con đang bay quanh quẩn ở đây.” Cô nàng vỗ tay đen đét trong không khí, như thể đang đập mấy con sâu bướm khổng lồ vô hình. Harry và Neville đưa mắt nhìn nhau rồi vội vàng bắt luôn qua chuyện Quidditch. Thời tiết bên ngoài cửa sổ đoàn tàu thay đổi thất thường y như suốt mùa hè vừa qua. Tàu đã chạy qua một vùng sương mù lạnh cóng kéo dài, rồi ra đến vùng nắng trong, mong manh. Chính lúc tàu đang chạy qua một trong những vùng quang đãng ấy, lúc mặt trời hầu như được nhìn thấy ngay trên đỉnh đầu,
  • 34. thìRon và Hermione đi vô khoang tụi nó. “Ước gì xe bán đồ ăn đẩy tới nhanh nhanh lên, mình đang chết đói đây.” Ron nói một cách tha thiết, ngồi thụp xuống cái ghế bên cạnh Harry và xoa xoa cái bụng của nó. “Chào Neville. Chào Luna. Biết gì không?” Nó quay ngang Harry nói thêm, “Malfoy không làm nhiệm vụ Huynh trưởng. Nó chỉ ngồi ì trong toa của nó với mấy đứa khác trong nhà Slytherin, tụi này thấy nó lúc đi ngang qua.” Harry ngồi thẳng dây, chú ý ngay. Thật chẳng giống Malfoy chút nào nếu nó chịu bỏ qua cơ hội biểu diễn quyền hành Huynh trưởng, cái quyền mà nó đã khoái chílạm dụng suốt năm học trước. “Lúc mấy bồ thấy nó thìnó đang nó làm gì?” “Bình thường,” Ron nói dửng dưng, biểu diễn một động tác thô lỗ bằng tay. “Chẳng giống nó gì hết, dúng không? Chà... nhưng vậy đó.” Nó lại làm động tác tay một lần nữa. “Nhưng tại sao nó lại không ra ngoài kia ăn hiếp bọn học sinh năm thứ nhất nhỉ?” “Ai mà biết,” Harry nói nhưng đầu óc nó đang căng thẳng. Chẳng lẽ chuyện này không cho thấy Malfoy đang âm mưu những chuyện quan trọng hơn là chuyện hiếp đáp bọn học sinh đàn em hay sao? “Có lẽ nó khoái Đội Thẩm tra hơn,” Hermione nói. “Có thể làm Huynh trưởng một thời gian nó trở nên thuần hơn một chút.” “Mình không nghĩvậy,” Harry nói. “Mình nghĩnó...” Nhưng trước khi nó có thể giải thích giả thuyết của mình, cánh cửa một lần nữa lại được mở ra và một nữ sinh năm thứ ba bước vào, gần như không thở nổi. “Em được giao nhiệm vụ đưa mấy cái này cho Neville Longbottom và Harry P... Potter,” cô bé ấp úng nói, và khi bắt gặp náh mắt của Harry, mặt cô bé đỏ ửng lên. Cô bé đưa ra hai cuộn giấy da buộc bằng nơ tím, Harry và Neville nhận cái cuộn có đề tên mình, và cô bé luống cuống lui ra khỏi khoang tàu. “Cái gìvậy?” Ron hỏi khi Harry tháo cuộn giấy gởi cho nó ra. “Một thư mời,” Harry nói. Harry, Thầy sẽ vui mừng nếu trò cùng muốn ăn trưa với với thầy ở toa C. Thân ái, Gs H.E.F. Slughorn. “Giáo sư Slughorn nào?” Neville hỏi, tỏ ra bối rối vìlời mời. “Thầy giáo mới,” Harry nói. “Chà, mình nghĩchắc là tụi mình phải đi thôi.” “Nhưng mà thầy ấy cần mình để làm gì?” Neville lo lắng hỏi, trông như nó tưởng nó sắp bị cấm túc. “Chả biết,” Harry nói, thật ra thì không hẳn như thế, mặc dù nó chẳng có bằng chứng gì để chứng minh là linh cảm của nó đúng. “Nghe đây,” nó nói thêm, thình lình bộ não nó phát ra một sáng kiến, “tụi mình chui xuống dưới cái Áo khoác tàng hình đi, như thế có thể quan sát được Malfoy suốt đường, coi nó đang âm mưu cái gì.” Tuy nhiên, sáng kiến này không khả thi chút nào: không thể nào mặc Áo khoác tàng hình vượt qua được các hành lang đầy nhóc người đang nhong nhòng đợi cái xe đẩy bán đồ ăn trưa. Harry tiếc hùi hụi nhét cái Áo khoác tàng hình trở vô ba lô, vừa ngẫm nghĩý tưởng đó thiệt là hay, cho dù mặc cái Áo khoác tàng hình chỉ để tránh những cái nhìn chòng chọc. Những cái nhìn đó dường như đã gia tăng cường độ kể từ khi Harry đi trong hành lang tàu lần vừa rồi. Thỉnh thoảng bọn học sinh lại xô đẩy chen nhau dồn ra cửa khoang của mình để dòm Harry được kỹ hơn. Ngoại lệ duy nhất là Cho Chang, cô nàng xẹt ngay vô khoang của mình khi nhìn thấy Harry đi tới. Khi đi ngang qua cửa sổ, Harry thấy Cho làm như đang say sưa trò chuyện với cô bạn Marietta, cô nàng này đeo một bộ mặt trang điểm dày cui mà vẫn không làm mờ được mấy hột mụn vô duyên cứ nổi lên vằn vện khắp gương mặt. Khẽ mỉm cười vu vơ, Harry đi tới trước. Khi hai đứa tới toa C, tụi nó thấy ngay tụi nó không phải là khách mời duy nhất của thầy Slughorn, mặc dù căn cứ vào sự đón chào sốt sắng của thầy Slughorn thìHarry đúng là người được mong đợi nhiệt tình nhất. “Harry, chàng trai của ta!” Thầy Slughorn đứng phắt dậy khi nhìn thấy Harry khiến cho cái bụng phủ nhung của thầy dường như choán hết chỗ trong khoang tàu. Cái đầu hói bóng loáng và bộ râu bạc của thầy tỏa sáng rực rỡ trong ánh nắng như mấy cái nút bằng vàng của tấm áo chẽn thầy đang mặc. “Mừng được gặp trò! Mừng được gặp trò! Và trò đây ắt hẳn là cậu Longbottom!” Neville gật đầu, trông khiếp đảm. Theo động tác ra dấu của Thầy Slughorn, hai đứa nó ngồi xuống hai cái ghế duy nhất còn trống, gần cửa nhất. Harry đưa mắt nhìn quanh đám khách mời. Nó nhận ra một đứa cùng năm bên Nhà Slytherin, một thằng cao nhòng đen thui có hai gò má cao xương xẩu và đôi mắt xếch dài; Cũng có hai nam sinh năm thứ bảy mà Harry không biết, và bị nhét vô một góc kẹt bên cạnh Thầy Slughorn là một cô bé vẻ mặt băn khoăn không biết tại sao mình có mặt ở đây, ấy là Ginny. “Nào, hai trò biết hết mọi người chứ?” Thầy Slughorn hỏi Harry và Neville. “Đây là Blaise Zabini cùng năm với các trò, tất nhiên...” Zabini không hề tỏ một dấu hiệu nhận ra hay chào hỏi nào cả, và Harry lẫn Neville cũng tỉnh bơ: trên nguyên tắc, học sinh nhà Gryffindor và nhà Slytherin căm ghét lẫn nhau. “Đây là Cormac McLaggen, có lẽ các trò đã từng gặp gỡ lẫn nhau...? Chưa à?” McLaggen, một chàng trai to tướng tóc xoắn như dây kẽm gai, giơ một ban tay lên chào; Harry và Neville gật đầu đáp lễ anh ta. “...và đây là Marcus Belby, thầy không biết liệu...?” Belby, một anh chàng gầy gò vẻ mặt bồn chồn lo lắng, nhe ra một nụ cười sượng ngắt. “...và cô nương xinh đẹp quyến rũ này nói với thầy là cô ấy biết các trò!” Thầy Slughorn kết thúc. Ginny làm điệu bộ nhăn mặt với Harry và Neville từ sau lưng Thầy Slughorn. “Thôi bây giờ, đến phần thú vị nhất,” Thầy Slughorn nói một cách thân tình. “Một cơ hội để biết tất cả các trò kỹ hơn một chút. Đây, lấy một cái khăn ăn. Thầy đã gòi theo đồ ăn trưa. Còn cái xe đẩy, theo thầy nhớ, hơi bị nhiều Que Cam thảo, và hệ thống tiêu hóa èo uột của một ông già thì không kham nỗi những thứ như thế... Nếm món gà lôi không, Belby?” Belby bắt đầu ăn và nhận một miếng trông có vẻ giống một nữa con chim trĩnguội ngắt. “Thầy vừa nói với chàng Marcus trẻ tuổi đây là thầy từng được hân hạnh dạy bác Damocles của cậu ấy,” Thầy Slughorn nói với Harry và Neville, lúc này đang chuyển quanh rổ bánh mì tròn. “Một pháp sư xuất chúng, xuất chúng, và huy chương Merlin được trao cho ông ta quả thực xứng đáng. Trò có thường gặp bác không, Marcus?” Không may, Belby vừa mới ngoạm một miếng to gà lôi đầy cả họng; và để nhanh nhẩu đáp lại Thầy Slughorn, anh ta nuốt quá gấp, nên bị mắc nghẹn, đỏ tím cả mặt mũi. “Hết tắc thở,” Thầy Slughorn bình tĩnh chĩa cây đũa phép vào Belby, cuống họng anh chàng này dường như được thông ngay tức thì. “Không... không gặp bác thường lắm, không ạ,” Belby há hốc miệng vừa thở vừa nói, nước mắt ràn rụa. “Chà, dĩ nhiên, thầy dám nói là ông ấy rất bận,” Thầy Slughorn nói, vừa nhìn Belby với vẻ chất vấn. “Thầy nghi ông ta đã phát minh ra thuốc Bả sói mà không đến nỗi phải lao động vất vả lắm!” “Con nghĩ...” Belby nói, dường như không dám cắn thêm một miếng gà lôi nào nữa trước khi biết chắc là Thầy Slughorn đã nói chuyện xong với mình. “Ơ... Bác và ba con không thuận thảo với nhau lắm, thành ra, thầy hiểu cho, con thực sự cũng không biết nhiều...” Giọng của Belby đuổi dần khi Thầy Slughorn tặng cho cậu ta một nụ cười lạnh nhạt và quay qua nói với McLaggen. “Nào, trò, Cormac,” Thầy Slughorn nói, “thầy tình cờ được biết trò rất hay gặp bác Tiberius của trò, bởi vì ông ta có một bức hình rất tuyệt chụp hai bác
  • 35. cháu đi săn Heo đuôi cụt ở... để thầy nhớ coi... ở Norfolk đúng không?” “Ồ, phải, vui lắm, đúng vậy ạ,” McLaggen nói. “Bác cháu con đi chung với Bertie Higgs và Rufus Scrimgeour – đương nhiên là chuyện này xảy ra trước khi ông ấy trở thành Bộ trưởng ạ.” “A, trò cũng quen biết Bertie Higgs và Rufus nữa à?” Thầy Slughorn cười hớn hở, lúc này đang đưa một cái khay bành ngọt mời quanh mọi người; chẳng biết làm sao mà Belby lại bị bỏ sót. “Thế, nói cho thầy biết...” Đúng y như Harry đã nghi ngờ. Mọi người có mặt ở đây dường như bị mời đến bởi vì có liên hệ tới ai đó nổi tiếng hay có ảnh hưởng – mọi người ngoại trừ Ginny. Zabini, người bị tra vấn tiếp theo McLaggen, hóa ra có một bà mẹ là một phù thủy đẹp nổi tiếng (và theo như Harry vỡ lẽ thì bà ta đã lấy bảy đời chồng, mỗi ông chồng đều chết một cách bíẩn và để lại cho bà ta cả đống vàng). Người tiếp theo là Neville: đây là mười phút rất khó chịu, bởi vì cha mẹ của Neville là những Thần Sáng nổi tiếng, đã bị Bellatrix Lestrange và hai đồng bọn Tử thần thực tử hành hạ đến mất trí. Vào cuối cuộc tra vấn Neville, Harry có cảm tưởng thầy còn đang cân nhắc việc đánh giá Neville, chưa chắc lắm là liệu nó có được chút tài hoa nào của cha mẹ nó không. “Và bây giờ,” Thầy Slughorn, trịnh trọng xoay mình trên ghế với cái vẻ mặt của một “em-xi” sắp giới thiệu tiết mục ngôi sao của mình. “Harry Potter! Bắt đầu từ đâu nhỉ? Thầy có cảm tưởng lần mình gặp nhau hè rồi mới sơ sơ như gãi ngứa thôi!” Thầy ngắm nghía Harry một lát như thể nó là một miếng gà lôi đặc biệt to béo ngon lành, rồi nói, “giờ đây người ta gọi con là “Kẻ được chọn”!” Harry không nói gì. Belby, McLaggen, và Zabini đều nìn nó chòng chọc. “Dĩ nhiên,” Thầy Slughorn nói, quan sát Harry kỹ hơn, “Thiên hạ đồn đại bao nhiêu năm trời... Thầy còn nhớ khi... chà... sau cái đêm kinh khủng ấy... Lily... James... và con sống sót... và tiếng đồn rằng con ắt là có được những quyền năng phi thường...” Zabini húng hắng ho, rõ ràng tỏ một sự ngờ vực tức cười. Một giọng nói giận dữ nổ ra ngay sau lưng Thầy Slughorn. “Phải đó, Zabini, bởi vìanh quá tài hoa chứ gì... trong trò khoe mẽ...” “Ôi, thôi mà!” Thầy Slughorn cười hì hà một cách thoải mái, ngoái đầu lại nhìn Ginny, cô nàng đang trừng mắt nhìn Zabini vòng qua cái bụng bự của Thầy Slughorn. “Trò hãy cẩn thận đấy, Blaise! Thầy đã nhìn thấy cô bé này hô ếm một Bùa Gậy Ba-Bị tuyệt vời nhất khi thầy đi ngang qua khoang của cô bé! Thầy sẽ không bao giờ đi gây hấn với cô ấy đâu!” Zabini chỉ tỏ vẻ khinh thường. “Tóm lại,” Thầy Slughorn nói, quay trở lại với Harry. “Dư luận như thế vào mùa hè. Dĩ nhiên, người ta không biết đâu mà tin, người ta biết tờ Tiên tri từng nhầm lẫn, in những điều không chính xác – nhưng dựa vào một số nhân chứng, thìcó vẻ chắc chắn rằng đã xảy ra một biến cố khá ồn ào ở Bộ và rằng trò có mặt ngay trong cuộc!” Harry không thấy có cách nào thoát ra được mà không phải nói dối trắng trợn, đành chỉ gật đầu mà không nói gìhết. Thầy Slughorn tười cười với nó. “Khiêm tốn quá, khiêm tốn quá, chẳng lạ gì mà cụ Dumbledore lại yêu quí đến thế - vậy là trò đã có mặt ở đó? Nhưng phần còn lại của câu chuyện... chấn động dư luận, dĩnhiên rồi, người ta không biết nên tin vào cái gì... chẳng hạn như lời Tiên tri được thêu dệt...” “Chúng con chẳng hề nghe thấy lời Tiên tri,” Neville nói, và khi nói điều đó thìnó đỏ ửng như gấc chín. “Đúng vậy,” Ginny xác nhận một cách chắc chắn. “Cả anh Neville và con cũng có mặt ở đó, và tất cả chuyện nhảm nhí“Kẻ được chọn” ấy chỉ là chuyện bịa đặt của tờ Tiên tri như mọi khi.” “Cả hai trò đều có mặt ở đó à?” Thầy Slughorn nói giọng đầy thích thú, hết nhìn Ginny đến nhìn Neville, nhưng cả hai ngồi câm như hến trước nụ cười khích lệ của thầy. “Chà... phải... đúng là tờ Tiên tri hay thổi phồng, dĩ nhiên...” Thầy Slughorn nói, nghe ra hơi thất vọng một tí. “Thầy nhớ Gwenog yêu dấu có nói với thầy (dĩ nhiên thầy muốn nói đến Gwenog Jones, Đội trưởng của Holyhead Harrypies)...” Thầy lang thang vơ vẩn vào một chuỗi hồi tưởng dài lê thê, nhưng Harry có một cảm giác rõ rệt là Thầy Slughorn chưa xong với nó, và thầy chẳng thấy Neville và Ginny có chút nào thuyết phục cả. Buổi trưa ấy tiếp tục kéo dài với nhiều giai thoại nữa về những pháp sư lừng lẫy mà Thầy Slughorn đã dạy dỗ, tất cả đều đã vui sướng gia nhập cái mà thầy gọi là “Câu lạc bộ Slug” ở trường Hogwarts. Harry nôn nóng muốn đi về, nhưng không biết làm thế nào cho đừng quá vô lễ. Cuối cùng, khi đoàn tàu lửa ra khỏi một đoạn đường dài mịt mù sương giá để vào một vùng đỏ ráng hoàng hôn, Thầy Slughorn nhìn quanh, hấp háy mắt trong ánh nắng chiều. “Chu choa, trời gần tối rồi! Thầy không để ý là người ta đã thắp đèn lên! Tất cả các trò nên về thay áo chùng vô đi. McLaggen, trò nên ghé qua văn phòng thầy và mượn cuốn sách về Heo Đuôi cụt ấy. Harry, Blaise – cứ ghé bất cứ lúc nào các trò đi ngang qua. Trò cũng thế nhé, cô nương,” thầy nháy mắt với Ginny. “Thôi, các trò đi đi, các trò đi nhé!” Khi đẩy Harry vào hành lang tối om, Zabini ném cho nó một cái nhìn kinh tởm và Harry đáp lại cả vốn lẫn lời. Nó, Ginny, và Neville đi theo Zabini về dọc theo hành lang đoàn tàu. “Mình thiệt mừng là bữa ăn xong rồi,” Neville lầm bầm. “Người đâu mà kỳ quá, đúng không?” “Ừ, thầy hơi kỳ,” Harry nói, mắt nó không rời Zabini. “Mà làm sao em lại mắc kẹt vô chỗ đó vậy Ginny?” “Thầy nhìn thấy em ếm Zacharias Smith,” Ginny nói. “Anh có nhớ cái thằng ngốc của nhà Hufflepuff tham gia ĐQD không? Hắn cứ lẵng nhẵng đeo theo hỏi hoài chuyện gì đã xảy ra ở Bộ và cuối cùng hắn làm em bực mình quá nên em ếm xì bùa hắn luôn. Khi Thầy Slughorn đến em tưởng đâu em sắp bị cấm túc, nhưng thầy chỉ nghĩlà em ếm một cái bùa xịn ra trò và mời em ăn trưa! Khùng quá hả?” “Dù sao lý do đó còn đỡ hơn là có một bà mẹ đẹp nổi tiếng,” Harry nói, vừa quắc mắt nhìn cái chẩm của Zabini, “hay có một ông bác...” Nhưng nó chợt ngừng ngang. Một ý tưởng vừa nảy ra, tuy hơi táo bạo nhưng có khả năng là một sáng kiến tuyệt vời... Chỉ trong chừng một phút nữa Zabini sẽ đi vào toa tàu của đám học sinh năm thứ sáu nhà Slytherin và Malfoy hẳn là đang ngồi trong đó, tưởng là nó không bị ai nghe lén ngoài đám bạn Slytherin... Nếu Harry có thể đi theo sau Zabini vào đó, không bị nhìn thấy, thì có gì mà nó không thể thấy hay nghe được? Đúng là cuộc hành trình cũng gần kết thúc – nhà ga Hogsmeade chỉ còn cách đó không đầy nửa tiếng đồng hồ, căn cứ vào cảnh vật hoang sơ đang lướt qua bên ngoài cửa sổ - nhưng vìkhông đứa bạn nào coi trọng sự nghi ngờ của Harry về âm mưu của Malfoy, nên chính nó cần phải tìm bằng cớ để chứng minh. “Lát nữa mình sẽ gặp lại hai bạn,” Harry thìthầm thật nhỏ, vừa kéo cái Áo khoác tàng hình ra và tung nó lên để trùm kín mình. “Nhưng mà bồ...?” Neville hỏi. “Lát sau!” Harry thì thầm, vừa nhanh chân vọt theo Zabini một cách hết sức lặng lẽ, mặc dù trong tiếng rầm rập của đoàn tàu lửa đang chạy thì sự cẩn trọng của nó hơi bị thừa. Lúc này hành lang hầu như hoàn toàn trống vắng. Hầu như tất cả học trò đã trở lại toa tàu của mình để thay đồng phục của trường và thu thập hành trang cùng vật dụng cá nhân. Mặc dù nó bám sát Zabini hết mức, chỉ giữ khoảng cách sao cho không bị đụng vào người thằng này, Harry vẫn không đủ nhanh để kịp lẻn vô toa tàu khi Zabini mở cánh cửa. Lúc Zabini đang kéo sập cánh cửa thìHarry vội vã thò một chân vô để ngáng không cho cánh cửa đóng lại “Cánh cửa này mắc dịch gìvậy?” Zabini giận dữ nói khi nó cố dập đi dập lại cánh cửa vô chân Harry. Harry chụp cánh cửa và đẩy nó mở ra thật mạnh; Zabini vẫn nắm chặt cái núm cửa nên bị văng ra một bên và té lăn cù vào đùi của Gregory Goyle, và trong cảnh bát nháo tiếp theo đó, Harry xẹt nhanh vô trong khoang tàu, nhảy lên chỗ ngồi của Zabini lúc đó còn trống để tự đu người lên cái giá để hành lý. Cũng may là lúc đó Goyle và Zabini đang cự cãi nhau, khiến bao nhiêu cặp mắt đều hướng về phía tụi nó, bởi vì Harry khá chắc chắn là bàn chân và mắt cá nhân của nó đã bị hở ra khi vạt áo khoác bay lật lên; thực tình, trong một thoáng hoảng hốt, nó đã nghĩ rằng con mắt của Malfoy có ngó theo chiếc giầy thể thao của nó khi nó rút giò lên biến mất. Nhưng vừa lúc ấy Goyle đóng sập cánh cửa lại, xô Zabini ra; Zabini đổ nhào xuống chỗ ngồi của mình, mặt mũi xù lên bặm trợn, Vincent Crabbe tiếp tục xem cuốn truyện tranh của mình, và Malfoy, cười khúc khích, lại nằm dài ra băng ghế hai chỗ, đầu đặt lên đùi của Pansy Parkinson. Harry nằm cuộn tròn một cách khốn khổ trong tấm Áo khoác tàng hình để bảo đảm là mỗi phân của thân thể nó đều được giấu kín, và nó ngó Pansy vuốt mái tóc vàng óng mượt của Malfoy ngược lên trán, vừa làm vừa mỉm cười tự mãn như thể bất cứ ai cũng thèm được ở
  • 36. vào vị trí của cô ả. Những cái lồng đèn đung đưa từ trên trần toa tàu phả ánh sáng rực rỡ lên khung cảnh: Harry thậm chí có thể đọc được từng chữ trong cuốn truyện tranh của Crabbe ở ngay phía dưới nó. “Sao, Zabini,” Malfoy nói, “lão Slughorn muốn gì?” “Chỉ là toan kết bè tựu đám với những người có quen biết lớn,” Zabini nói, hày còn trừng mắt với Goyle. “Nhưng lão cũng chẳng kiếm được nhiều tay cho lắm.” Thông tin này không có vẻ làm cho Malfoy hài lòng. “Mời thêm được đứa nào nữa?” Nó hạch hỏi. “McLaggen của nhà Gryffindor,” Zabini nói. “Ồ phải, bác nó làm lớn ở trong Bộ mà,” Malfoy nói. “...một tay nào đó tên Belby, của nhà Ravenclaw.” “Chẳng lẽ là nó, nó chỉ là một thằng đần độn!” Pansy nói. “...và Longbottom, Potter với con nhỏ Weasley,” Zabini kết thúc. Malfoy thình lình ngồi bật dậy, gạt bàn tay của Pansy qua một bên. “Lão mời cả thằng Longbottom?” “Ừ, tôi cho là vậy, bởi vìthằng Longbottom đã ở đó,” Zabini dửng dưng đáp. “Lão Slughorn khoái thằng Longbottom ở chỗ nào?” Zabini nhún vai. “Potter, Potter quíbáu, hiển nhiên là lão muốn ngắm “Kẻ được chọn”,” Malfoy khinh khỉnh nhạo báng, “nhưng cái con bé Weasley! Nó có gìđặc biệt chứ?” “Nhiều chàng khoái con nhỏ đó lắm,” Pansy nói, kín đáo quan sát Malfoy để xem phản ứng của thằng này. “Ngay cả anh cũng nghĩ là con nhỏ xinh đẹp, đúng không, Blaise, ấy là tất cả chúng ta đều biết anh khó tính cỡ nào!” “Tôi chẳng đời nào đụng tới một đứa thuộc nòi phản trắc bẩn thỉu như con đó, cho dù nó đẹp xấu thế nào đi nữa,” Zabini lạnh lùng nói, và Pansy tỏ vẻ hài lòng. Malfoy nằm ngả trở xuống đùi cô nàng và cho phép cô nàng tiếp tục vuốt ve mái tóc của nó. “Chà, thật đáng tội nghiệp cho cái khẩu vị của lão Slughorn. Có lẽ lão hơi bị lẩm cẩm rồi. Thiệt là đáng xấu hổ. Cha tôi luôn nói rằng lão là một pháp sư giỏi vào thời của lão. Cha tôi xưa cũng là một trong những học trò cưng của lão. Có lẽ lão Slughorn chưa nghe nói là tôi đang ở trên tàu, hoặc là...” “Tôi chẳng tin gìvề lời mời đâu,” Zabini nói. “Khi tôi mới tới, lão có hỏi thăm tôi về cha của Nott. Hình như họ vốn là bạn cũ, nhưng khi lão nghe ông kia đã bị bắt ở Bộ thìlão tỏ vẻ không vui lắm, và Nott đâu có được mời, đúng không? Tôi không nghĩlão Slughorn khoái Tử thần thực tử đâu.” Malfoy có vẻ tức giận, nhưng cố nặn ra vỏn vẹn một tiếng cười khan không chút khôi hài. “Hừ, ai hơi đâu bận tâm lão khoái cái gì? Lão là ai, một khi thời thế thay đổi? Chỉ là một thầy giáo già ngu xuẩn.” Malfoy ngáp rõ to. “Ý tôi là, có thể tôi chẳng còn ở trường Hogwarts vào năm tới nữa, thì cái chuyện một lão mập già vang-bóng-một-thời khoái hay không khoái tôi có nghĩa lý quái gì kia chứ?” “Anh nói gì, có thể anh không đến trường Hogwarts vào niên học tới nữa à?” Pansy giận dỗi hỏi, ngừng vuốt tóc Malfoy tức thì. “Ôi, ai biết trước được đâu,” Malfoy nói với một thoáng tự mãn. “Anh có thể... ơ.. chuyển sang những thứ khác lớn lao hơn và hay hơn.” Nằm co quắp trong tấm Áo khoác tàng hình trên giá để hành lý, trái tim Harry bắt đầu đập nhanh. Liệu Ron và Hermione sẽ nói sao về chi tiết này? Crabbe và Goyle trố mắt nhìn Malfoy; dường như chúng chẳng có ý niệm mơ hồ nào về bất kỳ kế hoạch nào để chuyển sang những thứ lớn lao hơn và hay ho hơn. Ngay cả Zabini cũng để lọt một ánh mắt tò mò khiến vẻ mặt kiêu kỳ hơi bị mẻ phong độ mất một tí. Pansy tiếp tục chậm rãi vuốt tóc Malfoy, vẻ mặt sững sờ. “Có phải anh định nói – Kẻ ấy?” Malfoy nhún vai. “Mẹ muốn anh học hành xong xuôi đã, nhưng đối với anh, anh chẳng thấy chuyện học quan trọng vào thời buổi này. Anh muốn nói, thử nghĩ xem... Khi Chúa tể Hắc ám lên ngôi, liệu ngài có bận tâm một kẻ nào đó có bao nhiêu chứng chỉ Pháp thuật Thường đẳng hay bằng Pháp thuật Tận sức không? Dĩ nhiên ngài sẽ không cần... Vấn đề là kẻ đó đã làm được việc gìcho ngài và đã chứng tỏ với ngài sự tận tụy cống hiến ra sao.” “Và anh cho là anh có thể làm được điều gìđó cho ngài à?” Zabini hỏi giọng gay gắt. “Mười sáu tuổi và thậm chíchưa đậu hết các chứng chỉ?” “Chẳng phải tôi vừa nói rồi đó sau? Có thể ngài chẳng bận tâm là tôi có đậu hết các chứng chỉ không. Có thể công việc mà ngài muốn tôi làm không phải là cái việc người ta cần có đủ chứng chỉ mới làm được” Malfoy nói khẽ. Cả Crabbe và Goyle đều ngồi há hốc mồm ra như mấy cái máng xối hình đầu thú. Pansy đăm đăm ngó xuống Malfoy như thể cô nàng chưa từng bao giờ thấy cái gìgây kinh hoàng như thế. “Tôi nhìn thấy trường Hogwarts rồi,” Malfoy nói khi chỉ ra ngoài cửa sổ tối hù rõ ràng muốn thêm gia vị cho cái hiệu quả mà nó vừa tạo ra. “Chúng ta nên mặc đồng phục vào.” Harry mải chăm chú ngó Malfoy, nên không để ý Goyle đang vói lấy cái rương của nó; khi thằng này lẳng cái rương xuống, cái rương đụng mạnh vào một bên đầu của Harry. Nó để vuột một tiếng kêu đau không kềm được, và Malfoy ngước nhìn lên cái giá để hành lý, cau mày. Harry không ngán Malfoy, nhưng nó cũng chẳng thích thú gì lắm cái ý tưởng bị một đám Slytherin thù địch hát hiện trốn dưới tấm Áo khoác tàng hình. Nước mắt còn ứa ra và cái đầu còn đau buốt, Harry rút cây đ ra, cẩn thận không làm xáo trộn tấm áo khoác, và nín thở chờ đợi. May sao, Malfoy dường như quyết định là nó chỉ tưởng tượng ra tiếng kêu đó mà thôi; nó khác áo chùng vào như những đứa khác, khóa cái rương lại, và khi xe lửa giảm tốc độ chỉ còn trườn rề rề vô sân ga, nó thắt chặt quanh cổ tấm áo choàng lữ hành mới toanh. Harry nhìn thấy hành lang toa tàu giờ lại đông đúc người và hy vọng Hermione và Ron sẽ đem giùm hành lý của nó lên sân ga; nó bị mắc kẹt tại chỗ cho đến khi toa tàu hoàn toàn trống vắng. Sau cùng, sau cái lắc lư cuối cùng, đoàn tàu lửa dừng hẳn lại. Goyle mở tung cánh cửa và cậy vào vai u thịt bắp mà chen lấn vô một đám học sinh năm thứ hai, huých đẩy chúng giạt qua một bên; Crabbe và Zabini đi theo. “Em ra trước đi,” Malfoy bảo Pansy, cô ả đang giơ hai tay ra chờ đợi như thể hy vọng Malfoy sẽ nắm lấy tay ả. “Anh chỉ muốn kiểm tra lại một thứ.” Pasny đi ra. Giờ đây chỉ còn lại Harry và Malfoy trong khoang tàu. Mọi người đang lũ lượt đi thành hàng dài và kéo xuống sân ga tối om. Malfoy đi tới cửa khoang và buông rèm cửa xuống, để người đi ngoài hành lang không thể dòm dỏ vào. Xong nó cúi xuống cái rương của nó mở ra một lần nữa. Harry dòm xuống qua mép của giá để hành lý, tim nó càng đập mạnh hơn. Malfoy định giấu diếm Pansy cái gì? Liệu nó có sắp nhìn thấy cái vật bí mật đã bị hỏng cần thiết được sửa chữa không? “Bất động toàn thân!” Thình lình, Malfoy chĩa cây đũa phép của nó về phía Harry, khiến Harry bị tê liệt tức thì. Rồi như thể trong him quay chậm, Harry té lăn cù ra khỏi giá để hành lý, rớt xuống ngay chân Malfoy, rung chuyển cả sàn tàu, đau đớn thấu xương, Tấm Áo khoác tàng hình bị nó đè lên, cả thân hình nó lộ ra với hai chân co quắp lại trong tư thế quìmọp. Nó chẳng thể nhúc nhích được một cơ bắp nào; nó chỉ có thể trợn mắt ngó Malfoy đang ngoác miệng cười. “Tao đoán đúng,” Malfoy hí hửng nói. “Tao nghe cái rương của Goyle đụng vô mày. Và tao nhớ đã thấy cái gì đó loáng thoáng trắng trên không trung sau khi Zabini trở lại...” Cái nhìn của nó chần chừ một chút trên đôi giày thể thao của Harry. “Mày chẳng hề nghe được bất cứ điều gìmà tao quan tâm đâu, Potter à. Nhưng nhân khi tao tóm được mày ở đây...” Thế là nó đạp thật mạnh vô mặt Harry. Harry cảm giác cái mũi nó bị bể, máu xịt ra khắp nơi. “Cú đó cho cha tao. Bây giờ, để coi...” Malfoy kéo tấm Áo khoác tàng hình bị đè bên dưới thân hình bất động của Harry và quăng trùm lên Harry.
  • 37. “Tao không tin là họ sẽ tìm ra mày trước khi tàu trở lại London,” nó nói khẽ. “Hẹn gặp lại sau, Potter nhé... hoặc khỏi gặp.” Và cố ý bước giẫm lên mấy ngón tay của Harry, Malfoy đi ra khỏi toa tàu. Chương 8 Thầy Snape đắc thắng Harry không thể nhúc nhích một cơ bắp nào cả. Nó cứ nằm đó, bên dưới tấm Áo khoác tàng hình, cảm thấy máu từ mũi chảy ra, nóng và ướt, loang khắp mặt. Nó lắng nghe tiếng người nói và tiếng bước chân bên kia hành lang. Ý nghĩ ngay tức thì của nó là ai đó chắc chắn sẽ kiểm tra các toa tàu trước khi đoàn tàu lại khởi hành. Nhưng cũng ngay sau đó nó nản lòng nhận ra rằng cho dù có ai đó nhìn vào toa, họ cũng không thể nhìn thấy hay nghe thấy nó. Niềm hy vọng lớn nhất của nó là ai đó sẽ bước vào toa và đạp phải nó. Harry chưa bao giờ ghét Malfoy hơn cái lúc nó nằm cứng đơ ở đó, giống như một con rùa ngu xuẩn bị lật ngửa trên cái mai của mình, máu nhểu vào miệng há hốc đến phát lợm. Nó đã tự dẫn xác vào một tình huống ngu hết chỗ nói... Và giờ đây những bước chân cuối cùng đang xa dần; mọi người đang kéo lê hành lý trên sân ga tối om phía bên ngoài; nó có thể nghe thấy những tiếng rương cạ mặt đường ràn rạt và tiếng người chuyện trò bép xép ỏm tỏi. Ron và Hermione hẳn nghĩlà nó đã ra khỏi tàu mà không đợi tụi nó. Một khi đã vào trường Hogwarts rồi và ngồi vào chỗ của mình trong Đại sảnh đường, tụi nó sẽ ngó lên ngó xuống dãy bàn của nhà Gryffindor vài ba hút, và cuối cùng nhận ra nó không có mặt ở đó, thìlúc đó hẳn là nó đã vượt qua nửa quãng đường quay lại London. Nó cố gắng tạo ra một âm thanh nào đó, thậm chí một tiếng rên ư ử, mà cũng không thể được. Rồi nó sực nhớ là một số pháp sư, như cụ Dumbledore chẳng hạn, có thể ếm bùa mà không cần hô thành tiếng, thế là nó thử triệu hồi cây đũa phép đã văng ra khỏi tay nó bằng cách nhẩm đi nhẩm lại trong đầu mấy tiếng “Lại đây đũa phép!” nhưng chẳng có gìxảy ra cả. Nó tưởng nghe được tiếng rì rào của cây cối quanh hồ, và tiếng cú rúc vọng từ xa xa, nhưng chẳng có dấu hiệu gì là có ai đó kiểm tra các toa tàu hay thậm chí (nó hơi tự khinh mình về niềm hy vọng này) tiếng hô hoán hoảng loạn rằng Harry đã đi đâu mất rồi. Một cảm giác tuyệt vọng xâm chiếm khắp người nó khi nó tưởng tượng cảnh đoàn xe do vong mã kéo lăn bánh vô trường và tư một chiếc xe ngựa nào đó đang chở Malfoy vang tiếng cười rú dù đã được hãm bớt âm thanh, khi thằng này kể lại chuyện nó dần Harry nhừ tử cho Crabbe, Goyle, Zabini, và Pansy Parkinson nghe. Đoàn tàu lửa bắt đầu lắc lư khiến Harry lăn qua một bên. Bây giờ nó ở tư thế có thể nhìn chăm chăm vào gầm ghế bụi bặm thay vì cái trần tàu. Sàn tàu bắt đầu rung chuyển khi đầu máy gầm lên khởi động. Đoàn tàu Tốc hành đang chuyển bánh ra đi mà không ai biết Harry vẫn còn ở trên tàu... Bỗng nhiên nó cảm thấy tấm Áo khoác tàng hình bay ra khỏi người và một giọng nói vang lên: “Chào Harry.” Một ánh đèn đỏ nhá lên và cơ thể Harry hết đông cứng; nó đã có thể gượng ngồi lên trong một tư thế có nhân cách hơn, vội vàng dùng mu bàn tay lau máu tèm lem trên gương mặt bầm giậ, rồi ngẩng đầu nhìn cô Tonks , cô đang cầm tấm Áo khoác tàng hình mà cô mới giở lên khỏi người Harry. “Chúng ta hải ra khỏi đây, nhanh lên,” cô nói khi cửa sổ tàu trở nên mịt mờ hơi nước và đoàn tàu bắt đầu tiến ra khỏi sân ga. “Nào, chúng ta sẽ nhảy ra khỏi tàu.” Harry vội vã đi thoe cô Tonks ra hành lang. Cô kéo cửa xe lửa mở ra và nhảy xuống cái sân ga dường như đnag trượt nhanh bên dưới hai người vì con tàu đang tăng tốc. Harry nhảy thoe cô Tonks , lảo đảo một tí khi chạm mặt đất, rồi đứng thẳng dậy vừa kịp lúc để thấy cái đầu máy hơi nước màu đỏ tía láng lẫy đã tăng tốc, quanh qua cua, và biến mất khỏi tầm nhìn. Làn khí đêm lạnh lẽo làm dịu đi cơn đau nhói của cái mũi Harry. Cô Tonks đang nhìn nó; nó cảm thấy bực tức và bối rối về cái sự nó đã được phát hiện trong một tư thế buồn cười. Cô Tonks lặng lẽ trao lại nó tấm Áo khoác tàng hình. “Ai làm?” “Draco Malfoy,” Harry thốt lên cay đắng. “Cám ơn chị đã... ơ...” “Không có chi,” căn cứ vào những gì Harry có thể nhìn thấy trong bóng tối, thì cô Tonks vẫn đầu tóc bơ phờ, mặt mày ủ dột như cái hôm Harry gặ cô ở Hang Sóc. “Nếu em đứng yên thìtôi có thể sửa mũi cho em.” Harry không nghĩ ý kiến đó hay lắm; nó đã có ý định đến khám mũi ở chỗ bà Pomfrey, bà sế bệnh thất của trường, người mà Harry tin tưởng một chút về Bùa Chữa thương, nhưng nói ra thìbất lịch sự, nó đành đứng ngay đơ nhắm mắt lại. “Chữa lành chữa lặn,” cô Tonks hô. Cái mũi của Harry nóng lên dễ sợ, rồi lạnh buốt. Nó giơ một bàn tay lên, cẩn thận rờ cái mũi. Dường như cái mũi đã lành. “Cám ơn chị nhiều lắm!” “Em nên khoác tấm áo đó lên, và chúng ta có thể đi bộ về trường,” cô Tonks nói, vẫn không hề mỉm cười. Khi Harry đã tung tấm áo khoác trùm lên người, cô Tonks vẫy cây đũa phép của mình; một sinh vật bốn chân óng ánh bạc trông rất cừ khôi hiện ra từ đầu đũa và phi vào đêm tối. “Có phải đó là một Thần Hộ mệnh?” Harry hỏi, nó từng thấy cụ Dumbledore gởi thông điệp bằng cách tương tự. “hải tôi đang nhắn tin về lâu đài là đã đón được em, kẻo người ta lo lắng. Thôi đi nào, chúng ta không nên nhởn nhơ.” Cả hai tiến về hía con đường dẫn về tòa lâu đài. “Làm sao chị kiếm ra em?” “Tôi nhận thấy em chưa ra khỏi tàu và tôi biết em có tấm áo khoác đó. Tôi nghĩ óc thể em đang ấn nú vì một lý do nào đó. Khi nhìn thấy tấm rèm buông xuống ở cửa một toa tàu, tôi nghĩmình nên kiểm tra.” “À, mà chị làm gìở đây vậy?” Harry hỏi. “Hiện giờ tôi được cử gác ở nhà ga Hogsmeade, gọi là bảo vệ thêm cho trường,” cô Tonks nói. “Chỉ có mình chị chốt ở đây hay là...?” “Không, Chân Nhồi bông, Savaga, và Dawlish cũng gác ở đây nữa.” “Dawlish, có phải vị Thần Sáng đã bị cụ Dumbledore tấn công hồi năm ngoái không ạ?” “Phải.” Hai người lần bước đi trên con đường vắng vẻ tối om, men theo dấu của đoàn xe vừa mới chạy qua. Từ dưới tấm áo khoác, Harry liếc nhìn sang cô Tonks đi bên cạnh. Năm ngoái cô háo hức tò mò (đến mức có lúc gây bực mình), cô dễ dàng há ra cười, cô hay nói tiếu lâm. Bây giờ cô dường như già hơn và nghiêm trang hơn nhiều, và có vẻ lầm lì quả quyết. Tất cả những thay đổi này có hải là hậu quả của chuyện xảy ra ở Bộ? Nó ngẫm nghĩ lại một cách khổ sở về việc Hermione đã đề nghị nó nên nói gì đó để an ủi cô Tonks về việc chú Sirius; rằng đó không hề là lỗi của cô ấy, nhưng Harry không thể nào mở miệng nói điều đó được. Nó chẳng hề trách cô về cái chết của chú Sirius; cô cũng chẳng có lỗi gì hơn những người khác (và càng ít lỗi hơn cả nó) nhưng nó không thích nói về chú Sirius nếu như nó có thể tránh được. Và thế là hai người cứ nặng nề bước đi bên nhau trong im lặng. Vạt áo choàng của cô Tonks quét loạt soạt phía sau họ. Trước giờ vẫn đi đến trường bằng vong mã kéo, Harry đã chẳng bao giờ ước lượng được khoảng cách từ trường Hogwarts đến nhà ga Hogsmeade. Cuối cùng, khi nhìn thấy mấy cây cột cao hia bên cổng trường, mỗi đỉnh cột có một con heo rừng có cánh, nó thở hào nhẹ nhõm. Nó lạnh, nó đói, và nó hăm hở bỏ lại sau lưng cái cô Tonks ủ dột nó mới biết đến này. Nhưng khi đưa tay đẩy cánh cổng, tìnó nhận thấy cổng đã được khóa bằng xích. “Mở ra!” Nó hô lên một cách tự tin, vừa chĩa cây đũa phép vào ổ khóa, nhưng chẳng có gìxảy ra cả. “Thần chú đó không hiệu nghiệm đối với cái này,” cô Tonks nói. Đích thân cụ Dumbledore đã phù phép chúng. Harry nhìn quanh. “Em có thể trèo qua một bức tường,” nó đề nghị.
  • 38. “Không, em không thể làm vậy,” cô Tonks nói dứt khoát. “Bùa phép chống-kẻ-đột-nhập được ếm lên tất cả các bức tường. Hè này an ninh đã được tăng cường gấp một trăm lần.” “Vậy thì,” Harry nói, bắt đầu cảm thấy bực mình về cái sự chẳng giúp đỡ gì được của cô Tonks, “em coi như sẽ hải ngủ ở ngoài này chờ đến khi trời sáng.” “Có người ra đón em vào,” cô Tonks nói, “Nhìn kìa.” Một cái đèn lồng nhấp nhô cách tòa lâu đài không xa. Harry mừng rỡ được nhìn thấy ánh đèn đến nỗi cảm thấy nó có thể chịu đựng cả những lời phê bình khò khè của thầy Filch về sự lề mề của nó lẫn bài diễn văn thùng rỗng về việc tuân thủ giờ giấc của nó sẽ tiến triển nếu chịu khó áp dụng thường xuyên hình phạt kẹp ngón tay. Chỉ đến khi ánh đèn vàng sáng sủa chỉ còn cách hai người chừng ba thước, và Harry đã lột tấm Áo khoác tàng hình ra để lộ thân mình, nó mới nhận ra, cùng lúc với một nỗi căm ghét trào lên, cái mũi khoằm sáng bóng và mái tóc đen dài nhờn nhẫy của thầy Severus Snape. “Ái chà chà,” Thầy Snape vừa cười khẩy châm chọc, vừa rút cây đũa phép ra gõ lên ổ khóa một lần, khiến cho sợi dây xích ngoằn ngoèo rút lại như con rắn thu mình, và cánh cổng mở ra kêu cọt kẹt. “Trò xuất hiện là tốt đấy, Potter, tuy nhiên hẳn là trò đã quyết định rằng mặc đồng phục sẽ giảm đi giá trị ngoại hình của trò chứ gì.” “Con không thể thay đồ, con không có cái...” Harry vừa mới mở miệng nói, Thầy Snape đã ngắt lời nó. “Không cần phải đợi đâu, cô Nymphadora à, Potter hoàn toàn... à... an toàn trong tay tôi.” “Tôi tưởng bác Hagrid là người nhận thông báo,” cô Tonks nói, cau mày lại. “Lão Hagrid trễ bữa tiệc khai trường, y như cậu Potter đây, cho nên tôi đã nhận thay. Và nhân tiện,” Thầy Snape nói, vừa đứng lùi lại để cho Harry đi ngang qua, “tôi thích xem Thần Hộ mệnh mới của cô.” Thầy đóng sập cánh cánh cổng trước mặt cô Tonks một cái rầm và gõ cây đũa phép lên sợi dây xích một lần nữa, khiến nó vươn ra, kêu xủng xẻng, trở lại vị trítrước đó. “Tôi nghĩcô coi bộ khá hơn với con cũ,” Thầy Snape nói, sự ác ý trong giọng nói của thầy không thể nào nhầm lẫn được. “Con mới coi bộ yếu.” Khi Thầy Snape quơ ngọn đèn lồng lên, Harry thoáng thấy vẻ king ngạc và giận dữ trên gương mặt cô Tonks. Rồi cô lại khuất chìm trong bóng tối một lần nữa. “Tạm biệt cô Tonks,” Harry ngoái đầu chào vói lại khi nó bắt đầu đi về phía trường với Thầy Snape. “Cám ơn cô về... mọi thứ,” “Hẹn gặp lại nhé, Harry” Thầy Snape không nói gì trong một hay hai phút. Harry cảm thấy như thể cơ thể nó đang phát ra những luồng sóng căm ghét mạnh đến nỗi kể cũng lạ rằng Thầy Snape không cảm thấy bị chúng đốt cháy. Nó đã không ưa được Thầy Snape ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, nhưng qua thái độ của thầy đối với chú Sirius, Thầy Snape đã tự đặt mình vào chỗ vượt quá xa cái khả năng tha thứ của Harry, mãi mãi và bất di bất dịch. Bất chấp cụ Dumbledore nói gì đi nữa, Harry đã có thìgiờ suy nghĩsuốt mùa hè, và đã kết luận rằng nhwnag khích bác ác độc của Thầy Snape với chú Sirius, về việc chú thìcứ ở nơi trú ẩn an toàn trong khi những người khác trong Hội Phượng hoàng hải ra ngoài chiến đấu với Voldermort, có lẽ đã là một yếu tố có tác động mạnh khiến chú Sirius lao vào Bộ cái đêm mà chú bị giết. Harry bám vào lý giải này, bởi vì như thế nó có thể oán trách Thầy Snape, điều này khiến cho nó cảm thấy thỏa mãn, và cũng bởi vì nó biết rằng nếu có ai đó không thương tiếc cái chết của chú Sirius thìkẻ đó chính là người đàn ông đang rảo bước đi bên cạnh nó trong bóng tối. “Ta cho rằng nhà Gryffindor đáng bị trừ năm mươi điểm vầy sự đi trễ này,” Thầy Snape nói. “Và, để ta xem, trừ thêm hai mươi điểm vì bộ đồ Muggle trò đang mặc. Trò biết đấy, ta không tin bất cứ nhà nào lại bị điểm âm sớm như vậy vào đầu niên học: mọi người còn chưa bắt đầu món bánh nướng cơ mà. Có thể trò đã lập một kỷ lục đấy, Potter ạ.” Cơn giận dữ căm ghét sôi sục bên trong người Harry và dường như cháy thành một ngọn lửa nóng đến trắng lóa, nhưng nó thà bị đông cứng trên suốt quảng đường quay trở lại London còn hơn là nói cho Thầy Snape biết tại sao nó đến trễ. “Ta nghĩ là trò muốn làm một cú xuất hiện độc đáo, đúng không?” Thầy Snape tiế tục. “Và vì không có sẵn xe bay nên trò quyết định là nếu xuất hiện đột ngột giữa Đại sảnh đường giữa chừng bữa tiệc ắt là tạo được một hiệu quả đầy ấn tượng.” Harry vẫn làm thinh, mặc dù nó tưởng như ngực nó có thể nổ tung. Nó biết Thầy Snape ra đón nó là nhằm vào việc này, được hành hạ châm chích nó trong mấy hút ấy mà không bị ai nghe thấy. Hai thầy trò đi đến bậc thềm cuối cùng và cánh cửa trước khổng lồ bằng gỗ sồi mở ra một tiền sảnh mênh mông rợp bóng cờ, và tiếng nói cười, tiếng ly chén chạm nhau lanh canh bùng lên chào đón hai người đi qua cánh cửa thông để mở vô Đại sảnh đường. Harry tự hỏi là nó có thể chuồi trở vô trong tấm Áo khoác tàng hình, để bằng cách ấy đến được chỗ ngồi của nó ở dãy bàn nhà Gry mà không bị chú ý không (thiệt bất tiện là dãy bàn đó nằm ở tuốt phía cuối Đại sảnh đường). Tuy nhiên dường như đọc được suy nghĩ của Harry, Thầy Snape nói, “Không mặc áo khoác. Trò cứ bước vào để mọi người thấy trò, ta chắc là trò muốn như vậy mà.” Harry xoay người tại chỗ và dõng dạc đi thẳng qua cánh cửa mở rộng: gì cũng được miễn là thoát khỏi Thầy Snape. Đại sảnh đường với bốn dãy bàn dài cho học sinh bốn nhà và một bàn dành cho giáo ban đặt ở đầu sảnh, được trang hoàng như thường lệ với những ngọn nến lơ lửng giữa không trung khiến cho những cái dĩa bên dưới lấ lánh và sáng choang. Nhưng tất cả đều nhòe nhạt lung linh đối với Harry, nó bước nhanh đến nỗi khi đã qua khỏi dãy bàn của nhà Hufflepuff rồi mới bắt đầu bị mọi người trố mắt nhìn, và khi đám học trò đứng lên để nhìn nó cho kỹ, thìnó đã tìm ra Ron và Hermione. Nó bèn đi như chạy về phía băng ghế của hai đứa bạn và chen vô ngồi giữa hai đứa nó. “Nãy giờ bồ ở đâu?... Trời ơi, bồ đã làm gìcái mặt của bồ vậy?” Ron nói, cũng lõ mắt nhìn Harry như mọi người xung quanh. “Hả, cái mặt mình bị sao?” Harry nói, chụp lấy một cái muỗng và liếc nhìn cái bóng phản chiếu méo mó của chân dung nó. “Mặt bồ bê bết máu!” Hermione nói. “Lại đây...” Cô nàng giơ cây đũa phép lên, nói “Tẩy sạch!” và làm tiêu hết mấy vết máu khô. “Cám ơn,” Harry nói, sờ sờ cái mặt giờ đây đã sạch sẽ của nó. “Cái mũi của mình trông thế nào?” “Bình thường,” Hermione lo lắng nói. “Mà tại sao nó có thể không bình thường cơ chứ? Harry, có chuyện gìvậy? Tụi mình sợ quá!” “Mình sẽ nói với mấy bồ sau,” Harry sẵng giọng. Nó thấy rất rõ là Ginny, Neville, Dean, và Seamus đang dỏng tai nghe ngóng; ngay cả Nick Suýt mất đầu, con ma của nhà Gryffindor, cũng lảng vảng gần băng ghế của tụi nó mà nghe lén. “Nhưng…” Hermione nói. “Lúc này không được, Hermione,” Harry rầu rĩnói, bằng một giọng đầy ngụ ý. Nó hy vọng lắm lắm là người ta sẽ đoán rằng nó vừa dính líu vô chuyện gìđó anh hùng, nếu là chuyện đương đầu với hai tên Tử thần thực tử và một tên giám ngục thìcàng hay. Tuy nhiên Malfoy sẽ loan truyền câu chuyện rộng rãi hết mức có thể, nhưng biết đâu câu chuyện ấy sẽ không tới tai quá nhiều người trong nhà Gryffindor. Nó vói ngang qua Ron tính lấy hai cái đùi gà và một nắm khoai chiên, nhưng chưa kịp lấy thìchúng đã biến mất, và thay vô đó là món bánh nướng. “Đằng nào thìbồ cũng đã lỡ buổi phân loại học sinh mới rồi,” Hermione nói, trong khi Ron thò tay lấy một miếng bánh ngọt sô cô la. “Nón có nói gìhay ho không?” Harry hỏi, vừa lấy một miếng bánh trái cây tẩm mật. “Thực ra thìcũng như mọi năm… khuyên nhủ chúng ta đoàn kết để đối phó với kẻ thù, đại khái như bồ đã biêt rồi đấy.” “Thầy Dumbledore có nhắc gìtới Voldermort không?” “Chưa, nhưng thầy luôn để dành bào diễn văn riêng của thầy đến cuối bữa tiệc mà. Chắc cũng không còn lâu nữa đâu.” “Thầy Snape nói bác Hagrid đến dự tiệc trế…” “Bồ đã gặp Thầy Snape hả? Chuyện ra sao?” Ron nói giữa những cái ngoạm như điên vô miếng bánh ngọt.
  • 39. “Tình cờ chạm trán ổng,” Harry nói lảng đi. “Bác Hagrid chỉ trễ vài phút,” Hermione nói. “Nhìn kìa, bác đang vẫy tay với bồ kìa, Harry.” Harry ngước nhìn lên bàn dành cho giáo ban và nhe răng cười với bác Hagrid, bác ấy quả thực đang vẫy tay chào nó. Bác Hagrid chẳng bao giờ kềm chế được hoàn toàn cách xử sự của mình cho đàng hoàng đứng đắn như giáo sư McGonagall – giáo viên chủ nhiệm của nhà Gryffindor. Cái đầu của bà nhô lên tới đâu đó khoảng giữa vai và cùi chỏ của bác Hagrid, bởi vì hai người đang ngồi cạnh nhau, và giáo sư McGonagall tỏ vẻ không tán thành cái kiểu chào hỏi hơi bị nồng nhiệt này. Harry ngạc nhiên thấy giáo viên môn Chiêm tinh, cô Trelawney đang ngồi sát bên cạnh bác Hagrid; hiếm khi nào thấy bà rời khỏi cái phòng trên tháp, và Harry chưa bao giờ thấy bà trong những bữa tiệc khai trường trước đây. Trông bà vẫn quái dị như hồi nào tới giờ, lấp lánh những chuỗi đeo lòng thòng và khăn quàng dài lượt thượt, hai mắt được cặp kính khuếch đại cho đến kích thước khổng lồ. Vì luôn luôn coi giáo sư Trelawney như một loại thầy bói bịp, Harry đã sửng sốt khi khám phá ra vào cuối niên học trước, rằng chính bà là người đã phán ra lời Tiên tri đã trở thành nguyên nhân khiến Chúa tể Voldermort giết cha mẹ Harry và tấn công chính Harry. Sự hiểu biết này khiến nó các ít háo hức xun xoe quanh bà, và thiệt may phước, nam nay nó bỏ học môn Chiêm tinh. Hai con mắt như đèn hiệu của bà Trelawney đảo vòng về hướng Harry; nó vội vàng nhìn thác qua hướng bàn ăn nhà Slytherin. Draco Malfoy đang làm điệu bộ kịch câm diễn tả động tác đạp bể một cái mũi giữa tiếng vỗ tay hoan hô và tiếng cười khành khạch. Harry cụ mắt lại ngó cái bánh trái cây tẩm mật của nó, ruột gan lại sôi lên. Nó phải đánh đổi cái gìđây để được đấu tay đôi với Malfoy một phen… “Thế giáo sư Slughorn muốn gì?” Hermione hỏi. “Muốn biết thực sự thìchuyện gìđã xảy ra ở Bộ,” Harry nói. “Ông ấy và tất cả mọi người ở đây,” Hermione khịt khịt mũi lại. “Thiên hạ tra vấn tụi này suốt hành trình trên tàu, đúng không Ron?” “Ừ,” Ron nói. “Tất cả đều muốn biết liệu bồ có phải là “Kẻ được chọn” không...” “Cái đề tài đó được thảo luận rất nhiều, thậm chí trong giới ma,” Nick Suýt mất đầu chen ngang, vừa cúi cái đầu chỉ còn dính tòn teng về phía Harry khiến cho cái đầu lặc lìa một cách đe dọa trên nếp cổ áo. “Tôi thì được coi như một thứ có uy tín về vấn đề Potter; ai cũng biết chuyện chúng ta thân thiết với nhau. Tôi sẽ khẳng định với cộng đồng mà là tôi sẽ không quấy rầy cậu để dò la thông tin, tuy nhiên tôi nói với họ là ’Harry Potter biết cậu ấy có thể giãi bày tâm sự với tôi mà tin cậy tuyệt đối. Tôi thà chết chứ không phản bội lòng ton của cậu ấy’.” “Nói vậy thìcũng huề tiền, bởi vìông đã chết mất tiêu rồi còn đâu,” Ron nhận xét. “Một lần nữa, cậu lại cho thấy sự nhạy bén của một cái rìu cùn,” Nick Suýt mất đầu nói bằng giọng bị xúc phạm ghê gớm, rồi ông trồi lên trên không trung và lướt về phía đầu kia của cái bàn nhà Gryffindor vừa đúng lúc cụ Dumbledore đứng dậy từ bàn ăn của giáo ban. TIếng nói tiếng cười đang vang khắp sảnh đường hầu như lắng xuống ngay tức thì. “Chúc các trò buổi tối tuyệt vời nhất!” Cụ nói, miệng cười tươi, tay dang rộng như thể muốn ôm hết cả sảnh đường. “Tay của thầy bị sao vậy?” Hermione há hốc miệng thắc mắc. Cô bé không phải là người duy nhất để ý. Bàn tay phải của cụ Dumbledore đã bị thâm đen và có vẻ như đã chết vào cái đêm mà cụ đến đón Harry ở gia đình Dursley. Tiếng xì xào nổi lên hắp phòng; Cụ Dumbledore, suy diễn đúng những lời xì xào đó, chỉ mỉm cười và rũ ống tay áo màu vàng tía che phủ vết thương. “Không có gì đáng lo lắng cả,” cụ ung dung nói. “Nào các học sinh mới, ta mừng đón các trò vào trường, và các học sinh cũ, ta mừng đón các trò trở lại trường! Một năm học với đầy đủ giáo dục về pháp thuật đang chờ đón các trò…” “Bàn tay của thầy đã như vậy từ khi mình gặp thầy hồi mùa hè,” Harry thì thầm với Hermione. “Nhưng mình tưởng đâu giờ này thầy đã chữa lành cho nó rồi chứ… hay bà Pomfrey đáng ra đã phải chữa lành cho thầy rồi chứ.” “Trông có vẻ như bàn tay đã chết,” Hermione nói, với một vẻ buồn nôn. “Nhưng có một số thương tích không thể chữa lành được… những lời nguyền xưa… và có những thứ thuốc độc không có thuốc giải…” “…và thầy Filch, giám thị của chúng ta, đã nhờ tôi nói rằng có một sự cấm ngặt bất cứ món đồ chơi giỡn nào xuất xứ từ cửa hàng gọi là Phù thỉ Wỉ Wái của Wea. Những ai muốn chơi cho đội Quidditch của các nhà nên ghi danh với giáo sư hướng dẫn của nhà mình như thông lệ. Chúng ta cũng đang tìm một nhà bình luận Quidditch mới, thủ tục như trên. Năm học này, chúng ta hân hoan chào đón một thành viên mới trong giáo ban, Giáo sư Slughorn,” Thầy Slughorn đứng dậy, cái đầu hói của thầy sáng bóng lên trong ánh nến, cái bụng bự quá khổ của thầy đổ bóng xuống mặt bàn. “Đây là đồng nghiệp của tôi trước đây, ông đã đồng ý phục hồi vị trícũ của mình là một bậc thầy Độc dược.” “Độc dược à?” “Độc dược?” Tiếng hỏi vang nhau khắp sảnh đường vìngười ta thắc mắc liệu mình có nghe đúng không. “Độc dược hả?” Ron và Hermione nói cùng một lúc, cùng quay lại nhìn Harry chằm chằm. “Nhưng bồ nói là…” “Đồng thời GIÁO SƯ Snape,” cụ Dumbledore cất giọng cao hơn để lời cụ át đi những tiếng xì xầm, “sẽ nhận dạy bộ môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám.” “Không!” Harry nói to đến nỗi nhiều cái đầu quay về phía nó. Nó chẳng bận tâm. Nó đang trừng trừng ngó lên bàn giáo ban, tức như bị bò đá. Làm sao mà Thầy Snape được giao cho bộ môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám trong thời buổi này chứ? Chẳng phải ai cũng biết rằng cụ Dumbledore đã không tin tưởng giao cho thầy ấy công việc đó suốt bao nhiêu năm hay sao? “Nhưng Harry à, bồ nói Thầy Slughorn sắp dạy môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám cơ mà!” Hermione nói. “Mình cứ tưởng vậy!” Harry nói, vắt óc nhớ lại có khi nào cụ Dumbledore đã nói với nó điều này không, nhưng bây giờ nghĩ lại, nó không thể nào nhớ ra cụ Dumbledore có từng nói với nó là Thầy Slughorn sẽ dạy cái gì. Thầy Snape, người ngồi ngay bên phải cụ Dumbledore, đã không buồn đứng dậy đáp lễ khi tên thầy được nêu lên; thầy chỉ giơ một bàn tay lên uể oải ghi nhận tiếng vỗ tay hoan hô vang lên từ bàn ăn của nhà Slytherin, tuy vậy, Harry chắc chắn là nó đã phát hiện ra cái vẻ đắc thắng trên gương mặt mà nó ghét cay ghét đắng. “Chà, có một điều lành,” nó nói một cách hằn học, “Thầy Snape sẽ ra đi vào cuối năm học.” “Ýbồ muốn nói gì?” Ron hỏi. “Cái môn xúi quẩy. Không ai dạy môn đó mà ở lại trường qua một năm… Trên thực tế thầy Quirrell chết khi đang dạy… Về phần mình, mình sẽ cầu khấn cho có thêm một cái chết nữa…” “Harry!” Hermione kêu lên, giọng sửng sốt và quở trách. “Có thể thầy ấy chỉ cần quay lại dạy môn Độc dược vào cuối niên học,” Ron nói với giọng biết điều. “Có thể cái ông Slughorn đó sẽ không muốn ở lại dạy lâu dài. Như thầy Moody đâu có ở lại.” Cụ Dumbledore đằng hắng. Harry, Ron và Hermione không phải là những đứa duy nhất đang nói chuyện; cả Đại sảnh đường đã nổ bùng ra tiếng chuyện trò râm ran về cái tin Thầy Snape cuối cùng đã đạt được tâm nguyện. Dường như không biết đến tính chất gây xúc động của cái tin mà cụ vừa phổ biến, cụ Dumbledore không nói gìthêm về việc bổ nhiệm nhân sự trong giáo ban, cụ chờ vài giây cho có sự im lặng hoàn toàn rồi tiếp tục nói. “Giờ đây, như mọi người trong sảnh đường này đều biết, chúa tể Voldermort và đồ đệ hắn lại một lần nữa tung hoành công khai và đang tăng cường lực lượng.” Sự im lặng dường như trở nên ngột gạt và căng thẳng khi cụ Dumbledore nói. Harry liếc sang Malfoy. Malfoy lúc ấy không nhìn cụ Dumbledore, mà đang dùng cây đũa phép khiến cái nĩa của nó bay lượn lờ giữa không trung, như thể nó thấy lời lẽ của vị hiệu trưởng chẳng đáng cho nó để lọt vào tai.
  • 40. “Tôi không thể nhấn mạnh đầy đủ sự nguy hiểm của tình thế hiện nay, và cẩn trọng mà mỗi người trong chúng ta ở trường Hogwarts cần phải có để bảo đảm chúng ta được an toàn. Tòa lâu đài đã được củng cố phòng thủ Pháp thuật vững chắc trong mùa hè, chúng ta đã được bảo vệ bằng những cách thức mới và mạnh hơn, nhưng chúng ta vẫn phải đề phòng hết sức cẩn thận sự cẩu thả vô ý về phía học sinh và giáo ban. Vì vậy thầy khuyên các trò nên tôn trọng bất cứ giới hạn an ninh nào mà các thầy cô giáo có thể áp đặt lên các trò, cho dù các trò có thấy khó chịu thế nào đi nữa- đặc biệt, điều lệ nội qui các trò không được ra khỏi giường vào ban đêm. Thầy kêu gọi các trò, nếu nhận thấy bất cứ điều gì khác lạ hay đáng ngờ bên trong lẫn bên ngoài tòa lâu đài, các trò hãy báo ngay lập tức cho một người trong giáo ban. Thầy tin tưởng các trò luôn xử xự với ý thức cao nhất về sự an toàn của chính các trò và của những người khác.” Đôi mắt xanh cụ Dumbledore lướt qua khắp đám học sinh trước khi cụ mỉm cười một lần nữa. “Nhưng bây giờ, chăn êm nệm ấm đang chờ các trò, thoải mái và ấm áp như các trò có thể mơ ước, và thầy biết ưu tiên số một của các trò là được nghỉ ngơi thật tốt để chuẩn bị cho bài học ngày mai. Cho nên chúng ta hãy chúc nhau ngủ ngon. Píp píp!” Cùng với âm thanh ràn rạt điếc tai như mọi khi là những băng ghế bị đẩy ra sau và hàng trăm học sinh bắt đầu rồng rắn kéo nhau ra khỏi Đại sảnh đường đi về phía phòng ngủ của chúng. Harry, chẳng việc gì phải vội đi cùng cái đám đông cứ trố mắt nhìn nó, cũng không cần đến gần Malfoy vừa đủ để cho phép nó kể lại câu chuyện đạp bể cái mũi, cứ cà rề lại phía sau, làm bộ cột lại dây giày, nhường cho hầu hết học sinh nhà Gryffindor kéo ra trước. Hermione đã lao đi trước để làm nhiệm vụ Huynh trưởng của mình là chăn dắt đàn em năm thứ nhất, nhưng Ron nán lại với Harry. “Thực ra thìcó chuyện gìvới cái mũi của bồ?” Ron hỏi, khi hai đứa đã cách khá xa cái đám đông đang kéo nhau ra khỏi Đại sảnh đường, và ở ngoài tầm nghe ngóng của bất cứ ai. Harry kể cho Ron nghe. Ron không phá ra cười là một bằng chứng hùng hồn cho tình bạn vĩđại giữa tụi nó. “Mình thấy Malfoy làm điệu bộ nhái cái gìđó liên quan đến cái mũi,” Ron rầu rầu nói. “Ừ, mà thôi, hơi đâu mà bận tâm,” Harry cay đắng nói. “Chỉ cần nghe điều mà nó nói trước khi phát hiện ra mình ở đó...” Harry những tưởng Ron sẽ sửng sốt trước lời khoác lác của Malfoy. Thế nhưng, với thái độ mà Harry cho là đơn thuần ngoan cố, Ron chẳng xúc động tì nào. “Thôi đi, Harry, nó chỉ khoe mẽ với con nhỏ Parkinson… Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy giao cho nó cái thứ sứ mạng gìchứ?” “Làm sao bồ biết chắc được là Voldermort không cần ai nằm vùng trong trường Hogwarts? Đó sẽ là chuyện đầu tiên...” “Ta ước gì con đừng nói ra cái tên đó nữa, Harry à,” một giọng nói đang đến gần tụi nó từ phía sau. Harry ngoảnh lại nhìn và thấy bác Hagrid đang lắc đầu. “Thầy Dumbledore nói đúng cái tên đó,” Harry bướng bỉnh nói. “Ừ, thôi, đó là cụ Dumbledore mà, đúng hông?” Bác Hagrid nói với giọng bíẩn. “Mà sao con đến trễ vậy, Harry? Bác lo quá.” “Con bị mắc kẹt trên tàu lửa,” Harry nói. “Còn bác, sao cũng đến trễ?” “Bác bận lo cho Grawp,” bác Hagrid vui vẻ nói. “Thỉnh thoảng lạc đường. Bây giờ nó đã có một ngôi nhà mới trên núi, cụ Dumbledore bố trí cho nó – một cái hang đẹp. Ở đó nó sung sướng hơn nhiều so với hồi ở trong rừng.Anh em bác đã chuyện trò tán dóc với nhau.” “Vậy hả?” Harry nói, cố trành nhìn vào mắt Ron; lần cuối cùng nó gặp người em cùng mẹ khác cha của bác Hagrid thì đó là một người cục cằn có tài nhổ bật gốc cây, vốn từ vựng tổng cộng chừng năm từ, mà trong số đó có hai từ ông ta không thể phát âm rõ ràng. “Ờ phải, chú ấy thiệt là tiến bộ,” bác Hagrid nói giọng tự hào. “Tụi con sẽ ngạc nhiên cho coi. Bác đang nghĩđến chuyện huấn luyện chú ấy làm trợ lý.” Ron khịt mũi hơi to, nhưng xoay sở làm sao như thể đó chỉ là một cái nhảy mũi. Bây giờ ba bác cháu đang đứng bên cạnh cánh cửa chính bằng gỗ sồi. “Thôi thì, hẹn gặp các con vào ngày mai, bài học đầu tiên bắt đầu ngay sau bữa ăn trưa. Các con tới sớm một tí để còn chào con Buck – ý là con Whiterwings!” Giơ một bàn tay lên vui vẻ vẫy chào tạm biệt, bác Hagrid hướng ra cửa đi vòa bóng đêm. Harry và Ron nhìn nhau. Harry có thể nói Ron cũng đang trải qua cái cảm giác chùng xuống như chính nó. “Bồ không theo lớp học Chăm sóc sinh vật huyền bínữa, phải không?” Ron lắc đầu. “Và bồ cũng không phải? Harry lại lắc đầu một lẫn nữa. Nó không muốn nghĩxem bác Hagrid sẽ nói gìkhi nhận ra cả ba đứa học trò cưng đều bỏ môn học của bác. Chương 9 Hoàng tử lai Harry và Ron gặp lại Hermione trong phòng sinh hoạt chung trước bữa điểm tâm vào sáng hôm sau. Hy vọng kiếm được sự ủng hộ cho giả thuyết của mình, Harry kể ngay cho Hermione những gìnó đã nghe lóm Malfoy nói trên tàu tốc hành Hogwarts. Nhưng trước khi Hermione có thể nói điều gìthìRon đã xen vào: “Chẳng qua nó chỉ khoe mẽ với Parkinson thôi, đúng không?” “Ơ,” Hermione nói không chắc chắn lắm, “mình không biết… Có vẻ như Malfoy tự làm cho mình có vẻ quan trọng hơn chính thực chất của nó… nhưng xạo chuyện đó thìhơi quá…” “Đúng vậy,” Harry nói, nhưng nó cũng chẳng thể triển khai ý kiến xa hơn được, vì có quá nhiều người đang cố tình nghe ngóng nó chuyện trò, ấy là không kể đến cái sự cứ nhìn nó chòng chọc và che miệng thìthầm bàn tán về nó. “Chỉ chỏ là thô lỗ,” Ron nạt một thằng bé đặc biệt xinh xắn của năm thứ nhất khi tụi nó nối đuôi nhau để chui qua cái lỗ chân dung. Thằng bé vừa che miệng rù rìcái gìđó với đứa bạn lập tức đỏ mặt tía tai cà té lọt qua khỏi cái lỗ trong cơn hoảng hốt. Ron khúc khích cười. “Mình khoái làm đàn anh năm thứ sau quá. Và tụi mình sẽ có nhiều thì giờ rảnh hơn trong năm nay. Nguyên một lô tiết học trống để mình có thể chỉ cần ngồi đây mà xả hơi.” “Chúng ta sẽ cần thời gian đó để nghiên cứu, Ron à!” Hermione nói, khi cả hai bắt đầu đi xuống hành lang. “Ừ, nhưng không phải bữa nay,” Ron nói. “Mình tính bữa nay là một này nghỉ thẳng cẳng.” “Khoan đã!” Hermione nói, vừa vung ra một cánh tay để chặn lại một học sinh năm thứ tư đang đi ngang qua, cậu này đang cố chen lấn Hermione để vượt lên trước, trong tay cầm chắc một cái đĩa màu xanh vỏ chanh. “Dĩa Quăng răng nanh bị cấm, đưa nó đây.” Hermione nghiêm nghị nói với thằng nhỏ. Thằng nhỏ cáu kỉnh giao nộp cái dĩa quăng đang gầm gừ, rồi lách qua khỏi cánh tay Hermione, và nhập vào đám bạn của mình. Ron đợi nó đi khuất rồi mới giật mạnh cái dĩa ra khỏi tay Hermione. “Xuất sắc, lâu nay mình vẫn muốn có một cái như vầy.” Sự phản đối của Hermione bị nhấn chìm trong tiếng cười khúc khích rất to; Hiển nhiên Lavender Brown thấy lời bình của Ron rất ư thú vị. Cô ả tiếp tục cười khi đã đi ngang qua tụi nó, vừa liếc nhìn lại Ron. Ron trông có vẻ cũng hơi hài lòng với chính mình. Tấm trần của Đại sảnh đường màu xanh trong êm ả và được điểm xuyết bằng những dải mây mỏng manh lãng đãng, tựa như những ô vuông trời được nhìn qua cửa sổ có chấn song. Trong khi tụi nó ăn cháo với trứng và thịt muối, Harry và Ron kể cho Hermione nghe về cuộc nói chuyện khiến tụi nó bối rối vào đêm hôm trước với bác Hag. “Nhưng bác ấy đâu có thể cứ mong tụi mình tiếp tục học môn Chăm sóc sinh vật huyền bí được!” Hermione nói, có vẻ khổ tâm. “Mình muốn nói là, có hồi nào… đứa nào trong tụi minhg tỏ ra… mấy bồ biết đó… nhiệt tình đâu?” “Ừ mà, vậy đó,” Ron nói, vừa nuốt nguyên một cái trứng chiên. “Tụi mình là những đứa đã gắng hết sức trong lớp tại vì tụi mình yêu mến bác Hag. Nhưng bác lại tưởng là tụi mình khoái cái môn nhảm nhíđó. Mấy bồ có nghĩlà có ai lại đi học môn đó ở cấp Pháp thuật tận sức không?” Cả Harry lẫn Hermione đều không trả lời; Câu trả lời chẳng cần thiết. Tụi nó biết quá rõ rằng không ai vào năm thứ sáu lại muốn tiếp tục môn Chăm sóc
  • 41. sinh vật huyền bí. Tụi nó tránh ánh mắt của bác Hag và chỉ đáp lại cái vẫy tay chào nồng nhiệt của bác bằng một nửa nhiệt tình khi bác rời bàn ăn giáo ban khoảng mười phút sau đó. Sau khi ăn xong, tụi nó vẫn ở lại trong lâu đài, chờ giáo sư McGonagall đi xuống từ bàn ăn của giáo ban. Việc phân phát thời khóa biểu năm nay hơi phức tạp hơn mọi năm, bởi vìgiáo sư McGonagall trước tiên cần xác định rằng mọi người đã đạt được thứ hạng cần thiết trong kỳ thi Pháp thuật thường đẳng để tiếp tục theo học những môn họ chọn để thi Pháp thuật Tận sức. Hermione nhanh chóng được thông qua với các môn Bùa phép, Phòng chống nghệ thuật hắc ám, Biến hình, Dược thảo học, Số học, Cổ ngữ Runes, và Độc dược, và phóng vọt đi đến tiết đầu tiên của lớp Runes Cổ đại mà không cần tốn thêm công sức gìnữa. Neville mất nhiều thìgiờ hơn để sắp xếp đâu ra đó; gương mặt tròn quay của nó hết sức căng thẳng khi giáo sư McGonagall ngó xuống hồ sơ của nó và tham khảo kết quả Pháp thuật thường đẳng. “Dược thảo học, tốt,” bà nói. “Giáo sư Sprout sẽ vui mừng gặp lại trò với điểm ‘Xuất sắc’ trong chứng chỉ Pháp thuật thường đẳng. Và trò đạt yêu cầu theo học tiếp lớp Phòng chống nghệ thuật hắc ám với điểm ‘Vượt quá kỳ vọng’. Nhưng có vấn đề ở môn Biến hình. Ta rất tiếc, Longbottom à, nhưng điểm ‘Chấp nhận được’ thực ra không đủ để tiếp tục học lớp này ở bậc Pháp thuật Tận sức. Ta chỉ sợ là con không thể theo kịp bài tập trong khóa học.” Neville cúi gục đầu. Giáo sư McGonagall ngó nó qua cặp kính vuông của bà. “Nhưng tại sao con muốn tiếp tục học môn Biến hình? Ta chưa bao giờ có cảm tưởng là con đặc biệt say mê môn học này.” Neville tỏ vẻ khổ sở và lẩm bẩm cái gìđó rằng, “Bà nội muốn.” “Hừm,” giáo sư McGonagall khụt khịt mũi. “Đã tới lúc bà nội của trò phải biết tự hào về đứa cháu mà bà ấy có, chứ không phải đứa cháu mà bà ấy nghĩ là bà ấy nên có – đặc biệt là sau những gìxảy ra ở Bộ.” Neville đỏ mặt và chớp chớp mắt bối rối; trước đây giáo sư McGonagall chưa bao giờ thốt lời khen ngợi nào đối với nó. “Ta rất tiếc, Longbottom à, nhưng ta không thể để cho trò vào học lớp Pháp thuật Tận sức của ta. Tuy nhiên, ta thấy trò có điểm ‘Vượt quá kỳ vọng’ ở môn Bùa phép – tại sao trò không thử học lớp Bùa phép cấp Tận sức?” “Bà nội con cho rằng Bùa phép là một sự lựa chọn dễ dãi,” Neville lại nói línhí. “Hãy học môn Bùa phép,” giáo sư McGonagall nói, “và ta sẽ gởi cho chị Augusta một dòng nhắc chị rằng không thể chỉ vì chị thi rớt môn Bùa phép trong kỳ thi Pháp thuật thường đẳng mà môn học ấy trở nên không đáng học một cách không cần thiết.” Nhẹ mỉm cười với nét mặt rạng rỡ lên trong vẻ bán tín bán nghi của Neville, giáo sư McGonagall gõ nhẹ đầu cây đũa phép của bà lên cái thời khóa biểu còn để trống và đưa cho Neville, bây giờ cái thời khóa biểu đã đầy đủ chi tiết về các lớp học. Giáo sư McGonagall tiếp đến làm việc với Parvati Patil, cô bé này trước tiên hỏi ngay là thầy Firenze, chàng nhân mã đẹp trai, có còn dạy môn Chiêm tinh không. “Thầy ấy và giáo sư Trelawney cùng chia lớp dạy trong năm học này,” giáo sư McGonagall nói, trong giọng nói của bà có ẩn ý không tán thành việc đó; ai cũng biết là bà coi thường môn Chiêm tinh. “Năm thứ sáu sẽ do giáo sư Trelawney dạy.” Năm phút sau đó Parvati khởi hành đến lớp Chiêm tinh với vẻ hơi bị cụt hứng. “Vậy là Potter, Potter...” giáo sư McGonagall lại nói, vừa tham khảo những ghi chép trong sổ tay của bà rồi quay qua nói với Harry. “Bùa phép, Phòng chống nghệ thuật hắc ám, Dược thảo học, Biến hình… tất cả đều tốt. Ta phải nói, ta hài lòng với điểm Biến hình của trò, Potter à, rất hài lòng. Nhưng tại sao trò không xin tiếp tục học môn Độc dược? Ta tưởng tham vọng của trò là trở thành một Tsg cơ mà?” “Thưa giáo sư, đúng vậy. Nhưng cô đã nói với con là cần phải có điểm ‘Xuất sắc’ trong kỳ thi Pháp thuật thường đẳng.” “Và trò cần điểm đó khi giáo sư Snape dạy bộ môn đó. Tuy nhiên, giáo sư Slughorn thì hoàn toàn vui vẻ chấp nhận học sinh vào lớp độc dược với điểm ‘Vượt quá kỳ vọng’ trong kỳ thi Pháp thuật thường đẳng. Vậy trò có muốn tiếp tục học môn độc dược không?” “Dạ có,” Harry nói, “nhưng con đã không mua sách hay nguyên liệu hay bất cứ cái gì…” “Ta giám chắc là giáo sư Slughorn có thể cho trò mượn một ít,” giáo sư McGonagall nói. “Rất tốt, Potter à, đây là thời khóa biểu của trò. À, nhân tiện, hai mươi ứng cử viên tràn trề hy vọng đã ghi danh vào đội bóng Quidditch của nhà Gryffindor. Ta sẽ chuyển danh sách cho trò đúng thời hạn để trò có thể lên lịch tuyển chọn khi nào rảnh rỗi.” Vài phút sau, Ron cũng được thông qua những môn học tương tự như Harry, và cả hai cùng rời bàn ăn với nhau. “Coi nè,” Ron khoái chínói, vừa chăm chú xem cái thời khóa biểu của nó, “bây giờ tụi mình có ba tiết trống… và một tiếng trống sau giờ giải lao… và sau bữa ăn trưa… Xuất sắc.” Tụi nó trở về phòng sinh hoạt chung trống vắng, ngoại trừ nửa tá học sinh năm thứ bảy, gồm cả Katie Bell, thành viên duy nhất còn sót lại của đội Quidditch nhà Gryffindor đầu tiên mà Harry gia nhập hồi năm thứ nhất. “Chị đã nghĩ là em thể nào cũng được cái đó, giỏi lắm,” Katie gọi với qua, chỉ vào cái huy hiệu đội trưởng đeo trên ngực áo Harry. “Nhớ cho chị biết bao giờ em tuyển quân nhé!” “Đừng giả nai đi,” Harry nói, “chị đâu cần thi tuyển nữa, em đã xem chị chơi suốt năm năm trời…” “Em đừng bắt đầu kiểu đó,” Katie nói giọng cảnh cáo. “Bởi vì em biết quá, còn có người giỏi hơn chị rất nhiều. Từ trước tới nay các đội bóng giỏi thường bị hỏng chỉ vìđội trưởng cứ giữ lại mấy gương mặt cũ, hay đưa bạn bè bồ bịch vô…” Ron có vẻ hơi khó chịu và bắt đầu chơi với cái dĩa quăng có răng nanh mà Hermione đã tịch thu của một học sinh năm thứ tư. Cái dĩa bay vòng quanh căn phòng sinh hoạt chung và tìm cách táp cái khăn trải bàn. Crookshanks dõi đôi mắt vàng khè theo cái đĩa và rít lên khi cái đĩa bay đến gần. Một giờ sau tụi nó bất đắc dĩ rời khỏi căn phòng sinh hoạt chung tràn nắng ấm để đến lớp học Phòng chống nghệ thuật hắc ám ở dưới đó bốn lầu. Hermione đã đứng sắp hàng đợi bên ngoài, ôm đầy tay những cuốn sách nặng ịch và tỏ vẻ như bị ngược đãi. “Tụi này bị giao quá nhiều bài tập tiếng Runes,” cô nàng lo lắng nói khi Harry và Ron nhập bọn. “Một bài luận văn dài ba tấc tám, hai bài dịch, và mình phải đọc hết mấy cuốn này vào thứ tư!” “Đáng đời!” Ron ngáp. “Bồ hãy đợi đấy,” cô nàng phẫn uất nói. “Mình cá là Thầy Snape cũng sẽ ra cả đống bài tập.” Cánh cửa phòng học mở ra trong lúc Hermione đang nói, và Thầy Snape bước ra hành lang, gương mặt tai tái của thầy vẫn như từ trước đến giờ được khuôn trong hai bức rèm tóc đen nhờn bóng vuốt tém qua hai bên má. Đám học sinh đang xếp hàng lập tức im lặng như tờ. “Vào lớp,” thầy nói. Harry nhìn quanh khi tụi nó bước vào phòng. Thầy Snape đã áp đặt cá tính thầy lên căn phòng; nó trở nên âm u hơn bình thường, vìcác tấm màn đã được kéo lại để che cửa sổ, căn phòng chỉ được thắp sáng bằng ánh nến. Mấy bức tranh mới trang trí trên tường, nhiều bức vẻ cảnh người ta tỏ ra đau đớn, bày ra trắng trợn những vết thương ghê rợn và những phần cơ thể bị biến dạng một cách kỳ lạ. Không đứa học trò nào nói gìkhi cả đám ngồi xuống, nhìn quanh những bức tranh rùng rợn tối tăm. “Ta chưa yêu cầu các trò lấy sách ra,” Thầy Snape nói, vừa đóng cửa và di chuyển đến sau bàn giáo viên, đứng quay mặt về phía lớp học; Hermione vội vả nhét quyển Đối diện với Vô diện trở vô túi xách và nhét xuống gầm ghế. “Ta muốn nói đôi lời với các trò, và ta muốn các trò hết sức chăm chú lắng nghe.” Đôi mắt đen của thầy đảo qua những gương mặt ngước lên của lũ học sinh, nấn ná lâu hơn chừng một phần giây trên gương mặt Harry so với mặt của những đứa khác. “Tính đến nay các trò đã có năm giáo viên dạy bộ môn này, ta tin vậy.” Ông tin vậy như thể ông không thấy tất cả họ đều đến rồi đi, ông Snape ạ, hy vọng ông sẽ là kẻ tiếp theo. Harry nghĩmột cách hằn học. “Lẽ đương nhiên, tất cả những giáo sư này đều có phương pháp và ưu thế riêng. Trong bối cảnh rối rắm ấy ta sẽ rất ngạc nhiên nếu tất cả các trò xoay
  • 42. sở theo kịp bài vở lớp Pháp thuật Tận sức, đều là những bào vở cao cấp.” Thầy Snape bắt đầu đi quanh phòng học, nói bằng một giọng nhỏ hơn; cả lớp phải ngỏng cổ lên để theo ông. “Nghệ thuật hắc ám,” Thầy Snape nói, “là phong phú, đa dạng, luôn luôn biến đổi và bất diệt. Chiến đấu với Nghệ thuật hắc ám cũng giống như chiến đấu với một quái vật nhiều đầu, mà mỗi lần trên một cái cổ bị đứt đầu sẽ mọc lên ngay một cái đầu khác, dữ dội hơn, khôn ngoan hơn cái đầu trước. Các trò đang chiến đấu với cái đó, cái bất định, biến hóa, không thể tiêu diệt được.” Harry ngó chằm chằm Thầy Snape. Chắc chắn việc coi Nghệ thuật hắc ám như một kẻ thù nguy hiểm là một chuyện, còn nói về Nghệ thuật hắc ám với một giọng trìu mến yêu thương, như Thầy Snape đang làm đây, lại là một chuyện khác. “Sự phòng chống của các trò,” Thầy Snape nói tiếp, giọng lớn hơn một chút, “vì vậy phải linh hoạt và sáng tạo như chính cái nghệ thuật mà các trò muốn tiêu diệt. Những bức tranh này” – thầy chỉ vài bức tranh khi bước ngang qua - “trình bày khá đúng về những gìxảy ra cho những ai bị trúng phải, thídụ, Lời nguyền Hành hạ,” (thầy vẫy một bàn tay về phía một phù thủy rõ ràng đang rên xiết trong thống khổ), “cảm nhận Nụ hôn Giám ngục,” (một pháp sư nằm co quắp, đôi mắt đờ đẫn, lún vô trong tường) “hay khiêu khích phải sự hung hăng của Âm binh,” (một vũng máu trên mặt đất). “Vậy có ai từng nhìn thấy Âm binh chưa?” Parvati Patil cất lên giọng the thé. “Có đúng là có chúng không, có phải kẻ ấy đang sử dụng chúng không?” “Chúa tể Hắc ám đã từng sử dụng Âm binh trong quá khứ,” Thầy Snape nói, “có nghĩa là các trò nên khôn ngoan mà nghĩ rằng ông ấy có thể sẽ sử dụng chúng trở lại. Bây giờ…” Thầy lại bắt đầu đi vòng qua phía bên kia phòng học để trở lại ban giáo viên, và một lần nữa, lũ học trò ngó theo thầy bước đi, vạt áo choàng phồng lên phía sau lưng. “…ta tin các trò là những người hoàn toàn mới mẻ trong việc sử dụng thần chú không lời. Vậy thuận lợi của thần chú không lời là gì?” Bàn tay của Hermione giơ thẳng lên không trung. Thầy Snape thủng thẳng nhìn quanh xem còn ai nữa giơ tay, để biết chắc là chẳng còn sự lựa chọn nào khác, trước khi sẵng giọng bảo: “Tốt lắm… Cô Granger?” “Đối thủ của ta không có được sự báo trước về loại Pháp thuật mà ta sắp thực hiện,” Hermione nói, “điều này cho ta một phần giây ưu thế.” “Một câu trả lời hầu như sao y từng lời trong cuốn sách Thần chú Căn bản, lớp 6,” Thầy Snape nói chẳng nương nhẹ chút nào (ở góc phòng, Malfoy cười khẩy), “nhưng đúng về căn bản. Phải, những pháp sư tiên tiến trong việc sử dụng pháp thuật mà không cần hô to thần chú đạt tới một trình độ đáng ngạc nhiên trong cách ếm bùa của họ. Không phải tất cả các pháp sư đều có thể làm được điều này, đương nhiên; Đó là vấn đề tập trung và sức mạnh trí tuệ mà một số…” ánh mắt lườm lườm của thầy lởn vởn một cách hiểm độc trên gương mặt Harry một lần nữa, “…một số người không có.” Harry biết Thầy Snape đang nghĩ đến những buổi học Bế Quan bí thuật thảm hại năm ngoái. Nó không chịu tránh cái nhìn, mà trừng mắt chiếu tướng lại Thầy Snape cho đến khi Thầy Snape quay mặt đi. “Bây giờ các trò chia ra thành từng cặp,” Thầy Snape tiếp tục. “Mỗi người cố gắng ếm bùa người kia mà không nói. Người kia sẽ cố gắng hóa giải bùa phép cũng trong im lặng. Thực hiện.” Mặc dù Thầy Snape không biết chuyện Harry đã từng dạy cho một nửa lớp (tất cả những ai là thành viên của ĐQD) cách thức thực hiện một Bùa chắn vào năm ngoái. Tuy nhiên, không ai trong số chúng từng ếm bùa mà không phát ra lời. Một số đáng kể vụ gian lận xảy ra; nhiều người chỉ thì thầm câu thần chú thay vìhô to lên. Thành đặc tính rồi, chỉ mười phút sau khi thực tập, Hermione đã tìm được cách hóa giải Bùa Chân dẻo được Neville ếm lầm rầm trong miệng cô bé mà không cần thốt ra một lời nào, một kỳ công mà Hermione chắc chắn sẽ được bất cứ một giáo sư công bằng nào thưởng hai mươi điểm cho nhà Gryffindor, Harry cay đắng nghĩ, nhưng Thầy Snape cứ phớt lờ đi. Thầy lướt ngang qua giữa hai đứa nó trong lúc tụi nó đang thực tập, trông rất giống một con dơi khổng lồ như từ trước đến giờ, nấn ná xem Harry và Ron vất vả làm bài tập. Ron, đứa được giao là kẻ ếm bùa Harry, tím bầm cả mặt mũi, môi mím chặt để tự ngăn mình lẩm nhẩm câu thần chú. Harry đã giơ cây đũa phép lên, sốt ruột để chờ đợi hóa giải một bùa phép không có vẻ gìsẽ xảy ra. “Thảm quá, Weasley à,” Thầy Snape nói, sau một lúc quan sát. “Đây… để tôi chỉ cho trò…” Thầy xoay cây đũa phép về phía Harry nhanh đến nỗi Harry phản ứng theo bản năng; bao nhiêu ý tưởng về thần chú không lời bay biến đâu mất, nó hét lên, “Tự vê!” Bùa chắn của nó mạnh đến nỗi Thầy Snape bị tống một phát mất thăng bằng văng đụng vô một cái bàn. Cả lớp đều ngoảnh lại và giờ đây chăm chú nhìn Thầy Snape đứng thẳng dậy, sửa tư thế cho đàng hoàng, quắc mắt lên nói: “Trò có nhớ là ta bảo trò thực hành bùa phép không lời hay không, hả Potter?” “Có,” Harry cứng cỏi đáp. “Thưa ngài, có.” “Không cần gọi tôi là ‘ngài’, thưa giáo sư.” Mấy lời này tuột khỏi miệng Harry trước khi nó ý thức là mình đang nói gì. Nhiều đứa há hốc mồm kinh ngạc, trong đó có cả Hermione. Tuy nhiên, sau lưng Thầy Snape, Ron, Dean và Seamus nhe răng cười tán thưởng.
  • 43. “Cấm túc, đêm thứ bảy, trong văn phòng ta,” Thầy Snape nói. “Ta không chấp nhận thói táo tợn của bất cứ ai, Potter à… cho dù đó là “Kẻ được chọn”.” Một lát sau, khi đã được an toàn vào giờ ra chơi, Ron cười hể hả, “Hết sảy, Harry!” “Thực tình là bồ không nên nói như vậy,” Hermione nói, cau mày với Ron. “Mắc cái gìmà bồ làm vậy hả?” “Ổng tính ếm mình, nếu bồ đã không để ý thì mình nói cho mà biết!” Harry hầm hè nói. “Mình đã bị quá đủ trong những buổi học Bế Quan bí thuật rồi! Tại sao ổng không dùng một con chuột bạch chẳng hạn? Mà cụ Dumbledore đang chơi trò gì không biết mà cứ để cho ông ta dạy môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám chứ? Mấy bồ có nghe ổng nói về Nghệ thuật hắc ám không? Ổng khoái nó. Tất cả cái mớ bất đinh, bất diệt…” “Thôi,” Hermione nói, “Mình nghĩthầy cũng hơi giống bồ một tí.” “Giống mình?” “Ừ, khi bồ nói với tụi này việc đương đầu với Voldermort nó như thế nào. Bồ đã nói rằng không thể chỉ dùng một mớ bùa mê ngải lú, bồ nói phải là chính mình với bộ óc của mình và gan dạ của mình – Đó, chẳng phải là những gì Thầy Snape nói sao? Rằng chính lòng can đảm và sự nhanh trí mwois thực sự là cốt lõi.” Harry nguôi giận đột ngột khi thấy Hermione đã coi lời nói của nó đáng học thuộc lòng như chữ nghĩa trong sách Thần chú Căn bản, nó không thèm cãi lại nữa. “Harry! Ê, Harry!” Harry quay lại ngó; Jack Sloper, một trong những tấn thủ của đội bóng Quidditch nhà Gryffindor năm ngoái, đang vội vã chạy về phía nó, tay cầm một cuộn giấy da. “Gởi bồ,” Sloper hổn hển nói. “Nghe nhé, mình nghe nói bồ là đội trưởng mới. Chừng nào bồ cho chơi thử để tuyển cầu thủ?” “Mình cũng chưa biết,” Harry nói, nghĩthầm là Sloper phải may mắn lắm mwois hòng được tuyển lại vô đội. “Mình sẽ cho bồ biết.” “Ừ, phải. Mình hy vọng là sẽ diễn ra vào cuối tuần này…” Nhưng Harry không còn lắng nghe nữa; nó vừa nhận ra nét chữ mảnh xiên xiên trên mảnh giấy da. Bỏ mặc Sloper đang nói giữa chừng câu, Harry vội vã đi cùng Ron và Hermione, vừa đi vừa mở cuộn giấy da ra lại. Harry thân mến, Thầy muốn bắt đầu những buổi học riêng cho con vào thứ bảy này. Con vui lòng đến văn phòng của thầy vào 8 giờ tối. Hy vọng con vui thích ngày đầu tiên trở lại trường. Thân ái, Albus Dumbledore Tái bút: thầy khoái Nước chua. “Thầy khoái Nước chua à?” Ron nói, nó đã đọc ké bức thư qua vai của Harry và coi bộ không hiểu. “Đó là mật khẩu để vượt qua con thú đá canh gác bên ngoài văn phòng của thầy.” Harry nói nhỏ. “Ha! Thầy Snape sẽ chẳng vui nổi… Như vậy mình sẽ không thể đến buổi cấm túc!” Harry, Ron và Hermione bỏ cả buổi ra chơi để suy đoán xem cụ Dumbledore sẽ dạy Harry môn gì. Ron nghĩ rất có thể là những bùa phép pháp thuật kỳ lạ mà bọn Tử thần thực tử không hề biết. Hermione nói những chuyện như vậy không hợp pháp, và cô bé nghĩ rất có thể cụ Dumbledore muốn dạy Harry pháp thuật phòng vệ cao cấp. Sau giờ ra chơi, Hermione đi vô lớp Số học trong khi Harry và Ron trở lại phòng sinh hoạt chung, ở đó tụi nó đau khổ làm bài tập của Thầy Snape. Bài tập này hóa ra phức tạp đến nỗi tụi nó vẫn chưa làm xong khi Hermione quay trở lại nhập bọn trong tiết trống sau buổi ăn trưa, (mặc dù vậy cô bé đã khiến tiến trình được tăng tốc đáng kể). Tụi nó chỉ làm xong bài khi chuông reo báo buổi học hai tiết Độc dược bắt đầu, và cả bọn giẫm trên lối đi quen thuộc xuống phòng học dưới tầng hầm, nơi vốn thuộc về Thầy Snape khá lâu. Khi đi đến hành lang, tụi nó thấy chỉ có khoảng một tá học sinh tiếp tục môn độc dược ở cấp Tận sức. Crabbe và Goyle rõ ràng là đã không đạt được điểm hạng cần thiết trong kỳ thi Pháp thuật thường đẳng, nhưng có bốn học sinh nhà Slytherin vượt qua được, gồm cả Malfoy. Bốn đứa của nhà Ravenclaw cũng có mặt ở đó, một đứa bên nhà Hufflepuff là Ernie Macmillan, Harry thích Ernie bất chấp bộ dạng khoe mẽ của chàng ta. “Harry,” Ernie nói với vẻ trang trọng rất kịch, và đưa tay ra khi Harry đến gần, “chẳng có được cơ hội nói chuyện trong lớp Phòng chống nghệ thuật hắc ám hồi sáng này. Buổi học hay, theo tôi nghĩ, nhưng bùa chắn là món cũ rồi, dĩ nhiên là đối với bọn lính già ĐQD như chúng ta… và các bạn khỏe chứ, Ron… Hermione?” Tụi nó chưa kịp nói tiếng “khỏe” thì cánh cửa phòng học ở tầng hầm đã mở ra, và cái bụng bự của Thầy Slughorn đi trước, dẫn thầy ra cửa. Khi mọi người đã lần lượt vô phòng, bộ ria hải mã vĩ đại của thầy bèn cong vảnh lên bên trên cái miệng cười toe toét, và thầy chào Harry và Zabini với sự nồng nhiệt đặc biệt. Tầng hầm đã tràn đầy khí và mùi kỳ dị, hiếm khi nào như vậy. Harry, Ron, và Hermione hít hửi một cách thích thú khi tụi nó đi ngang qua một cái vạc tổ chảng đang sôi ục ục. Bốn đứa nhà Slytherin chọn một cái bàn ngồi chung với nhau, bốn đứa nhà Ravenclaw cũng vậy. Thành ra còn lại Harry, Ron, và Hermione ngồi chung một bàn với Ernie. Tụi nó chọn cái bàn gần cái vạc màu vàng kim nhất. Cái vạc ấy đang tỏa ra một trong những mùi hương quyến rũ nhất mà Harry từng được hít vào: chẳng biết bằng cách nào mùi hương ấy gợi nó nhớ đến bánh trái cây tẩm mật, mùi gỗ của cán chổi bay, và mùi hoa gì đó mà nó nghĩ có thể nó đã ngửi được khi ở trang trại Hang Sóc. Nó nhận thấy nó đang hít thở từ từ và thật sâu làn khói của chất thuốc đó dường như đang làm nó ngất ngây như say rượu. Khắp người nó tràn ngập cảm giác thỏa thuê; nó nhe răng cười với Ron, Ron cũng lờ đờ cười đáp lại nó. “Xong rồi, xong rồi, xong rồi,” Thầy Slughorn nói, hình dáng đồ sộ của thầy dường như run rẩy qua những làn khílung linh. “các trò lấy cân ra, và bộ đồ pha chế thuốc, đừng quên cuốn Chế tạo thuốc cao cấp…” “Thưa thầy?” Harry giơ tay lên nói. “Harry, gìđó con trai ta?” “Con không có sách và cân hay bất cứ thứ gìcả - Ron cũng không – Chúng con không dè chúng con đủ điểm để lên cấp Tận sức, thầy hiểu…” “A, phải rồi, giáo sư McGonagall đã lưu ý… đừng lo, con trai ta, đừng lo gì cả. Hôm nay con có thể dùng nguyên vật liệu pha chế lấy từ tủ dự trữ, và ta chắc là có thể cho các con mượn vài cái cân, và chúng ta có một cái kho nhỏ những sách cũ ở đây. Các con có thể mượn xài đỡ cho đến khi các con viết thư đặt mua sách ở tiệm Flourish và Blotts…” Thầy Slughorn rảo bước tới một cái tủ đặt ở góc phòng, sau một lúc lục lọi, thầy lại hiện ra với hai bản Chế tạo thuốc cao cấp của Libatius Borage trông hết sức te tua, thầy đưa cho Harry và Ron hai cuốn sách cùng với hai cái cân cũ xì. “Bây giờ thì,” Thầy Slughorn nói, trở lại chỗ đứng trước lớp và hít hơi vào bộ ngực vốn đã phồng to rồi, đến nỗi mấy cái nút áo chẽn của thầy suýt đứt tung ra, “thầy đã chuẩn bị vài món thuốc cho các con nhìn qua một cái, cho vui vậy mà. Những thứ này là những thứ mà các con nên biết chế tạo sau khi hoàn tất bậc Tận sức. Các con ắt có nghe nói đến chúng.Ai có thể cho thầy biết cái này là cái gì.” Thầy chỉ vào cái vạc gần bàn của đám Slytherin nhất. Harry hơi nhóng người lên một chút để xem cái chất lỏng trông giống như nước lã đun sôi bên trong vạc. Bàn tay vốn thực hành quá ư thường xuyên của Hermione giơ lên không khítrước bất kỳ ai khác; Thầy Slughorn chỉ vô cô bé. “Đó là Chân dược, một chất độc không màu, không mùi có thể buộc người uống nói ra sự thật,” Hermione đáp. “Giỏi lắm, giỏi lắm!” Thầy Slughorn vui vẻ nói. “Bây giờ,” thầy tiếp tục, chỉ vào cái vạc gần bàn Ravenclaw nhất, “cái món này đây khá nổi tiếng… cũng được đề cao trong vài tờ rơi của Bộ dạo gần đây… Ai có thể…?” Bàn tay Hermione lại một lần nữa giơ lên nhanh nhất. “Thưa thầy, đó là Đa quả dịch,” cô bé nói.
  • 44. Harry cũng đã nhận ra cái chất giống như bùn đang sủi tăm từ từ trong cái vạc thứ hai, nhưng nó không phật ý cái chuyện Hermione giành hết điểm trả lời câu hỏi; nói cho cùng, cô nàng là người đã thành công trong việc chế tạo ra món thuốc đó vào năm thầy Snape hai. “Xuất sắc! Xuất sắc! Bây giờ, đến món này đây… được, nói đi con.” Thầy Slughorn, lúc này trông có vẻ hơi sửng sốt khi thấy bàn tay của Hermione lại một lần nữa vọt lên không trung. “Đó là tình dược!” “Đúng là nó. Nếu hỏi nữa thìcó vẻ ngu thiệt,” Thầy Slughorn nói, tỏ ra có ấn tượng mãnh liệt, “nhưng thầy chắc là con có biết nó có tác dụng gì?” “Đó là thứ thuốc tình yêu mạnh nhất trên đời!” Hermione nói. “Rất đúng! Ta đoán rằng con đã nhận ra nó nhờ vẻ lấp lánh ngọc trai đặc biệt của nó?” “Và làn hơi bốc lên theo hình xoắn trôn ốc đặc thù,” Hermione hăng hái nói, “và nó được coi là có mùi khác nhau đối với mỗi người tùy theo cái gìhấp dẫn chúng ta, và con thìngửi thấy mùi cỏ mới cắt và mùi giấy da mới và…” Nhưng cô bé hơi ửng hồng rồi bỏ lửng câu nói. “Cho thầy biết tên con được không, con thân mến?” Thầy Slughorn hỏi, phớt lờ vẻ thẹn thùng của Hermione. “Thưa thầy, Hermione Granger.” “Granger? Granger? Có thể con có bà con họ hàng gìvới Hecấm túcor Dagworth- Granger, người đã sáng lập Hội Dược sư phi thường nhất?” “Dạ không, thưa thầy. Con không nghĩvậy. Con sanh ra là Muggle, thầy biết đấy.” Harry thấy Malfoy chồm tới gần Nott và thì thầm cái gì đó; cả hai khúc khích cười, nhưng Thầy Slughorn chẳng tỏ vẻ mất hứng; ngược lại, thầy cười tươi và nhìn từ Hermione sang Harry, người ngồi bên cạnh cô bé. “À há! ‘Một trong những người bạn tốt nhất của con có gốc Muggle, và bạn ấy là học sinh giỏi nhất lứa tụi con!’ Thầy đoán rằng đây chính là người bạn mà con nói đến, phải không Harry?” “Thưa thầy, phải ạ,” Harry nói. “Hay, hay, hãy nhận hai mươi điểm cho nhà Gryffindor, cô Granger nhé,” Thầy Slughorn ân cần nói. Malfoy trông có vẻ hơi giống như cái lần Hermione thoi một đấm vô mặt nó. Hermione quay qua Harry với vẻ mặt rạng rỡ và thì thầm, “Có thật là bồ đã nói với thầy rằng mình là học sinh giỏi nhất của lứa tụi mình không? Ôi, Harry!” “Chà, có gì mà ấn tượng dữ dội về việc đó chứ?” Ron nói nhỏ, vì lý do gì đó anh chàng này hơi có vẻ khó chịu. “Bồ là học sinh giỏi nhất lứa tụi mình – mình cũng sẽ nói với thầy như vậy nếu thầy hỏi mình!” Hermione mỉm cười nhưng làm một cử chỉ “suỵt”, để tụi nó có thể nghe điều Thầy Slughorn đang nói. Ron có vẻ hơi cáu kỉnh. “Tình dược không thực sự tạo ra tình yêu, dĩ nhiên. Không thể nào chế tạo hay giả tạo tình yêu. Không, thuốc này sẽ chỉ gây ra sự mê đắm hay ám ảnh mãnh liệt. Nó có lẽ là thứ thuốc mạnh nhất và nguy hiểm nhất trong phòng này… Ừ, đúng vậy,” thầy nói, gật đầu một cách nghiêm trang về phía Malfoy và Nott, cả hai đứa này đang khủng khỉnh cười với vẻ ngờ vực. “Khi các con từng trải đời nhiều như thầy rồi, các con sẽ không đánh giá thấp sức mạnh của một tình yêu ám ảnh…” “Và bây giờ,” Thầy Slughorn nói, “đã đến lúc chúng ta bắt đầu công việc.” “Thưa thầy, thầy chưa nói cho chúng con biết cái gì trong cái vạc này,” Ernie Macmillan nói, vừa chỉ vào một cái vạc nhỏ màu đen đặt trên cái bàn của Thầy Slughorn. Cái chất thuốc trong vạc đang bắn tung tóe ra chung quanh một cách vui mắt; nó có màu của kim loại vàng nấu chảy ra, và những giọt to nhảy lăng quăng như cá vàng trên bề mặt, mặc dù không một giọt nào rơi ra ngoài vạc. “À há,” Thầy Slughorn lại nói. Harry chắc chắn là Thầy Slughorn không hề quên món thuốc đó chút nào, nhưng thầy đã đợi cho có người hỏi mới nói để đạt tới hiệu quả gây xúc động mạnh. “Ừ. Món đó. Chà, cái món đó, thưa quí cô và quí cậu, là món độc dược nho nhỏ đáng tò mò nhất có tên là Phúc lạc dược. Thầy cá là...” thầy quay lại, mỉm cười, nhìn Hermione, cô nàng vừa để bật ra một tiếng kêu ngạc nhiên, “...con biết Phúc lạc dược có tác dụng gì chứ, Granger?” “Đó là một chất lỏng may mắn,” Hermione xúc động nói. “Nó làm cho người ta may mắn!” Cả lớp dường như ngồi thẳng lưng hơn một tí. Bây giờ tất cả những gì thuộc về Malfoy mà Harry có thể nhìn thấy là cái chẩm đầu bóng mượt tóc của nó, bởi vìcuối cùng nó đã phải dành nguyên vẹn sự chú ý cho Thầy Slughorn. “Rất đúng, được thêm mười điểm nữa cho nhà Gryffindor. Đúng vậy, nó là một độc dược be bé tức cười, Phúc lạc dược,” Thầy Slughorn nói. “Đòi hỏi hết sức khéo léo trong bào chế, và nếu dùng tầm bậy thìthiệt là tai họa. Tuy nhiên, nếu được bào chế đúng đắn, như món này ở đây, các con sẽ nhận thấy mọi nỗ lực của mình đều có chiều hướng thành công... ít nhất cho đến khi tác dụng của thuốc tan đi.” “Vậy tại sao không uống nó hoài hoài, thưa thầy?” Terry Boot háo hức hỏi. “Bởi vì nếu uống quá liều, nó sẽ gây trạng thái chóng mặt, bồn chồn bất cẩn, và cả tin một cách nguy hiểm,” Thầy Slughorn nói. “Bổ quá hóa độc, con biết đấy… cực kỳ độc khi dùng số lượng lớn. Nhưng dùng từng tíchút và chỉ thỉnh thoảng thôi thì…” “Thưa thầy, thầy có bao giờ dùng không ạ? ” Michael Corner hỏi với vẻ vô cùng quan tâm. “Hai lần trong đời thầy,” Thầy Slughorn nói. “Một lần khi thầy hai mươi bốn tuổi, một lần khi thầy năm mươi bảy tuổi. Hai muỗng canh uống vào bữa điểm tâm. Hai ngày tuyệt vời.” Thầy đăm đăm nhìn về cõi xa xôi nào đó mơ mộng. ầy có đóng kịch hay không, Harry nghĩ, nhưng quả là tác dụng tuyệt vời. “Và đó,” Thầy Slughorn lại nói, hiển nhiên là đã trở lại mặt đất, “là cái mà thầy sẽ tặng như một phần thưởng cho buổi học này.” Cả lớp im phăng phắc đến nỗi mỗi tiếng sủi bọt hay tiếng róc rách của các vạc thuốc chung quanh dường như được phóng đại lên gấp mười lần. “Một chai nhỏ xíu Phúc lạc dược,” Thầy Slughorn nói, lấy từ trong túi ra một cái lọ thủy tinh tí hon có đóng nút bần trong miệng chai và giơ lên cho mọi người cùng xem. “Đủ để may mắn trong mười hai tiếng đồng hồ. Từ sáng sớm đến khi trời tối, các con sẽ may mắn trong mọi cố gắng.” “Bây giờ, thầy phải cho con lời khuyên là Phúc lạc dược là một chất bị cấm trong các cuộc thi đấu có tổ chức... những trận đấu thể thao chẳng hạn, những kỳ thi, hay những cuộc bầu cử. Như thế người giành được cái lọ be bé này sẽ chỉ dùng nó trong một ngày bình thường mà thôi... và chiêm nghiệm xem một ngày bình thường trở nên khác thường như thế nào!” “Vậy thì,” Thầy Slughorn nói, thình lình nhanh nhảu hẳn lên, “làm thế nào các con giành được phần thưởng kỳ diệu này? À, bằng cách lật đến trang mười hai của cuốn Bào chế thuốc cao cấp. Chúng ta hãy còn hơn một tiếng đồng hồ một tí, vừa đủ thời gian để các con cố gắng một cách đúng đắn thử chế Liều thuốc của Tử thần sống. Thầy biết thuốc này hơi phức tạp hơn một tíso với những thứ các con thử chế trước đây, và thầy cũng không kỳ vọng bất cứ ai chế được một liều thuốc hoàn hảo. Tuy nhiên, người làm được tốt nhất sẽ giành được giải thưởng là chú bé May mắn này đây. Bắt đầu đi!” Tiếng rào rào nổi lên khi mọi người kéo cái vạc về phía mình, và một số tiếng lanh canh vang lên khi tụi nó bắt đầu chất trọng lượng lên mấy cái cân, nhưng chẳng ai nói năng gì cả. Sự tập trung trong phòng gần như có thể sờ vào được. Harry nhìn thấy Malfoy nóng nảy lật khắp các trang sách của cuốn Bào chế thuốc cao cấp, không có gì rõ ràng hơn cái sự Malfoy thực sự muốn có một ngày may mắn. Harry cúi nhanh xuống cuốn sách tả tơi mà Thầy Slughorn cho nó mượn. Nó bực mình nhận thấy chủ nhân trước đây của cuốn sách đã ghi nguệch ngoạc khắp các trang sách, đến nỗi lề sách cũng đen thui như phần có chữ in. Cúi xuống thấp hơn để cố giải đoán công thức pha chế (ngay cả ở phần này, chủ nhân trước đây cũng đã ghi chú và bôi xóa) Harry vội vã đi về phía cái tủ chứa nguyên liệu để tìm những thứ nó cần. Khi lao trở lại với cái vạc của nó, nó thấy Malfoy đang cố cắt rễ cây Nữ lang nhanh hết cỡ. Mọi người không ngừng liếc chừng xung quanh coi nhưng người khác trong lớp đang làm gì; đây vừa là thuận lợi vừa là bất lợi đối với môn độc dược, ấy là khó mà giữ công việc của mình được kín đáo. Trong vòng mười phút, toàn bộ phòng học tràn ngập hơi nước màu xanh lơ. Hermione, dĩ nhiên, dường như tiến được xa nhất. Thuốc của cô nàng đã tương tự như một “chất lỏng màu nho xanh mịn màng” mà sách cho là đã đạt được tới giai đoan
  • 45. nửa đường lý tưởng. Sau khi bằm xong mớ rễ thuốc của mình, Harry lại cúi thấp hơn xuống cuốn sách của nó. Thiệt là điên lên được, khi phải cố và giải đoán những hướng dẫn bên dưới tất cả những ghi chú ngu ngốc của vị chủ nhân trước đây, gã này vì lý do nào đó đã không đồng ý với yêu cầu xắt nhuyễn đậuAn thần và đã viết lại hướng dẫn khác. Nghiền nát bằng sống dao găm. Cho ra nhiều dịch hơn cắt. “Thưa thầy, con nghĩthầy có biết ông nội con, ông Abraxas Malfoy?” Harry ngước nhìn lên; Thầy Slughorn đang đi ngang qua bàn của bọn Slytherin. “Đúng,” Thầy Slughorn nói, không thèm nhìn Malfoy, “thầy rất thương tiếc khi nghe tin ông ấy mất, mặc dù dĩ nhiên điều đó không đến nỗi bất ngờ, bị bện đậu rồng vào cái tuổi của ông ấy…” Và thầy bước đi. Harry lại cúi xuống cái vạc của mình, cười khoái trá. Nó có thể nói rằng Malfoy đã mong ước được đối xử như Harry hay Zabini; có thể Malfoy còn hy vọng được đối xử thiên vị cái kiểu mà nó đã biết đòi hỏi ở Thầy Snape. Có vẻ như Malfoy sẽ không thể trông cậy vào cái gì ngoài tài năng để giành được giải thưởng cái lọ Phúc lạc dược. Đậu an thần tỏ ra là một thứ rất khó cắt. Harry quay sang hỏi Hermione. “Mình có thể mượn con dao bạc của bồ không?” Cô bé gật đầu một cách sốt ruột, không rời mắt khỏi cái món thuốc của mình, cái món đó đang chuyển sang màu tím thẫm, mặc dù theo như trong sách thìlúc này nó phải có màu tím hoa cà phơn phớt. Harry nghiền đậu của nó bằng sống dao găm. Trước sự sửng sốt của nó, mớ đậu lập tức ứa ra nhiều dịch tới nỗi là nó phải ngạc nhiên là mớ đậu khô quắt queo ấy có thể chứa được từng ấy nước. Vội vàng múc dịch đậu vô vạc, nó thấy, hết sức kinh ngạc, món thuốc của nó lập tức đổi ra đúng màu tím hoa cà phơn phớt như miêu tả trong sách giáo khoa. Nỗi bực mình đối với chủ nhân trước của cuốn sách tan biến ngay tức thì, Harry bây giờ liếc tới dòng hướng dẫn thứ hai. Theo như cuốn sách, nó phải khuấy ngược chiều kim đồng hồ cho đến khí thuốc trở nên trong như nước. Còn theo lời thêm vào của vị chủ nhân trước, thì cứ sau bảy vòng khuấy ngược chiều kim đồng hồ, nó phải thêm vào một vòng khuấy theo chiều kim đồng hồ. Liệu vị chủ nhân trước có đúng đến hai lần không? Harry khuấy ngược chiều kim đồng hồ, nín thở, rồi khuấy xuôi chiều kim đồng hồ một lần. Hiệu quả ngay tức thì. Món thuốc đổi màu hồng nhạt. “Bồ làm cách nào mà được như vậy?” Hermione vặn hỏi, cô nàng đã đỏ mặt tía tai, và tóc thì càng lúc càng xù ra trong làn nước bốc lên từ cái vạc của mình; Món thuốc của Hermione vẫn tím ngắt. “Thêm một vòng khuấy theo chiều kim đồng hồ…” “Không, không, sách bảo ngược chiều kim đồng hồ mà!” Cô nàng cự nự lại. Harry nhún vai và tiếp tục việc nó đang làm. Bảy lần khuấy ngược chiều kim đồng hồ, một lần khuấy xuôi chiều kim đồng hồ, nghỉ một chút… Bảy lần khuấy ngược chiều kim đồng hồ, một lần khuấy xuôi chiều kim đồng hồ… Bên kia cái bàn, Ron đang lầm rầm nguyền rủa liên tu bất tận; món thuốc của nó trông giống như nước cam thảo. Harry liếc nhìn xung quanh. Trong tầm nhìn của nó thìkhông có món thuốc nào của đứa nào đổi sang màu lờn lợt như thuốc của nó. Nó cảm thấy phấn chấn, một cảm giác chắc chắn chưa từng có trước đây trong phòng học ở tầng hầm này. “Và… Hết giờ!” Thầy Slughorn reo lên. “Vui lòng ngừng khuấy!” Thầy Slughorn di chuyển chầm chậm giữa các bàn, dòm vô mấy cái vạc. Thầy không nhận xét gì cả, nhưng thỉnh thoảng khuấy món thuốc nào đó một cái, hay hửi một cái. Cuối cùng thầy đi tới cái bàn mà Harry, Ron, Hermione và Ernie đang ngồi. Thầy mỉm cười tội nghiệp cho cái chất đen xì như nhựa đường trong cái vạc của Ron. Thầy bỏ qua món pha chế màu xanh lam của Ernie. Món thuốc của Hermione khiến thầy gật gù chấp nhận. Kế đến thầy nhìn thấy món thuốc của Harry, và một vẻ sung sướng không tin được lan khắp gương mặt thầy. “Người chiến thắng hoàn toàn!” Thầy reo lên với cả tầng hầm. “Xuất sắc, xuất sắc, Harry! Mèn ơi, rõ ràng là con được thừa hưởng tài năng của mẹ con. Lily, mẹ con là một tay khéo léo tinh xảo về Độc dược! Vậy thì, đây, thưởng cho con – một lọ Phúc lạc dược, như đã hứa, và sử dụng nó cho tốt!” Harry nhẹ nhàng nhét cái lọ tí hon vào túi áo trong của nó, cảm thấy một sự kết hợp kỳ cục giữa niềm vui sướng trước cái vẻ giận dữ trên mặt mấy đứa nhà Slytherin và nỗi áy náy tội lỗi trước vẻ mặt thất vọng của Hermione. Ron thìcó vẻ ngố ra. “Bồ làm cách nào mà được hả?” Nó thìthào hỏi Harry khi tụi nó cùng rời khỏi tầng hầm. “Mình cho là may mắn thôi,” Harry nói, bởi vìMalfoy có thể nghe lỏm. Tuy nhiên, khi tụi nó đã ngồi gọn lỏn một cách an toàn ở bàn ăn nhà Gryffindor, Harry cảm thấy đủ an toàn để kể cho hai bạn nghe. Gương mặt Hermione trở nên đanh lại theo từng lời Harry nói ra. “Bồ cho là mình gian lận hay sao chớ?” Nó kết thúc, bực mình vìcái vẻ mặt của Hermione. “Này, cái đó đâu hẳn là thành tích của chính bồ, đúng không?” Cô bé đáp không nhân nhượng. “Nó chỉ làm theo những chỉ dẫn khác hơn những chỉ dẫn của chúng ta mà thôi” Ron nói, “Đâu có gìtrầm trọng ghê gớm đâu? Nhưng nó dám liều và được thưởng.” Ron thở ra một hơi dài. “Lẽ ra Thầy Slughorn có thể đưa cho mình cuốn sách đó, nhưng mà hỡi ôi, mình đã nhận được cuốn sách chẳng có ma nào thèm viết gìvô hết ráo. Lại còn bị mửa vô nữa chứ, căn cứ vào vết tích trên trang năm mươi hai, nhưng…” “Khoan đã,” một giọng nói vang lên sát bên tai trái của Harry và nó bắt được một thoáng bất ngờ của cái mùa như hương hoa mà nó đã ngửi thấy lúc ở dưới tầng hầm. Nó ngoảnh nhìn lại thìthấy Ginny đã đến nhập bọn với tụi nó. “Em nghe có đúng không? Anh đã nhận lệnh từ cái gìđó của ai đó ghi trong một cuốn sách hả anh Harry?” Trông cô bé sợ hãi và tức giận. Harry biết ngay là cô bé đang nghĩgì. “Không có gì đâu,” nó nói giọng cam đoan, hơi hạ thấp tông xuống. “Chẳng giống như… em biết đấy… cuốn nhật ký của Riddle đâu. Nó chỉ là một cuốn sách giáo khoa cũ có ghi chú của ai đó.” “Nhưng anh lại làm theo những ghi chú đó à?” “Anh chỉ thử vài mánh hướng dẫn ghi bên lề, thiệt tình, Ginny à, chẳng có gìbuồn cười…” “Ginny có lý,” Hermione nói, đầu ngẩng lên tức thì. “Chúng ta nên kiểm tra để biết chắc cuốn sách đó không có gì kỳ quái. Mình muốn nói là, tất cả những hướng dẫn tức cười ấy, ai biết đâu?” “Hừ!” Harry nổi sùng lên khi Hermione rút cuốn sách Bào chế thuốc cao cấp ra khỏi túi xách của nó và giơ cây đũa phép của cô nàng lên. “Tiết lộ cho riêng ta!” Hermione hô thần chú, gõ mạnh cây đũa phép lên bìa trước cuốn sách. Chẳng có gìđáng kể xảy ra cả. Cuốn sách chỉ đơn giản nằm ỳ ra đó, trông cũ kỹ, dơ hầy, và góc sách bị quăn quéo. “Xong chưa?” Harry cáu kình hỏi. “Hay là mấy bồ muốn chờ xem coi nó có làm vài cú trả đủa?” “Coi bộ ổn,” Hermione nói, vẫn trừng mắt nhìn cuốn sách với vẻ nghi ngờ. “Ýmình là nó quả thực có vẻ như... một cuốn sách giáo khoa mà thôi.” “Tốt. Vậy cho mình lấy lại nó.” Harry nói, chộp lấy cuốn sách trên bàn, nhưng cuốn sách vuột khỏi tay nó, rớt xuống sàn, mở tanh banh. Chẳng có ai kahcs nhìn tới. Harry cúi xuống để thu hồi cuốn sách, và khi làm vậy, nó nhìn thấy ở tuốtcạnh dưới bìa sau của cuốn sách có khắc một hàng chữ cùng kiểu chữ viết tay nhỏ, ngoằn ngèo như chữ ghi những lời hướng dẫn bên trong – lời hướng dẫn đã giúp nó giành được giải thưởng là cái lọ Phúc lạc dược, lúc này đây đang được giấu an toàn bên trong một đôi vớ cất trong rương. Dòng chữ ghi: Cuốn sách này là Tài sản của Hoàng tử Lai. Chương 10
  • 46. Ngôi nhà của Gaunt Trong những buổi học đc tiếp theo trong tuần, Harry tiếp tục làm theo những hướng dẫn của vị Hoàng Tử lai ở chỗ nào chúng được ghi khác với hướng dẫn trong sách của Libatius Borage, với kết quả là đến buổi học thứ tư Thầy Slughorn đã hết sức khoái cái khả năng của Harry, nói rằng thầy hiếm khi được dạy học trò nào tài năng như vậy. Cả Ron lẫn Hermione đều không vui lắm về chuyện này. Mặc dù Harry đã đề nghị xài chung cuốn sách với hai đứa nó, nhưng Ron gặp nhiều khó khăn hơn Harry trong việc giải đoán chữ viết tay, mà nó không thể cứ bảo Harry đọc to lên giùm, nếu không muốn bị nghi ngờ. Trong khi đó, Hermione vẫn kiên quyết cày bừa với cái mà cô nàng gọi là hướng dẫn “chính qui”, nhưng càng lúc cô nàng càng tỏ ra nóng nảy khi những hướng dẫn chính quy này đưa tới kết quả tồi tệ hơn hướng dẫn của Hoàng tử. Harry ngờ ngợ tự hỏi vị Hoàng Tử lai là ai. Mặc dù sô lượng bài tập mà tụi nó được giao đã khiến Harry không có thì giờ đọc hết toàn bộ quyển Chế tạo thuốc cao cấp, nó cũng đã lật sơ qua hết sách đủ để thấy là hầu như không có trang nào mà Hoàng tử không ghi chú thêm điều này điều nọ, mà không phải tất cả ghi chú đều liên quan đến việc bào chế thuốc. Thỉnh thoảng có những lời chỉ bảo về cái gì đó giống như bùa phép mà Hoàng tử đã tự mình sáng chế ra. “Hay chính là Công chúa,” Hermione gắt gỏng nói, khi nghe lỏm Harry chỉ cho Ron xem mấy cái đó trong phòng sinh hoạt chung vào buổi chiều thứ bảy. “Rất có thể đó là một cô gái. Mình thấy nét chữ viết tay giống chữ viết của con gái hơn chữ của con trai.” “Người đó được gọi là Hoàng Tử lai mà,” Harry nói. “Từ hồi nào giờ có bao nhiêu cô gái được gọi là Hoàng Tử?” Hermione dường như không trả lời được câu hỏi này. Cô nàng chỉ càu nhàu và giật phắt lại bài luận văn của mình về “Những nguyên tắc của Tái vật chất hóa” ra khỏi tay Ron, anh chàng này đang cố thử đọc bài viết ngược từ dưới lên trên. Harry ngó đồng hồ rồi vội vã nhét cuốn sách Chế tạo thuốc cao cấp cũ kỹ vô trong túi xách của nó. “Năm phút nữa tám giờ, mình phải đi thôi, kẻo trễ buổi học với thầy Dumbledore.” “Ối!” Hermione kêu lên ngạc nhiên, ngẩng đầu lên tức thì. “Chúc may mắn nha! Tụi này sẽ thức đợi, tụi này muốn nghe thầy dạy bồ môn gì!” “Hy vọng buổi học OK,” Ron nói, và hai đứa nó ngó theo Harry chui qua cái lỗ chân dung mà đi. Harry đi qua những hành lang vắng vẻ, tuy vậy nó cũng phải vội vã bước tránh ra sau một bức tượng khi giáo sư Trelawney xuất hiện ở một góc hành lang, lẩm bẩm một mình khi xào một bộ bài trông dơ hết chỗ nói, rồi vừa đi vừa xem. “Hai bích: xung đột,” bà lẩm nhẩm khi đi ngang qua chỗ Harry cúi lom khom ẩn núp. “Bảy bích: một điềm xấu. Mười bích: Bạo tan. Bồi bích: Một chàng trai trẻ ngăm đen có thể bị rắc rối, một kẻ không ưa người chất vấn...” Bỗng bà đứng sựng lại, ngay bên cạnh bức tượng Harry đang ẩn núp. “Chà, điều đó không thể đúng được,” bà nói, vẻ khổ sở, và Harry nghe bà xào lại bộ bài một cách quyết liệt rồi lại tiếp tục bước đi, chẳng lưu lại gì phía sau ngoại trừ một hơi nhẹ rượu nâu vẫn dùng để nấu ăn. Harry chờ đến khi chắc chắn là bà đã đi khỏi mới vội vã bước tiếp cho đến khi tới được hành lang tầng thứ bảy, nơi có mỗi một bức tượng đá thú đứng dựa tường. “Nước chua,” Harry nói, và bức tượng thú đá nhảy qua một bên, bức tường đằng sau nhẹ nhàng tách ra làm hai, và một cái cầu thang xoắn bằng đá tự chuyển động lộ ra, Harry bèn bước lên cầu thang để được đưa theo những vòng tròn êm ái lên đến cánh cửa có cái búa gõ bằng đồng dẫn vào văn phòng cụ Dumbledore. Harry gõ cửa. “Vào đi,” cụ Dumbledore nói. “Con chào thầy,” Harry nói khi bước vào văn phòng thầy hiệu trưởng. “À, chào con, Harry. Ngồi xuống đi,” cụ Dumbledore mỉm cười nói, “thầy hy vọng con đã có một tuần lễ thú vị trong tuần đầu tiên quay lại trường?” “Dạ, cám ơn thầy,” Harry nói. “Ắt hẳn con bận lắm, đã bị nợ một buổi cấm túc rồi!” “Ơ...,” Harry mới mở miệng nói lọng ngọng, nhưng cụ Dumbledore không tỏ vẻ nghiêm khắc lắm. “Thầy vừa dàn xếp với giáo sư Snape để cho con chịu cấm túc vào thứ bảy tuần tới thay vìtối nay.” “Dạ được,” Harry nói, trong đầu nó đang có nhiều vấn đề cấp bách hơn là vụ cấm túc với Thầy Snape, và giờ đây nó len lén nhìn quanh để xem có dấu hiệu nào về cái mà cụ Dumbledore dự định dạy nó vào tối hôm nay không. Văn phòng hình tròn này trông vẫn như từ trước tới giờ; những dụng cụ bàng bạc tinh xảo đặt trên mấy cái bàn cao khẳng khiu, nhả khói và kêu vo vo; chân dung của các vị hiệu trưởng tiền nhiệm ngủ gật trong các khung tranh và con chim Phượng hoàng lộng lẫy của cụ Dumbledore – con Fawkes – vẫn đậu trên nhành cây của nó phía sau cánh cửa, ngắm nhìn Harry với vẻ thích thú rạng rỡ. Thậm chícảnh vật trông không có vẻ gìlà cụ Dumbledore đã dọn dẹp chút đỉnh để có chỗ cho hai người cùng thực hành Pháp thuật. “Vậy là, Harry,” cụ Dumbledore nói, bằng giọng bàn công việc, “thầy chắc rằng con mấy bữa nay đang thắc mắc thầy dự định làm gì với con trong những... thầy muốn tìm từ gìcho hay hơn... những buổi học này?” “Dạ thưa thầy, phải ạ.” “Thế này, thầy đã quyết định là đã đến lúc con cần biết một số thông tin, một khi con đã biết cái gìkhiến Chúa tể Voldermort cố tìm cách giết con cách đây mười lăm năm,” cụ ngưng một lúc. “Thầy nói vào cuối niên học vừa rồi rằng thầy sẽ nói với con mọi điều,” Harry nói. Khó mà không nhận thấy trong giọng nói của nó có một chút trách hờn. Rồi nó nói thêm ở cuois câu, “thưa thầy.” “Và thầy đã làm như vậy,” cụ Dumbledore điềm tĩnh nói. “Thầy đã nói với con mọi điều thầy biết. Từ điểm này trở đi, chúng ta sẽ rời khỏi cái nền tảng chắc chắn của sự thật mà cùng nhau du hành băng qua những bãi lầy tăm tối của ký ức để tiến vào rừng rậm của những giả thuyết rối rắm nhất. Từ đây trở đi, Harry à, thầy có thể sai lầm khủng khiếp như Humphrey BelcHermione, người đã tin lúc bấy giờ là thời điểm chín mùi để làm ra vạc nấu phó mát.” “Nhưng thầy tin là thầy đúng chứ?” Harry nói. “Đương nhiên là thầy tin, nhưng như thầy đã chứng minh cho con thấy, thầy cũng phạm sai lầm như mọi người bình thường. Thực ra, bỏ quá cho thầy, do có tríthông minh hơn nhiều người, sai lầm của thầy do vậy càng lớn hơn nhiều.” “Thưa thầy,” Harry ngập ngừng nói, “điều thầy sắp nói với con có liên quan gìtới lời Tiên tri không? Điều đó có giúp cho con... sống sót không?” “Nó liên quan rất nhiều đến lời Tiên tri,” cụ Dumbledore nói, thản nhiên như thể Harry mới hỏi cụ về thời tiết những ngày sắp tới, “và thầy chắc chắn là hy vọng rằng nó sẽ giúp con sống sót.” Cụ Dumbledore đứng dậy và đi vòng quanh cái bàn làm việc, ngang qua Harry, nó bồn chồn xoay mình trên ghế để nhìn theo cụ đang cúi xuống một cái tủ phía sau cánh cửa. Khi cụ Dumbledore đứng thẳng dậy, cụ cầm một cái chậu nông quen thuộc bằng đá có mấy dấu khắc chạm kỳ quái quanh miệng. Cụ đặt cái Tưởng ký lên bàn trước mặt Harry. “Trông con có vẻ lo lắng.” Harry quả thực từ nãy giờ vẫn ngó chừng cái Tưởng ký với chút ngán sợ. Kinh nghiệm trước đây của nó với cái dụng cụ kỳ quái lưu trữ và tiết lộ suy nghĩ và ký ức ấy, là tuy có thu được thêm nhiều hiểu biết, nhưng cũng rất ư khó chịu. Lần cuối cùng nó mắc mứu với nội dung của cái chậu đó, là nó đã nhìn thấy quá nhiều so với ước mongcủa nó. Nhưng cụ Dumbledore đang mỉm cười. “Lần này, con cùng vào Tưởng ký với thầy... và, bất thường hơn nữa, được phép hẳn hoi.” “Thưa thầy, chúng ta đi đâu ạ?” “Một chuyến du ngoạn xuống con đường mòn ký ức của Bob Ogden,” cụ Dumbledore nói, vừa lấy trong túi ra một cái chai bằng pha lê chứa một chất màu trắng ánh bạc có xoáy.
  • 47. “Bob Ogden là ai ạ?” “Ông ấy làm việc cho Bộ thi hành Luật Pháp thuật,” cụ Dumbledore nói. “Ông ấy mất cách đây ít lâu sau khi thầy tìm ra tung tích ông ấy và thuyết phục ông giãi bày những hồi ức cho thầy. Chúng ta sẽ tháp tùng ông ấy trong một vụ thăm viếng mà ông ấy đã thực hiện khi thi hành công vụ. Harry à, nếu con đứng…” Nhưng cụ Dumbledore đang gặp khó khăn trong việc rút cái nút chai ra : bàn tay bị thương của cụ dường như cứng đơ và đau đớn lắm. “Thưa thầy, cho phép con… ?” “Không hề gì, Harry à…” Cụ Dumbledore chĩa cây đũa phép của mình vào cái chai và cái nút bật ra ngay. “Thưa thầy... làm sao mà bàn tay của thầy bị thương vậy?” Harry lại hỏi, vừa nhìn mấy ngón tay thâm đen với một cảm giác vừa sợ hãi vừa xót thương. “Bây giờ không phải lúc kể câu chuyện đó rồi Harry à. Chưa đến lúc. Chúng ta có hẹn với Bob Ogden.” Cụ Dumbledore rót cái chất óng ánh bạc trong chai vô cái Tưởng ký, cái chất ấy không ra lỏng mà cũng chẳng phải khí, vừa xoắn tít vừa lung linh hư ảo. “Con vào trước đi,” cụ Dumbledore nói, ra dấu về phía cái chậu. Harry cúi khom tới trước, hít một hơi thở sâu, sâu, và nhúng cái mặt mình vô trong cái chất óng ánh bạc đó. Nó cảm thấy hai chân nó nhấc hổng khỏi sàn văn phòng; nó đang rơi, rơi xuyên qua bóng tối cuộn xoáy, và rồi, hết sức dột ngột, nó chớp mắt trong ánh nắng chói chang. Trước khi mắt nó quen lại với ánh sáng, cụ Dumbledore đã đáp xuống bên cạnh nó. Hai thầy trò đang đứng trên một con đường ở thôn quê, hai bên đường là những giậu cây cao xum xuê, dưới vòm trời mùa hạ sáng trong và xanh như sắc hoa xin-đừng-quên-tôi. Đứng phía trước hai thầy trò, cách chừng ba thước, một người đàn ông lùn và mập đeo một cặp kính dày cui thật to khiến cho đôi mắt ông ta nhỏ lại như hai đốm mắt ruồi. Ông ta đang xem một cột gỗ chỉ đường được cắm nhô ra khỏi bụi cây gai ở phía tay trái của con đường. Harry biết đây hẳn là ông Ogden; ông ta là người duy nhất có mặt ở đấy, và ông ta cũng đang mặc cái kiểu quần áo kỳ cục mà các pháp sư ít kinh nghiệm thường chọn mặc để trông có vẻ giống Muggle: trong trường hợp này là một cái áo khoác thầy tu và một đôi ghệt bên ngoài một cái áo bơi một mảnh có sọc. Tuy nhiên trước khi Harry có đủ thì giờ để ghi nhận ngoại hình quái đản của ông, ông Ogden đã bắt đầu bước đi thật nhanh xuống con đường nhỏ. Cụ Dumbledore và Harry đi theo. Khi họ đi ngang qua một tấm bảng gỗ chỉ đường, Harry nhìn lên hai mũi tên của cái bảng. Một cái chỉ ngược hướng con đường nó vừa đi qua có ghi: “Hangleton Lớn, 5 dặm”. Mũi tên kia chỉ theo sau lưng ông Ogden có ghi “Hangleton Nhỏ, 1 dặm”. Hai thầy trò đi bộ qua một quãng đường ngắn mà không thấy gì cả ngoại trừ mấy giậu cây bên đường, bầu trời xanh trên đầu và cái dáng khoác áo thầy tu bảnh tẻng phía trước. Thế rồi con đường quanh qua bên trái và biến tướng, chạy xuống một sườn đồi rất dốc, khiến cho hai thầy trò bỗng đứng trước một cảnh trí bất ngờ của cả một thung lũng nằm phía trước. Harry nhìn thấy một ngôi làng, chắc chắn là làng Hangleton Nhỏ, nép mình giữa hai ngọn đồi cao, có thể thấy rõ cả nhà thờ và nghĩa địa của làng. Bên kia thung lũng, nằm trên sườn đồi đối diện, là một biệt thự xinh xắn, chung quanh có những thảm cỏ trải rộng xanh mượt như nhung. Ông Ogden đã chuyển sang bước nhanh một cách bất đắc dĩ vì con đường chạy xuống quá dốc. Cụ Dumbledore sải dài bước chân hơn nữa, và Harry phải lật đật chạy theo cụ cho kịp. Nó nghĩ làng Hangleton Nhỏ ắt phải là đích đến cuối cùng của thầy trò nó và nó thắc mắc, như đã thắc mắc vào cái đêm thầy trò nó đi tìm Thầy Slughorn, là tại sao thầy trò họ lại phải tiếp cận từ một khoảng cách xa như vậy. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau nó khám phá ra rằng mình đã nhầm lẫn khi nghĩ rằng thầy trò nó đang đi đến ngôi làng. Con đường uốn cong về bên phải và khi vòng qua khúc quanh rồi, thầy trò nó mới kịp nhìn thấy một góc vạt áo thầy tu của ông Ogden biến mất trong một khaorng hở của giậu cây. Cụ Dumbledore và Harry đi theo ông ta vào một con đường đất hẹp chạy giữa những hàng giậu cao hơn, dày hơn cả những hàng giậu thầy trò nó đã bỏ lại phía sau. Con đường khúc khủy, gồ ghề, lởm chỏm đá và đầy ổ gà, cũng chạy xuống dốc đồi như con đường lúc nãy, và dường như dẫn đến một lùm cây âm u lui xuống phía dưới một chút. Quả nhiên, con đường mòn chẳng mấy chốc mở ra một khu đất trồng cây, và cụ Dumbledore cùng Harry dừng lại phía sau ông Ogden, ông này đã đứng yên và rút ra cây đũa phép. Mặc cho bầu trời không một áng mây, đám cây già trước mặt thầy trò Harry vẫn tỏa bóng râm âm u, sâu và mát, và chỉ cần vài giây mắt Harry đã phân biệt được một tòa nhà nửa ẩn nửa hiện giữa những thân cây mọc lộn xộn. Đối với Harry, đây dường như là một địa điểm lạ lùng để chọn xây nhà, hoặc là một quyết định quái đản khi để cho lũ cây mọc um tùm chung quanh, che khuất tất cả ánh sáng và cảnh trícủa thung lũng bên dưới. Nó thắc mắc là liệu có ai ở trong ngôi nhà đó không; mấy bức tường rêu phong và nhiều miếng ngói đã rớt khỏi mái nhà, có thể thấy những mảnh ngói vụn vung vãi đó đây. Cây tầm ma mọc khắp chung quanh, ngọn cây vươn tới tận cửa sổ, những cái cửa sổ nhỏ xíu và bám đầy bụi bặm. Tuy nhiên, vừa khi nó kết luận là chẳng ai có thể sống ở đó, thì một trong mấy cái cửa sổ mở tung ra kèm theo tiếng loảng xoảng, và một làn hơi nước hay khói bốc ra từ cái cửa sổ nhỏ đó, như thể có ai đó đang nấu nướng. Ông Ogden lặng lẽ di chuyển về phía trước, và Harry thấy dường như ông hơi thận trọng. Khi bóng cây âm u đã che phủ lên người, ông ta lại dừng chân, đăm đăm nhìn vào cửa chính, trên cánh cửa đó ai đã đóng đinh một con rắn chết. Chợt có tiếng sột soạt và một tiếng nổ giòn, rồi một người đàn ông mặc toàn giẻ rách rớt xuống từ trên một ngọn cây gần đó, đáp xuống trên đất trên hai chân ngay trước mặt ông Ogden. Ông Ogden nhảy lùi ra sau nhanh đến nỗi giẫm lên đuôi vạt áo khoác của chính mình và té bổ ngửa. “Không ai mời ông.” Người đàn ông đứng trước mặt họ có mái tóc dày bám đầy bụi đến nỗi khó mà nói được nó vốn màu gì. Răng hắn ta sún gần hết. Mắt hắn ta nhỏ, đen và ngó chòng chọc về hai hướng ngược nhau. Đáng ra trông thế phải vui nhộn, nhưng hắn lại không hề như vậy; kết quả thiệt là dễ sợ, và Harry chẳng trách gìông Ogden phải lùi lại liên tiếp nhiều bước trước khi mở miệng nói được. “Ơ... Xin chào. Tôi là nhân viên của Bộ Pháp thuật...” “Không ai mời ông.” “Ơ... Tôi xin lỗi... Tôi không hiểu ý ông,” ông Ogden nói, vẻ căng thẳng. Harry nghĩ ông Ogden cực kỳ tối dạ; theo ý Harry thì người lạ mặt kia bày tỏ rất rõ ràng, đặc biệt khi hắn ta vung cây đũa phép trong một tay, còn tay kia thìnắm một con dao ngắn đẫm máu. “Con hiểu hắn nói gì, ta chắc vậy, phỉa không Harry?” Cụ Dumbledore nói khẽ. “Dạ, dĩnhiên rồi,” Harry nói, hơi lúng túng. “Tại sao ông Ogden không thể hiểu...?” Nhưng khi mắt Harry đụng phải con rawsn chết neo trên cánh cửa, nó bỗng hiểu ra. “Hắn nói Xà ngữ?” “Giỏi lắm,” cụ Dumbledore nói, vừa gật đầu, mỉm cười. Gã đàn ông ăn mặc te tua lúc này đang tiến về phía ông Ogden, tay cầm dao, tay cầm cây đũa phép. “Thế này nhé...” Ông Ogden bắt đầu nói, nhưng đã quá trễ: Một tiếng nổ to vang lên, và ông Ogden đã nằm quay lơ trên mặt đất, tay bụm chặt lấy mũi trong khi một dòng nước màu vàng nhơn nhớt lờm lợm xịt ra từ những kẽ ngón tay ông. “Morfin!” Một giọng hét to vang lên. Một lão già vội vã chạy ra khỏi căn nhà, đóng mạnh cánh cửa chính sau lưng, khiến cho con rắn chết lắc lư một cách đau khổ. Người này lùn hơn người xuất hiện trước đó và có một kích thước quái dị. Hai vai lão ta rất rộng và hai cánh tay rất dài, hợp với đôi mắt nâu sáng quắc, mái tóc ngắn rậm rì, và gương mặt nhăn nhúm, tạo cho lão ta cái dáng vẻ của một con khỉ già hùng mạnh. Lão già chạy ra và đứng lại bên cạnh cái gã cầm dao, lúc này gã đang sặc vìcười khi nhìn cảnh ông Ogden nằm trên mặt đất. “Ở Bộ hả?” Lão già ngó xuống ông Ogden hỏi. “Đúng!” Ông Ogden tức giận nói, vừa chấm chấm vết máu mủ trên mặt. “Và, tôi đoán, ông là ông Gaunt?”
  • 48. “Đúng vậy,” lão Gaunt nói. “Nó đánh trúng mặt ông hả?” “Phải, nó đánh!” Ông Ogden càu nhàu. “Lẽ ra ông nên báo trước sự có mặt của ông chứ hả?” Lão Gaunt nói giọng công kích. “Đây là tư gia mà. Đâu có thể cứ bước đại vô đây mà không tính trước chuyện con trai tôi tự vệ.” “Tự vệ lại cái gìhả trời?” Ông Ogden nói, vừa lồm cồm đứng dậy. “Mấy người ưa kiếm chuyện. Bọn xâm nhập gia cư. Dân Muggle và đồ cặn bã.” Cái mũi của ông Ogden vẫn còn đang xịt ra thành dòng cái chất vàng vàng như mủ, ông bèn chĩa cây đũa phép vào mũi mình, và dòng mủ đó ngừng ngay lập tức. Lão Gaunt nói qua khóe miệng với Morfin. “Đi vô nhà. Không được cãi.” Lần này, do đã có chuẩn bị, Harry nhận ra Xà ngữ; thậm chí trong lúc nó vừa nghe hiểu điều lão già đang nói, nó vẫn nhận ra được tiếng rít khè khè quái gỡ, là thứ âm thanh duy nhất mà ông Ogden có thể nghe ra. Morfin dường như muốn cãi lại, nhưng cha gã đã quắc mắt đe dọa khiến gã phải thay đổi ý kiến, lếch thếch bỏ vào trong nhà, dáng đi tròng trành hết sức kỳ cục, và đóng sập cánh cửa lại sau lưng, khiến cho con rắn chết lại buồn bã đong đưa. “Ông Gaunt à, tôi đến đây chính là để gặp con trai ông,” ông Ogden nói, vừa chùi vết mủ cuối cùng dính trên áo khoác. “Đó là Morfin, đúng không?” “Ừ, đó là Morfin,” lão già đáp giọng dửng dưng. “Ông có thuần huyết không?” Lão ta hỏi, bỗng nhiên đâm hung hăng. “Điều đó không quan trọng,” ông Ogden lạnh lùng nói, và Harry cảm thấy niềm kính trọng đối với ông Ogden tăng lên. Nhưng dường như lão Gaunt lại cảm thấy khác. Lão ta lừ mắt nhìn vào mặt ông Ogden và lẩm bẩm, bằng cái giọng rõ ràng có thể coi là xúc phạm, “Giờ tôi lại nghĩ về chuyện đó đây, tôi đã từng thấy mấy cái mũi như mũi ông ở dưới làng kia.” “Tôi không nghi ngờ chuyện đó, nếu con trai ông được thả lỏng để quậy người ta,” ông Ogden nói. “Có lẽ chúng ta có thể tiếp tục cuộc thảo luận bên trong nhà chứ hả?” “Bên trong?” “Vâng, thưa ông Gaunt. Tôi vừa mới nói với ông. Tôi đến đây về chuyện Morfin. Chúng tôi đã gởi một cú...” “Tôi không xài cú,” lão Gaunt nói. “Tôi không mở thư.” “Vậy thì ông khó lòng mà phàn nàn được là ông chẳng được báo trước về việc khách viếng thăm,” ông Ogden nói một cách chua chát. “Tôi đến đây vì một vụ vi phạm nghiêm trọng trong Luật Pháp thuật, vụ này xảy ra tại đây và sáng sớm ngày hôm nay...” “Được rồi, được rồi, được rồi!” Lão Gaunt rống lên. “Vậy thìmời vô cai nhà thương điên của tôi, và nó sẽ cho ông biết tay!” Ngôi nhà dường như gồm có ba phòng nhỏ xíu. Hai cánh cửa mở ra căn phòng chính, vừa dùng làm nhà bếp đồng thời là phòng khách. Morfin đang ngồi trên một cái ghế bành dơ không chịu nổi bên cạnh một ngọn lửa đang bốc khói, văn vẹo một con rắn còn sống nhăn giữa mấy ngón tay mập mạp và ư ử ngâm nga với con rắn bằng Xà ngữ: Rít đi, rít đi, rắn nhí, Trườn trên sàn Mi hãy biết điều với Mòin Nếu không hắn đóng đinh mày lên cửa. Có tiếng xô xtas ì xèo ở góc phòng bên cạnh cái cửa sổ mở, và Harry nhận ra là còn một người khác nữa trong phòng, một cô gái mặc một cái áo đầm tả tơi màu xám y như màu bức tường đá đầy bụi bặm sau lưng cô. Cô gái đang đứng bên cạnh một cái nồi đang bốc hơi trên một cái bếp đen thui cáu bẩn, và đang hục hặc với cái kệ chất nồi chảo trông hết sức nhớp nháp. Mái tóc của cô ta buông rũ xuống, xơ xác, và cô có một bộ mặt hơi nặng nề, bèn bẹt, tai tái. Đôi mắt của cô, cũng giống như mắt người anh, nhìn chòng chọc về hai hướng ngược nhau. Trông cô có vẻ sạch sẽ hơn hai người đàn ông một tí, nhưng Harry nghĩnó chưa bao giờ trông thấy một người nào trông thảm hại đến như vậy. “Con gái tôi, Merope,” lão Gaunt miễn cường giới thiệu, khi ông Ogden tò mò nhìn về phía cô gái. “Chào cô,” ông Ogden nói. Cô gái không đáp lại, nhưng sợ sệt liếc cha mình một cái rồi quay lưng lại mọi người và tiếp tục khua khoắng đám nòi chảo trên cái kệ đằng sau lưng. “Thế này, ông Gaunt à,” ông Ogden nói, “để đi thằng vào vấn đề, chúng tôi có lý do để tin là con trai ông, Morfin, đã biểu diễn pháp thuật trước mặt một Muggle hồi khuya hôm qua.” Một tiếng xoảng điếc lỗ tai vang lên. Merope vừa làm rớt một trong mấy cái nồi. “Lượm nó lên!” Lão Gaunt gầm lên với cô gái. “Cứ thế, bừa bãi trên sàn như mấy tên Muggle bẩn thỉu, cây đũa phép của mày dùng để làm gì hả, cái đồ bịch rác vô tích sự?” “Xin ông Gaunt!” Ông Ogden nói với giọng bị sốc, khi Merope, sau khi đã lượm cái nồi lên, hoảng sợ đến tím tái, lại buông tay để rớt cái nồi xuống một lần nữa, đã run rẫy rút cây đũa phép của cô ra khỏi túi, chỉ vào cái nồi, lầm bầm một câu thần chú líu ríu không ai nghe được, khiến cái nồi bay vọt ngang căn phòng, tông vô bức tường đối diện, bể làm hai. Morfin phát ra một trận cười điên dại. Lão gaunt gào lên, “Gắn lại, đồ bị thịt vô dụng, gán nó lại!” Merope luýnh quýnh trượt ngang căn phòng, nhưng trước khi cô ta kịp giơ cây đũa phép của mình lên, ông Ogden đã giơ cây đũa phép của ông lên và kiên quyết hô “Chữa lành”. Cái nồi tự liền lại tức thì. Mất một lúc, lão Gaunt có vẻ như sắp quát vào mặt ông Ogden nhưng rồi dường như nghĩlại: thay vìvậy, lão quay qua giễu cợt con gái của mình: “hên cho mày là cái ông tử tế của Bộ đang ở đây, hả? Có thể ông ta sẽ đem mày thoát khỏi tay tao, có thể ông ta không chê thứ á phù thủy nhớp nhúa...” Không nhìn ai mà cũng không cảm ơn ông Ogden, Merope lượm cái nồi lên, rồi đặt nó trở lại trên kệ bằng đôi tay run rẩy. Xong cô ta đứng thật yên lặng, lưng dựa vào bức tường giữa cái cửa sổ cáu bẩn và cái bếp lò, như thể cô chẳng mong ước gì hơn là lún vào trong bức tường đá đó mà biến mất cho rồi. “Ông Gaunt à,” ông Ogden lại bắt đầu nói. “Như tôi đã nói: lý do việc thăm viếng của tôi là...” “Tôi nghe ông nói lần đầu rồi!” lão Gaunt nạt ngang. “Vậy thìsao? Morfin tiện tay quay một tên Muggle một tí... vậy thìsao nào?” “Morfin đã vi phạm Luật Pháp thuật,” ông Ogden nghiêm nghị nói. “Morfin đã vi phạm Luật Pháp thuật,” lão Gaunt nhại lại giọng ông Ogden, làm cho nó trịnh trọng và ngân nga. Morfin lại cười khằng khặc. “Nó đã dạy cho tên Muggle bẩn thỉu một bài học, chuyện đó bây giờ là bất hợp pháp à?” “Vâng,” ông Ogden nói. “Tôi e là như vậy.” Ông rút từ túi áo trong ra một cuộn giấy da và mở ra. “Vậy thì, cái gìđó, bản án của nó đó hả?” lão Gaunt nói, giọng cất cao giận dữ. “Đây là trát đòi hầu tòa của Bộ...” “Trát! Trát? Ông tưởng ông là ai mà dám ra trát đòi con trai tôi đi bất cứ đâu hả?” “Tôi là Trưởng Đội Thi hành Luật Pháp thuật,” ông Ogden nói. “Và ông tưởng bọn ta là đồ cặn bã hả?” Lão Gaunt gào lên, lúc này đã tiến tới trước mặt ông Ogden, chĩa một ngón tay có móng vàng khè vào ngực ông ta. “Đồ cặn bã chạy quắn đít lên khi Bộ ra lệnh à? Ông có biết ông đang nói chuyện với ai đây không, hả đồ Máu Bùn nhãi nhép bẩn thỉu?” “Tôi có cảm giác là mình đang nói chuyện với ông Gaunt,” ông Ogden nói, có vẻ đề phòng, nhưng vẫn kiên quyết.
  • 49. “Đúng vậy!” Lão Gaunt rống lên. Trong một thoáng, Harry đã tưởng lão Gaunt làm một động tác tay tục tĩu, nhưng nó kịp nhận ra lão ta chỉ giơ cho ông Ogden xem một chiếc nhẫn cẩn đá đen xấu xí mà lão đeo ở ngón tay giữa. Lão ta quơ quơ ngón tay đeo nhẫn trước mắt ông Ogden. “Thấy cái này không? Thấy không? Biết là cái gì không? Biết xuất xứ của nó không? Nó thuộc về gia đình tôi hàng thế kỷ rồi, gia đình chúng tôi lâu đời như thế đó, và hoàn toàn thuần huyết suốt từ xưa đến nay! Biết người ta từng ra giá với tôi bao nhiêu cho cái này không, với huy hiệu dòng họ Peverell khắc trên mặt đá đen?” “Tôi không biết,” ông Ogden nói, chớp chớp mắt khi chiếc nhẫn được gívô sát mũi ông chừng ba phân, “và chuyện đó đi lạc đề khá xa, ông Gaunt à. Con trai ông đã phạm...” Hú lên một tiếng giận dữ, lão Gaunt chạy về phía cô con gái. Tzrong một nửa giây, Harry tưởng đâu lão ta sắp bóp họng Merope khi lão vung tay lên cổ họng cô ta; nhưng ngay sau đó, lão lôi cô ta về phía ông Ogden bằng một sợi dây chuyền vàng đeo quanh cổ cô. “Thấy cái này không?” Lão ta gầm lên với Ogden, lắc lắc một cái mề đay vàng khá nặng vào mặt ông, trong khi Merope ú a ú ớ, miệng mồm há hốc ra để thở. “Tôi thấy, tôi thấy!” ông Ogden vội vàng nói. “Của Slytherin!” Lão Gaunt gào lên. “Của Salazar Slytherin! Chúng tôi là cháu chắt thừa kế chính thống của cụ, ông nói sao về chuyện này hả?” “Ông Gaunt, con gái của ông kìa!” ông Ogden lo lắng nhắc chừng, nhưng lão Gaunt đã buông Merope ra; cô bèn lê lết tránh xa ông bố, quay trở lại cái góc của mình, xoa xoa cái cổ và hớp lấy hớp để không khí. “Thế đấy!” Lão Gaunt nói giọng đắc thắng, như thể vừa chứng minh xong một điểm mấu chốt phức tạp vượt xa tất cả mọi tranh luận. “Ông liệu hồn đừng có mà đi nói chuyện với chúng tôi như thể chúng tôi là bùn đất dính dưới giày của ông! Hàng bao thế hệ thuần huyết, tất cả đầu là phù thủy… Tôi dám nói là nhiều hơn số ông tính ra!” Và lão giẫm giẫm cái sàn chỗ ông Ogden đứng. Morfin lại cười sằng sặc. Merope không nói gì, chỉ co rúc bên cạnh cửa sổ, đầu cúi gục và gương mặt giấu trong mái tóc rũ xuống. “Ông Gaunt à,” ông Ogden kiên trì nói, “tôi e là cả tổ tiên của ông lẫn tổ tiên tôi không liên quan gì tới vấn đề trước mắt. Tôi đến đây bởi vì Morfin, Morfin và người Muggle mà cậu ấy trù ẻo hồi khuya hôm qua. Theo thông tin của chúng tôi” – ông Ogden liếc nhìn xuống cuộn giấy da của mình - “thì Morfin đã ếm một bùa hay ngải lên người Muggle nói trên, khiến người đó phát ban vô cùng đau đớn.” Morfin cười hinh hích. “Im đi, con,” lão Gaunt gầm gừ bằng Xà ngữ, và Morfin lại nín khe. “Nếu nó có làm vậy thìđã sao nào?” lão Gaunt ngang ngược nói với ông Ogden, “Tôi đoán ông đã chùi dùm cái mặt dơ của tên Muggle đó rồi chứ, và cả trínhớ của thằng đó để tống…” “Đó đâu phải là vấn đề phải không ông Gaunt?” ông Ogden nói. “Đây là một cuộc tấn công không do khiêu khích trong một trường hợp không có sự phòng vệ…” “Hừ, tôi đã thấy rõ ông là một kẻ khoái Muggle ngay từ lúc mới gặp ông,” lão Gaunt khinh khỉnh nói, và lại giẫm giẫm lên sàn nhà một lần nữa. “Cuộc tranh luận này chẳng đưa chúng ta tới đâu cả,” ông Ogden quả quyết nói. “Có thể thấy rõ ràng qua thái độ của con trai ông là cậu ta không hề cảm thấy hối hận về hành động của mình.” Ông liếc xuống cuộn giấy da một lần nữa. “Morfin sẽ ra tòa vào ngày mười bốn tháng chín để trả lời về sự cáo buộc đã dùng pháp thuật trước mặt một Muggle và khiến cho Muggle đó bị tổn thương và đau khổ…” Ông Ogden ngừng lại. Có tiếng vó ngựa lọc cọc, nhạc ngựa leng keng, và tiếng cười to vọng vào khuôn cửa sổ mở. Dường như con đường quanh co dẫn vào làng chạy rất sát chòm cây bao bọc ngôi nhà. Lão Gaunt đứng bất động, lắng nghe, hai mắt lão mở to. Morfin rít lên và quay mặt về phía phát ra âm thanh, có vẻ thèm thuồng. Merope ngẩng đầu lên. Harry thấy gương mặt cô ta trắng như bột. “Chao ôi, một cảnh ngứa mắt gì đâu!” Giọng một cô gái vang lên, nghe rõ qua khung cửa sổ mở như thể cô ta đang đứng trong cùng một căn phòng với họ. “ba anh không thể cho dọn dẹp cái chòi nát đó sao, anh Tom?” “Cái đó đâu phải của nhà anh,” giọng một chàng trai trẻ. “Mọi thứ bên kia thung lũng đều thuộc về gia đình anh, nhưng cái chòi đó thuộc về một lão bá vơ tên là Gaunt và con cái lão. Thằng con khùng lắm, chắc em có nghe mấy chuyện người ta đồn đãi trong làng…” Cô gái phá ra cười. Tiếng nhạc ngựa leng keng và tiếng vó ngựa lộc cộc vang lên càng lúc càng to hơn. Morfin làm như thể muốn nhảy ra khỏi cái ghế bành nó đang ngồi. “Ngồi yên!” Cha nó nói bằng Xà ngữ, giọng răn đe. “Anh Tom à,” giọng cô gái lại vang lên, bây giờ nghe rõ đến nỗi hẳn là họ đang ở bên cạnh căn nhà, “có thể em nhầm – nhưng có ai đó đã đóng đinh một con rắn lên cửa, phải không?” “Úi trời ơi, em nói đúng!” giọng chàng trai nói. “Chắc là thằng con trai, anh đã nói với em là thằng đó khùng mà. Đừng nhìn nó, Cecilia, cưng của anh.” Tiếng nhạc ngựa leng keng và tiếng vó ngựa lộc cộc bây giờ lại nghe nhỏ dần. “Cưng của anh,” Morfin thìthầm bằng Xà ngữ, nhìn cô em gái. “Hắn gọi con đó là “Cưng của anh”. Vậy là đằng nào đi nữa hắn cũng không thèm mày.” Merope trắng nhợt đến nỗi Harry cảm thấy chắc là cô ta sắp xỉu. “Chuyện gìhả?” Lão Gaunt nói sẵng giọng, cũng bằng Xà ngữ, hết nhìn con trai tới nhìn sang con gái. “Mày nói cái gìhả, Morfin?” “Nó khoái ngó thằng Muggle đó,” Morfin nói, một vẻ đồi bại hiện ra trên gương mặt khi hắn nhìn chòng chọc cô em gái, cô ta tỏ ra khiếp sợ cực kỳ. “Luôn luôn ở trong vườn mỗi khi thằng ấy đi ngang, dòm hắn qua giậu cây, có không? Và tối hôm qua…” Merope ngắc ngứ lắc đầu vẻ van xin, nhưng Morfin vẫn nói tiếp một cách tàn nhẫn, “đeo ở cửa sổ chờ hắn đánh xe ngựa về nhà, có không?” “Đeo ở cửa sổ để ngóng một thằng Muggle à?” Lão Gaunt rít lên trong miệng. Cả ba cha con nhà Gaunt hầu như quên béng sự có mặt của ông Ogden, ông này tỏ vẻ vừa ngơ ngáo vừa bực bội trước đợt rít khè và nghiến ngót mới mà ông không hiểu gìráo. “Có đúng không?” Lão Gaunt hỏi bằng một giọng lạnh băng, tiến một hai bước về phía cô con gái đang khiếp đảm. “Con gái của ta, dòng dõi thuần khiết của Salazar Slytherin – mà si mê một thằng Muggle máu bùn nhơ nhuốc à?” Merope lắc đầu như điên, ép sát mình vào tường, dường như không thể thốt nên lời. “Nhưng mà con trị hắn rồi, Bố!” Morfin cười khằng khặc. “Con đã trị hắn khi hắn đi ngang qua đây và hắn hết còn đẹp trai khi ban cua nổi khắp mình mẩy, há Merope?” “Mày, đồ á phù thủy nhãi ranh gớm ghiếc, đồ phản bội huyết thống bẩn thỉu!” Lão Gaunt rống lên, mất hết bình tĩnh, và hai bàn tay lão siết quanh cổ họng cô con gái. Cả Harry và ông Ogden cùng lúc hét lên: “Đừng!” Ông Ogden giơ cây đũa phép lên và hô, “Buông ra!” Lão Gaunt bị văng ngược ra sau, cách xa cô con gái; lão ta vấp vào một cái ghế và té chỏng gọng. Rống lên một tiếng giận dữ, Morfin nhảy bọt ra khỏi ghế nhào vô ông Ogden, vung vẩy con dao đẫm máu trong tay và phóng bừa bãi bùa phép từ cây đũa phép của gã. Ông Ogden chạy thí mạng. Cụ Dumbledore ra dấu rằng hai thầy trò cũng nên chạy theo và Harry vâng lời, tiếng gào thét của Merope còn vang vọng trong lỗ tai nó. Ông Ogden chạy khỏi con đường mòn, hai tay vòng lên che đầu, và phóng ra con đường chính, đâm sầm vô một con ngựa nâu lông mượt do một chàng trẻ tuổi tóc đen đẹp trai cỡi. Cả chàng ta và cô gái xinh đẹp cỡi con ngựa xám bên cạnh đều phá ra cười ngặt nghẽo trước cảnh tượng ông Ogden đâm sầm vô hông con ngựa rồi lồm cồm đứng dậy chạy bán mạng ngược lên con đường, cái áo khoác thầy tu phất phơ che trùm từ đầu đến chân. “Thầy nghĩ điều đó là đủ rồi, Harry à,” cụ Dumbledore nói. Cụ nắm lấy cùi chỏ Harry và kéo mạnh. Tích tắc sau, cả hai thầy trò lại bay vọt lên xuyên qua
  • 50. bóng tối một cách nhẹ tênh, cho đến khi cả hai đáp xuống, đứng đối diện nhau, trong văn phòng của cụ Dumbledore lúc này đã mờ tối. “Cô gái ở trong cái chòi có bị chuyện gì không?” Harry hỏi ngay, trong khi cụ Dumbledore thắp thêm đèn bằng một cái phẩy nhẹ cây đũa phép. “Cai cô tên Merope, hay tên gìgìđó?” “À, cô ta sống sót,” cụ Dumbledore nói, vừa ngồi xuống sau bàn làm việc và ra dấu cho Harry cũng ngồi xuống. “Ông Ogden độn thổ trở về Bộ và chỉ trong vòng mười lăm phút sau đã trở lại với quân tiếp viện. Morfin và cha nó cố gắng chống trả, nhưng cả hai bị chế ngự, bị đưa ra khỏi chòi, và sau đó bị Tòa án Pháp thuật kết án. Morfin, vì vốn có tiền án về tấn công Muggle, nên đã bị kêu án ba năm ở nhà ngục Azkaban. MarVoldermorto, kẻ đã gây thương tích cho ông Ogden và nhiều nhân viên khác của Bộ Pháp thuật thìbị tù sáu tháng.” “MarVoldermorto à?” Harry ngạc nhiên lặp lại cái tên. “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói, mỉm cười xác nhận. “Thầy hài lòng là con theo kịp câu chuyện.” “Vậy lão già đó là…?” “Ông ngoại của Voldermort, đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “MarVoldermorto cùng con trai Morfin và con gái Merope là hậu duệ cuối cùng của dòng họ Gaunt, một dòng họ pháp sư rất lâu đời nổi tiếng về tánh khí hung tợn và bất thường truyền qua nhiều thế hệ do tập quán kết hôn với bà con họ hàng. Thiếu hiểu biết cộng với kiểu cách quí tộc phô trương đưa tới hậu quả là của nả dòng họ đã bị hoang phí qua nhiều thế hệ trước khi MarVoldermorto chào đời. Như con thấy đấy, ông ta sống trong cảnh nghèo nàn dơ dáy, tánh khí thô lỗ, và cực kỳ kiêu căng tự đại, với vài di sản của dòng họ mà ông ta nâng niu như con trai mình, và hơn cả con giá mình.” “Vậy Merope,” Harry chồm tới trước trên ghế của nó và nhìn đăm đăm cụ Dumbledore, “vậy Merope là… Thưa thầy, có phải điều đó có nghĩa cô ấy là… mẹ của Voldermort?” “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Và ngẫu nhiên chúng ta cũng đã thoáng thấy cha của Voldermort. Thầy không biết con có để ý hay không?” “Có phải người Muggle mà Morfin đã tấn công không, thưa thầy? Người đàn ông cõi ngựa ấy?” “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói, tươi cười. “Phải, đó là Tom Riddle cha, cậu Muggle đẹp trai thường cỡi ngựa ngang qua căn chòi của gia đình Gaunt, người mà Merope phải lòng si mê đắm đuối.” “Và cuối cùng họ cưới nhau à?” Harry nói với vẻ không tin được, không thể tưởng tượng hai người không giống nhau chút nào ấy lại có thể yêu nhau. “Thầy nghĩcon quên mất,” cụ Dumbledore nói, “rằng Merope là một phù thủy. Thầy không tin rằng quyền năng pháp thuật của cô ta có thể bộc lộ ưu thế tối đa khi còn bị cha mình khủng bố. Một khi MarVoldermorto và Morfin đã ở yên trong nhà tùAzkaban, một khi cô ta được tự do một mình lần đầu tiên trong đời, thì thầy tin chắc, cô ta có thể bung ra để cho khả năng của mình phát triển hết mức và âm mưu một kế hoạch thoát khỏi cuộc sống vô vọng mà cô ta đã phải chịu đựng suốt mười tám năm… Con có thể nghĩ ra biện pháp nào mà Merope có thể dùng để khiến Tom Riddle quên đi người bạn tình Muggle, và phải lòng cô ta không?” “Lời nguyền Độc đoán?” Harry suy đoán. “Hay là Tình dược?” “Giỏi lắm. Về phần thầy thìthầy thiên về giả thuyết cô ta đã dùng một loại tình dược. Thầy chắc rằng như vậy sẽ lãng mạn hơn đối với cô ta, và thầy không nghĩ cô ta gặp khó khăn lắm trong việc mời Riddle một ly nước, vào một ngày nóng bức nào đó, khi Riddle đang cỡi ngựa về nhà một mình. Dù trường hợp nào xảy ra đi chăng nữa, thì chỉ trong vài tháng sau cái cảnh mà chúng ta vừa chứng kiến, ngôi làng Hangleton Nhỏ được thưởng thức một vụ xì căng đan khủng khiếp. Con có thể tưởng tượng thiên hạ đàm tiếu như thế nào khi con trai ông điền chủ trốn đi xây tổ uyên ương với Merope, con gái một kẻ bá vơ. Nhưng cái vụ tai tiếng chấn động cả làng ấy chẳng có nghĩa lý gìđối với MarVoldermorto. Ông ta từ nhà ngục Azkaban trở về, những mong thấy cô con gái của mình ngoan ngoãn chờ mình về với bữa ăn nóng dọn sẵn trên bàn. Nhưng thay vìvậy ông ta chỉ nhìn thấy một lớp bụi dày ba phân phủ trên bức thư vĩnh biệt giải thích việc cô con gái đã làm. Từ tất cả những gì mà thầy có thể khám phá ra, thì kể từ lúc đó trở đi, ông ta không bao giờ nhắc tới sự tồn tại của cô con gái nữa. Cơn khủng hoảng về sự bỏ trốn của cô con gái có lẽ đã góp phần làm cho ông ta chết sớm – hoặc cũng có thể ông ta chết vì không biết tự nấu ăn cho mình. Nhà ngục Azkaban đã làm cho MarVoldermorto thực sự suy yếu, và ông ta đã không sống được cho đến lúc nhìn thấy Morfin trở về căn chòi.” “Còn Merope? Cô ấy… cô ấy cũng chết sớm, phải không ạ? Chẳng phải là Voldermort được nuôi lớn lên trong một viện mồ côi sao?” “Thực ra, đúng như vậy,” cụ Dumbledore nói. “Ở đây chúng ta phải giả thiết một số thứ, mặc dù thầy nghĩ cũng không khó khăn lắm để loại trừ dần nhằm biết được điều gì đã xảy ra. Con thấy đó, trong vòng vài tháng trốn đi xây tổ uyên ương với nhau, Tom Riddle lại tái xuất hiện ở ngôi nhà trong trang trại ở làng Hangleton Nhỏ mà không dắt vợ cùng về. Chuyện đồn đại lan nhanh khắp trong vùng là anh ta nói gìđó về “bùa mê ngải lú” và bị “hớp hồn”. Điều anh ta muốn nói, thầy đoán chắc, là việc anh ta đã trải qua cơn mê ám rồi tỉnh ra, tuy nhiên thầy dám nói là anh ta không muốn nói thẳng ra những từ đó vì sợ bị coi là điên. Tuy nhiên, khi dân làng nghe anh ta nói thế, họ cũng đoán được là Merope đã dối gạt Tom Riddle, đã giả vờ như sắp có con, và vì vậy mà anh ta đã phải cưới cô ta.” “Nhưng cô ấy có con thực mà.” “Ấy là mãi một năm sau khi họ cưới nhau. Tom Riddle đã bỏ rơi vợ khi cô ấy đang có mang.” “Có chuyện gìtrục trặc à?” Harry hỏi. “Tại sao tình dược hết hiệu nghiệm?” “Lại suy đoán nữa thôi,” cụ Dumbledore nói, “nhưng thầy tin là Merope, kẻ yêu chồng tha thiết, không thể chịu đựng hơn nữa cảnh nô dịch chồng bằng phương tiện pháp thuật. Thầy tin là cô ta đã tự nguyện ngưng cho chồng uống tình dược. Có thể, vốn mê muội, cô ta đã tin rằng giờ đây anh ta hẳn là đã đáp lại tình yêu của cô. Có thể cô ta nghĩ anh ta sẽ ở lại vì đứa con. Nếu vậy thì cô đã tính toán sai lầm trong cả hai trường hợp. Anh ta đã bỏ rơi cô ta, không bao giờ gặp lại cô ta, và không bao giờ bận tâm tìm hiểu coi con trai mình ra sao.” Bầu trời bên ngoài đã đen như mực và những ngọn đèn trong văn phòng cụ Dumbledore dường như chiếu sáng rạng rỡ hơn trước đó. “Thầy nghĩhôm nay như vậy là đủ rồi, Harry à,” cụ Dumbledore nói, sau một lúc im lặng. “Dạ, thưa thầy,” Har nói. Nó đứng lên, nhưng chưa rời phòng. “Thưa thầy… biết tất cả những điều này về quá khứ của Vol có quan trọng không?” “Thầy nghĩlà rất quan trọng,” cụ Dumbledore nói. “Và nó… có liên quan gìđến lời Tiên tri không ạ?” “Nó có mọi thứ liên quan đến lời Tiên tri.” “Dạ,” Harry bối rối, nhưng cũng tin vậy. Harry quay lưng bước đi, chợt một câu hỏi nảy ra, nó bèn quay lại. “Thưa thầy, con có được phép kể cho Ron và Hermione mọi điều mà thầy vừa nói với con không?” Cụ Dumbledore cân nhắc ngó nó một lúc, rồi nói, “Được, thầy nghĩ cậu Weasley và cô Granger đã chứng tỏ là những người đáng tin cậy. Nhưng Harry à, thầy muốn đề nghị con hãy yêu cầu các trò ấy đừng kể lại cho bất kỳ ai khác nghe bất cứ điều gì về chuyện này. Sẽ chẳng hay ho gì nếu tin đồn lan ra là thầy biết được hay đoán được nhiều ít thế nào những bímật của Chúa tể Voldermort.” “Thưa thầy, không đâu. Con sẽ bảo đảm là chỉ có Ron và Hermione thôi ạ. Chúc thầy ngủ ngon.” Nó lại quay lưng đi, và khi gần như đã ở ngưỡng cửa thìnón thấy cái vật đó. Nằm trên một trong mấy cái bàn nho nhỏ cao cẳng khẳng khiu bị đặt lên quá nhiều thứ dụng cụ bằng bạc, là một chiếc nhẫn vàng cẩn mặt đá đen to, nứt nẻ, xấu xí. “Thưa thầy,” Harry nói, vừa trố mắt nhìn chiếc nhẫn. “Cái nhẫn đó…” “Sao?” Cụ Dumbledore nói. “Thầy đã đeo nó khi chúng ta đến thăm giáo sư Slughorn đêm đó.”
  • 51. “Đúng vậy,” cụ Dumbledore đồng ý. “Nhưng chẳng phải… Thưa thầy, không phải đó cũng là chiếc nhẫn mà lão MarVoldermorto Gaunt đã đưa cho ông Ogden xem à?” Cụ Dumbledore cúi đầu. “Chính chiếc nhẫn đó.” “Nhưng mà làm sao…? Lâu nay thầy vẫn có nó sao?” “Không, thầy chỉ mới thu được nó gần đây thôi,” cụ Dumbledore nói. “Thực ra thìchỉ vài ngày trước khi thầy đến đón con ở nhà dìdượng con.” “Thưa thầy, vậy là vào khỏang thời gian thầy bị thương ở tay, phải không ạ?” “Ừ, vào khoảng đó Harry à.” Harry ngập ngừng. Cụ Dumbledore đang mỉm cười. “Thưa thầy, chính xác là làm thế nào mà…?” “Trễ quá rồi Harry à! Con nên nghe câu chuyện này vào lúc khác. Chúc con ngủ ngon.” “Dạ, chúc thầy ngủ ngon.” Chương 11 Trợ thủ Hermione Như Hermione đã tiên đoán, những tiết trống của năm thứ sáu không phải là những giờ xả hơi sung sướng như Ron tưởng, mà là thời gian để gồng mình làm cho kịp cả núi bài tập mà tụi nó bị giao về nhà làm. Tụi nó không chỉ học như thể ngày nào cũng có tiết kiểm tra, mà chính những buổi học cũng trở nên căng thẳng hơn trước. Harry hầu như không hiểu tới một nửa những gìgiáo sư McGonagall nói với tụi nó vào những ngày này; ngay cả Hermione cũng phải một hai lần xin cô nhắc lại lời hướng dẫn. Khó tin nhưng có thật, và khiến Hermione thêm ấm ức, ấy là môn Độc dược đã trở thành môn Harry học giỏi nhất, nhờ vị Hoàng Tử lai. Thầy cô bây giờ đòi hỏi học trò phải dùng thần chú không lời không chỉ trong môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám, mà cả trong môn Bùa phép và Biến hình. Harry thường ngó qua mấy đứa bạn cùng lớp trong phòng sinh hoạt chung hay vào giờ ăn, thấy mặt mày tụi nó tím tái và căng thắng như thể xài quá liều Ai-không-ị; nhưng Harry cũng hiểu đó là do tụi nó đã phải vật vã để có một câu thần chú linh nghiệm mà không cần phải niệm ra miệng oang oang. Cho nên ra khỏi lâu đài đến nhà kiếng quả là được xả hơi; tụi nhỏ phải xử lý những thứ cây cỏ nguy hiểm hơn bao giờ hết trong môn Dược thảo, nhưng ít nhất thìtụi nó còn được phép chửi bậy vung vít nếu con Vòi độc bất ngờ vồ chúng từ đằng sau. Một hậu quả của khối bài làm khổng lồ và những giờ thực tập muốn điên món thần chú không lời là Harry, Ron và Hermione cho tới giờ vẫn chưa có thì giờ đi thăm bác Hagrid. Bác ấy đã còn đến ăn ở bàn của giáo ban – một dấu hiệu chẳng lành; và có vài dịp tụi nó đi ngang qua bác trong hành lang hay ngoài sân trường, thật khó hiểu, bác đã làm như không để ý thấy tụi nó hoặc không nghe tụi nó chào. “Tụi mình phải đi và giải thích thôi,” Hermione nói, khi cô nàng ngước lên nhìn cái ghế khổng lồ bỏ trống của bác Hagrid ở bàn ăn giáo ban vào bữa điểm tâm ngày thứ bảy tuần sau đó. “Tụi mình có buổi kiểm tra chọn đội tuyển Quidditch sáng nay mà!” Ron nói. “Và tụi mình còn phải thực tập cái bùa Rót nước của thầy Flitwick! Với lại, giải thích cái gì? Làm thế nào mà tụi mình có thể nói với bác là tụi mình ghét cái môn vớ vẩn của bác chớ?” “Tụi mình đâu có ghét!” Hermione nói. “Nói về phần mình thôi, mình không đời nào quên được mấy con Đuôi nổ.” Ron rầu rĩ nói. “Và bây giờ mình nói cho bồ biết, tụi mình khó mà thoát lắm. Bồ chưa nghe bác ấy triền miên nói về chú em óc bã đậu của bác ấy đấy thôi. Tụi mình sẽ phải dạy Grawp cách cột dây giày nếu ở lại lớp học ấy.” “Mình ghét cái việc tránh nói chuyện với bác Hagrid,” Hermione nói, tỏ ra buồn giận hết sức. “Tụi mình sẽ đi thăm bác ấy sau buổi tập Quidditch,” Harry cam kết với cô bé. Nó cũng đang nhớ bác Hagrid, mặc dù cũng giống như Ron, nó nghĩ rằng tụi nó sướng hơn nhiều nếu không có Grawp chen vô đời. “Nhưng việc thi tuyển có thể kéo dài hết buổi sáng, số người xin vô đội tuyển đông lắm.” Harry cảm thấy hơi lo lắng về việc đương đầu với cuộc thử thách đầu tiên của chức Đội trưởng. “Mình chẳng biết tại sao đội bỗng nhiên nổi tiếng như vậy.” “Ôi, thôi mà, Harry,” Hermione nói, đột ngột mất kiên nhẫn. “Không phải đội Quidditch nổi tiếng, mà chính là bồ! Bồ chưa bao giờ hấp dẫn hơn lúc này, và thành thật mà nói, cũng chưa bao giờ hợp thời trang hơn lúc này.” Ron thồn vào miệng một miếng cá tổ chảng. Hermione để dành cho nó một cái nhìn khinh bỉ trước khi quay trở lại với Harry. “Bây giờ mọi người đều biết bồ đã nói sự thật, đúng không? Cả cái thế giới Pháp thuậth đã phải thừa nhận là bồ nói đúng về vụ Voldermort trở lại và rằng bồ đã thực sự chiến đấu với hắn hai lần trong hai năm qua và đều thoát chết cả hai lần. Và giờ đây họ gọi bồ là “Kẻ được chọn”... Thôi, đừng giả nai nữa, chẳng lẽ bồ không hiểu tại sao người ta khoái bồ à?” Harry nhận thấy Đại sảnh đường sao mà bỗng nhiên nóng bức quá, cho dù trên trần trông vẫn có vẻ mưa và mát. “Và bồ đã trải qua tất cả sự ngược đãi của Bộ khi họ tìm cách biến bồ thành một kẻ dở hơi và nói láo. Bồ vẫn còn có thể thấy vết tích trên mu bàn tay bồ, chỗ mà cái mụ ác độc ấy đã bắt bồ phải viết lên bằng chính máu bồ, nhưng dù vậy bồ vẫn quyết trung thành với câu chuyện của bồ...” “Bồ vẫn còn có thể thấy chỗ mà những bộ óc đó túm lấy mình ở Bộ, nhìn nè,” Ron nói, lật lật ống tay áo nó lên. “Và nó cũng chẳng đau đớn gìnên bồ mới cao thêm ba tấc nội trong một mùa hè,” Hermione nói nốt, phớt lờ Ron. “Mình thuộc loại mình dây mà,” Ron nói tưng tửng. Bọn bưu cú đến, bay sà xuống qua những khung cửa sổ bị mưa tạt, rảy lên mọi người những giọt nước mưa tí ti. Hầu hết mọi người đều nhận được nhiều thư hơn mọi khi; các bậc phụ huynh lo lắng rõ ràng là muốn nghe tin về con cái ở trường và đổi lại muốn báo tin cho chúng biết ở nhà mọi việc vẫn tốt đẹp. Harry chẳng nhận được thư từ gìkể từ ngày khai trường; Người duy nhất thường viết thư cho nó giờ đây đã chết và mặc dù nó từng hy vọng thầy Lupin sẽ thỉnh thoảng viết thư cho nó, nhưng cho tới giờ thì nó hoàn toàn thất vọng. Vì vậy giờ đây nó hết sức ngạc nhiên khi thấy con Hedwig trắng như tuyết lượn vòng vòng trong đám cú xám và cú nâu. Hedwig đáp xuống trước mặt nó, mang theo một gói to vuông vức. Chỉ tích tắc sau, một gói y chang như vậy đáp xuống ngay trước mặt Ron, xiểng liểng bên dưới con cú tíhon đã kiệt sức của nó, con Pigwidgeon. “A!” Harry nói, vừa mở cái gói ra, để lộ một bản mới toanh của cuốn Chế tạo thuốc cao cấp vừa được nhà sách Flourish và Blotts gởi tới. “Thế là tốt,” Hermione vui hẳn lên. “Bây giờ bồ có thể trả lại cuốn sách ghi chú nhăng nhít kia.” “Bồ điên sao?” Harry nói. “Mình sẽ giữ lại nó! Này nhé, mình đã tính kỹ rồi...” Nó rút bản cũ xì của cuốn Chế tạo thuốc cao cấp ra khỏi túi xách và dùng cây đũa phép của nó gõ lên sách, đồng thời lầm rầm “Rời rớt ra!” Cái bìa rời ra ngay. Nó cũng làm y như vậy với cuốn sách mới toanh (Hermione trông như bị xúc phạm). Xong nó đổi hai cái bìa lại với nhau, rồi gõ đũa phép lên từng cuốn, nói “Sửa lại!” Thế là bản của Hoàng tử nằm đó, ngụy trang thành một cuốn sách mới bóc tem, còn bản của nhà sách Flourish và Blotts nằm kia, trông rõ là đồ xài qua rồi. “Mình sẽ trả lại Thầy Slughorn cuốn sách mới, thầy không thể phàn nàn, nó giá chín Galleon chứ bộ.” Hermione mím chặt môi lại, tỏ vẻ tức giận và không thể chấp nhận được, nhưng cô nàng đã bị con cú thứ ba đáp xuống ngay trước mặt thu hút sự chú ý. Con cú này mang đến tờ Nhật báo Tiên Tri ra ngày hôm đó. Cô nàng vội vàng mở báo ra và liếc qua trang nhất. “Có ai mình quen bị chết không?” Ron hổi bằng cái giọng tuyệt đối vô tư; Mỗi lần Hermione mở báo ra nó đều hỏi cùng một câu hỏi đó. “Không, nhưng có thêm nhiều vụ giám ngục tấn công,” Hermione nói. “Và một vụ bắt giữ.” “Xuất sắc, ai vậy?” Harry nói, nghĩngay đến mụ Bellatrix Lestrange. “Stan Shunpike,” Hermione nói. “Stan Shunpike, người soát vé trên phương tiện vận chuyển Pháp thuậth phổ biến, Xe buýt Hiệp sĩ– đã bị bắt vìtình nghi liên quan đến hoạt động Tử thần
  • 52. thực tử. Ông Shunpike, 21 tuổi, đã bị câu lưu vào khuya hôm qua sau một cuộc lục soát bất ngờ tại tư gia ông ta ở Clapham...” “Stan Shunpike mà là một Tử thần thực tử à?” Harry nói, vừa nhớ lại chàng trai trẻ mặt đầy tàn nhang mà nó đã gặp cách đây ba năm. “Không đời nào!” “Có thể anh ta bị ếm phải lời nguyền Độc đoán,” Ron nói ra vẻ biết điều. “Mình đâu có biết được.” “Coi bộ không phải vậy,” Hermione nói, cô nàng vẫn tiếp tục đọc báo. “Bài báo này nói Shunpike bị bắt khi anh ta bị nghe lỏm đang nói về những kế hoạch bí mật của bọn Tử thần thực tử trong một quán nhậu,” cô nàng ngẩng đầu lên với nét mặt băn khoăn. “Nếu bị ếm lời nguyền Độc đoán thì anh ta khó mà có thể đi loanh quanh tán dóc về kế hoạch của bọn chúng, đúng không?” “Nghe có vẻ như anh ta chỉ làm ra vẻ ta đây hiểu biết nhiều,” Ron nói. “Có phải anh ta là kẻ đã tuyên bố sẽ làm Thủ tướng Bộ Pháp thuật khi anh ta cố tan tỉnh mấy cô tiên nhíđó không?” “Ừ, chính anh ta,” Harry nói. “Mình không biết họ đang diễn trò gìmà lại nhắm vô Stan.” “Có lẽ họ đang muốn làm ra vẻ như thể họ đang làm gì đó,” Hermione nói, cau mày lại. “Người ta đang hoảng sợ mà... Mấy bồ có biết là cha me hai chị em sanh đôi Patil muốn đem con về nhà không? Và Eloise Midgen thìđã nghỉ học. Cha của nó đã đến đón nó về tối hôm qua.” “Cái gì!” Ron nói, trợn tròn mắt nhìn Hermione. “Nhưng trường Hogwarts mới gọi là an toàn hơn ở nhà họ, nhất định an toàn hơn! Chúng mình có Thần Sáng bảo vệ, rồi tất cả những bùa chú bảo vệ đặc biệt, và chúng mình còn có thầy Dumbledore nữa!” “Mình không nghĩ là tụi mình luôn luôn có thầy bên cạnh,” Hermione nói rất nhỏ, liếc nhìn qua đầu tờ Nhật báo Tiên Tri về hướng bàn ăn giáo viên. “Mấy bồ không để ý sao? Cả tuần nay chỗ ngồi của thầy thường xuyên để trống như ghế của bác Hagrid.” Harry và Ron nhìn lên dãy bàn của giáo ban. Chiếc ghế của thầy hiệu trưởng quả thật để trống. Bây giờ Harry mới sực nghĩ ra, nó đã không gặp lại thầy Dumbledore kể từ buổi học riêng cách đây một tuần lễ. “Mình nghĩthầy đã rời khỏi trường để đi làm gìđó cho Hội,” Hermione nói rất nhỏ. “Ýmình nói là... tình hình có vẻ nghiêm trọng, đúng không?” Harry và Ron không trả lời, nhưng Harry biết là cả ba đứa tụi nó đều đang suy nghĩgiống nhau. Đã xảy ra một sự cố khủng khiếp vào ngày hôm trước, khi người ta gọi HannahAbbott ra khỏi lớp Dược thảo để báo tin là mẹ của nó đã chết khi được phát hiện ra. Từ bữa đó tụi nó đã không nhìn thấy Hannah nữa. Khi rời khỏi bàn nhà Gryffindor khoảng năm phút sau để đi ra sân đấu Quidditch, tụi nó đi ngang qua Lavender Brown và Parvarti Patil. Nhớ lại điều Hermione vừa nói về chuyện cha mẹ hai chị em sinh đôi Patil muốn các con rời khỏi trường Hogwarts, Harry không ngạc nhiên khi nhìn hai cô bạn chí thân đang thủ thỉ với nhau, có vẻ buồn rầu lắm. Cái khiến nó ngạc nhiên là khi Ron đi ngang tầm hai cô nàng, Parvati bỗng nhiên huých cùi chỏ Lavender một cái, cô nàng này quay đầu lại và nở một nụ cười toe toét với Ron. Ron chớp chớp mắt với cô nàng, rồi đáp lại bằng một nụ cười ngượng ngập. Bước chân của cậu chàng bỗng nhiên trở nên khệnh khạng. Harry rnagiáo sư nhịn cười, khi chợt nhớ lại là Ron cũng đã từng nín cười khi nghe chuyện Malfoy đạp bể mũi Harry; Tuy nhiên, Hermione tỏ vẻ lạnh lùng và đi tách xa tụi nó suốt con đường đến sân vận động qua màn mưa phùn lạnh lẽo mịt mờ, rồi bỏ đi tìm một chỗ trên khán đài mà không thèm chúc Ron may mắn. Như Harry đã dự đoán, buổi tập thử để chọn đội tuyển đã kéo dài gần hết buổi sáng. Dường như một nửa học sinh của nhà Gryffindor có mặt, từ những học sinh năm thứ nhất lo âu nắm chặt một mớ những cây chổi bay cũ dễ sợ của trường, đến đám đàn anh năm thứ bảy, có một anh chàng đô con, mái tóc thô xoắn như dây kẽm gai mà Harry nhận ra ngay từ trên tàu lửa Tốc hành Hogwarts. “Tụi mình đã gặp nhau trên tàu, trong toa của lão Sluggy,” anh chàng nói một cách tự tin, trong lúc bước ra khỏi đám đông để bắt tay Harry. “Mình là Cormac McLaggen, Thủ môn.” “Năm ngoái anh không dự cuộc tuyển chọn thì phải?” Harry hỏi, lưu ý đến bề ngang của McLaggen và nghĩ anh chàng này có thể phòng chắn đến ba cọc gôn mà không cần phải di chuyển. “Mình nằm bệnh thất trong lúc có cuộc thi chọn,” McLaggen nói, với vẻ hơi nổ. “Ăn hết nửa ký trứng Cà nhỏng trong một vụ cá cược.” “Hay,” Harry nói. “Thôi... anh đợi ở đây nhé...“ Nó chỉ về phía rìa của sân đấu, gần chỗ Hermione đang ngồi. Nó nghĩ nó vừa nháng thấy một thoáng bực mình lướt qua gương mặt McLaggen và nó tự hỏi liệu McLaggen có đang trông chờ được đối xử ưu tiên bởi vì cả hai đứa nó đều là học trò cưng của “lão Sluggy” không. Harry quyết định bắt đầu bằng bài kiểm tra cơ bản, yêu cầu tất cả ứng viên vào đội tuyển chia thành những nhóm mười người bay quanh sân đấu một vòng. Đây là một quyết định hay: nhóm 10 người đầu tiên gồm những học sinh năm thứ nhất, và không còn gì rõ ràng hơn cái việc là chúng chưa từng bay bao giờ. Chỉ có mỗi một thằng nhóc là xoay sở trụ lại được trên cán chổi lâu hơn vài giây, và thằng bé ngạc nhiên đến nỗi đâm ngay vào một trong mấy cái cọc gôn. Nhóm thứ hai gồm mười cô gái ngốc nghếch mà Harry chưa từng gặp bao giờ, mấy cô bé này chỉ đổ ra cười khúc khích và níu chặt lấy nhau kho Harry thổi còi. Trong số này có Romilda Vane. Khi Harry bảo các cô rời khỏi sân đấu, các cô đi ra với vẻ không phấn khởi lắm, rồi ra chỗ ngồi trên khán đài để vặn hỏi ý kiến của người khác. Nhóm thứ ba thì mới bay được nửa vòng đã té dồn cục. Nhóm thứ tư thì hầu hết ra sân mà không có chổi bay. Nhóm thứ năm hóa ra lại là học sinh bên nhà Hufflepuff. “Nếu ở đây có ai không phải học sinh nhà Gryffindor,” Harry gào lên, nó bắt đầu bực mình thực sự, “thìlàm ơn rời khỏi sân đấu giùm!” Tạm ngưng một lát, rồi hai thằng nhóc nhà Ravenclaw vừa chạy như điên ra khỏi sân đấu vừa rú lên cười. Sau hai tiếng đồng hồ, nhiều lời kêu ca, và nhiều cơn thịnh nộ, một vụ tai nạn chổi bay hiệu Sao chổi Hai sáu chục và nhiều cái răng mẻ, Harry kiếm được cho mình ba Truy thủ là Katie Bell, người trở lại đội tuyển sau một cuộc tập thử xuất sắc; một khám phá mới là Demelza Robin, người đặc biệt giỏi luồn lách tránh mấy trái Bludger; và Ginny Weasley, người đã bay trội hơn tất cả những đối thủ khác và ghi cho mình mười bảy điểm vô gôn. Tuy hài lòng với sự tuyển chọn của mình, Harry vẫn phải tự mình gào thét với nhiều kẻ phàn nàn đến khản cả giọng và bây giờ đang không khổ chịu đựng một trận chiến với những ứng viên Tấn thủ bị loại. “Đó là quyết định cuối cùng của tôi và nếu bạn không chịu tránh ra cho các ứng viên Thủ môn thìtôi sẽ ếm xìbùa cho mà coi,” nó rống lên. Không người nào trong hai Tấn thủ mà nó chọn có được sự xuất sắc của cựu Tấn thủ Fred và George, nhưng nó vẫn tưong đối hài lòng với hai đứa sau: Jimmy Peakes, một thằng lùn năm thứ ba có bộ ngực rộng, thằng này xoay sở sao đó mà làm nổi lên hawnrm một cục u bự bằng cái trứng ngay sau chẩm đầu của Harry bằng một cú đấm Bludger tàn bạo; và Ritchie Coote, người trông yếu ớt như cỏ, nhưng nhắm rất ư trúng đích. Hai đứa mới tuyển này giờ đây nhập vô bọn Katie, Demelza và Ginny trên khán đài để xem cuộc tuyển chọn thành viên cuối cùng của đội. Harry đã thận trọng chừa cuộc tuyển chọn thủ môn đến lúc cuối cùng, hy vọng lúc đó sân vận động đã vơi bớt người đi và những người có liên quan trong cuộc tuyển chọn cũng đã bớt phần nào áp lực. Nhưng thiệt không may, nguyên đám ứng cử viên bị loại và một số người nữa đã kéo xuống sau bữa điểm tâm kéo dài, giờ đây tất cả nhập vô đám đông, khiến cho lượng khán giả càng đông hơn bao giờ hết. Khi mỗi thủ môn bay lên cột gôn, đám đông rống lên, kẻ hoan hô, kẻ đả đảo, cùng điếc tai như nhau. Harry liếc về phía Ron. Ron luôn luôn có vấn đề căng thẳng thần kinh; Harry đã hy vọng là nhờ thắng được trận chung kết hồi năm ngoái mà Ron khỏi được chứng lo hoảng đó, nhưng dường như chẳng ăn thua gì: Ron đang chuyển sang màu xanh tái mét mong manh. Không ai trong số năm ứng viên đầu tiên cứu được cột gôn quá hai phen. Đáp lại sự thất vọng ghê gớm của Harry, Cormac McLaggen đã cứu được bốn trong năm trái phạt đền. Tuy nhiên, trái cuối cùng, anh ta vọt về hướng hoàn toàn ngược lại; đám đông phá ra cười nhạo báng và McLaggen trở lại mặt đất đứng nghiến răng. Ron có vẻ như sắp ngất khi trèo lên cây chổi bay Quét sạch Mười một. “May mắn nhé!” Một tiếng kêu vang lên từ khán đài. Harry ngoái nhìn lại, tưởng sẽ thấy Hermione, nhưng hóa ra là Lavender Brown. Harry thiệt tình muốn giấy mặt vô hai bàn tay, như cô nàng sẽ làm thế một lát sau, tuy nhiên vì nghĩ mình là đội trưởng, mình nên tỏ ra dày dạn hơn, thế là nó quay lại xem Ron tập tử.
  • 53. Nhưng nó chẳng cần lo lắng: Ron cứu được một hơi một, hai, ba, bốn, năm trái phạt đền. Sướng quá, và khó khăn lắm mới không hùa theo đám đông hoan hô rần rần, Harry quay lại nói với McLaggen rằng, thiệt là không may, Ron đã đánh bại anh ta, nhưng nó nhận thấy ngay gương mặt McLaggen lúc ấy đỏ au và chỉ cách mặt nó có vài phân. Nó vội vã lùi lại. “Em gái nó đã không chơi hết sức,” McLaggen hằm hè nói. Một mạch máu nổi cộm trên thái dương của anh chàng phập phồng y như mạch máu trên vầng trán của dượng Vernon mà Harry thường được chiêm ngưỡng. “Con nhỏ để cho anh nó phá bóng dễ ợt.” “Tầm bậy,” Harry lạnh lùng nói. “Đó là trái mà Ron sém nữa bắt hụt.” McLaggen dấn một bước tiến gần Harry hơn, lần này Harry đứng yên tại chỗ. “Cho tôi thử một lần nữa.” “Không,” Harry nói. “Anh đã thử rồi.Anh đã cứu được bốn trái. Ron cứu được năm. Ron là thủ môn, nó thắng một cách công bằng và rõ ràng. Tránh ra.” Nó thoáng nghĩ McLaggen có thể thụi nó lắm, nhưng anh chàng chỉ làm mình nguôi giận bằng cái nhăn mặt cực kỳ xấu xí rồi hầm hầm bỏ đi, gầm gừ điều gìđó nghe như hăm dọa trời xanh. Harry quay lại thấy đội tuyển mới của nó đang nhìn nó tươi cười. “Giỏi lắm,” nó khào khào nói. “Các bạn bay hay lắm…” “Bồ chơi thiệt xuất sắc, Ron à!” Lần này thì đúng là Hermione đang từ khán đài chạy về phía tụi nó; Harry nhìn thấy Lavender đi ra khỏi sân đấu, taqy nắm tay Parvati, trên mặt có một vẻ hơi quạu. Ron trông có vẻ cực kỳ hài lòng với chính mình và thậm chícòn có vẻ cao hơn bình thường khi nó nhe răng cười với cả đội và với Hermione. Sau khi định giờ cho buổi tập dượt toàn đội lần thứ nhất vào thứ năm tới, Harry, Ron và Hermione tạm biệt những người khác trong đội và đi về phía căn chòi của bác Hagrid. Một mặt trời ướt lem nhem đang cố gắng ngoi ra khỏi những đám mây và cuối cùng trời cũng đã tạnh mưa phùn. Harry cảm thấy đói cực kỳ; nó hy vọng ở nhà bác Hagrid có cái gìđó để ăn. “Mình cứ tưởng sắp để vuột trái phạt đền thứ tư chứ,” Ron đang vui vẻ nói. “Một cú sút quỹ quyệt của Demelza, mấy bồ có nhận thấy không, nó hơi xoáy một chút…” “Có, có chứ, bồ đã chơi tuyệt cú mèo,” Hermione nói, có vẻ khoái. “Đằng nào thìmình cũng giỏi hơn McLaggen,” Ron nói bằng một giọng vô cũng thảo mãn. “Mấy bồ có tháy anh ta nhào ra hướng tầm bậy khi chụp trái thứ năm không? Trông như thể anh ta bị Khiến…” Harry ngạc nhiên khi thấy Hermione ửng đỏ cả mặt khi nghe những lời này. Ron chẳng để ý gì cả; nó quá bận miêu tả với từng chi tiết trìu mến về những trái phạt đền khác của nó. Con bằng mã Buckbeak bị cột phía trước căn chòi của bác Hagrid. Nó mổ mổ cái mỏ sắc như dao lam kh thấy bọn Harry. Nó mổ mổ cái mỏ sắc như dao lam khi thấy bọn Harry đến gần và nó xoay cái đầu khổng lồ về phía tụi nhỏ. “Ô, ghê quá,” Hermione lo sợ nói. “Nó cũng hơi dễ sợ, đúng không?” “Dỗ nó đi, bồ đã từng cỡi nó mà, phải không?” Ron nói. Harry bước tới trước và cúi thấp chào con bằng mã, mắt nó nhìn mắt con vật chăm chăm không hề chớp. Sau vài giây, Buckbeak cũng khuỵu chân xuống chào đáp lại. “Mày khỏe không?” Harry hỏi bằng giọng nhỏ nhẹ, vừa di chuyển tới trước để vuốt ve cái đầu phủ lông vũ của con bằng mã. “Nhớ chú ấy hả? Nhưng mày ở đây với bác Hagrid cũng ổn hả?” “Ôi!” một giọng nói to vang lên. Bác Hagrid đang rảo bước đi nhanh quanh góc căn chòi của bác, đeo một cái tạp dề bông to tổ chảng và xách một bịch khoai tây. Con chó săn vĩ đại của bác, con Fang, quấn quít bên chân bác; Con Fang phát sủa inh lên và phóng vọt tới trước. “Tránh xa con chó! Nếu không nó táp mất ngón tay ràng chịu... Ủa. Thìra tụi bay.” Fang đang nhảy chồm chồm lên Hermione và Ron, tìm cách liếm vành tai tụi nó. Bác Hagrid đứng lại nhìn tụi nó chừng một phần giây, rồi quay lưng và sải chân bước nhanh vô trong căn chòi, đóng sầm cánh cửa lại sau lưng. “Ôi thôi!” Hermione nói, có vẻ xúc động mạnh. “Đừng lo chuyện đó,” Harry nói giọng quả quyết. Nó đi tới cánh cửa và gõ thiệt mạnh. “Bác Hagrid! Mở cửa ra, tụi con muốn nói chuyện với bác!” Chẳng nghe động tĩnh gìbên trong. “Nếu bác không mở cửa ra, tụi con sẽ tông sập cửa!” Harry nói, vừa rút cây đũa phép ra. “Harry!” Hermione nói, nghe hơi hoảng. “Bồ không thể…” “Có chứ, mình dư sức!” Harry nói. “Đứng lùi lại...” Nhưng trước khi nó nói thêm được điều gì thì cánh cửa đã lại mở tung ra như Harry thừa biết là nó nhất định sẽ phải mở, và bác Hagrid đứng đó, bất chấp đang đeo tạp dề bông, trừng mắt ngó xuống nó, đầy vẻ đe dọa. “Ta là một giáo viên!” Bác gầm lên với Harry. “Một giáo viên, Potter à! Sao cậu dám đe dọa phá sập cửa nhà ta hả !” “Dạ xin lỗi, thưa ngài,” Harry nói, nhấn mạnh vào mấy chữ cuối trong khi nhét cây đũa phép vô trong tấm áo chùng. Bác Hagrid có vẻ choáng váng. “Từ lúc nào trò bày đặt gọi ta là ‘ngài’ hả ?” “Từ lúc nào thày bày đặt gọi con là ‘Potter’ hả ?” “Ôi, thôi, lanh quá trời,” bác Hagrid càu nhàu. “Rất là vui. Vậy là con lanh hơn bác hả ? Được thôi, vô đây vậy, đồ nhóc con bội nghĩa…“ Lầu bầu gìđó nghe không rõ, bác đứng qua một bên để cho tụi nó bước vào. Hermione vội rón rén bước theo sau Harry, có vẻ hơi sợ. “Sao?” Bác Hagrid gắt gỏng hỏi, khi Harry, Ron và Hermione ngồi xuống quanh cái bàn gỗ vĩ đại, con Fang lập tức nằm gác đầu lên gối Harry và nhễu dãi tèm lem tấm áo chùng của nó. “Chuyện gìđây ? Thương hại bác hả ? Cho rằng bác cô đơn hay gìgìhả ?” “Đâu có,” Harry nói ngay. “Tụi con muốn gặp bác.” “Tụi con nhớ bác !” Hermione run run nói. “Nhớ bác hả?” Bác Hagrid khụt khịt mũi. “Ờ, được.” Bác bước uỳnh uỵch khắp căn chòi, pha trà trong cái ấm đồng vĩ đại, lẩm nhẩm luôn miệng. Cuối cũng bác dằn xuống bàn trước mặt tụi nó ba cái tách bự bằng cái xô chứa một thứ nước trà màu nâu gụ và một cái dĩa bánh cứng như đá. Harry đói đến nỗi thèm ăn ngay cả món bánh bác Hagrid làm, nên nó lấy ngay một cái. “Bác Hagrid à,” Hermione rụt rè nói, sau khi bác Hagrid cùng ngồi xuống bàn với tụi nó và bắt đầu gọt vỏ khoai tây với một vẻ thô bạo khiến tụi nó có cảm tưởng là mỗi củ khoai tây đã làm điều gìđó rất ư tầm bậy đối với bác. “Bác biết cho, tụi con thiệt tình muốn học tiếp môn Chăm sóc sinh vật huyền bí.” Bác Hagrid khịt mũi một cái nữa rõ to. Harry có phần tin là mấy con ma xó đã nhập vô mấy củ khoai tây, và thâm tâm nó mừng là tụi nó không bị ở lại ăn tối… “Thiệt mà !” Hermione nói. “Nhưng tụi con chẳng đứa nào sắp xếp được thời khóa biểu!” “Ừ. Được thôi,” bác Hagrid lại nói. Có một tiếng gì lép nhép rất buồn cười khiến tụi nó quay đầu lại nhìn: Hermione ré lên một tiếng nho nhỏ, và Ron nhảy vọt ra khỏi chỗ ngồi và lật đật đi vòng qua cái bàn tránh xa cái thùng gỗ khổng lồ đặt nơi góc chòi mà bây giờ tụi nó mới để ý tới. Cái thùng đó đầy nhóc một thứ gì giống như những con gioig dài ba tấc, nhớt nhợt, trắng bệch, và loi ngoi quằn quại. “Cái gìvậy, bác Hagrid?” Harry hỏi, cố gắng làm ra vẻ hứng thú hơn là ghê tởm, nhưng đồng thời lại bỏ cái bánh đá của nó xuống.
  • 54. “Chỉ là mấy con gioig khổng lồ,” bác Hagrid nói. “Mấy con đó lớn lên thành…?” Ron hỏi, coi bộ còn sờ sợ. “Chúng không lớn lên thành cái gìhết,” bác Hagrid nói. “Bác sắp đem nó nuôi Aragog.” À hết sức bất ngờ bác òa ra khóc. “Bác Hagrid!” Hermione kêu lên, đứng phắt dậy, vội vã chạy một vòng dài quanh cái bàn để tránh cái thùng giòi, đến bên bác Hagrid, vòng tay qua đôi vai đang run run của bác. “Có chuyện gìvậy bác?” “Chuyện… nó…” Bác Hagrid nức nở, đôi mắt đen nâu của bác ràn rụa nước mắt trong khi bác lau mặt bằng cái tạp dề bông. “Chẳng là… Aragog… bác nghĩnó đang hấp hối… Nó đã bệnh suốt màu hè rồi nó khá lên… bác không biết bác sẽ làm gìnếu nó… bác và nó đã bầu bạn với nó biết bao lâu…” Hermione vỗ nhẹ vai bác Hagrid, có vẻ như hoàn toàn mất hết lời lẽ để nói. Harry biết cảm giác của cô bé, Nó đã từng biết bác Hagrid đưa gấu nhồi bông cho một con rồng nhí hung hăng chơi, từng thấy ác ngâm nga hát cho những con bọ cạp khổng lồ có vòi độc và càng bén, từng cố gắng dỗ dành người em khác cha khổng lồ cục súc, nhưng đây có lẽ là điều khó hiểu nhất trong những nỗi đam mê quái vật của bác: con nhện khổng lồ biết nói, Aragog, con vật sống sâu tuốt trong Rừng Cấm, con vật mà Ron và Harry đã thoát được trong đường tơ kẽ tóc hồi bốn năm trước. “Có… có chuyện gìtụi con có thể giúp được không?” Hermione nói, phớt lờ những cái nhăn mặt và lắc đầu như điên của Ron. “Bác nghĩ là không, Hermione à,” bác Hagrid thổn thức, cố gắng ngăn dòng nước mắt tuôn như lũ của bác. “Nghĩ coi, bầy còn lại… gia đình của Aragog… bây giờ nó bệnh, tụi nó giở chứng… hơi cứng đầu…” “Dạ, con nghĩtụi con có biết chút chút mặt đó của tụi nó rồi,” Ron nói nhỏ. “…Bác nghĩ ngoài bác ra không ai an toàn đến được gần bầy đó lúc này,” bác Hagrid nói nốt, hỉ mũi thiệt mạnh vô cái tạp dề rồi ngước nhìn lên. “Nhưng cũng cám ơn con đã có lòng, Hermione à… Điều đó an ủi dữ lắm…” Sau đó, không khí nhẹ đi đáng kể, bởi vì mặc dù cả Harry và Ron đều không tỏ vẻ sốt sắng đem lũ giòi khổng lồ đi nuôi một con nhện khổng lồ khát máu, bác Hagrid dường như vẫn coi là tụi nó có thiện chílàm chuyện đó, và bác trở lại là con người bình thường của chính bác. “À, bác vẫn biết là tụi bay khó mà nhét bác vô đâu trong cái thời khóa biểu của tụi bay,” bác nói mộc mạc, vừa rót thêm trà cho tụi nó. “Ngay cả nếu như tụi bay có xin xài phép Đổi giờ đi nữa…” “Tụi con không thể làm vậy được nữa,” Hermione nói. “Tụi con đã làm tan nát hết toàn bộ kho dự trữ phép Đổi giờ của Bộ Pháp thuật lúc tụi con ở đó hồi mùa hè. Chuyện đó có đăng trên Nhật báo Tiên Tri.” “Ờ, vậy thì,” bác Hagrid nói, “tụi bay chẳng còn cách nào… Bác thiệt là tiếc bác đã… tụi bay biết… bác đã lo lắng quá về Aragog… và bác cứ thắc mắc không biết giáo sư Grubbly-Plank có dạy qua…” Về chuyện này cả ba đứa tụi nó tuyên bố dứt khoát và láo toét rằng giáo sư Grubbly-Plank, người đã dạy thay bác Hagrid mấy buổi, là một giáo viên khủng khiếp, kết quả là vào lúc bác Hagrid vẫy tay tiễn tụi nó ra khỏi căn chòi vào lúc hoàng hôn, bác đã tỏ ra rất hồ hởi phấn khởi. “Mình đang đói chết đi được,” Harry nói, khi cánh cửa đã đóng sau lưng và tụi nó vội vã chạy băng qua sân trường tối om và hoang vắng; nó đã đầu hàng cái bánh đá sau khi nghe một tiếng rắc xui xẻo vang lên từ một trong những cái răng hàm của nó. “Và tối nay mình còn phải cấm túc với Thầy Snape nữa, mình chẳng có thìgiờ đâu để ăn tối…” Khi về đến tòa lâu đài, tụi nó bắt gặp Cormac McLaggen đi vào Đại sảnh đường. Anh chàng cố gắng hai lần mới qua được cửa; lần thứ nhất anh ta bị đẩy bật ra ngoài. Ron cứ ngoác miệng ra cười hả hê và rảo bước đi theo sau anh ta vào sảnh đường, nhưng Harry nắm cánh tay Hermione và giữ cô bé lại. “Chuyện gì?” Hermione hỏi giọng thủ thế. “Nếu bồ hỏi mình,” Harry nói nhỏ, “McLaggen trông có vẻ như bị Khiến hồi sáng này. Và lúc đó anh ta đứng ngay phía trước chỗ bồ ngồi.” Hermione đỏ mặt. “Ừ, thì thôi vậy. Mình đã làm chuyện đó,” cô bé thì thầm, “nhưng lẽ ra bồ nên nghe cái cách anh ta nói về Ron và Ginny! Với lại, anh ta có tánh khí cà chớn, bồ thấy anh ta phản ứng như thế nào khi không được tuyển rồi đó… Bồ đâu có muốn có một người như vậy trong đội tuyển của bồ đâu.” “Không,” Harry nói. “Không, mình cho đúng là thế thật. Nhưng như vậy là không trung thực, phải không, Hermione?” “Thôi, im đi,” Hermione nạt ngang khi thấy Harry cười điệu. “Hai bồ đang làm gìvậy?” Ron hỏi, xuất hiện trở lại nơi khung cửa vào Đại sảnh đường, trông có vẻ nghi ngờ. “Không có gìhết,” Harry và Hermione cùng nói, và hai đứa vội vã đi theo Ron. Mùi thịt bò nướng làm bao tử Harry quặn đau vì đói, nhưng tụi nó còn chưa kịp bước chân tới cái bàn ăn của nhà Gryffindor thì giáo sư Slughorn đã hiện ra trước mặt, chắn ngang đường đi. “Harry, Harry, đúng chóc người mà thầy đang hy vọng gặp!” Thầy thân mật nói oang oang, vừa vuốt vuốt hai chót ria hải mã và ểnh ểnh cái bụng bự tổ chảng. “Thầy đã hy vọng gặp được con trước bữa ăn chiều! Con thấy sao nếu thay vì ăn bữa ciều này, con qua phòng thầy ăn tối. Thầy mở một bữa tiệc nho nhỏ, chỉ có vài ngôi sao đang lên. McLaggen sẽ đến và Zabini, cô Melinda Bobbin quyến rũ – thầy không biết con có biết cô ta không? Gia đình cô bé làm chủ hàng loạt các tiệm bào chế thuốc... và, dĩnhiên, thầy rất hy vọng cô Granger sẽ dành cho thầy cái hân hạnh được đón tiếp.” Thầy Slughorn khẽ nghiêng mình chào Hermione khi kết thúc câu nói. Làm như thể Ron chẳng hề có mặt ở đó; Thầy Slughorn chẳng buồn ngó tới nó. “Thưa thầy, con không thể đến được.” Harry nói ngay. “Con bị cấm túc với Thầy Snape.” “Ối con ơi!” Thầy Slughorn nói, mặt thầy xịu xuống một cách khôi hài. “Con ơi con, thầy trông mong vào con lắm lắm, Harry à! Được rồi, thê này, thầy sẽ chỉ phải nói một lời với Thầy Snape và giải thích tình huống. Thầy tin là thầy sẽ có thể thuyết phục thầy ấy hoãn lại cái vụ cấm túc cho con. Ừ, thầy sẽ gặp lại hai con sau nhé!” Nói rồi thầy lăng xăng đi ra khỏi Đại sảnh đường. “Thầy ấy đừng có hòng mà thuyết phục được Thầy Snape,” Harry nói, ngay khi Thầy Slughorn đã đi đủ xa để không còn nghe được điều nó nói. “Vụ cấm túc này đã được hoãn một lần; Thầy Snape chịu hoãn vìthầy Dumbledore, nhưng thầy ấy sẽ chẳng đời nào làm điều đó vìbất cứ ai khác.” “Ôi, mình ước gìbồ có thể đi dự tiệc, mình không muốn đi một mình!” Hermione nói một cách lo lắng; Harry biết là cô nàng đang nghĩđến McLaggen. “Mình chắc là bồ sẽ không lẻ loi đâu. Ginny có lẽ cũng được mời,” Ron ngắt ngang, nó dường như không lấy làm hân hạnh được Thầy Slughorn lờ tịt đi. Sau bữa ăn tối tụi nó trở về tháp Gryffindor. Căn phòng sinh hoạt chung đông đúc, bởi vìgiờ này hầu hết mọi người đều đã ăn tối xong, nhưng tụi nó cũng kiếm được một cái bàn trống và ngồi xuống; Ron, mặt ủ mày ê từ lúc gặp Thầy Slughorn đến giờ, ngồi khoanh tay ngước mặt nhìn lên trần nhà. Hermione với lấy tờ báo Tiên tri Buổi chiều ai đó bỏ lại trên một cái ghế. “Có gìmới không?” Harry hỏi. “Thực ra không...” Hermione dã mở tờ báo ra và liếc vào trang trong. “Ôi, xem này, ba của bồ trên báo nè, Ron... Bác không sao cả...” cô bé nhanh nhẩu nói thêm, bởi vì Ron dáo dác nhìn quanh cảnh giác. “Báo chỉ nói là bác ấy vừa đến thăm nhà Malfoy. ’Cuộc lục soá nơi cư trú của Tử thần thực tử lần thứ hai này dường như không đưa tới kết quả nào. Ông Arthur Weasley của SỞ Dò tìm và Tịch thu Bùa chú phòng vệ giả mạo nói là đội của ông hành động dựa trên một chỉ điểm đáng tin cậy.” “Ừ, cảnh báo của mình đó!” Harry nói. “Mình đã nói với bác ấy ở Nhà ga Ngã tư vua về vụ Malfoy và cái món đồ mà nó cố gắng ép ông Borgin sửa chữa! Chà, nếu cái đó không có ở nhà nó, thìắt là nó đã đem theo cái đó vô trường Hogwarts...” “Nhưng làm sao mà nó làm được chứ, Harry?” Hermione nói, vừa đặt tờ báo xuống với vẻ ngạc nhiên. “Tất cả chúng ta đều bị lục soát khi đến trường, đúng không?” “Mấy bồ bị lục soát hả?” Harry hỏi, giật mình sửng sốt. “Mình đâu có bị!” “Ừ không, dĩ nhiên là bồ không bị, mình quên là bồ đến trễ... Thì vậy đó, thầy Filch rà khắp tất cả tụi này bằng phép Dò tìm bí mật khi tụi này vừa bước
  • 55. chân vào tiền sảnh. Bất cứ vật thể Hắc ám nào cũng sẽ bị tìm thấy, bằng chứng là Crabbe có một cái đầu lâu teo tóp bị tịch thu. Thành ra bồ thấy đó, Malfoy không thể nào đem vào trường cái gìnguy hiểm!” Lúng túng mấtmột lúc, Harry ngắm Ginny đùa chơi với con Bông Thoa Arnold một hồi trước khi tìm được lối thoát khỏi thế bí. “Vậy thìai đó đã gửi cho nó bằng bưu cú,” Harry nói. “Má nó hay ai đó.” “Tất cả bưu cú cũng bị kiểm tra,” Hermione nói. “Thầy Filch đã nói với tụi mình như thế khi thầy rà cái phép Dò tìm bí mật bất cứ nơi nào thầy có thể rà được.” Thực sự cứng họng phen này, Harry không kiếm ra được lời nào để nói. Dường như chẳng có cách nào mà Malfoy có thể đem một vật thể Hắc ám nguy hiểm vô trường được. Nó nhìn sang Ron với chút hy vọng, anh chàng này vẫn đang ngồi khoanh tay, chăm chú nhìn sang Lavender Brown. “Bồ có thể nghĩxem Malfoy có cách nào...?” “Ôi, dẹp đi, Harry,” Ron nói. “Nghe đây, đâu phải lỗi mình đâu nếu Thầy Slughorn mời Hermione và mình tới bữa tiệc nhảm nhícủa ổng, tụi này đâu có muốn đi, bồ biết mà!” Harry nói, cơn sùng bố nổ ra. “Ừ, bởi vìtôi chẳng được mời tới bữa tiệc nào hết,” Ron nói, lại đứng dậy, “Rôi nghĩtôi sẽ đi ngủ.” Nó đùng đùng đi về phía cửa vào phòng ngủ nam, bỏ mặc Harry và Hermione trố mắt nhìn theo. “Harry ơi!” Truy thủ mới Demelza Robin bỗng nhiên xuất hiện bên vai nó. “Mình đem cho bồ một lời nhắn nè.” “Của giáo sư Slughorn hả?” Harry hỏi, ngồi thẳng dậy tràn trề hy vọng. “Không... của giáo sư Snape,” Demelza nói. Trái tim Harry tụt xuống. “Thầy nói là bồ phải đến văn phòng thầy vào lúc tám giờ rưỡi tối nay để cấm túc... ơ... bất kể bồ nhận được bao nhiêu lời mời mọc tiệc tùng. Và thầy muốn bồ biết là bồ sẽ phải lựa mấy con Nhu trùng thúi ra khỏi đám trung lành, để dùng trong môn Độc dược và... thầy nói khỏi cần đem theo găng tay bảo hộ.” “Được,” Harry nói gọn. “Cảm ơn nhiều nhé, Demelza.” Chương 12 Bạc và Ngọc Cụ Dumbledore đang ở đâu và cụ đang làm gì? Harry chỉ thoáng thấy thầy hiệu trưởng có vài lần trong mấy tuần lễ sau đó. Cụ hiếm khi xuất hiện trong những bữa ăn, và Harry chắc chắn Hermione đúng khi cho rằng cụ đã rời khỏi trường nhiều lần liên tiếp và mỗi lần kéo dài trong nhiều ngày. Có phải cụ Dumbledore đã quên những buổi học mà cụ dự định dạy riêng Harry? Cụ Dumbledore đã nói rằng những buổi học ấy sẽ đưa tới điều gì đó liên quan tới lời tiên tri; Harry khi ấy đã cảm thấy được bảo bọc, được an ủi... và giờ đây nó cảm thấy hơi bị bỏ rơi. Khoảng giữa tháng mười là thời điểm chuyến du ngoạn đầu tiên đến làng Hogsmeade của học sinh Hogwarts trong niên học. Harry đã băn khoăn liệu những chuyến đi này có còn được phép không, trong bối cảnh những biện pháp an ninh quanh trường ngày càng thêm chặt chẽ, nhưng nó vui mừng thấy là tụi nó cứ việc đi; được ra khỏi tòa lâu đài vài tiếng đồng hồ luôn luôn là điều hay. Harry thức sớm vào buổi sáng ngày đi du ngoạn, một buổi sáng xem ra bão bùng mưa gió, và giết thời giờ trong khi chờ đến bữa điểm tâm bằng cách đọc cuốn Bào chế thuốc cao cấp. Nó ít khi nào nằm nướng trên giường đọc sách giáo khoa; một loại hành vi mà như Ron phát biểu rất ư đúng, là không đứng đắn đối với tất cả mọi người, ngoại trừ Hermione, cô nàng này đơn giản là khác người ở chỗ đó. Tuy nhiên Harry cảm thấy rằng cuốn Bào chế thuốc cao cấp của Hoàng Tử lai khó có thể coi là một cuốn sách giáo khoa. Harry càng nghiền ngẫm cuốn sách, càng nhận ra có nhiều điều trong đó không chỉ là những gợi ý rất tiện lợi và những mánh pha chế thuốc nhan khiến nó có được uy tín sáng chói trong mắt Thầy Slughorn; mà còn có những bùa ngải hay thần chú nho nhỏ có vẻ hoang đường được ghi bên lề sách mà Harry chắc rằng chính Hoàng tử tự phát minh ra, căn cứ vào nét gạch xóa và sửa chữa. Harry đã thử vài bùa chú tự chế của Hoàng tử. Có một cái bùa khiến cho móng chân mọc nhanh phát sợ (nó đã thử ếm Crabà Béoe trong hành lang, được kết quả thú vị); một phép tà ma làm dính lưỡi vô vòm họng (nó đã xài tới hai lần trên thầyArgus Filch lúc thầy không để ý), và được quần chúng tán thưởng; và, có lẽ thần chú đắc dụng hơn hết thảy là Bịt tai – một thần chú làm ù tai bất cứ ai ở gần bằng một âm thanh vo vo không thể nhận biết được, để cho tụi nó có thể nói chuyện lâu trong lớp mà không bị nghe lỏm. Người duy nhất không thấy những bùa chú này thú vị là Hermione, từ đầu đến cuối cô nàng giữ vững vẻ mặt kiên quyết không tán thành và không chịu nói chuyện nếu Harry xài tới thần chú Bịt tai lên bất cứ ai xung quanh. Ngồi dậy trên giường, Harry lật cuốn sách nghiêng sang một bên để nghiên cứu kỹ hơn những ghi chú, hướng dẫn về một thần chú có vẻ đã gây rắc rồi cho Hoàng Tử. Có nhiều dấu gạch xóa và sửa chữa, nhưng cuối cùng, bị dồn nhét vô góc trang, là mấy chữ ghi ẩu: Khinh thân (kptl) Trong khi gió và mưa đá không ngừng quật rầm rầm lên cửa sổ, và Neville ngáy như sấm, Harry đăm đăm nhìn mấy mẫu tự trong ngoặc đơn. Kptl... ắt là viết tắt của chữ ’không phát thành lời’. Harry không chắc nó có thể thực hiện được thần chú đặc biệt này không; nó vẫn còn gặp khốn đốn với thần chú không lời, một điều mà Thầy Snape cứ hở ra là chỉ trích trong mỗi buổi học Phòng chống nghệ thuật hắc ám. Nhưng mặt khác, cho đến giờ Hoàng Tử lai đã chứng tỏ là một thầy giáo có hiệu quả hơn Thầy Snape rất nhiều. Không nhắm cây đũa phép của nó vô cái gìcụ thể, mà chỉ phất nhẹ lên một cái, nó nói thầm trong đầu Khinh thân. “Aaaaaaaaa!” Một tia sáng nhá lên và căn phòng vang đầy âm thanh: mọi người bị đánh thức bởi tiếng rú mà Ron vừa thốt ra. Harry làm văng đi cuốn Bào chế thuốc cao cấp trong cơn hoảng hốt; Ron treo lủng lẳng giữa không trung trong tư thế đầu chúc xuống cẳng chỏng lên như thể bị một cái móc vô hình kéo nó lên bằng mắt cá chân. “Xin lỗi!” Harry hét, trong khi Dean và Seamus rống lên cười, và Neville lồm cồm bò dậy trên sàn sau khi té ra khỏi giường. “Chờ đó... mình sẽ thả bồ xuống...” Nó mò tìm lại cuốn sách thuốc và vội vã lật khắp các trang trong cơn hoảng hốt, cố gắng tìm đúng trang vừa rồi, cuối cùng tìm ra và suy đoán cái chữ ri rí không đọc nổi ghi bên dưới câu thần chú: vừa vái quỷ thần cho đúng đó là câu trừ tà, Harry vừa nghĩ Phóng thân! bằng tất cả sức mạnh của nó. Một tia sáng nữa lại nhá lên, và Ron rớt xuống thành một đống trên giường. “Xin lỗi,” Harry lặp lại một cách yếu ớt, trong khi Dean và Seamus tiếp tục cười rống lên. “Ngày mai,” Ron nói bằng một giọng ráng nhịn, “mình muốn bồ để đồng hồ báo thức gọi mình dậy hơn là làm thế này.” Vào lúc tụi nó đã ăn mặc chỉnh tề, quấn quanh mình nhiều lớp áo len đan tay của bà Weasley và đem theo áo khoác, khăn quàng cổ cùng găng tay, cơn hoảng hồn của Ron đã qua đi và nó quyết định là câu thần chú mới của Harry có tính giải trí rất ư cao; thật ra, nó đã lập tức mua vui cho Hermione bằng câu chuyện đó khi tụi nó ngồi vô bàn ăn điểm tâm. “...và một tia sáng khác nhá lên và mình lại rớt xuống giường!” Ron nhe răng cười, vừa tự lấy cho mình món xúc xích. Hermione chẳng nứt ra được một nụ cười trong suốt câu chuyện tiếu lâm, và giờ đây lại quay bộ mặt quở trách lạnh tanh về phía Harry. “Có phải đó là một câu thần chú khác nữa trong cuốn sách độc dược của bồ không?” Cô nàng hỏi. Harry cau mày nhìn Hermione. “Bồ luôn luôn nhảy tới kết luận dở nhất chứ gì?” “Mà phải không?” “Thì… ừ, phải, nhưng mà sao?” “Vậy là bồ đã quyết định làm thử bùa phép viết tay bíẩn để xem chuyện gìxảy ra?”
  • 56. “Nếu nó được viết tay thìcó làm sao đâu?” Harry nói, không thích trả lời phần còn lại của câu hỏi. “Bởi vì có thể nó không được Bộ Pháp thuật công nhận,” Hermione nói. Khi Ron và Harry trợn tròn mắt, cô nàng nói thêm. “Và cũng bởi vì mình bắt đầu nghĩtính cách của vị Hoàng Tử này hơi láu cá.” Cả Harry và Ron đều thét lên không cho Hermione nói nữa. “Một trò vui thôi mà!” Ron nói, vừa trút ngược chai tương cà chua lên cái xúc xích. “Chỉ là trò nghịch ngợm mua vui thôi mà Hermione à!” “Treo ngược người ta lên bằng mắt cá chân à?” Hermione nói. “Ai lại bỏ thìgiờ và công sức để nghĩra những bùa chú như vậy chứ?” “Anh Fred và George,” Ron nhún vai nói. “Đó là kiểu chơi của mấy ảnh. Và ơ…” “Ba mình,” Harry nói. Nó chỉ mới sực nghĩra. “Cái gì?” Ron và Hermione cùng nói. “Ba mình đã từng xài thần chú này,” Harry nói. “Mình… Thầy Lupin có kể mình nghe.” Phần cuối câu nói này không đúng; Thực ra, Harry đã nhìn thấy cha nó dùng thần chú này ếm Thầy Snape, nhưng nó chưa bao giờ nói với Ron và Hermione về chuyến du ngoạn đặc biệt ấy trong cái chậu Tưởng Ký. Tự nhiên giờ đây nó bỗng nghĩ đến một điều kỳ diệu có thể là sự thật. Biết đâu vị Hoàng Tử Lai đó có thể là…? “Có thể ba của bồ đã từng xài nó, Harry à,” Hermione nói, “nhưng bác ấy không phải là người duy nhất. Chúng ta từng thấy cả đống người xài nó, ấy là nhắc lại kẻo bồ quên. Treo người ta lủng lẳng trên không trung. Làm cho họ trôi lờ lững, mê ngủ, vô dụng.” Harry đăm đăm nhìn Hermione. Lòng nặng trĩu, nó cũng nhớ lại hành vi của bọn Tử thần thực tử ở trận Cúp thế giới Quidditch. Ron đỡ gạt cho nó. “Chuyện đó khác,” Ron hùng hổ nói. “Chúng lạm dụng bùa phép. Harry và ba nó chỉ đùa cho vui. Bồ không thích Hoàng Tử lai, Hermione à,” nó nói thêm, nghiêm nghị chĩa một thỏi xúc xích vào cô bé, “bởi vìngười đó giỏi hơn bồ môn độc dược…” “Chuyện đó không mắc mớ gì chuyện này!” Hermione nói, hai má ửng đỏ. “Mình chỉ cho rằng thực hiện bùa phép khi bản thân thậm chí còn không biết bùa phép ấy dùng để làm gì thì thiệt là vô trách nhiệm, và đừng nói tới ‘Hoàng tử’ như thể đó là danh hiệu của hắn, mình dám cá đó chỉ là một hỗn danh ngu ngốc, và theo mình, hắn chẳng có vẻ gìlà người tử tế lắm!” “Mình không hiểu bồ suy diễn điều đó từ đâu ra,” Harry nóng nảy nói. “Nếu người đó là một mầm non Tử thần thực tử thì y đã chẳng khoe khoang việc y mang dòng máu ‘lai’, đúng không?” Ngay cả khi nói như vậy, Harry vẫn nhớ ra là cha nó thuần huyết, nhưng nó gạt bỏ ý tưởng đó ra khỏi đầu; nó sẽ nghĩvề chuyện đó sau… “Bọn Tử thần thực tử không thể nào thuần huyết hết. Chẳng còn mấy pháp sư thuần huyết trên đời nữa,” Hermione bướng bỉnh nói. “Mình cho là hầu hết bọn chúng đã lai nhưng làm bộ thuần huyết. Chúng chỉ ghét kẻ thuần Muggle thôi, nên chúng sẽ vui mừng để cho bồ và Ron nhập bọn.” “Không đời nào có chuyện chúng để cho mình làm một Tử thần thực tử!” Ron nói giọng căm phẫn, một miếng xúc xích văng ra khỏi cái nĩa mà nãy giờ nó dứ dứ vô mặt Hermione, miếng xúc xích văng trúng đầu Ernie Macmillan. “Cả nhà mình đều là những kẻ phản bội huyết thống cả! Đối với bọn Tử thần thực tử thìđiều đó cũng xấu xa ngang với kẻ thuần Muggle!” “Và chúng muốn kết nạp mình đấy chứ,” Harry mỉa mai. “Tụi này sẽ là bồ bịch chícốt nếu lăm lăm khử mình.” Câu này làm Ron bật cười; ngay cả Harry cũng nở nụ cười bất đắc dĩ, và Ginny xuất hiện làm thay đổi đề tài câu chuyện. “Anh Harry nè, em được giao nhiệm vụ đưa cho anh cái này.” Đó là một cuộn giấy da có ghi tên Harry trên đó bằng nét chữ mảnh xiên xiên quen thuộc. “Cám ơn, Ginny… buổi học tiếp theo với thầy Dumbledore!” Harry nói với Ron và Hermione, vừa mở cuộn giấy da và đọc nhanh nội dung bên trong. “Tối thứ hai!” Nó bỗng nhiên cảm thấy thư thái vui vẻ. “Muốn đi với bọn anh đến làng Hogsmeade không, Ginny?” “Em sẽ đi với anh Dean… có thể sẽ gặp các anh ở đó,” cô bé trả lời, vừa bước đi vừa vẫy tay chào tụi nó. Thầy Filch đang đứng ở cửa chính bằng gỗ sồi như thông lệ, kiểm tra tên họ những người được phép đi chơi làng Hogsmeade. Thủ tục lâu lắc hơn bình thường vìthầy Filch kiểm tra mỗi người bằng phép Dò tìm bímật của thầy. “Nếu tụi con lén đem đồ hắc ám RA thì có vấn đề gì?” Ron nói và ngó cái phép Dò tìm bí mật thon dài với vẻ ngán ngẩm. “Rõ ràng là thầy nên kiểm tra cái mà tụi con đem VÔ mới phải chứ?” Má của nó bèn được rà thêm vài cái nữa bằng Phép dò, và khi cả bọn đã bước ra ngoài trời mưa gió lạnh tê rồi nó vẫn còn nhăn nhó. Cuộc đi bộ đến làng Hogsmeade chẳng thú vị gì cả. Harry quấn khăn quàng cổ quanh phần dưới khuôn mặt; phần mặt lộ ra chẳng mấy chốc nhức buốt và tê dại. Con đường đến làng đông đúc bọn học sinh cúi gập người đi ngược gió rét buốt. Hơn một lần Harry tự hỏi giá mà tụi nó cứ ở trong pháp sưhc ấm áp thì có phải hay hơn không, và khi rốt cuộc tới được làng Hogsmeade và nhìn thấy tiệm Giỡn Zonko đã bị đóng ván niêm phong, thì Harry càng tin chắc rằng chuyến đi chơi này sẽ chẳng vui thú gì. Ron chỉ bằng bàn tay đeo găng dày cui, về phía tiệm Công tước Mật, thiệt phước đức là tiệm mở cửa, và Harry cùng Hermione lếch thếch theo chân Ron vô cái tiệm bánh kẹo đông đúc. “Cám ơn quỷ thần,” Ron rùng mình khi tụi nó được bao bọc trong không khíấm áp thơm mùi kẹo ú. “Harry, con trai của ta!” Một giọng nói oang oang vang lên đằng sau tụi nó. “Thôi rồi,” Harry lầm bầm. Ba đứa tụi nó quay lại thì thấy giáo sư Slughorn. Thầy đang đội một cái nón da lông thú vĩ đại và một cái áo khoác ngoài cũng có cổ lật bằng da lông thú đúng điệu với cái nón, thầy cầm một bịch to kẹo khóm trong, và chiếm hết ít nhất một phần tư chỗ trong tiệm kẹo. “Harry, tính tới nay con đã bỏ lỡ hết ba buổi tiệc nhỏ của thầy!” Thầy Slughorn nói, thân mật thụi nhẹ lên ngực nó. “Không được đâu, con trai ơi, thầy đã quyết định mời cho được con! Cô Granger đây thích những buổi tối đó lắm, phải không con gái?” “Dạ,” Hermione nói, vô phương cứu bồ. “Những buổi đó thiệt tình...” “Vậy sao con không cùng đi hả, Harry?” Thầy Slughorn vặn hỏi. “Dạ, thưa thầy, con phải luyện tập Quidditch,” Harry nói, quả thực nó đã cố tình lên lịch luyện tập đúng cái ngày mà Thầy Slughorn gởi cho nó cái thiệp mời nho nhỏ buộc nơ tím. Chiến lược này khiến cho Ron không bị ra rìa, và tụi nó thường được bữa no cười với Ginny, tưởng tượng ra cảnh Hermione bị nhốt chung phòng với McLaggen và Zabini. “Ừ, thầy đương nhiên mong con thắng trận đấu đầu tiên sau tất cả những luyện tập vất vả ấy chớ!” Thầy Slughorn nói. “Nhưng một chút giải lao chẳng chết ai cả. Thôi thìtối thứ hai nhé, không lẽ con muốn luyện tập trong thời tiết này...” “Thưa thầy, con không thể, con có... ơ... hẹn với giáo sư Dumbledore vào buổi tối đó.” “Lại xui xẻo nữa!” Thầy Slughorn đột ngột la lên. “À, thôi... con không xù thầy mãi được đâu nhé, Harry!” Và phẩy tay một cái điệu nghệ, thầy ìạch đi ra khỏi tiệm, chẳng để mắt tới Ron như thể nó chỉ là một mớ kẹo dán bày trên quầy. “Mình không thể tin là bồ lại lách được một bữa tiệc nữa,” Hermione lắc đầu nói. “Bồ biết không, mấy bữa tiệc đó cũng không đến nỗi nào... đôi khi họ cũng nhộn lắm...” Nhưng cô bé chợt nhìn thấy vẻ mặt của Ron. “Ô, nhìn kìa... họ có viết đường thượng hạng... mấy cây viết đó ngậm được mấy tiếng đồng hồ lận!” Mừng là Hermione đã đổi đề tài, Harry bèn làm ra vẻ khoái mấy cây viết đường cực lớn loại mới đó hơn cả bình thường, nhưng Ron vẫn tiếp tục ủ dột và chỉ nhún vai khi Hermione hỏi nó muốn đi đâu nữa. “Tụi mình đi tới quán Ba cây chổi đi,” Hả nói. “Ở đó sẽ ấm áp.” Tụi nó lại quấn khăn quàng quanh mặt và rời khỏi tiệm bánh kẹo. Sau cái ấm áp ngọt ngào của tiệm kẹo Công tước Mật thì ngọn gió rét mướt chẳng khác gì lưỡi dao cứa vào mặt tụi nó. Đường phố không tấp nập lắm; chẳng mấy ai lê la tán dóc, ai cũng vội vã tiến về nơi họ muốn đến. Ngoại trừ hai người đàn ông chỉ ở phía trước tụi nó một chút, đứng ngay bên ngoài tiệm Ba cây chổi. Một người rất cao và ốm; liếc qua hai tròng mắt kính ròng ròng nước mưa, Harry nhận ra đó là người pha rượu làm việc trong một quán rượu khác ở làng Hogsmeade, quán Đầu heo. Khi Harry, Ron và Hermione đến
  • 57. gần hơn, người pha rượu kéo chặt tấm áo khoác quanh cổ rồi bước đi, bỏ lại người đàn ông lùn hơn lóng ngóng với cái gì đó trong tay. Tụi nó chỉ còn cách ông ta chừng mấy bước chân thìHarry nhận ra ông ta là ai. “Mundungus!” Người đàn ông thấp bè bè, chân vòng kiềng, tóc dài vàng hoe rối bời ấy giật mình làm rớt một cái vali cổ xưa, khiến nó bật mở ra, làm rớt ra những thứ trông như thể toàn bộ hàng hóa của một tiệm bán đồ lạc son. “Ủa, chào Arry,” lão Mundungus FletcHermione nói, với bộ tịch vả lả hết sức đang ngờ. “Thôi, đừng để tui làm mất thìgiờ cậu.” Và lão bắt đầu quơ quào trên mặt đất để thu hồi những thứ vốn chứa trong cái vali cổ với vẻ lật đật của người muốn bỏ đi ngay. “Bác bán những thứ này hả?” Harry hỏi, vừa quan sát lão Mundungus chộp vội những món đồ tạp pín lù trông phát gớm lăn lóc trên mặt đất. “Ờ, vâng, phải vơ vét kiếm sống thôi,” lão Mundungus nói. “Đưa giùm cái đó!” Ron đã cúi xuống và lượm lên một cái gìđó bằng bạc. “Khoan đã,” Ron nói chậm rãi. “Cái này trông quen quen...” “Cám ơn cậu!” Lão Mundungus nói, giật cái cốc bạc ra khỏi tay Ron và nhét nó trở vô cái vali. “Thôi, hẹn gặp lại sau nhe... Ối!” Harry đã kẹp cổ họng lão Mundungus tấn lão vào bức tường quán rượu. Giữ chặt lão bằng một tay, Harry rút cây đũa phép của nó ra. “Harry!” Hermione ré lên. “Lão hôi của ở nhà chú Sirius hả,” Harry nói, nó ép lão Mundungus sát đến nỗi mũi nó gần chamk mũi lão, và nó hít phải cái mùi khó chịu của thuốc lá và rượu. “Cái đó có khắc huy hiệu của dòng họ Black.” “Tui... đâu có... cái gì...?” Lão Mundungus lắp bắp, lão từ từ tím tái đi. “Lão đã làm gìhả, trở lại ngôi nhà vào cái đêm chú ấy chết để vơ vét của nả nơi ấy hả?” Harry gầm gừ. “Tui... đâu có...” “Đưa nó cho tôi!” “Harry, bồ không nên!” Hermione kêu lên the thé, trong khi lão Mundungus bắt đầu tái nhợt đi. Một tiếng nổ đùng và Harry cảm thấy hai tya nó bị hất ra khỏi cổ họng lão Mundungus. Thở hổn hển và lắp ba lắp bắp, lão Mundungus chụp cái vali rớt dưới đất, rồi – CẠCH – lão đã độn thổ. Harry chửi thề khản giọng, xoay vòng vòng tại chỗ để tìm xem lão Mundungus đã biến đi đâu. “TRỞ LẠIĐÂY, QUÂN ĂN CẮP...!” “Chẳng ích gì đâu, Harry,” cô Tonks đột ngột xuất hiện, mái tóc xù của cô ướt nhẹp nước mưa. “Lão Mundungus có lẽ bây giờ đã đến London rồi. Kêu gào chẳng ăn thua gìđâu.” “Lão chôm đồ của chú Sirius! Lão chôm!” “Ừ, nhưng dù vậy,” cô Tonks nói, có vẻ hoàn toàn không bận tâm về cái thông tin đó, “em không nên đứng trong mưa lạnh như vầy.” Cô nhìn tụi nó đi qua cánh cửa của quán Ba Cây chổi. Khi nó đã ở trong quán rồi, Harry lại òa ra, “Lão chôm đồ của chú Sirius!” “Mình biết, Harry à, nhưng làm ơn đừng có la to, người ta đang nhìn kìa,” Hermione thìthầm. “Ngồi xuống đi, mình đi lấy cho bồ ly nước nhé.” Harry vẫn còn tức xìkhói khi Hermione trở lại bàn tụi nó vài phút sau đó mang theo ba chai bia bơ. “Hội không thể kiểm soát được lão Mundungus sao?” Harry vặn hỏi hai đứa kia bằng giọng thìthào uất ức. “Chẳng lẽ cứ thứ gìkhông dán chặt xuống đất là họ không ngăn nổi lão ăn cắp mỗi khi lão đến Tổng hành dinh à?” “Suỵt!” Hermione tha thiết nói, vừa nhìn quanh để biết chắc là không có ai đang lắng nghe; Có một cặp chiến tướng ngồi gần đó đang ngó Harry chằm chằm coi bộ thích thú lắm và Zabini đang thơ thẩn đứng dựa cột cách đó không xa.“Harry à, mình cúng bức mình lắm, mình biết đồ lão ăn cắp chính là đồ của bồ...” Harry mở nắp chai bia bơ; nó nhất thời quên béng đi chuyện nó là chủ nhân ông của số mười hai đường Grimmauld. “Ừ, đồ của mình!” Nó nói. “Hèn gì lão chẳng vui vẻ gì khi thấy mình! Được, mình sẽ kể cho thầy Dumbledore biết chuyện gì đang xảy ra, chỉ có thầy mới dọa được lão Mundungus.” “Ýhay đó,” Hermione thìthầm, rõ ràng mừng là Harry đang bình tĩnh lại. “Ron, bồ ngó cái gìmà đăm đắm vậy?” “Đâu có,” Ron nói, vội vàng rời mắt khỏi quầy rượu, nhưng Harry biết tỏng cậu chàng đang cố gắng đá lông nheo với người phụ nữ pha rượu có thân hình nảy nở quyến rũ, bà Rosmerta, lâu nay cậu chàng hằng ấp ủ chút lả lướt với bà ta. “Mình đoán chừng “Đâu có” đang ra sau quán lấy thêm rượu mạnh,” Hermione chua chát nói. Ron phớt lờ câu chế giễu này, hớp từng ngụm bia bơ trong sự im lặng mà hiển nhiên là cậu chàng cho là đứng đắn. Harry thìđang nghĩđến chú Sirius, và chú đã ghét cay ghét đắng mấy cái cốc bạc ấy như thế nào. Hermione gõ gó mấy ngón tay trên mặt bàn, mắt cô nàng cứ chấp chới phóng từ Ron đến quầy rượu. Đúng lúc Harry uống cạn chai bia bơ của nó, Hermione nói, “tụi mình kể như choi đã rồi, vậy trở về trường chứ?” Hai đứa kia gật đầu. Chuyến đi chơi này chả vui gì hết và tụi nó càng nấn ná chơi lâu thì thời tiết càng xấu thêm. Một lần nữa tụi nó kéo áo khoác choàng quanh người cho chặt, quấn lại khăn quàng cổ, đeo găng tay vào, rồi đi theo Katie Bell và một cô bạn ra khỏi quán, đi ngược lên Đường Chính. Trong lúc cả đám lê bước ngược dốc con đường trở về trường Hogwarts trong cơn mưa lạnh buốt, Harry nghĩvơ vẩn đến Ginny. Tụi nó đã không gặp Ginny, Harry thầm nghĩ, chắc hẳn vìcô bé và Dean đang hú híấm cúng trong quán trà của bà Puddifoot, nơi những lứa đôi hạnh phúc thường lui tới. Lòng buồn bực nó cúi đầu tránh ngọn mưa tuyết quất xoáy vào người và lê bước đi tiếp. Chỉ một lát sau Harry bắt đầu nhận thấy giọng của Katie Bell và cô bạn theo chiều gió bay tới tai nó càng lúc càng to hơn và gay gắt hơn. Harry nheo mắt nhìn hình thù mờ mờ của hai người đó. Hai cô gái đang cãi nhau về vật gì đó mà Katie đang cầm trong tay. “Không mắc mớ gì tới bồ, Leanne à!” Harry nghe Katie nói. Tụi nó đi tới một khúc quanh của con đường, cơn mưa tuyết trở nên nhanh và dày làm mờ kính của Harry. Vừa lúc nó giơ bàn tay đeo găng lên chùi kính, Leanne chụp lấy cái gói mà Katie đang cầm; Katie giật trở lại và cái gói rớt xuống mặt đường. Lập tức Katie bốc lên không trung, không phải cái kiểu treo giò lơ lửng buồn cười như Ron đã bị, mà được nhấc bổng lên một cách duyên dáng, hai tay giang ra như thể cô nàng sắp bay. Nhưng có cái gì đó không ổn, cái gì đó kỳ quái... Tóc Katie bị luồng gió mạnh quất bay quanh mình, nhưng hai mắt cô giá nhắm nghiền và gwong mặt thìhoàn toàn không biểu lộ cảm xúc gìcả. Harry, Ron, Hermione và Leanne đều đã ngừng bước đứng nhìn. Thế rồi, khi cách mặt đất gần hai thước, Katie phát ra một tiếng gào khủng khiếp. Hai mắt cô mở bừng ra, nhưng cho dù cái mà cô đang nhìn thấy là cái gì, hay cô đang cảm thấy cái gì đi chăng nữa, thì rõ ràng cía đó cũng đang gây cho cô nỗi đau đớn khủng khiếp. Katie cứ gào thét rồi gào thét; Leanne cũng bắt đầu gào lên rồi chụp lấy cổ chân Katie, cố gnawgiáo sư kéo cô trở xuống mặt đất. Harry, Ron và Hermione chạy nhòa tới trước để giúp sức, nhưng ngay khi tụi nó hè nhau nắm lấy chân Katie, cô rớt luôn xuống đầu tụi nó. Harry và Ron tìm cách đỡ Katie nhưng cô quằn quại dữ quá nên tụi nó khó có thể giữ được. Tụi nó đành hạ Katie xuống đất từ từ. Cô nằm trên mặt đất vật vã gào la, dường như chẳng nhận ra đứa nào trong đám tụi nó. Harry nhìn quanh; quang cảnh dường như hoang vắng. “Ở yên đó!” Nó hét to trong tiếng gió hú để bảo những đứa khác, “Mình đi kêu cứu!” Nó bắt đầu phóng chạy về trường; nó chưa từng nhìn thấy ai có cử chỉ như cử chỉ vừa rồi của Katie và nó không thể nghĩ ra nguyên nhân là cái gì; nó húc vô một khúc quanh của con đường và đâm sầm vô một cái gìtựa như một con gấu vĩđại đứng trên hai chân sau. “Bác Hagrid!” Nó thở hổn hển, loi ngoi ra khỏi giậu cây mà nó đã té vô. “Harry!” Bác Hagrid kêu lên, băng tuyết bám trên chân mày và bộ râu của bác, và bác đang mặc cái áo khoác to, lùi xùi bằng da hải ly. “Vừa mới đi thăm Grawp, chú nó lúc này khá đến nỗi con sẽ...”
  • 58. “Bác Hagrid, ở đằng kia có người bị thương, hay bị ếm, hay bị gìđó...” “Cái gì?” Bác Hagrid nói, cúi xuống thấp để nghe Harry nói trong tiếng gió rú gào. “Có người bị ếm!” Harry rống lên. “Ếm hả? Ai bị ếm... không phải Ron chứ? Hay Hermione?” “Không, không phải tụi nó, mà là Katie Bell... lối này...” Hai bác cháu cùng chạy ngược lại theo con đường. Chẳng mấy chốc họ đã nhìn thấy một nhóm người vây quanh Katie, cô gái vẫn còn vật vã và gào thét trên mặt đất; Ron, Hermione và Leanne đều đang cố gắng dỗ yên cô. “Lùi ra!” Bác Hagrid la lên. “Để bác coi con bé!” “Nó bị cái gìđó!” Leanne nức nở. “Con không biết cái gì...” Bác Hagrid trợn mắt ngó Katie chừng một giây, rồi không nói một lời, bác cúi xuống, quắp katie trong tay, và chạy về phía tòa lâu đài. Trong vòng vài giây tiếng gào thét thảm thiết của Katie xa dần rồi tắt lịm, chỉ còn lại tiếng gầm rú của gió. Hermione vội đi tới vòng tay ôm cô bạn của Katie, cô này đang khóc nức nở. “Bồ là Leanne hả?” Cô gái gật đầu. “Chuyện đã xảy ra thình lình hay là...?” “Chuyện xảy ra khi cái gói đó bị xé ra,” Leanne thổn thức, vừa chỉ vào một cái gói giấy nâu nằm trên mặt đất lúc này đã sũng nước và bị xé mở ra để lộ ra ánh lấp lánh màu xanh biếc. Ron cúi xuống, tay nó vừa giơ ra, nhưng Harry chụp tay nó lại và kéo nó lùi ra sau. “Đừng đụng tới!” Nó ngồi thụp xuống. Có thể thấy một chuỗi đeo cổ bằng ngọc lộng lẫy thò ra khỏi lớp giấy. “Mình đã từng nhìn thấy cái này trước đây,” Harry nói, chăm chú nhìn vật ấy. “Nó đã được trưng bày trong tiệm Borgin và Burkes cách nay khá lâu. Cái nhãn có ghi là nó đã bị ếm bùa. Ắt hẳn là Katie đã đụng vào nó.” Harry ngước lên nhìn Leanne, cô bé đã bắt đầu run bần bật không sao kiềm chế được, “Làm sao mà Katie lại có vật này?” “Ôi, đó là lý do tụi này gây gỗ với nhau. Nó vô nhà vệ sinh trong quán Ba Cây chổi rồi trở lại cầm theo cía này nói rằng đó là một món quà bất ngờ dành cho ai đó ở trường Hogwarts mà nó phải trao lại. Khi nói vậy trông nó rất buồn cười... Ôi không, Ooi không, mình cá là nó đã bị ếm Bùa Độc đoán, vậy mà mình không nhận thấy!” Leanne lại run lẩy bẩy, nức nở trở lại. Hermione vỗ nhè nhẹ vào vai cô bạn. “Bạn ấy có nói là ai đã đưa cái này cho bạn ấy không, Leanne?” “Không... Nó không chịu nói... và mình nói nó ngu quá và bảo nó đừng đem cái đó vô trường, nhưng nó chẳng chịu nghe và... và rồi mình thử giật cái đó ra khỏi tay nó... và... và...” Leanne rống lên một tiếng khóc tuyệt vọng. “Tụi mình nên trở về trường thôi,” Hermione nói, cánh tay nó vẫn vòng quanh vai Leanne. “Tụi mình sẽ biết được bạn ấy giờ ra sao. Đi thôi...” Harry ngập ngừng một chút, rồi rút tấm khăn quàng cổ đang quấn quanh mặt nó ra và, phớt lờ cái miệng há hốc của Ron, nó cẩn thận trùm lên chuỗi ngọc và lượm lên. “Tụi mình cần đưa cho bà Pomfrey coi cái này,” nó nói. Khi đi theo Hermione và Leanne ngược lên con đường về trường, Harry suy nghĩ dữ dội. Tụi nó vừa mới đi vào sân trường thì nó mở miệng nói ngay, không thể giữ riêng trong đầu suy nghĩấy lâu hơn nữa. “Malfoy biết về chuỗi ngọc này. Trong một dịp cách đây bốn năm ở tiệm Borgin và Burkes, trong lúc ẩn núp để tránh mặt cha con nó, mình đã nhìn thấy nó ngắm nghía cái này kỹ lắm. Cái này là cái mà nó mua vào cái ngày tụi mình theo dõi nó! Nó nhớ ra cái này và trở lại để mua!” “Mình... mình không biết, Harry à,” Ron ngập ngừng nói. “Cả đống người đi tới tiệm Borgin và Burkes... và chẳng phải cô gái kia nói rằng Katie nhận nó trong phòng vệ sinh nữ sao?” “Bạn ấy nói Katie cầm theo cái này khi trở lại từ nhà vệ sinh, không nhất thiết Katie nhận cái này ngay trong nhà vệ sinh...” “Cô McGonagall kìa!” Ron cảnh báo. Harry ngước nhìn lên. Quả đúng, giáo sư McGonagall đang vội vã bước xuống những bực thềm đá đi xuyên qua mưa tuyết để đón tụi nó. “Bác Hagrid nói bốn trò đã thấy những gìxảy ra cho Katie Bell... Mời các trò lên văn phòng của tôi ngay tức thì! Trò đang cầm vật gìđó, Potter?” “Cái vật mà bạn ấy đã chạm vô,” Harry nói. “Úy mèn ơi,” giáo sư McGonagall nói, có vẻ lo sợ khi nhận chuỗi hạt từ tay Harry. “Khỏi, khỏi, thầy Filch à, chúng nó đi cùng tôi!” Bà vội vã nói thêm khi thầy Filch hăm hở bước lệt sệt ngang qua tiền sảnh với cái Phép Dò bí mật của thầy giơ cao. “Hãy đem xâu chuỗi này đưa giáo sư Snape ngay tức thì, nhưng phải tuyệt đối không đụng tới nó, cứ quấn nó trong cái khăn quàng cổ!” Harry và mấy đứa kia đi theo giáo sư McGonagall lên cầu thang vô văn phòng bà. Những cánh cửa sổ bị mưa tuyết tạt vào đang kêu lạch xạch trong khung, và căn phòng lạnh lẽo bất chấp tiếng lửa reo trong lò sưởi. Giáo sư McGonagall đóng cửa và lướt vòng qua bàn làm việc của bà để đối diện Harry, Ron, Hermione, và cô bé Leanne vẫn còn thổn thức. “Thế nào?” bà nói ngay. “Chuyện gìđã xảy ra?” Ngắc nga ngắc ngứ va phải ngừng lại nhiều lần để ráng nín khóc, Leanne kể cho giáo sư McGonagall nghe Katie đã vô nhà vệ sinh trong quán Ba Cây chổi và trở ra cầm theo một cái gói không rõ gốc tích, Katie đã tỏ ra hơi kỳ quái như thế nào, và tụi nó đã cãi nhau ra sao về việc dại dột nhận lời giao những đồ vật mình không biết rõ, cuộc cãi vã lên tới đỉnh điểm khi xảy ra giành giật cái gói đồ, khiến nó bị rách toạc ra. Kể tới đây, Leanne quá xúc động, không cond nghe được thêm tiếng nào của cô bé nữa. “Được rồi,” giáo sư McGonagall nói, giọng ân cần. “Trò đi lên bệnh thất đi, Leanne, và xin bà Pomfrey cho thuốc gìđó mà an thần.” Khi Leanne đã ra khỏi phòng, giáo sư McGonagall quay sang Harry, Ron và Hermione. “Chuyện gìxảy ra khi Katie chạm vào xâu chuỗi?” “Bạn ấy bay lên không trung,” Harry nói, trước khi Ron hay Hermione có thể mở miệng, “và rồi gào thét, rồi rớt xuống. Thưa cô, con có thể gặp giáo sư Dumbledore được không ạ?” “Thầy hiệu trưởng đi vắng đến thứ hai, Potter à,” giáo sư McGonagall nói, vẻ mặt ngạc nhiên. “Đi vắng à?” Harry lặp lại một cách tức tối. “Phải, đi vắng, Potter à!” Giáo sư McGonagall nói giọng đanh lại. “Nhưng nếu con muốn nói bất cứ điều gìvề sự khủng khiếp này thìcon có thể nói với ta, ta chắc chắn như vậy!” Harry ngập ngừng một thoáng. Giáo sư McGonagall không làm cho người ta tự tin lắm; Cụ Dumbledore tuy nghiêm nghị về nhiều mặt, nhưng vẫn không tỏ ra coi thường một giả thuyết cho dù hoang đường thế nào đi chăng nữa. Tuy nhiên đây là một vấn đề sỗng chết và không phải là lúc lo ngại bị cười nhạo. “Thưa giáo sư, con nghĩDraco Malfoy đưa cho Katie chuỗi hạt đó.” Bên này nó, Ron xoa xoa cái mũi bối rối; bên kia nó, Hermione nhấp nhổm như thể cô nàng muốn tự mình nhích ra xa Harry một chút. “Đó là một lời cáo buộc rất nghiêm trọng, Potter à,” giáo sư McGonagall nói, sau khi lặng đi vìsửng sốt. “Con có bằng chứng nào không?” “Dạ, không, nhưng,” Harry đáp, và nó kể cho bà nghe về việc đi theo Malfoy đến tiệm Borgin và Burkes với cuộc đối thoại giữa Malfoy và ông Borgin mà
  • 59. tụi nó nghe lỏm được. Khi nó nói xong, giáo sư McGonagall có vẻ hơi lúng túng. “Malfoy đem cái gìđó đến tiệm Borgin và Burkes để sửa chữa à?” “Thưa cô không phải, nó chỉ muốn ông Borgin chỉ cho cách sửa chữa vật ấy thôi, nó không đem theo vật ấy. Nhưng đó không phải điểm mấu chốt, vấn đề là cùng lúc đó nó mua một cái gìđó, và con tin cái đó là xâu chuỗi...” “Con đã nhìn thấy Malfoy rời khỏi tiệm với một xâu chuỗi tương tự à?” “Thưa cô không phải, nó bảo ông Borgin giữ cái đó lại trong tiệm cho nó...” “Nhưng Harry à,” Hermione chen vào, “ông Borgin đã hỏi nó có muốn đem cái đó đi không, và Malfoy nói là không...” “Bởi vìnó không muốn đụng đến cái đó, rõ ràng quá mà!” Harry tức giận nói. “Chính xác nó nói là “Tôi mà đem cái đó xuống phố thìtrông như thế nào?”” Hermione nói. “Ôi, Ron,” Hermione kêu lên chán nản, “cái đó sẽ được gói ghém kỹ lưỡng, như thế nó sẽ không phải đụng vô, và cũng dễ dàng giấu bên trong áo khoác, để không ai nhìn thấy cái đó! Mình nghĩ cái mà Malfoy muốn gửi lại tiệm Borgin và Burkes rất ồn ào hoặc rất cồng kềnh, một cái gì đó nó biết là sẽ thu hút sự chú ý nếu nó mang xuống phố - và dẫu thế nào đi nữa,” Hermione nói tiếp, giọng to hơn, trước khi Harry có thể chen vào, “mình đã hỏi ông Borgin về xâu chuỗi, các bạn không nhớ sao? Khi mình đi vô tiệm để thử tìm hiểu xem Malfoy đã nhờ ông Borgin giữ lại cho nó cái gì, mình đã nhìn thấy xâu chuỗi ở đó. Và ông Borgin chỉ nói giá cả, ông không hề nói là nó đã được bán rồi hay gìgì...” “Ôi, bồ rất ư lộ liễu, ông ta nhận ra ngay trong vòng năm giây là bồ đang âm mưu gì đó, dĩ nhiên ông ta không nói cho bồ biết... Với lại, Malfoy có thể yêu cầu gởi món đồ đó cho nó bởi vì...” “Thôi đủ rồi!” Giáo sư McGonagall nói, vẻ giận dữ, khi Hermione mở miệng toan phản đối. “Potter à, tôi cám ơn trò đã kể cho tôi nghe điều này, nhưng chúng ta không thể cáo buộc Malfoy chỉ vì cậu ta đã vô một cửa hàng nơi có lẽ đã bán ra xâu chuỗi ấy. Điều tương tự có thể xảy ra cho hàng trăm người...” “...con tính nói vậy đó...” Ron lẩm bẩm. “...và trong trường hợp nào đi nữa, chúng ta cũng đã áp dụng những biện pháp an ninh rất nghiêm ngặt ở đây trong niên học này. Tôi không tin là xâu chuỗi có thể được đem vô trường mà không ai biết...” “Nhưng...” “...và hơn nữa,” giáo sư McGonagall nói, với cái vẻ dứt khoát đáng sợ, “Malfoy không có mặt trong làng Hogsmeade ngày hôm nay.” Harry há hốc mồm nhìn giáo sư, xìhơi ra. “Thưa cô, làm sao cô biết được?” “Bởi vì trò ấy bị ct ở chỗ tôi. Trò ấy đã không làm xong bài tập biến hình hai lần liên tiếp. Thôi thế, cám ơn trò đã kể cho tôi nghe về sự nghi ngờ của trò, Potter à,” bà nói khi đi ngang qua tụi nó, “nhưng tôi cần lên bệnh thất để thăm Katie Bell. Mong các trò hưởng một ngày tốt đẹp.” Bà mở cửa văn phòng. Tụi nó không có lựa chọn nào khác hơn là lần lwotj đi ngang qua bà mà không được nói thêm lời nào. Harry rất giận hai đứa bạn đã về phe giáo sư McGonagall; dù vậy, nó cảm thấy phải dằn lòng để tham gia cuộc tranh luận khi tụi nó bắt đầu cãi nhau về việc đã xảy ra. “Vậy bồ đoán xem Katie được bảo phải giao xâu chuỗi cho ai?” Ron hỏi, khi tụi nó trên cầu thang lên pháp sưhc. “Quỷ thần nào biết được,” Hermione nói. “Nhưng cho dù đó là ai thì cũng khó lòng thoát được. Không ai có thể mở cái gói đó ra mà không chạm vào xâu chuỗi.” “Rất nhiều người có thể là mục tiêu,” Harry nói. “Cụ Dumbledore chẳng hạn – bọn Tử thần thực tử chỉ mong khử cụ, cụ chắc phải là một trong những mục tiêu đầu tiên của tụi nó. Hay Thầy Slughorn... Cụ Dumbledore cho là Voldermort thực sự mong muốn chiêu nạp thầy và chúng không thể hài lòng nổi khi thầy về phe với cụ. Hay là...” “Hay là bồ,” Hermione nói, có vẻ bồn chồn. “Không lẽ nào,” Harry nói, “nếu gửi cho mình thì Katie chỉ cần quay lại trên đường và đưa nó cho mình, đúng không? Malfoy theo sau chị ấy suốt quãng đường từ quán Ba Cây chổi đi ra. Trao cái gói quà đó ở bên ngoài trường Hogwarts nghe có lý hơn nhiều, khi mà thầy Filch rà soát hết thảy mọi người đi ra đi vào trường. Mình thắc mắc tại sao Malfoy lại bảo Katie đem cái gói đó vô tòa lâu đài?” “Harry, Malfoy không có mặt ở Hogsmeade!” Hermione nói, giẫm chân vìtức tối. “Vậy thì nó phải nhờ tới một kẻ đồng lõa,” Harry nói. “Crabà Béoe hay Goyle... hay, thử nghĩ xem, một tên Tử thần thực tử nào đó, nếu bây giờ nó đã gia nhập bọn chúng thìnó có cả khối đồng bọn chícốt hơn cả Crabbe và Goyle.” Ron và Hermione đưa mắt nhìn nhau, ngụ ý rõ ràng: vô phương cãi nhau với thằng này. “Súp Đăng quang,” Hermione hô lên dứt khoát khi tụi nó đi tới chỗ Bà Béo. Bức chân dung lẳng qua một bên để cho chúng chui vô pháp sưhc. Căn phòng đầy nhóc và bốc mùi quần áo ướt: nhiều người dường như vừa từ Hogsmeade trở về sớm vì thời tiết xấu quá. Tuy nhiên, chẳng nghe ai xì xầm sợ hãi hay suy đoán gì: rõ ràng là cái tin về chuyện xui xẻo của Katie chưa kịp lan truyền. “Thực ra, nếu bồ chịu dừng lại và suy nghĩ về chuyện đó, bồ sẽ thấy cuộc tấn công cũng không khôn khéo lắm,” Ron nói, vừa làm một điều không bình thường là tống một nhóc năm thứ nhất ra khỏi cái ghế bành êm ái cạnh lò sưởi để tự mình ngồi xuống. “Chuyện trù ếm còn chưa vô được tới tòa lâu đài. Bồ không thể gọi đó là một trò có hiệu quả.” “Bồ nói đúng,” Hermione nói, vừa đá Ron ra khỏi cái ghế bành để nhường trở lại cho thằng nhóc năm thứ nhất. “Vụ đó không được tính toán kỹ cho lắm.” “Nhưng Malfoy trở thành một trong những nhà mưu tính vĩđại nhất thế giới từ hồi nào hè?” Harry hỏi. Cả Ron lẫn Hermione đều không trả lời nó. Chương 13 Riddle bíẩn Kattie được chuyển qua bệnh viện Thánh Mungo chuyên Điều trị thương tích và Bệnh tật pháp thuật vào ngày hôm sau, vào lúc đó thì tin cô bé bị ếm ma thuật đã lan ra khắp trường, mặc dù chi tiết khá rối rắm và ngoại trừ Harry, Ron, Hermione, Leanne, có vẻ không ai biết rằng bản thân Katie không phải là mục tiêu được nhắm tới. “Ôi, dĩ nhiên Malfoy thì biết chứ,” Harry nói với Ron và Hermione, hai đứa này cứ tiếp tục chính sách mới của tụi nó là giả điếc mỗi khi Harry nhắc tới lý thuyết Malfoy-là-một-Tử-thần-thực-tử. Harry đã lo lắng không biết cụ Dumbledore có từ đâu đó trở về đúng hẹn cho buổi học tối thứ hai không, nhưng bởi vì chẳng nhận được thông báo nào hoãn lại, nên nó tự trình diện trước văn phòng cụ Dumbledore vào lúc tám giờ đúng, gõ cửa, và được mời vào. Kia cụ Dumbledore ngồi đó, trông mệt mỏi khác thường; bàn tay của cụ vẫn cháy khô đen đúa như lâu nay, nhưng cụ mỉm cười khi ra dấu cho Harry ngồi xuống. Cái chậu tưởng Ký lại được đặt trên bàn, hắt những đốm sáng óng ánh bạc lên trần. “Con đã khá bận rộn trong thời gian thầy đi vắng,” cụ Dumbledore nói. “Ta tin là con đã chứng kiến tai nạn của Katie.” “Dạ, thưa thầy. Bạn ấy sao rồi ạ?” “Vẫn chưa được khỏe lắm, mặc dù trò ấy khá may mắn. Trò ấy dường như chỉ chạm nhẹ vào xâu chuỗi với một diện tích da rất nhỏ bị tiếp xúc; có một cái lỗ nhỏ xíu trên găng tay trò ấy. Nếu trò ấy mà đeo xâu chuỗi ấy vô, thậm chí nếu trò ấy cầm xâu chuỗi mà không đeo găng tay, thì trò ấy đã chết rồi, có thể
  • 60. ngay lập tức. May thay giáo sư Snape đã hành động kịp thời để ngăn chặn không cho bùa ếm đó phát tán nhanh chóng...” “Sao lại ông ấy?” Harry hỏi ngay. “Sao không phải là bà Pomfrey?” “Láo xược,” một giọng nói nhỏ vang lên từ một trong những bức chân dung trên tường, và cụ Phineas Nigellus Black, ông cố tổ của chú Sirius, ngóc đầu lên khỏi hai cánh tay, hình như vẫn được cụ coi như cái gối kê đầu để ngủ. “Ta không đời nào cho phép một học sinh hỏi vặn vẹo trong trường Hogwarts thời mà ta còn điều hành.” “Vâng, cám ơn cụ Phineas,” cụ Dumbledore dỗ yên. “Giáo sư Snape biết nhiều hơn bà Pomfrey về Nghệ thuật hắc ám, Harry à. Dù sao đi nữa thì nhân viên bệnh viện Thánh Mungo đang gửi tường trình hàng giờ cho thầy, và thầy hy cọng Katie sẽ sớm bình phục hoàn toàn.” “Thưa thầy, thầy đi đâu hồi cuối tuần rồi ạ?” Harry hỏi, bất chấp một cảm giác mạnh mẽ là có thể nó đang liều mạng, một cảm giác dường như được cụ Phineas Nigellus chia sẻ, cụ huýt gió khe khẽ. “Bây giờ thìthầy không tiện nói,” cụ Dumbledore nói. “Tuy nhiên, khi nào đúng lúc thìthầy sẽ nói cho con biết.” “Thầy sẽ nói hả?” Harry hấp tấp nói. “Ừ, thầy định vậy,” cụ Dumbledore nói, vừa rút trong túi áo ra một cái chai mới chứa những ký ức lóng lánh bạc và mở nút chai bằng một cái gõ của cây đũa phép. “Thưa thầy,” Harry lại ngập ngừng nói, “con đã gặp lão Mundungus ở Hogsmeade.” “À phải, thầy đã biết về việc Mundungus nhẹ tay nẫng tài sản thừa kế của con,” cụ Dumbledore nói, hơi cau mày. “Lão ta đã lặn mất tiêu từ lúc con bắt quả tang lão bên ngoài quán Ba Cây chổi; Thầy nghĩ lão sợ giáp mặt thầy. Tuy nhiên, con có thể yên tâm là lão sẽ không thể nào ăn cắp thêm bất cứ cái gìnữa trong tài sản trước đây của chú Sirius.” “Lão già lai ghẻ lở ấy ăn cắp của gia truyền của dòng họ Black à?” Cụ Phineas Nigellus nói, cụ điên tiết lên, và chuồn ra khỏi cái khung tranh của mình, chắc chắn là để về thăm cái chân dung của cụ ở số mười hai đường Grimmauld. “Thưa thầy,” Harry nói, sau một khoảng ngắn nín thinh. “Giáo sư McGonagall có nói với thầy điều con đã thưa với cô ấy sau khi Katie bị thương không? Về Draco Malfoy ấy ạ?” “Có, cô ấy có nói với thầy về sự nghi ngờ của con,” Cụ Dumbledore nói. “Và thầy có...?” “Thầy sẽ tiến hành những biện pháp thích đáng để điều tra bất cứ ai có nhúng tay vào tai nạn của Katie,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng điều thầy bận tâm lúc này, Harry à, là bài học của chúng ta.” Harry cảm thấy hơi bực mình về chuyện này: nếu buổi học của thầy trò nó quan trọng như thế, tại sao buổi học thứ nhì lại cách xa buổi học thứ nhất dữ vậy? Tuy nhiên, nó không nói gì thêm về Draco Malfoy, mà chỉ ngồi nhìn khi cụ Dumbledore rót cái ký ức mới vào trong cái Tưởng Ký, và bưng cái chậu đá giữa hai bàn tay với những ngón tay rất dài, cụ bắt đầu xoay cái chậu đá một lần nữa. “Thầy biết chắc con vẫn nhớ rằng chúng ta đã rời câu chuyện về thuở ban đầu của Chúa tể Voldermort ở chỗ chàng Muggle trẻ tuổi đẹp trai Tom Riddle đã bỏ rơi cô vợ phù thủy Merope, để trở về nhà mình ở làng Hangleton Nhỏ. Merope bị bỏ lại một mình ở London, bụng mang dạ chửa đứa bé sau này sẽ trở thành Chúa tể Voldermort.” “Thưa thầy, làm sao thầy biết là cô ấy ở London?” “Bởi vì có chứng cớ của ông Caractacus Burke,” cụ Dumbledore nói, “ông này, do một ngẫu nhiên kỳ lạ, đã giúp thành lập chính cái tiệm xuất xứ của xâu chuỗi mà chúng ta vừa thảo luận.” Cụ sàng đãi nội dung của cái Tưởng Ký như Harry đã từng thấy cụ sàng đãi trước đây, rất giống cách những người thợ mỏ vàng sàng đãi quặng để tìm vàng. Dâng lên trên cái khối óng ánh bạc đang xoay tít là một người đàn ông từ từ xoay vòng vòng trong cái Tưởng Ký, ban đầu bạc trắng như ma nhưng rắn chắc hơn dần, với một mái tóc phủ kín cả mắt. “Vâng, chúng tôi có được nó trong một trường hợp lạ lùng. Một phù thủy trẻ đem nó đến trước lễ Noel, ôi, cách đây nhiều năm rồi. Cô ta nói cô ta cần vàng ghê lắm, chà, điều đó rất hiển nhiên. Cô ta ăn mặc rách rưới và coi bộ chẳng bao lâu nữa... sẽ có em bé. Cô ta nói sợi dây chuyền là của dòng họ Slytherin. Ối, lúc nào tôi cũng nghe những câu chuyện tương tự như vậy, “Ôi, đây là di vật của dòng họ Merlin, đây là cái bình trà cưng của ngài.” Nhưng khi tôi nhìn kỹ nó, thìnó có dấu hiệu của Ngài Slytherin hẳn hoi, và chỉ cần vài phép bùa chú đơn giản là tôi biết được đồ thật. Dĩnhiên điều đó khiến nó vô giá. Cô ta lại dường như không biết chút gìgiá cả của vật đó. Vui vẻ mà nhận mười Galleon đánh đổi vật đó. Món hời nhất mà tôi từng mua!” Cụ Dumbledore lắc cái chậu Tưởng Ký một cái thiệt mạnh và ông Caractacus Burke lặn trở xuống mớ ký ức xoay tít, chỗ mà ông ta đã từ đó hiện ra. “Ông ta chỉ trả cô ấy mười Galleon thôi à?” Harry phẫn nộ nói. “Ông Caractacus Burke không nổi tiếng lắm về tính hào phóng,” cụ Dumbledore nói. “Vậy là chúng ta biết, lúc gần sanh, Merope đã một mình ở London và cần vàng ghê gớm, cần đến nỗi phải bán đi tài sản có giá trị duy nhất, sợi dây chuyền vốn là một trong những di sản gia truyền quý báu của Marvolo.” “Nhưng cô ta có thể phù phép mà!” Harry sốt ruột nói. “Cô ta có thể tự kiếm đồ ăn và mọi thứ cho mình bằng Pháp thuật, đúng không ạ?” “À,” cụ Dumbledore nói, “có lẽ cô ta có thể làm vậy. Nhưng thầy tin – và một lần nữa thầy chỉ đoán mà thôi, nhưng thầy tin là thầy đúng – rằng khi bị chồng bỏ, Merope đã thôi dùng Pháp thuật. Thầy nghĩcô ta không muốn là phù thủy nữa. Dĩnhiên, cũng có thể tình yêu không được đáp lại của cô ta và nỗi tuyệt vọng kèm theo đã làm cạn kiệt sức mạnh của cô; điều đó có thể xảy ra lắm. Đằng nào đi nữa, như con sắp sửa thấy đây, Merope từ chối giơ cây đũa phép lên, cho dù để cứu chính mạng sống của mình.” “Cô ta thậm chíkhông sống vìđứa con mình sao?” Cụ Dumbledore nhướn chân mày lên, “Con còn có thể cảm thấy thương xót Chúa tể Voldermort ư?” “Không,” Harry nói nhanh, “nhưng cô ta có thể lựa chọn, đúng không, chẳng giống như mẹ của con....” “Mẹ của con cũng có quyền lựa chọn,” cụ Dumbledore nhẹ nhàng nói. “Đúng vậy, Merope Riddle đã chọn cái chết bất chấp đứa con trai đang cần đến cô ta, nhưng đừng phán xét cô ta khắc nghiệt quá, Harry à. Cô ta đã suy yếu đi rất nhiều vì nỗi đau khổ kéo dài và cô ta chưa bao giờ có được lòng can đảm như mẹ con. Và bây giờ nếu con chịu đứng yên...” “Chúng ta sẽ đi đâu?” Harry hỏi, khi cụ Dumbledore đến đứng cạnh nó trước cái bàn. “Lần này,” cụ Dumbledore nói, “chúng ta sẽ đi vào ký ức của thầy. Thầy nghĩ con sẽ thấy ký ức của thầy phong phú, chi tiết và chính xác mỹ mãn. Mời con đi trước, Harry...” Harry cúi xuống cái Tưởng Ký; mặt nó chạm vào bề mặt mát lạnh của ký ức và rồi nó rơi xuyên qua bóng tối một lần nữa... Vài giây sau, chân nó chạm mặt đất cứng; nó mwor mắt ra và thấy nó với cụ Dumbledore đang đứng trên một đường phố London cổ kính và khá náo nhiệt. “Thầy kia kìa,” cụ Dumbledore hớn hở nói, vừa chỉ về phía trước nơi một dáng người cao đang băng qua đường trước chiếc xe ngựa kéo chở sữa. Chòm râu và mái tóc dài của chàng trai Albus Dumbledore trẻ tuổi này màu nâu vàng. Sau khi qua tới lề đường mà hai thầy trò nó đang đứng, cậu ta rảo bước đi dọc theo lề đường, thu hút những cái liếc mắt tò mò nhờ bộ đồ nhung màu mận được may cắt đỏm dáng mà cậu ta đang mặc. “Thưa thầy bộ đồ đẹp quá,” Harry buột miệng nói không kềm lại được, nhưng cụ Dumbledore chỉ chắt lưỡi khoái trá đi theo hình bóng trẻ tuổi của mình cách một khoảng ngắn, cuối cùng ngàng qua hai cánh cổng sắt để vào một khoảnh sân trống trải phía trước một tòa nhà vuông vức khá kiên cố có hàng rào song sắt cao bao quanh. Thầy Dumbledore trẻ leo lên những bậc thềm dẫn đến cửa chính và gõ một lần. Chỉ một hai tích tác sau, cánh cửa được một cô gái chếch nhác đeo tạp dề mở ra. “Chào cô. Tôi có hẹn với bà Cole, người mà theo tôi nghĩlà quản lý ở đây?” “À,” cô gái nói, trông rõ vẻ bối rối vìbộ dnagj kỳ cục của thầy Dumbledore. “Ưm... chỉ chút xíu... BÀ COLE!” Cô ta ngoái đầu ra sau rống lên. Harry nghe một giọng nói ở xa quát to điều gìđó để đáp trả. Cô gái quay lại thầy Dumbledore nói: “Mời vào, bà ấy ra ngay.”
  • 61. Thầy Dumbledore trẻ bước vào một hành lang lát gạch đen trắng; toàn cảnh nơi ấy trông sơ sài nhưng sạch như li như lau. Harry và cụ Dumbledore đi theo. Trước khi cánh cửa đóng lại sau lưng họ, một người đàn bà da bọc xương vẻ mặt phiền muộn lật đật đi về phía họ. Bà ta có một gương mặt sắc cạnh có vẻ lo âu nhiều hơn là ác độc, bà ta vừa đi về phía thầy Dumbledore vừa ngoái đầu ra sau nói với một người giúp việc đeo tạp dề khác. “...và đem i-ốt lên lầu cho Martha, Billy Stubbs cứ gỡ ghẻ của nó và Eric Whalley thì rỉ mủ ra khắp khăn trải giường – bệnh trái rạ trên hết mọi thứ,” bà ta không nói với người nào cụ thể, và rồi bà gặp phải thầy Dumbledore và bà đứng lặng người giữa lối đi, có vẻ kinh ngạc như thể thấy một con hươu cao cổ vừa mới bước qua ngưỡng cửa nhà bà. “Chào bà,” thầy Dumbledore nói, giơ một bàn tay ra. Bà Cole chỉ há hốc mồm. “Tên tôi là Albus Dumbledore. Tôi đã gửi cho bà một lá thư xin được gặp và bà đã tử tế mời tôi đến đây vào ngày hôm nay.” Bà Cole chớp mắt. Dường như quyết định rằng thầy Dumbledore không phải là một ảo giác, bà nói giọng yếu ớt, “À phải. Thôi... thôi thì... Anh nên đi vào phòng của tôi. Vâng.” Bà dẫn thầy Dumbledore vào một căn phòng nhỏ có vẻ như nửa là phòng khách nửa là phòng làm việc. Nó cũng sơ sài như hành lang và bàn này ghế nọ không đồng bộ. Bà mời thầy Dumbledore ngồi xuống một cái ghế ọp ẹp và tự bà cũng ngồi xuống phía sau một cái bàn làm việc bừa bộn lộn xộn, trố mắt nhìn thầy lo lắng. “Tôi đến đây, như tôi đã viết cho bà trong lá thư, để thảo luận về Tom Riddle và thu xếp tương lai cho cậu bé,” thầy Dumbledore nói. “Ông là thân nhân của nó à?” Bà Cole hỏi. “Không, tôi là một giáo viên,” thầy Dumbledore nói. “Tôi đến đây để đề nghị Tom vào học ở trường của tôi.” “Vậy trường của ông là trường gì?” “Tên trường là Hogwarts,” thầy Dumbledore nói. “Và vìsao ông lại quan tâm đến Tom?” “Chúng tôi tin là cậu bé có những phẩm chất mà chúng tôi đang tìm kiếm.” “Có phải ý ông nói là nó xin được học bổng? Nó làm sao mà xin được? Nó chưa bao giờ nộp đơn xin cái nào.” “À, tên của cậu bé đã được ghi sẵn trong trường từ khi mới được sinh ra...” “Ai ghi danh cho nó? Cha mẹ nó à?” Chắc chắn bà Cole là một người đàn bà sắc sảo phiền phức. Dường như thầy Dumbledore cũng nghĩ như vậy, bởi vì giwof đây Harry thấy thầy rút nhẹ cây đũa phép ra khỏi túi của bộ đồ nhung đồng thời cầm lên một tờ giấy trắng bóc trên bàn của bà Cole. “Đây,” thầy Dumbledore nói, vẫy cây đũa phép một cái khi thầy đưa miếng giấy cho bà Cole, “tôi nghĩcái này sẽ khiến cho mọi thứ được rõ ràng.” Mắt bà Cole lé đi rồi ngay lại khi bà chăm chú nhìn vào tờ giấy trắng một hồi. “Có vẻ hoàn toàn hợp lệ,” bà nói vẻ yên tâm, đưa lại tờ giấy. Kế đến bà ngó thấy một chai rượu gin và hai cái ly mà chắc chắn là không hề tồn tại trước đó vài giây. “Ơ... cho phép tôi được mời anh một ly rượu gin nhé?” bà nói bằng một giọng cực kỳ tao nhã. “Cám ơn bà nhiều lắm,” thầy Dumbledore nói, tươi cười. Bà Cole chẳng mấy chốc đã tỏ rõ bà không phải tay mơ về chuyện uống rượu gin. Rót cho cả hai người những ly rượu đầy ắp, bà uống một hơi cạn ly của bà. Chép môi sảng khaois một cách thẳng thắn, bà mỉm cười với thầy Dumbledore lần đầu tiên, và thầy không chần chừ gì mà không tận dụng ngay cơ hội thuận lợi này. “Tôi đang tự hỏi liệu bà có thể kể cho tôi nghe tiểu sử của tom Riddle không? Tôi nghĩcấu ấy chào đời ở viện mồ côi này thìphải?” “Đúng vậy,” bà Cole nói, tự rót thêm rượu gin cho mình. “Tôi nhớ chuyện đó rõ như bất cứ chuyện nào khác, bởi vìtôi cũng chỉ mới bắt đầu làm việc ở đây vào lúc đo. Đêm giao thừa lạnh thấu xương, anh biết đấy, tuyết rơi dữ lắm. Đêm quái quỉ. Và cô gái ấy, không lớn tuổi hơn tôi lắm vào lúc đó, lê lết bước lên bực thềm cửa chính. Ôi, cô ta chẳng phải người đầu tiên. Chúng tôi đưa cô vào, và trong vòng một giờ đồng hồ sau cô ấy sanh ra đứa bé.” Bà Cole gật gù một cách đầy ấn tượng và làm thêm một ngụm gin thiệt to nữa. “Cô ấy có nói điều gìtrước khi chết không?” Thầy Dumbledore hỏi. “Điều gìvề cha của đứa bé chẳng hạn?” “À, có đấy, như vẫn thường xảy ra,” bà Cole nói, lúc này bà ta dường như đang cao hứng, với ly rượu gin trong tay và một thính giả háo hức muốn nghe bà kể chuyện. “Tôi nhớ cô ấy nói với tôi: “tôi hy vọng bé giống cha bé” và tôi không nói dối đâu nhé, cô ấy hy vọng như thế là đúng, bởi vì cô ấy xấu ơi là xấu – và rồi cô ấy bảo tôi đặt tên cho bé là Tom, theo tên ba của bé, và Marvolo, theo tên bố cô ta –vâng, tôi biết, tên buồn cười nhỉ? Chúng tôi đã thắc mắc phải chăng cô ấy đến từ một gánh xiếc – và cô ấy nói họ của đứa bé kia là Riddle. Và cô ấy chết ngay sau đó, không thốt thêm lời nào.” “Thế là chúng tôi đặt tên cho đứa bé ý như lời cô ấy dặn, dường như điều đó quan trọng đối với cô gái tội nghiệp ấy, nhưng chẳng thấy Tom hay Marvolo hay bất cứ Riddle nào đó đến đây tìm đứa bé, cũng chẳng có thân nhân nào cả, thành ra đứa bé ở lại viện mồ côi, và đã ở đây từ bấy đến giờ.” Gần như lơ đãng, bà Cole lại tự chuốc cho mình một ly rượu gin đầy ắp khác. Hai đốm hồng hồng đã hiện trên đôi gò má cao của bà. Rồi bà nói, “Nó là một thằng bé lạ lắm.” “Vâng,” thầy Dumbledore nói. “Tôi tin là cậu ấy có thể khác thường.” “Hồi còn sơ sinh nó cũng đã lạ rồi. Nó hầu như không khóc bao giờ, ông hiểu chứ. Và rồi, khi lớn thêm một tí, nó... kỳ quái lắm.” “Kỳ quái như thế nào?” Thầy Dumbledore nhã nhặn hỏi. “Chà, nó...” Nhưng bà Cole chợt ghìm lại, và ánh mắt dò hỏi qua ly rượu gin của bà về phía thầy Dumbledore không mơ hồ hay vớ vẩn chút nào. “Ông nói là chắc chắn nó được nhận vô trường của ông hả?” “Chắc chắn,” thầy Dumbledore nói. “Và không có điều gìtôi nói ra có thể thay đổi điều đó chứ?” “Không,” thaayd Dumbledore nói. “Dù gìđi nữa ông cũng đem thằng bé đi chứ?” “Dù gìđi nữa,” thầy Dumbledore trang nghiêm lặp lại. Bà Cole liếc thầy một cái như thể cân nhắc xem có thể tin được thầy hay không. Dường như bà quyết định là có thể tin, bởi vì bỗng nhiên bà nói thiệt nhanh, “Nó khiến những đứa trẻ khác sợ chết khiếp.” “Có phải bà muốn nói cậu ấy là kẻ hiếp đáp trẻ khác?” thầy Dumbledore hỏi. “Tôi nghĩchắc là nó có bắt nạt,” bà Cole nói, hơi cau mày, “nhưng rất khó mà bắt nó tại trận. Có những chuyện ngẫu nhiên... những chuyện quái quỉ...” Thầy Dumbledore không thúc giục bà Cole nói, nhưng Harry có thể thấy là thầy đang khoái nghe. Bà ta lại hớp thêm một ngụm rượu gin nữa và đôi má hồng của bà ta càng hồng ửng lên. “Con thỏ của Billy Stubbs... Chà, Tom nói là nó không làm chuyện đó và tôi thấy nó không thể nào làm nổi chuyện đó, nhưng dù có như thế, thì thỏ đâu có tự mình treo lên xà ngang hả?” “Không, tôi không nghĩvậy,” thầy Dumbledore khẽ nói. “Nhưng tôi mà biết nó làm cách nào mà leo được lên xà để làm chuyện đó thì cho tôi chết toi đi cho rồi. Tôi chỉ biết là nó và Billy đã cãi nhau ngày hôm trước. Và rồi...” Bà Cole lại ực thêm một hớp rượu gin nữa, lẫn này lại để nhểu một tí rượu xuống cằm, “...trong một dịp đi dã ngoại mùa hè... chúng tôi đưa bọn trẻ đi chơi ở thôn quê hay bờ biển, anh biết đấy, mỗi năm một lần... Chà, từ chuyến đi đó về sau Amy Benson và Dennis cứ dở tỉnh dở ngây, điều duy nhất mà chúng tôi có thể moi được từ hai đứa nó là tụi nó đã đi vô một cái hang với Tom Riddle. Có thể là tụi nó chỉ đi thám hiểm, nhưng tôi tin
  • 62. chắc là có chuyện gìđó đã xảy ra trong hang. Và, ôi thôi, có rất nhiều chuyện, những chuyện quái gở...” Bà ngó chừng thầy Dumbledore một lần nữa, và mặc dù hai má bà đã đỏ bừng, cái nhìn chòng chọc của bà vẫn nghiêm chỉnh. “Tôi cho là sẽ không có nhiều người tiếc nuối khi thấy nó ra đi đâu.” “Tôi chắc bà cũng hiểu rằng chúng tôi sẽ không giữ luôn cậu bé?” thầy Dumbledore nói, “Cậu bé sẽ trở về đây, ít nhất thìcũng vào mỗi mùa hè.” “Ồ, thôi cũng được, thế còn hơn bị que sắt rỉ nện vô mũi,” bà Cole nói, hơi bị nấc cục. Bà đứng lên, và Harry rất có ấn tượng khi thấy bà hết sức vững vàng, mặc dù chai rwouj gin giwof đây đã vơi hết hai phần ba. “Tôi đoán là anh muốn gặp nó?” “Rất muốn,” thầy Dumbledore nói, và thầy cũng đứng dậy. Bà Cole dẫn thầy đi ra khỏi văn phòng và đi lên một cầu thang bằng đá, vừa ra lệnh, vừa khiển trách những người giúp việc và lũ trẻ con khi bà đi ngang qua họ. Harry thấy tất cả lũ trẻ mồ côi đều mặc cùng một loại áo dài xám xịt. Trông chúng cũng được chăm sóc tương đối tốt, nhưng không thể chối rằng đó là một nơi khắc nghiệt cho trẻ con lớn lên. “Chúng ta đến nơi rồi,” bà Cole nói, khi họ quẹo qua chân cầu thang của tầng thứ hai và dừng lại bên ngoài cánh cửa thứ nhất trong một hành lang dài. Bà ta gõ lên cửa hai lần rồi bước vô phòng. “Tom à? Con có khách. Đây là ông Dumbledoreberton... Xin lỗi, Dunderbore. Ông ấy đến để nói với con... Thôi, ta sẽ để cho ông ấy nói.” Harry và hai Dumbledore đi vô phòng, và bà Cole đóng cửa phòng lại sau lưng họ. Đó là một căn phòng nhỏ trơ trụi hầu như không có gì ngoại trừ một cái tủ áo cũ và một cái khung giường sắt. Một cậu bé đang ngồi trên một đống mền xám, chân duỗi thẳng ra phía trước, tay cầm một cuốn sách. Chẳng có dấu vết gì của dòng họ Gaunt trên gương mặt của Tom Riddle. Merope đã đạt được ước nguyện lúc lâm chung: cậu bé là hình ảnh thu nhỏ của người cha đẹp trai, khá cao so với tuổi mười một, tóc đen và làn da tai tái. Mắt cậu bé hơi nheo lại khi ngắm cái bộ dạng kỳ quái của thầy Dumbledore. Hai bên im lặng một lúc. “Chào Tom,” thầy Dumbledore nói, vừa đi tới và giơ tay ra. Cậu bé do dự, rồi nắm lấy bàn tay người khách, hai người bắt tay nhau. Thầy Dumbledore kéo một cái ghế bằng gỗ cứng đến ngồi bên cạnh Riddle, khiến cho hai người trông hơi giống cảnh một bện nhân và khách thăm trong bệnh viện. “Tôi là giáo sư Dumbledore.” “Giáo sư?” Riddle lập lại. Nó tỏ vẻ lo lắng. “Có giống như “bác sĩ” không? Ông đến đây để làm gì? Có phải là bà ấy kêu ông tới khám tôi không?” Cậu bé chỉ về phía cánh cửa mà bà Cole vừa đóng lại khi bỏ đi. “Không, không,” thầy Dumbledore mỉm cười, nói. “Tôi không tin ông,” Riddle nói. “Bà ấy muốn để tôi khám bệnh, đúng không? Nói thiệt đi!” Cậu bé nói ba tiếng cuối với một sức mạnh dứt khoát gần như khích động. Đó là một mệnh lệnh và nó vang lên như thể trước đây cậu bé đã ra lệnh như vậy nhiều lần. Mắt cậu bé mở to và cậu nhìn trừng trừng thầy Dumbledore, thầy không đáp lại mà chỉ tiếp tục mỉm cười thoải mái. Vài giây sau Riddle ngưng chiếu tướng, mặc dù cậu trông có vẻ lo lắng hơn. “Ông là ai?” “Tôi vừa nói với em. Tôi là giáo sư Dumbledore và tôi làm việc ở một trường học có tên là Hogwarts. Tôi đến đây để mời em về học ở trường tôi – là trường mới của em, nếu em muốn học ở đó.” Phản ứng của Riddle trước việc này đáng ngạc nhiên nhất. Nó nhảy ra khỏi giường và lùi xa thầy Dumbledore, vẻ mặt giận dữ. “Ông ddnwgf hòng lừa tôi! Chỗ ông đến là nhà thương điên chứ gì? Giáo sư hả, ừ, dĩ nhiên... Này, tôi không đi đâu, hiểu không? Con mèo già ấy mới là kẻ nên vô nhà thương điên. Tôi không hề làm bất cứ điều gìnhỏ Amy Benson hay Dennis Bishop, và ông có thể hỏi chúng, chúng sẽ kể cho ông nghe!” “Tôi không đến từ nhà thương điên,” thầy Dumbledore kiên nhẫn nói. “Tôi là một giáo viên và, nếu em ngồi xuống bình tĩnh lại,tôi sẽ kể em nghe về trường Hogwarts. Dĩnhiên nếu em không muốn đi học ở trường đó thìkhông ai cưỡng ép em.” “Họ cứ thử cưỡng ép xem,” Riddle chế nhạo. “Hogwarts,” thầy Dumbledore nói tiếp, như thể thầy không hề nghe mấy lời vừa rồi của Riddle, “là một trường học dành cho những người có năng khiếu đặc biệt...” “Tôi không điên!” “Tôi biết em không điên. Hogwarts không phải là trường học cho người điên. Đó là trường học Pháp thuật.” Im lặng. Riddle đã đông cứng, mặt nó vô hồn, mắt nó đảo qua đảo lại giữa hai con mắt của Dumbledore, như thể tìm cách bắt quả tang một trong hai con mắt đó nói dối. “Pháp thuật?” Nó thìthầm lập lại. “Đúng vậy,” thầy Dumbledore nói. “Đúng là... đúng là pháp thuật là cái mà tôi có thể làm?” “Cái em có thể làm là những cái gì?” “Đủ thứ,” Riddle thì thào. Một nguồn cảm xúc sôi nổi trào dâng lên tới cổ nó, lan đến hai má hõm của nó; trông nó như đang lên cơn sốt. “Tôi có thể khiến đồ vật di chuyển mà không cần phải đụng tới chúng. Tôi có thể khiến thú vật làm những gìtôi muốn chúng làm, mà không cần huấn luyện chúng. Tôi có thể khiến chuyện xui xẻo xảy ra cho người ta nếu họ làm tôi bực mình. Tôi có thể khiến họ đau đớn nếu tôi muốn.” Hai chân Riddle đang run. Nó té nhào tới trước và lại ngồi dậy trên giường, đăm đăm nhìn hai bàn tay của nó, đầu nó cúi xuống như thể đang cầu nguyện. “Tôi biết tôi khác người,” nó thìthầm với mấy ngón tay run rẩy của mình. “Tôi biết tôi đặc biệt. Luôn luôn, tôi biết có cái gìđó.” “Ừ, em hoàn toàn đúng,” thầy Dumbledore nói, thầy không còn mỉn cười nữa mà chăm chú nhìn Riddle. “Em là một pháp sư.” Riddle ngẩng đầu lên. Mặt nó biến đổi: một niềm vui cuồng nhiệt hiện lên mặt nó, nhưng không hiểu vì sao điều đó không làm cho gương mặt nó đẹp trai hơn, mà ngược lại, nét mặt khéo tạc của nó dường như hung dữ hơn, biểu lộ vẻ tàn bạo hơn. “Ông cũng là pháp sư hả?” “Phải, tôi cũng là pháp sư.” “Chứng minh đi,” Riddle nói ngay, cũng bằng cái giọng ra lệnh mà nó đã dùng khi bảo “nói thiệt đi!” Thầy Dumbledore nhướn đôi chân mày, “Nếu em chịu đi học ở trường Hogwarts, tôi giao ước...” “Dĩnhiên em đồng ý!” “Vậy thìem phải xưng hô với tôi là “Thưa thầy” hay “Thưa ngài.”” Nét mặt Riddle đanh lại trong một thoáng ngắn ngủi trước khi nó nói với một cái giọng không thể cho là lễ phép được, “Tôi xin lỗi, thưa ngài. Ýem nói là... xin vui lòng, thưa thầy, xin thầy biểu diễn cho em xem...?” Harry chắc là thầy Dumbledore sẽ phải từ chối, ràng thấy sẽ nói với Riddle rằng sẽ có khối thì giờ cho những cuộc biểu diễn thực hành ở trường Hogwarts, ràng hiện giờ họ đang ở trong một tòa nhà đầy những dân Muggle và vìvậy phải cẩn thận. Nhưng nó hết sức ngạc nhiên thấy thầy Dumbledore rút ra cây đũa phép từ túi áo bên trong của cái áo lớn, chĩa nó vào cái tủ quần áo xập xệ ở góc phòng, và vẫy một cái không có chủ đích. Cái tủ áo bùng cháy. Riddle nhảy dựng lên; Harry khó lòng trách nó rú lên trong cơn kinh hoàng và tức giận; tất cả tài sản quí giá nhất của nó hẳn là để ở trong tủ cả. Nhưng vừa đúng lúc Riddle quay lại sừng sộ với thầy Dumbledore, ngọn lửa biến mất, để lại cái tủ áo hoàn toàn nguyên vẹn. Riddle hết trợn mắt ngó cái tủ lại ngó tới thầy Dumbledore; bỗng nhiên, nó chỉ vào cây đũa phép, vẻ mặt ham hố. “Em có thể kiếm một cây như vậy ở đâu?”
  • 63. “Đừng sốt ruột,” thầy Dumbledore nói. “Tôi nghĩcó cái gìđó đang tìm cách ra khỏi tủ áo của em.” Và quả nhiên, có thể nghe được tiếng lục cục yếu ớt vang lên bên trong tủ. Lần đầu tiên Riddle tỏ vẻ hoảng sợ. “Mở cửa ra,” thầy Dumbledore nói. Riddle ngập ngừng, rồi băng ngang căn phòng và mở tung cánh cửa tủ áo. Một hộp giấy bồi nhỏ đang lắc lư và kêu lục cục như thể có nhiều con chuột điên mắc bẫy bên trong hộp. “Đem nó ra,” thầy Dumbledore nói. Riddle bưng cái hộp tưng tưng ấy xuống. Nó có vẻ mất tinh thần. “Trong hộp đó có cái gìem không nên giữ lại không?” thầy Dumbledore hỏi. Riddle ném cho thầy Dumbledore một ánh amwts dài, trong trẻo, đắn đo. “Dạ, thưa thầy, em nghĩlà có.” Cuối cùng nó nói, bằng một giọng nói không biểu cảm lắm. “Mở nó ra,” thầy Dumbledore nói. Riddle mở nắp hộp và lấy từng món đồ trong hộp ra đặt lên giường mà không nhìn ngắm chúng. Harry, những tưởng là cái gì đó lý thú lắm, lại thấy một mớ vật dụng thường ngày nho nhỏ: trong mớ đó có một cái đồ chơi trẻ con, một cái vòng bằng bạc, và một cái kèn ooc. Được ra khỏi cái hộp, mớ đồ vật ngừng run rẩy và nằm im trên lớp chăn mỏng. “Em nên đem trả chúng lại cho chủ của chúng kèm theo lời xin lỗi,” thầy Dumbledore điềm tĩnh nói, vừa cất cây đũa phép trở vô trong túi áo. “Thầy sẽ biết em có làm đúng như vậy hay không. Và em coi chừng: ăn cắp không được tha thứ ở trường Hogwarts đâu.”
  • 64. Riddle không tỏ ra một chút bối rối nào. Nó vẫn đăm đăm nhìn thầy Dumbledore một cách lạnh lùng và cân nhắc. Cuối cùng nó nói bằng một giọng không âm sắc, “Dạ, thưa thầy.” “Ở trường Hogwarts,” thầy Dumbledore nói tiếp, “các thầy cô sẽ dạy em không những cách sử dụng Pháp thuật mà cả cách kiềm chế Pháp thuật. Lâu nay em vẫn dùng năng lực của em – thầy chắc là tình cờ thôi – theo cái cách mà ở trường Hogwarts không day và cũng không chấp nhận. Em không phải là người đầu tiên, cũng không phải là người cuối cùng, để cho năng lực huyền bí của mình thoát vòng kiềm tỏa. Nhưng em nên biết là trường Hogwarts có thể đuổi học sinh, và Bộ Pháp thuật... Ừ, có mộ bộ như vậy, sẽ trừng phạt những kẻ vi phạm luật một cách nghiêm khắc. Tất cả pháp sư mới phải chấp nhận tôn trọng luật của chúng ta, khi gia nhập thế giới Pháp thuật.” “Dạ, thưa thầy,” Riddle lại nói. Không thể đoán được là Riddle đang nghĩ gì; gương mặt nó vẫn cứ trơ trơ khi nhặt cái kho tàng nho nhỏ những đồ ăn cắp của nó bỏ trở vô cái thùng giấy. Làm xong nó quay sang thầy Dumbledore nói trơ tráo, “Em không có tiền.” “Điều đó giải quyết dễ thôi,” thầy Dumbledore nói, rút trong túi áo ra một bao tiền bằng da. “Trường Hogwarts có quỹ dành cho những học sinh nào cần trợ giúp để mua sách vở và quần áo. Có thể em phải mua lại sách thần chú cũ và những thứ khác không được mới nguyên, nhưng...” “Thầy mua sách thần chú ở đâu?” Riddle chen ngang, nó đã nhận túi tiền nặng mà không hề cảm ơn thầy Dumbledore, và bây giờ nó đang kiểm tra đồng Galleon bằng vàng dày. “Ở Hẻm Xéo,” thầy Dumbledore nói. “Thầy có đây danh mục Sách giáo khoa và học cụ em cần dùng ở trường. Thầy có thể giúp em tìm được mọi thứ...” “Thầy sẽ đi với em à?” Riddle hỏi, ngước lên nhìn. “Đương nhiên, nếu em...” “Em không cần thầy.” Riddle nói. “Em quen tự mình làm mọi chuyện, em luôn đi khắp London một mình. Làm thế nào đi tới Hẻm Xéo... thưa thầy?” Nó thêm hai tiếng cuối khi bắt gặp ánh mắt thầy Dumbledore. Harry nghĩ thầy Dumbledore sẽ nhất định đòi đi cùng Riddle, nhưng một lần nữa nó bị ngạc nhiên. Thầy Dumbledore đưa Riddle cái phong bì đựng danh sách những thứ cần dùng ở trường, và sau khi hướng dẫn chính xác cho Riddle đường đi từ Viện mồ côi đến Hẻm Xéo, thầy nói, “Em sẽ nhìn thấy nó, mặc dù dân Muggle chung quanh em – tức là những người không có năng lực pháp thuật – không nhìn thấy. Hãy tìm ông Tom – người pha rượu, cũng dễ nhớ vìtrùng tên với em...” Riddle giựt giựt cơ mặt một cách khó chịu như thể cố xua đuổi một con ruồi cà chớn. “Em không thích cái tên Tom à?” “Có cả đống người tên Tom,” Riddle lẩm bẩm. Đột nhiên, như thể nó không cách nào nén câu hỏi xuống được nữa, như thể câu hỏi vọt ra bất chấp muốn của nó, nó hỏi: “Ba của em có phải là pháp sư không? Họ nói với em ông ấy cũng tên là Tom Riddle.” “Thầy e là thầy không biết,” thầy Dumbledore nói, giọng dịu dàng. “Má em không thể nào có pháp thuật, chứ nếu có thì bà đâu bị chết,” Riddle nói, tự nói với mình hơn là nói với thầy Dumbledore. “Chắc phải là ba. Vậy – khi nào em có đủ đồ đạc –khi nào em đến cái trường Hogwarts đó?” “Tất cả chi tiết đều có trên trang giấy da thứ hai trong phong bì gửi cho em đó,” thầy Dumbledore nói. “Em sẽ rời Nhà ga Ngã tư vua vào ngày mồng một tháng chín. Vé tàu lửa cũng ở trong phong bì.” Riddle gật đầu. Thầy Dumbledore đứng dậy và giơ tay ra một lần nữa. Bắt tay thầy, Riddle nói, “em có thể nói chuyện với rắn. EM biết điều này khi tụi em đi dã ngoại ở miền quê. Chúng kiếm em, húyt gió gọi em. Điều đó bình thường đối với một pháp sư không?” Harry đã thấy là Riddle đã nhịn tới lúc đó mới kể ra năng lực kỳ lạ nhất của mình; nhất định là để gây ấn tượng. “Điều đó không bình thường,” thầy Dumbledore nói, sau một chút ngập ngừng, “nhưng không phải là chuyện chưa từng nghe nói.” Giọng thầy bình thường nhưng ánh mắt thầy tò mò dò xét gương mặt Riddle. Hai người – một người đàn ông và một cậu bé – đứng chăm chú nhìn nhau một lúc. Rồi hai bàn tay rời nhau; thầy Dumbledore đi ra cửa. “Tạm biệt nhé, Tom. Thầy sẽ gặp lại em ở trường Hogwarts.” “Thầy nghĩ vậy là được rồi,” cụ Dumbledore tóc bạc bên cạnh Harry nói, và vài giây sau, hai thầy trò lại một lần nữa nhẹ tênh bay xuyên bóng tối, đáp xuống văn phòng hiện thời, đứng đối diện nhau. “Ngồi xuống,” cụ Dumbledore nói khi đáp xuống bên cạnh Harry. Harry vâng lời, đầu óc vẫn còn đầy ắp những hình ảnh nó vừa mới xem. “Hắn tin điều đó nhanh hơn con - con nói là khi thầy bảo hắn là một pháp sư,” Harry nói. “Khi bác Hagrid nói với con, thoạt đầu con không tin.” “Đúng vậy, Riddle hoàn toàn sẵn sàng tin rằng hắn “đặc biệt” như chữ hắn dùng,” cụ Dumbledore nói. “Vậy thầy có biết...?” Harry hỏi. “Lúc đó thầy có biết là thầy đã gặp pháp sư Hắc ám nguy hiểm nhất của mọi thời đại hay không à?” cụ Dumbledore nói. “Không. Thầy không hề biết sau này y sẽ lớn lên thành Chúa tể Hắc ám. Tuy nhiên, thầy chắc chắn có chú đến y. Thầy trở về trường Hogwarts với định sẽ để mắt tới cậu học trò này, dù gìđi chăng nữa thìđó cũng là điều thầy rất nên làm, bởi vìy cô độc, không bạn bè, nhưng điều này thầy cảm thấy nên làm vìlợi ích của những người khác nữa. Năng lực của y, như con đã nghe, phát triển một cách đáng ngạc nhiên so với một pháp sư trẻ và – vừa thú vị vừa đáng sợ - y đã khám phá rằng y có cách điều khiển chúng và bắt đầu sử dụng chúng có thức. Và như con đã thấy, chúng không phải là những thí nghiệm tùy tiện hay gặp ở những pháp sư trẻ: y đã dùng Pháp thuật để chống lại người khác, để đe dọa, trừng phạt, hay để chế ngự. Những câu chuyện nhỏ về con thỏ bị treo trên xà ngang hay cô bé và cậu bé nọ bị dụ vô hang là cho thấy rõ nhất... Tôi có thể khiến họ đau đớn nếu tôi muốn...” “Và hắn là kẻ hiểu Xà ngữ,” Harry nói chêm vô. “Phải, quả thật: một năng lực hiếm thấy, và là một năng lực được coi là có liên hệ với Nghệ thuật hắc ám, mặc dù như chúng ta đều biết, trong số những người tốt và người vĩ đại cũng có nhiều người hiểu Xà ngữ. Thật ra, khả năng nói với rắn của y không làm cho thầy khó chịu bằng bản năng tàn ác, kín đáo, và thống trị rất hiển nhiên ở y. Thời gian lại chơi khăm thầy trò ta nữa rồi,” cụ Dumbledore nói, vừa chỉ ra bầu trời tối thui bên ngoài cửa sổ. “Nhưng trước khi chúng ta tạm biệt nhau, thầy muốn lưu con một số đặc điểm của những cảnh mà chúng ta vừa chứng kiến, bởi vì những đặc điểm đó có nhiều nghĩa đối với những vấn đề mà chúng ta sẽ thảo luận trong những buổi học sau này. Trước tiên, thầy hy vọng con có để phản ứng của Riddle khi thầy nói đến một người có cùng tên “Tom” với y.” Harry gật đầu. “Qua đó y biểu lộ sự khinh miệt bất cứ cái gì khiến liên hệ với người khác, bất cứ cái gì làm cho y bình thường. Ngay cả khi ấy, y đã ao ước khác thường, xa cách, khét tiếng. Ythay đổi tên y, như con biết, trong vòng vài năm sau buổi nói chuyện đó và tạo ra cái mặt nạ “Chúa tể Voldermort” mà y đeo khá lâu. Ta tin là con cũng để thấy Tom Riddle là kẻ rất tự phụ, bí ẩn, và rõ ràng là không có bạn bè? Y không cần giúp đỡ hay đồng hành trong chuyến đi đến Hẻm Xéo. Y thích hành động một mình. Gã Voldermort trưởng thành cũng y như vậy. Con sẽ nghe nhiều Tử thần thực tử tuyên bố rằng chúng là thân tín của y, rằng chỉ có mỗi mình chúng gần gũi với y, thậm chíhiểu y. Chúng chỉ nói dối. Chúa tể Voldermort không bao giờ có một người bạn, thầy cũng không tin y muốn có bạn bao giờ. “Và cuối cùng – thầy hy vọng con không đến nỗi quá buồn ngủ mà không chú đến điều này, Harry à – Thằng bé Tom Riddle thích thu thập chiến tích. Con đã thấy cái hộp đựng những thứ đồ ăn cắp mà y giấu trong phòng. Những thứ đó đã được lấy từ những nạn nhân mà y đã bắt nạt, những kỷ vật, nếu con muốn gọi vậy, của những trò pháp thuật đặc biệt khó chịu. Hãy nhớ cái khuynh hướng giống chim ác là này, đặc biệt, sẽ quan trọng về sau này. Và bây
  • 65. giờ thìtới giờ đi ngủ thật rồi.” Harry đứng dậy. Khi nó Khi nó đi ngang qua căn phòng, mắt nó lại nhìn lên cái bàn nhỏ nơi nó đã nhìn thấy chiếc nhẫn của Marvolo Gaunt lần trước, nhưng chiếc nhẫn không còn ở đó nữa. “Gìđó, Harry?” cụ Dumbledore hỏi, vìthấy Harry bỗng nhiên đứng lại. “Cái nhẫn biến mất rồi,” Harry nói, nhìn quanh quất. “Nhưng con nghĩthầy có thể có cái kèm acmonia hay cái gìđó.” Cụ Dumbledore nhướn mắt qua tròng kính hình nửa vầng trăng, cười toe toét với nó. “Tinh ranh đấy, Harry à, nhưng cái kèn acmonia thìchỉ mãi là cái kèn acmonia.” Và kèm theo chú thích bíẩn đó, cụ vẫy tay chào Harry, nó tự hiểu là mình đã bị đuổi ra. Chương 14 Phúc lạc dược Harry có lớp Dược thảo học vào tiết đầu buổi sáng hôm sau. Trong bữa điểm tâm nó đã không thể kể cho Ron và Hermione nghe về buổi học tối hôm trước với thầy Dumbledore vì sợ bị nghe lén, nhưng bù lại nó cung cấp đầy đủ chi tiết cho tụi kia khi cả bọn băng qua mảnh vườn rau đến khu nhà lồng kiếng. Ngọn gió tàn khốc hồi cuối tuần rốt cuộc đã lịn đi; màn sương mù kỳ lạ lại trùm lên cảnh vật, và tụi nó mất nhiều thời gian hơn bình thường mới tìm ra được đúng căn nhà kiếng. “Mèn ơi, dễ sợ, Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy thời niên thiếu,” Ron nói khẽ khi tụi nó ổn định chỗ ngồi quanh một gốc cây Bẫy – Lèo đầy u nần – đề tài nghiên cứu của kỳ học này – và bắt đầu đeo găng tay bảo hộ vô. “Nhưng mà mình vẫn không hiểu tại sao thầy Dumbledore lại cho bồ xem tất cả những chuyện đó. Ýmình là, chuyện đó hay thiệt và vân vân... nhưng mà thầy muốn gì?” “Ai mà biết,” Harry vừa nói vừa gắn miếng bảo hộ răng lợi. “Nhưng thầy nói nó quan trọng và sẽ giúp mình sống sót.” “Mình thấy hay thiệt chứ,” Hermione nghiêm túc nói. “Chắc chắn là cố gắng biết được càng nhiều càng tốt về Voldermort thìrất khôn ngoan. Chứ không thì làm sao bồ biết được nhược điểm của hắn?” “Thế bữa tiệc vừa rồi của Thầy Slughorn ra sao?” Harry hỏi một cách khó khăn qua miếng bảo vệ răng lợi. “Ồ, kể ra cũng vui lắm,” Hermione vừa đeo kính bảo hộ vừa nói. “Ý mình là, thầy hơi bị nói dài nói dai về những thành tích lừng lẫy, và tất nhiên thầy xun xoe McLaggen vìnó quen biết lớn, nhưng thầy đã cho tụi này ăn ngon đã đời và thầy còn giới thiệu tụi này với Gwenog Jones nữa.” “ Gwenog Jones hả?” Ron nói, hai mắt nó mở lớn đằng sau cặp kính bảo hộ. “ Gwenog Jones? Đội trưởng đội Holyhead Harrypies hả?” “Đúng vậy,” Hermione nói. “Theo mình nghĩthìcô ta hơi bị tự phụ, nhưng mà...” “Đằng kia nói dóc đủ rồi nghe!” Giáo sư Sprout rầy bằng giọng dứt khoát, vừa lướt thật nhanh đến bên tụi nó, vẻ mặt nghiêm khắc. “Các trò còn lẹt đẹt tuốt đằng sau mọi người, ai cũng đã bắt đầu rồi, và Neville đã hái được trái đầu tiên!” Tụi nó nhìn quanh; quả thực, Neville đang ngồi đằng kia với đôi môi ứa máu và nhiều vết cào xước ghê rợn dọc theo một bên gương mặt, tay thì nắm chặt một vật màu xanh bự bằng trái nho đang phập phồng. “Dạ, thưa cô, tụi con bắt đầu ngay bây giờ!” Ron nói, và khi bà Sprout quay đi, nó nói thêm, “lẽ ra nên xài Phép-trùm-kín-mít, Harry hả.” “Không, không nên chút nào!” Hermione nói và ngay lập tức vẻ mặt dữ tợn, như mọi lần, khi đụng chuyện dính dàng tới Hoàng Tử lai và bùa phép của hắn. “Thôi, làm đi... tụi mình bắt đầu đi...” Cô nàng đưa mắt nhìn hai đứa kia ngại ngùng; hai đứa nó bèn hít một hơi thật sâu rồi bổ nhào xuống gốc cây u nần nằm giữa tụi nó. Gốc cây bừng sống dậy tức thì; từ phía trên cùng của gốc cây phóng ra những thân dây leo đầy gai giống như cây gai bụi, quất vun vút vào không trung. Một dây bự quấn vào mái tóc Hermione, và Ron chống trả lại nó bằng một cái kéo chuyên cắt cành; Harry lừa được hai nhánh dây leo vô bẫy và thắt gút chúng lại với nhau; Giữa những nhánh cây như vòi bạch tuột này hở ra một cái lỗ; Hermione dũng cảm thọc tay vô cái lỗ này, thế là cánh tay cô nàng bị mắc kẹt đến tận cùi chỏ; Harry và Ron vừa kéo vừa vặn vẹo mấy sợi dây leo, buộc cái lỗ mở ra lần nữa, và Hermione rút được cánh tay của mình ra, mấy ngón tay nắm chặt một cái giống như cái mà Neville đã hái được. Ngay lập tức, mấy cọng dây leo đầy gai tự thu gọn vào gốc cây, và cái gốc cây sần sùi lại nằm ìra đó trông chẳng khác nào một khối gỗ chết. “Mấy bồ biết không, mai mốt mình có vườn riêng, mình chẳng đời nào trồng cái đồ quỷ này trong vườn hết,” Ron nói, vừa đẩy cặp kính bảo hộ lên tuốt trên trán vừa lau mồ hôi rịn ra trên mặt. “Đưa mình cái chén,” Hermione nói, tay nắm chặt trái đậu phập phồng vừa giơ thẳng cánh tay ra xa; Harry chuyền tới một cái chén và cô nàng thả trái đậu vô đó với một vẻ ghê tởm trên mặt. “Đừng trù trừ, vắt nó ngay, chúng ngon nhất khi còn tươi!” Giáo sư Sprout chỉ đạo. “Dù sao đi nữa,” Hermione nói, tiếp tục câu chuyện bị gián đoạn như thể chưa hề bị gốc cây ấy quật cho một trận, “Thầy Slughorn cũng sắp tổ chức một bữa tiệc Giáng sinh, Harry à, phen này bồ đừng hòng đánh bài chuồn nữa bởi vìthầy đã thực sự biểu mình kiểm tra xem bồ rảnh buổi tối nào, cho nên bồ cứ yên chílà bữa tiệc Giáng sinh sẽ tổ chức đúng vào ngày bồ có thể tham dự.” Harry rên lên. Cùng lúc Ron đứng dậy, nó đang cố gắng bóp nát trái đậu ở trong chén ra bằng cách ấn cả hai bàn tay lên trái đậu và đè nghiến xuống bằng hết sức mình. Nó tức giận nói, “Lại một bữa tiệc nữa dành cho học trò cưng của Thầy Slughorn hả?” “Ừ, chỉ trong vòng câu lạc bộ Slug mà thôi,” Hermione nói. Trái đậu bay vọt ra khỏi mấy ngón tay Ron, đụng vào kiếng của tòa nhà, dội trở lại, trúng ngay chẩm đầu của giáo sư Sprout, làm văng đi cái nón cũ kỹ vá víu của bà. Harry rượt theo trái đậu, tóm nó lại; Khi nó quay về chỗ cũ thìHermione đang nói, “Này nhé, mình không hề đặt ra cái tên “câu lạc bộ Slug”...” “Câu lạc bộ Slug,” Ron lặp lại với cái điệu cười khinh khỉnh đáng bì với Malfoy. “Nghe phát chướng, mà thôi, mình hy vọng bồ khoái bữa tiệc. Sao bồ không cặp luôn với McLaggen, để Thầy Slughorn phong luôn bồ với hắn làm Vua Slug và Hoàng hậu Slug...” “Tụi này được phép dẫn theo bạn,” Hermione nói, chẳng biết vì l do gì mà đỏ nhừ cả mặt mũi, “và mình đã tính rủ bồ đi, nhưng nếu bồ cho là chuyện vớ vẩn thìmình sẽ không làm phiền bồ đâu!” Harry bỗng nhiên ước gì trái đậu đã bay xa hơn một chút, để nó khỏi phải ngồi đây với đôi bạn này. Bị hai bạn làm ngơ, Harry vớ cái chén đựng trái đậu và bắt đầu tìm cách tách vỏ đậu ra bằng những phương pháp mạnh mẽ nhất và ồn ào nhất mà nó có thể nghĩ ra; nhưng thiệt xui xẻo, nó vẫn phải nghe từng lời trong câu chuyện của hai đứa kia. “Bồ tính rủ mình đi hả?” Ron hỏi, giọng khác đi liền. “Ừ,” Hermione tức giận nói. “Nhưng rõ ràng là bồ muốn mình cặp với McLaggen hơn...” Hai đứa cùng nín thinh trong khi Harry tiếp tục dùng cái bay dộng vô trái đậu ngoan cố. “Không, mình đâu có muốn...” Ron nói, giọng nhỏ rí. Harry dộng hụt trái đậu, cái bay va trúng vô chén làm cái chén bể tan tành. “Chữa lành,” nó hấp tấp nói ngay, vừa dùng cây đũa phép khều khều mấy cái miểng chén, chúng bèn vọt trở lại vị trí cũ và liền lại y như trước. Tuy nhiên vụ bể chén dường như nhắc nhở Ron và Hermione nhớ ra sự hiện diện của Harry. Hermione đâm ra sượng sùng và lập tức lật rối tinh beng cuốn sách Cây ăn thịt trên thế giới để tìm ra cách vắt nước đậu Bẫy Lèo cho đúng; Ron ngược lại, coi bộ ngượng nghịu nhưng vui ra mặt. “Đưa cái đó lại đây, Harry,” Hermione nói gấp. “Sách nói tụi mình nên đâm nó bằng cái gìđó nhọn...” Harry đưa cho Hermione cái chén đựng trái đậu; cả nó và Ron đều đeo lại kính bảo hộ lên mắt và bổ nhào xuống gốc cây một phen nữa. Trong lúc vật lộn với một nhánh dây leo đầy gai lăm le siết họng, Harry nghĩ, thực ra thì nó cũng không đến nỗi ngạc nhiên lắm; nó đã có linh cảm mơ hồ là điều này có thể xảy ra, sớm hơn hay muộn hơn thôi. Nhưng nó không biết chắc là nó sẽ có cảm nghĩ thế nào về chuyện đó... Nó và Cho bây giờ nhìn nhau đã thấy
  • 66. ngượng ngùng, đừng nói chi mở miệng chuyện trò với nhau; Nếu Ron và Hermione bắt đầu hẹn hò với nhau rồi sau đó chia tay nhau, thì sẽ ra sao? Liệu tình bạn của tụi nó có còn hay không? Harry nhớ lại mấy tuần lễ mà hai đứa tụi nó không thèm nói chuyện với nhau hồi còn học năm thứ ba; nó đã không vui sướng gì khi phải làm cái chuyện bắc cầu cho hai đứa nó xáp trở lại. Mà rồi, nếu hai đứa nó không chia tay thì sao? Nếu tụi nó kết nhau như anh Bill và chị Fleur thìsao, và lúc đó sự có mặt của người thứ ba chẳng khác nào kỳ đà cản mũi, liệu nó có bị ra rìa vĩnh viễn không? “Tóm được rồi!” Ron hét lên, kéo ra khỏi gốc cây một trái đậu thứ hai vừa đúng lúc Hermione tìm được cách tách vỏ được trái thứ nhất, thế là cái chén đầy những hột đậu ngọ nguậy như những con trùn xanh lá cây. Phần còn lại của buổi học qua đi mà không ai nhắc nhở gìđến tiệc tùng của Thầy Slughorn nữa. Mặc dù Harry để ý quan sát hai đứa bạn rất kỹ trong mấy ngày tiếp theo, nhưng Ron và Hermione dường như chẳng khác xưa lắm, ngoại trừ cái chuyện tụi nó tỏ ra lịch sự với nhau hơn. Harry đồ chừng nó phải chờ để coi chuyện gì xảy ra dưới ảnh hưởng của bia bơ trong căn phòng Thầy Slughorn có đèn thắp mờ mờ vào đêm mở tiệc. Còn trong lúc này thì nó có những mối lo cấp bách hơn. Katie Bell vẫn còn nằm trong bệnh viện Thánh Mungo, không có mấy triển vọng xuất viện sớm, điều này có nghĩa là đội bóng Gryffindor đầy hứa hẹn mà Harry đã bỏ công luyện tập công phu kể từ tháng Chín đến giờ đâm ra thiếu mất một Truy thủ. Nó cứ chần chừ việc trám chỗ Katie với hy vọng cô sẽ trở lại đội, nhưng trận đấu khai mạc giữa đội nó và đội Slytherin đang tới gần, và nó rốt cuộc đành phải chấp nhận cái thực tế là Katie không thể về kịp để dự cuộc thi đấu. Harry không nghĩ là nó có thể gồng mình làm thêm một cuộc thi đấu thử nữa cho tất cả học sinh nhà Gryffindor để tuyển chọn một Truy thủ bổ sung. Một hôm, với cõi lòng nặng nề, mà duyên cớ chẳng dính dáng gì tới Quidditch, Harry chặn đường Dean sau buổi học môn Biến Hình. Hầu hết những học sinh khác trong lớp đã ra về, mặc dù cả đống chim vàng líu lo vẫn còn bay vòng vòng quanh phòng học. Toàn bộ lũ chim ấy là sáng tác của Hermione; không một ai khác có thể phù phép thành công dù chỉ biến từ không khíra một cọng lông vũ. “Bồ còn hứng chơi ở vị tríTruy thủ không?” “Cái gì...? Còn chứ, dĩ nhiên!” Dean hồi hộp nói. Harry nhìn qua vai Dean, thấy Seamus Finnegan liệng sách vô cặp, vẻ mặt chua chát. Một trong những l do khiến Harry ngại ngùng mời Dean vào đội bóng là nó biết Seamus sẽ không vui. Nhưng mặt khác, nó phải làm điều gì đó có lợi nhất cho đội, mà Dean thìbay trội hơn Seamus trong kỳ thi đấu tuyển chọn cầu thủ. “Vậy thì, bồ vô đội,” Harry nói. “Tối nay có một buổi tập lúc bảy giờ đúng.” “Được,” Dean nói. “Đã quá, Harry! Mèn ơi, mình phải nói cho Ginny biết ngay mới được!” Anh chàng vọt ngay ra khỏi phòng, bỏ lại Harry và Seamus với nhau, một khoảnh khắc không dễ chịu chút nào, lại bị khó chịu hơn khi bầy chim én vàng của Hermione cứ bay vi vút phía trên đầu tụi nó và một con ị luôn một cái trên đầu Seamus. Seamus không phải là người duy nhất bất bình về việc chọn người thay thế Katie. Tiếng xì xào vang khắp phòng sinh hoạt chung về chuyện Harry giờ đây đã chọn hai đứa bạn cùng lớp vô đội tuyển. Nhưng vì Harry đã từng chịu đựng những lời đồn đại ì xèo còn tệ hơn chuyện này trong đời học sinh của nó, nên nó cũng chẳng bực tức gì cho lắm, dù vậy, áp lực phải thắng trong trận đấu sắp tới với đội tuyển Slytherin vẫn gia tăng. Nếu đội Gryffindor thắng, Harry biết là cả Nhà sẽ quên ngay chuyện họ đã phê phán nó và sẽ thề thốt rằng họ luôn luôn biết đội nhà là một đội tuyệt vời. Nếu tụi nó thua... Chà, Harry chua chát nghĩ, nó còn phải chịu đựng những lời xìxầm tệ hơn nhiều... Khi nhìn Dean bay vào buổi tối hôm đó, Harry chẳng có lý do gì để hối tiếc sự chọn lựa của nó; Dean chơi nhịp nhàng với Ginny và Demelza. Hai tấn thủ Peakes và Coote thìluôn tấn tới trong luyện tập. Vấn đề duy nhất là Ron. Từ lâu Harry đã biết Ron là một cầu thủ không ổn định, nó bị chứng căng thẳng thần kinh và thiếu tự tin, lại không may, cái viễn cảnh lù lù của trận đấu khai mạc mùa bóng dường như khơi lên tất cả những nỗi bất an trước đây của nó. Sau khi để lọt nửa tá gôn, hầu hết do Ginny tấn công, kỹ thuật của nó càng lúc càng trở nên lung tung beng cho đến khi nó kết thúc bằng một cú thụi ngay miệng Demelza Robin. “Xin lỗi nha, Demelza, chỉ là tai nạn tình cờ, anh thiệt tình xin lỗi!” Ron hét vói theo cô bé trong khi cô nàng lảo đảo đáp xuống đât, nhểu máu khắp nơi. “Anh chỉ...” “...hoảng sợ,” Ginny giận dữ nói, cô bé vừa đáp xuống bên cạnh Demelza, và nói, “Chữa lành chữa lặn.” “Và Ginny này, đừng gọi Ron là đồ đần độn, em không phải là đội trưởng...” “Thôi đi, anh có vẻ quá bận đến nỗi không có thìgiờ gọi anh ta là đồ đần độn nên em nghĩphải có ai đó gọi giùm...” Harry ráng nín cười. “Các bạn, bay lên không, chúng ta tiếp tục...” Nhìn chung đó là một trong những buổi tập tệ nhất của tụi nó trong suốt học kỳ, tuy thế Harry cảm thấy rằng thành thật không phải là chính sách tốt nhất khi mà tụi nó đang đến sát ngày thi đấu. “Giỏi lắm, các bạn à, mình tin chúng ta sẽ đè bẹp đội Slytherin,” nó hùng hồn nói, và các Tấn thủ cùng Truy thủ rời phòng thay ddood tương đối hài lòng với bản thân. “Mình đã chơi dở như một bịch cứt rồng,” Ron nói bằng một giọng không thực thà lắm khi cánh cửa được đóng mạnh lại sau lưng Ginny. “Đâu có, bồ chơi đâu có dở,” Harry kiên quyết nói. “Bồ là thủ môn giỏi nhất mà mình đã tuyển được, Ron à. Vấn đề duy nhất của bồ là tinh thần.” Nó tiếp tục lên dây cót thần kinh cho Ron suốt trên đường trở về tòa lâu đài, và khi tụi nó lên tới tầng lầu thứ hai, thì Ron đã tỏ ra hơi hơi phấn khởi hơn. Tuy nhiên, lúc Harry đẩy tấm thảm thêu để mở lối đi tát thông thường của tụi nó về tháp Gryffindor, thì hai đứa nó bắt gặp Dean và Ginny đang quấn lấy nhau trong vòng tay ôm chặt, hôn nhau tha thiết như thể bị dán dính vào nhau. Dường như có cái gì bự chảng đầy vảy vuốt đột ngột nảy sinh trong bao tử Harry, quào bấu ruột gan nó: máu nóng dường như chảy tràn não nó, khiến cho tất cả nghĩsuy đều biến mất, thay vào đó là một mong muốn man rợ ếm xìbùa Dean thành mứt dẻo. Trong khi đấu tranh với cơn điên bất ngờ này, nó nghe giọng nói Ron như vẳng từ đâu xa lắm. “Úy mèn ơi!” Dean và Ginny rời ra và nhìn quanh. “Gìthế?” Ginny nói. “Anh không muốn bắt gặp chính em gái của mình hôn hít người ta nơi công cộng!” “Hành lang này vốn vắng vẻ cho đến khi anh xông vô!” Ginny nói. Dean tỏ ra bối rối. Nó nở một nụ cười đnagiáo sư ngờ với Harry nhưng Harry không thèm đáp lại, trong khi con quái vật mới xuất hiện bên trong Harry đang gầm lên đòi đuổi ngay Dean ra khỏi đội bóng. “Ơ... thôi đi, Ginny,” Dean nói, “tụi mình trở về phòng sinh hoạt chung...” “Anh đi đi!” Ginny nói. “Em muốn nói một tiếng với ông anh yêu dấu của em!” Dean bỏ đi, trông có vẻ như anh chàng chẳng tiếc nuối gìcái cảnh đã bỏ lại sau. “Được,” Ginny nói, hất mái tóc dài đỏ rực ra khỏi gương mặt và trừng mắt nhìn Ron, “chúng ta hãy giải quyết vụ này một lần và vĩnh viễn. Em cặp bồ với ai hay làm gìvới người ta không mắc mớ gìđến anh hết, anh Ron à...” “Có chứ!” Ron nói, giận dữ không kém. “Bộ em tưởng anh muốn người ta nói em gái của anh là một...” “Một cái gì?” Ginny hét lên, rút cây đũa phép của cô bé ra. “Chính xác là một cái gìhả?” “Ron không có ý gìđâu, Ginny...” Harry tự động can ngăn, mặc dù con quái vật vẫn đang gào thét tán thành lời của Ron. “Ồ, ảnh có ý đấy chứ!” Cô bé nói, vừa trừng mắt nhìn Harry. “Chỉ vì ảnh chưa từng được hôn hít ai trong đời, chỉ vì cái hôn ngọt ngào nhất mà ảnh nhận được từ trước cho tới giờ là của dìMuriel...”
  • 67. “Câm miệng lại!” Ron gào lên, bỏ qua giai đoạn đỏ mặt, chuyển thẳng sang tím mặt. “Không!” Ginny cũng gào lên, không còn tự chủ nữa. “Em đã nhìn thấy cảnh anh với con mẹ Nhớt, mỗi lần anh nhìn thấy ả là anh hy vọng ả hôn lên má anh một cái, thiệt là thảm hại! Nếu anh có bồ bịch, được hôn hít thỏa thuê, anh sẽ bớt bận tâm quá đáng về chuyện mà ai ai cũng làm!” Ron cũng đã rút cây đũa phép của nó ra; Harry vội bước ra đứng giữa hai anh em chúng. “Mày không hiểu điều mà mày đang nói!” Ron gầm lên, cố gắng gạt Harry ra để nhắm cho trúng Ginny, trong khi Harry đứng án ngay trước mặt cô bé và dang rộng hai tay. “Chẳng qua tao không làm chuyện đó nơi công cộng!“ Ginny rú lên cười nhạo báng, vừa cố đẩy Harry qua một bên. “Vậy anh từng hôn hít con Pigwidgeon hả? Hay là anh có tấm hình của dìMuriel nhét dưới gối?” “Mày...” Một vệt sáng màu cam bay vèo ngay dưới nách trái Harry và trượt Ginny trong vài phân; Harry đẩy Ron vô sát tường. “Đừng có ngu...” “Anh Harry hôn hít Cho Chang!” Ginny hét, giọng cô bé nghẹn ngào. “Và chị Hermione hôn hít Viktor Kum, chỉ có anh, anh Ron, là làm như thể đó là chuyện đáng tởm, mà chẳng qua vìkinh nghiệm của anh chỉ bằng tới kinh nghiệm của một đứa con nít mười tuổi!”
  • 68. Và nói tới đó, cô bé đùng đùng bỏ đi. Harry vội buông Ron ra; vẻ mặt anh chàng này bừng bừng sát khí. Cả hai đứa nó đứng đó, thở hồng hộc, cho đến khi bà Norris, con mèo của thầy giám thị Filch, xuất hiện ở góc hành lang, phá vỡ sự căng thẳng. “Đi thôi,” Harry nói, khi tiếng chân lệt xệt của thầy Filch vọng đến tay tụi nó. Tụi nó vội vã đi ngược lên cầu thang và dọc theo một hành lang lầu bảy. “Này, tránh đường!” Ron nạt một cô gái nhỏ khiến cô bé nhảy dựng lên vìkinh sợ và làm rớt một chai nòng nọc. Harry khó lòng chú ý đến tiếng thủy tinh bể tan; nó cảm thấy hoang mang, chóng mặt; có lẽ bị sét đánh cũng na ná như vầy. Nó tự nhủ, chẳng qua vì đó là em gái của Ron, mình không thích nhìn thấy cô bé hôn Dean bởi vìcô bé là em của Ron... Nhưng đầu óc nó cứ tự động diễn cái cnahr tỏng hành lang vắng vẻ đó, như là chính nó hôn Ginny thay vì... Con quái vật bên trong nó rên ư ử... nhưng rồi nó lại thấy tiếp cảnh Ron kéo toạc tấm màn bằng thảm thêu ra và chĩa cây đũa phép vô người nó, thét lên cái gì đó nghe như “phụ lòng tin” ... “tưởng đâu là bạn mình”... Khi hai đứa đi gần tới Bà béo, Ron đột ngột hỏi, “Bồ có nghĩlà Hermione từng hôn hít Krum không?” Harry giật mình, đầy mặc cảm tội lỗi và vội chuyển trí tưởng tượng của nó ra khỏi cái hành lang nơi mà Ron không xông vào, nơi chỉ có nó và Ginny với nhau mà thôi... “Cái gì?” Nó bối rối nói. “À... ơ...” Câu trả lời chân thực là “có”, nhưng nó không muốn nói ra. Tuy nhiên, Ron dường như suy luận ra điều xấu nhất từ vẻ mặt của Harry. “Súp Đăng quang,” Ron rầu rĩnói với Bà béo, rồi tụi nó trèo qua lỗ chân dung vào phòng sinh hoạt chung. Hai đứa nó đều không đá động gì tới Ginny hay Hermione nữa; thật ra thì buổi tối đó tụi nó cũng chẳng nói chuyện với nhau nhiều, chỉ lặng lẽ lên giường ngủ, mỗi đứa chìm trong suy nghĩcủa riêng mình. Harry nằm thao thức một lúc lâu, ngó trao tráo cái vòm giường có bốn cột và cố gắng tự thuyết phục mình rằng tình cảm nó dành cho Ginny chỉ là tình anh em. Chẳng phải trong suốt mùa hè tụi nó đã cùng chơi Quidditch, trêu ghẹo Ron, được những mẻ cười đã đời về anh Bill và nàng Nhớt, cùng chung sống với nhau như anh em một nhà hay sao? Hay không phải vậy? Nó đã biết Ginny nhiều năm nay... Đương nhiên là nó muốn bảo bọc cô bé... ddwwong nhiên là nó nên chăm sóc giữ gìn cho cô bé... muốn xé đôi Dean vìdám hôn cô bé... không... nó cần kiềm chế cái tình cảm anh em đặc biệt đó... Ron ngáy lên một tiếng khò khò. Cô bé là em của Ron, Harry kiên quyết tự nói với mình. Em của Ron. Cô bé ở ngoài vòng chơi. Nó không thể liều đánh đổi tình bạn với Ron cho bất cứ cái gì. Nó vò cái gối của mình thành một cục méo mó không thoải mái chút nào rồi chờ giấc ngủ đến, cố gắng hết sức không cho suy nghĩ của nó đi lêu bêu đâu đó gần Ginny. Sáng hôm sau, Harry thức giấc cảm thấy hơi đờ đẫn và bối rối vì một loạt chiêm bao. Trong những giấc chiêm bao đó, Ron vác gậy Tấn thủ rượt nó chạy thục mạng. Nhưng đến trưa thì nó vui vẻ kể chuyện đó cho chàng Ron thực nghe, anh chàng này chẳng những phớt lờ cả Ginny và Dean, mà còn đối xử ghẻ lạnh với Hermione khiến cô nàng bị tổn thương và hoang mang chẳng hiểu vì đâu. Đã vậy, sau một đêm ngủ ngon, Ron dường như đâm ra dễ quạu và lúc nào cũng chực nổ ra như con trùn Đuôi Nổ. Harry phải bỏ ra cả ngày để cố gắng giảng hòa giữa Ron và Hermione mà chẳng ăn thua gì; cuối cùng, Hermione bỏ đi ngủ trong cơn giận điên người, còn Ron cũng tếch về phòng ngủ nam sinh sau khi điên tiết chửi mấy đứa năm thứ nhất về tội ngó cậu ta. Mấy ngày sau, Harry thất vọng nhận thấy cơn hung hăng của Ron chẳng hề tiêu tan đi. Nhưng tệ hơn nữa là cơn quạu đó trùng với sự sa sút kỹ năng giữ gôn của Ron, và điều này khiến nó càng thêm hung hăng, đến nỗi trong suốt buổi tập dợt Quidditch cuối cùng trước trận đấu ngày thứ bảy, nó chẳng bắt được trái banh nào mà các Truy thủ nhắm vado nó, lại còn quát tháo mọi người dữ đến nỗi Demelza Robin phát khóc. “Anh im đi, để cho bạn ấy yên,” Peakes hét, nó chỉ cao bằng hai phần ba Ron, nhưng phải ghi nhận là nó đang cầm một cây gậy to đùng. “ĐỦ RỒI!” Harry rống lên, nó vừa nhìn thấy Ginny lướt về phía Ron, và nhớ ra cô bé nổi tiếng về độc chiêu ếm Bùa Ba bị, nó vội phóng lên can thiệp trước khi sự việc đi quá đà. “Peakes, đi gom lại mấy trái Bludger. Demelza, bình tĩnh lại, bữa nay em chơi hay lắm, Ron...” nó đợi cho đến khi những người khác trong đội đi xa ngoài tầm tai mới nói, “Bồ là bạn chíthân của mình, nhưng nếu cứ tiếp tục đối xử với những người khác như vầy thìmình sẽ phải tống bồ ra khỏi đội thôi.” Nó thực sự thoáng nghĩ là Ron có thể nhảy vô đập nó, nhưng lại xảy ra một chuyện còn tồi tệ hơn: Ron dường như buông xuôi trên cây chổi bay. Ron mất hết tinh thần chiến đấu và nói, “Mình rút lui. Mình thảm quá.” “Bồ không thảm hại và bồ cũng không rút lui!” Harry nói vẻ dữ dằn, tay nắm ngực áo Ron. “Khi bồ chơi đúng phong độ thì bồ giữ được tất cả, bồ chỉ bị vấn đề tinh thần mà thôi!” “Bồ nói mình là đồ tâm thần hả?” “Ừ, có lẽ vậy!” Hai đứa trừng mắt ngó nhau một lúc, rồi Ron lắc đầu mệt mỏi. “Mình biết bồ chẳng còn thì giờ để tìm một thủ môn mới, cho nên ngày mai mình vẫn chơi, nhưng nếu tụi mình thua, và chắc là tụi mình sẽ thua, thìmình sẽ tự rút ra khỏi đôi,” Harry nói gì chăng nữa thì cũng không thay đổi được gì. Nó đã cố gắng kích động lòng tự tin của Ron trong suốt bữa ăn tối, nhưng Ron quá bận gắt gỏng và càu nhàu với Hermione nên chẳng buồn để ý. Harry vẫn kiên trì thuyết phục trong phòng sinh hoạt chung buổi tối hôm đó, nhưng sự khẳng định của nó rằng đội bóng sẽ tiêu tùng nếu Ron rút ra không được vững vàng lắm, bởi vì cái thực tế là toàn đội đang ngồi chúm chụm nhau trong một góc xa xa, rõ ràng là đang xì xèo về Ron và liếc cho thằng này những ánh mắt khó chịu. Cuối cùng Harry thử nổi sung lên một lần nữa để kích Ron phải có thái độ phản công, và cả thái độ bảo vệ khung thành (nó hy vọng thế), nhưng chiến thuật này cũng không có vẻ thành công hơn chiến thuật động viên cỗ vũ cho lắm; Ron đi ngủ vẫn với tâm trạng buồn bã thất vọng. Harry lại nằm thao thức hồi lâu trong bóng tối. Nó chẳng muốn thua trong trận đấu sắp tới; không chỉ vì đó là trận đầu tiên nó sẽ chơi trong vai trò đội trưởng, mà còn vì nó quyết định phải chiến thắng Draco Malfoy trong môn Quidditch ngay cả trong trường hợp nó không thể chứng minh được sự nghi ngờ của nó đối với Malfoy. Nhưng nếu Ron cứ chơi như trong mấy trận tập dượt vừa qua thìcơ hội chiến thắng thiệt là mỏng manh. Giá mà nó có thể làm cái gì đó khiến cho Ron bình tĩnh tự tin lại... khiesn Ron chơi đúng phong độ ngon lành nhất của mình... cái gì đó đảm bảo cho Ron có một ngày thực sự tuyệt vời... Và câu trả lời chợt bật ra trong một cú nháng rực rỡ bất ngờ đầy ngẫu hứng. Bữa điểm tâm sáng hôm sau là chuyện khích bác thông thường; đội Slytherin huýt gió, la chộ um xùm khi mỗi thành viên của đội Gry đi vào Đại sảnh đường. Harry ngó lên trần nhà và thấy một bầu trời xanh nhạt trong veo: một điềm lành. Đám cổ động viên ở bàn ăn nhà Gryffindor, một khối đỏ và vàng kim vững chắc, rộ lên khi Harry và Ron đến gần. Harry toét miệng cười và đưa tay vẫy vẫy; Ron nhếch mép một cách yếu ớt và lắc đầu. “Phấn khởi lên, Ron!” Lavender kêu. “Em biết anh sẽ xuất sắc!” Ron phớt lờ cô bé. “Trà không ?” Harry hỏi Ron. “Hay cà phê ? hay nước bí?” “Gìcũng được,” Ron ủ rũ nói, vừa uể oải cắn một miếng bánh mìnướng. Vài phút sau Hermione đến, cô bé đã pơhats ngán kiểu cư xử khó ưa của Ron dạo gần đây nên không thèm ngồi chung bàn với hai đứa nó nữa, nhưng giữa đường đi lên bàn ăn phái trên, cô bé dừng chân. “Hai bồ cảm thấy sao ?” Cô bé bgaapj ngừng hỏi, hai mắt ngó cái chẩm đầu của Ron. “Khỏe,” Harry nói, nó đang tập trung vào chuyện đưa cho Ron một ly nước bí. “Của bồ nè, Ron. Uống hết đi.” Ron vừa mới đưa ly lên tới miệng thìHermione kiên quyết nói. “Đừng uống, Ron !”
  • 69. Cả Harry và Ron ngước nhìn lên Hermione. “Tại sao đừng ?” Ron nói. “Bồ vừa bỏ cái gìđó vô trong ly nước.” “Bồ nói gì?” Harry nói. “Bồ nghe rõ mà. Mình thấy. Bồ vừa rót cái gìđó vô trong ly nước của Ron. Bồ còn đang cầm cái chai trong tay kìa !” “Mình chẳng hiểu bồ đang nói về cái gì,” Harry nói, vội vã nhét cái chai nhỏ vô trong túi áo. “Rom, mình khuyên bồ đừng nên uống cái đó !” Hermione lại nói, tỏ vẻ lo sợ, nhưng Ron đưa ly lên, uống một cái ực hết trơn, và nói, “Đừng sai biểu mình nữa, Hermione à.” Cô nàng có vẻ bị xúc phạm. Cúi thấp xuống để cho chỉ một mình Harry có thể nghe lọt tai, cô nàng nói rít qua kẽ răng, “Bồ đáng bị đuổi học vì chuyện đó. Mình không bao giờ có thể tin là bồ làm chuyện đó, Harry à !” “Coi, ai đang nói vậy cà,” nó thìthào đáp lại. “Gần đây có ếm bùa lú lẫn cho ai hả ?” Hermione đùng đùng bỏ đi khỏi cái bàn của hai đứa nó. Harry nhìn theo cô nàng đi mất mà không hề hối tiếc. Hermione chưa bao giờ thực sự hiểu công việc Quidditch nghiêm trọng nhường nào. Rồi nó quay lại nhìn Ron, anh chàng còn đang chóp chép liếm môi. “Gần tới giờ rồi,” Harry nói vẻ vô tư. Lớp cỏ phủ sương giá kêu lạo xạo dưới chân khi hai đứa nó cùng rảo bước đến sân vận động. “Ừ,” Ron nói, trông nó nhợt nhạt và có vẻ bệnh. Ginny và Demelza đã mặc đồng phục chơi Quidditch của tụi nó và chờ đợi trong phòng thay đồ. “Hoàn cảnh thi đấu coi bộ lý tưởng,” Ginny nói, phớt lờ Ron. “Và đoán thử coi? Tay Vaisey Truy thủ đội Slytherin ấy… hắn bị dộng một trái Bludger vô đầu trong buổi tập dợt của tụi nó ngày hôm qua, hắn đau quá nên bữa nay không thi đấu được! Nhưng tuyệt hơn nữa là… Malfoy cũng không thi đấu vìbệnh !” “Cái gì?” Harry nói, xoay người hẳn lại để trợn mắt nhìn cô bé. “Nó bệnh hả ? Nó bị bệnh gìvậy ?” “Ai biết, nhưng điều đó thiệt là hên cho tụi mình,” Ginny hớn hở nói. “Họ thế Harper vô chỗ nó ; tay này cũng năm với em và đần.” Harry mỉm cười đáp lại một cách mập mờ, nhưng khi mặc vào bộ áo chùng đỏ tía rồi, đầu óc nó không còn tha thiết tới Quidditch nữa. Malfoy trước đây đã từng nại cớ bị thương không thể chwoi trong một trận đấu, và nhân cớ đó nó đã mánh mung sao cho cả trận phải sắp lịch lại vào thời điểm thuận lợi hơn cho đội Slytherin. Tại sao bây giờ nó lại vui vẻ để cho đứa khác chơi thế nó ? Nó bị bệnh thực hay chỉ giả đò ? “Mờ ám quá hả ?” Harry nói nhỏ với Ron. “Malfoy mà không thi đấu à ?” “Mình thấy vậy là may mắn đó chớ,” Ron nói, trông có vẻ sống động hơn một chút. “Và Vaisey cũng ở ngoài sân luôn, nó là thằng ghi bàn giỏi nhất, mình không thể mơ gìhơn... Ái chà!” Nó bồng nhiên kêu lên, ngây người ra trong tư thế đang đeao găng thủ môn được nửa chừng, nhìn sững Harry. “Gìvậy?” “Mình... bồ...” Ron hạ thấp giọng đột ngột, trông nó vừa sợ vừa hồi hộp. “Nước mình uống... món nước bícủa mình... bồ đã...?” Harry nhướn chân mày lên, nhưng không nói gìngoại trừ câu: “Năm phút nữa tụi mình sẽ bắt đầu, bồ nên mang giầy bốt vô.” Hai đứa đi ra sân đấu giữa tiếng hoan hô và la chộ rân trời. Ở một đầu sân vận động rợp toàn màu đỏ và vàng kim; đầu kia là một biển màu xanh lá và trắng bạc. Nhiều học sinh nhà Hufflepuff và Ravenclaw cũng chia hai phe: giữa tất cả những tiếng reo hò và vỗ tay, Harry có thể nghe rõ ràng tiếng rống từ cái nón đầu sư tử trứ danh của Luna Lovegood. Harry bước tới bên trọng tài, bà Hooch, người đang đứng trong tư thế sẵn sàng thả những trái banh ra khỏi lồng. “Các đội trưởng, bắt tay,” bà nói, và bàn tay Harry bị nghiến đau điếng trong bàn tay của đội trưởng mới nhà Slytherin, Urquhart. “Leo lên chổi. Chờ còi thổi... ba... hai... một...” Tiếng còi vang lên, Harry và những đứa khác đạp mạnh xuống mặt đất đông cứng, và tụi nó bay lên. Harry bay lượn vòng quanh vành đai sân đấu, nhìn quanh quất tìm kiếm trái banh Snitch đồng thời canh chừng Harper, tay này đang bay hình chữ chi tuốt phía dưới nó. Bỗng nhiên một giọng nói khác hẳn giọng bình luận viên mọi khi vang lên nghe chói lói lỗ tai. “Đấy, họ đã bắt đầu, và tôi cho rằng tất cả chúng ta đều ngạc nhiên khi thấy đội bóng mà Potter thành lập trong năm nay. Căn cứ vào cách chơi ba trợn của Ron Weasley ở vị trí thủ môn hồi năm ngoái, nhiều người nghĩ rằng có lẽ anh ta phải ra khỏi đội thôi, nhưng dĩ nhiên, là bồ bịch thân thiết với đội trưởng cũng có lợi...” Những lời bình này được đón nhận bàng những tràng vỗ tay và hò reo vang lên từ khán đài cánh Slytherin. Cỡi trên cây chổi bay, Harry vươn cổ ngoái nhìn về vị trí của bình luận viên. Một tay cao nhòng, da bọc xương, có cái mũi hỉnh đang đứng đó, nói qua cái loa huyền bí vốn trước đây thuộc về Lee Jordan; Harry nhận ra hắn là Zacharias Smith, một cầu thủ của đội Hufflepuff, kẻ mà nó không ưa chút nào. “A, đợt tấn công đầu tiên của đội Slytherin vào cột gôn, Urquhart đang lao xuống sân đấu và...” Bao tử Harry lộn tùng phèo. “...Weasley đã bắt được bóng, chu choa ơi, tôi nghĩcậu chàng đôi khi cũng hên...” “Đúng vậy, Smith à, cậu ta đang hên,” Harry lẩm bẩm, nhoẻn miệng cười một mình, đồng thời nó lao vào giữa những Truy thủ giương mắt nhìn xung quanh tìm kiếm vết tích của trái banh Snitch rất khó truy bắt. Trận đấu trôi qua được gần nửa tiếng đồng hồ, đội Gryffindor dẫn trước sáu không, Ron đã cứu cột gôn mấy bàn thực sự ngoạn mục, có vài bàn được cứu bằng chót găng tay của nó, và Ginny đã ghi được bốn trong sáu điểm của đội Gryffindor. Điều này đã khóa họng hết sức hiệu nghiệm anh chàng ZacHarryia, khiến anh ta hết la lối lạc đề về chuyện hai anh em nhà Weasley được tuyển vô đội chỉ vì Harry khoái tụi nó. Anh ta bèn chuyển tông, nhắm vô Peakes và Coote. “Dĩnhiên, Coote không thực sự có vóc dáng của một tấn thủ,” ZacHarryia cao giọng, “Tấn thủ nhìn chung cần nhiều cơ bắp hơn...” “Đấm một trái Bludger vô mõm nó!” Harry bảo Coote khi bay ngang qua nó, nhưng Coote miệng cười toe toét, lại chọn Harper để nện cho trái Bludger kế tiếp, tay Harper này vừa bay ngược hướng qua Harry. Harry hết sức khoái khi nghe một tiếng hự đã lỗ tai, nghĩa là trái Bludger đã đánh trúng mục tiêu. Có vẻ như đội Gryffindor không thể nào chơi dở đi được. Tụi nó cứ ghi hết bàn này đến bàn khác, trong khi ở đầu kia sân đấu, Ron bảo vệ các cột gôn khá dễ dàng. Bây giờ nó đã thực sự mỉm cười, và khi đám đông hoan hô một pha cứu gôn thành công của nó bằng giọng đồng ca bài hát phổ biến cũ rích Weasley là vua chúng mình, nó còn giả bộ điều khiển ban đồng ca từ trên cao. “Bữa nay nó tưởng nó là cái gì đặc biệt lắm hả?” Một giọng nói cạnh khóe vang lên, và Harry suýt nữa bị đấm văng ra khỏi cây chổi bay khi Harper đung thiệt mạnh vô nó một cách có tính toán. “Đồ phản bội huyết thống...” Lúc đó bà Hooch đang quay lưng lại phía tụi nó, và mặc dù cổ động viên Gryffindor bên dưới đang hò hét giận dữ, khi bà Hooch quay lại thì Harper đã nhanh chóng chuồn mất. Vai đau buốt, Harry rượt theo Harper, quyết tâm nện trả đũa... “Và tôi cho rằng Harper của đội Slytherin vừa nhìn thấy trái banh Snitch!” Zacharias Smith gào lên trong loa. “Đúng rồi, chắc chắn là anh đã nhìn thấy cái gìđó mà Potter không thấy!” Smith đúng thiệt là một thằng ngu, Harry nghĩ, chẳng lẽ thằng này không thấy hai đứa nó đụng nhau sao? Nhưng ngay sau đó, bao tử nó dường như rớt từ trên trời xuống – Smith nói đúng và Harry đã nhầm: Harper không hề phóng vọt lên một cách ngẫu nhiên; nó đã thấy cái mà Harry không thấy: trái banh Snitch đang bay cực nhanh ngay phía trên đầu tụi nó, lấp lánh sáng rực trên nền trời xanh trong. Harry tăng tốc vọt lên cao; gió hú ù ù bên tai nó khiến cho tất cả âm thanh bình luận của Smith và tiếng ồn ào của đám đông đều bị nhấn chìm, nhưng Harper vẫn còn ở phía trước nó, và đội Gryffindor chỉ mới vượt trước một trăm điểm; nếu Harper tới trước và đội Gryffindor thua... và giờ đây Harper chỉ còn cách trái banh mấy tấc, tay nó đang vươn ra...
  • 70. “Ối, Harper!” Harry gào lên tuyệt vọng. “Malfoy trả mày bao nhiêu để thi đấu thay cho nó hả?” Nó không biết cái gì khiến cho nó nói điều đó, nhưng Harper giựt thột; nó lóng ngóng cố chụp trái banh Snitch, nhưng để banh tuột khỏi mấy ngón tay, và theo đà lao tới, nó vượt qua khỏi trái banh. Harry bèn thực hiện một động tác vĩđại chụp lấy trái banh nhỏ xíu đang vùng vẫy, và tóm được. “DÔ!” Harry gào to. Xoay chổi vòng lại, nó đâm sầm trở xuống mặt đất, tay giơ cao trái banh Snitch. Khi đám đông nhận ra điều gì đã xảy ra, một tiếng gầm nổ ra, lớn đến nỗi gần như át cả tiếng còi báo hiệu trận đấu kết thúc. “Ginny, em đi đâu đó?” Harry gào theo. Nó nhận ra mình bị mắc kẹt giữa cái ôm chầm tập thể giữa không trung với những người khác trong đội, nhưng Ginny thì lướt qua tụi nó, tiếp tục lao nhanh tới trước cho đến khi tông một cái rầm vô cái bục dành cho bình luận viên. Trong khi đám đông rú to và ré lên cười, toàn đội Gryffindor đáp xuống bên cạnh đống gỗ bể tanh banh đè lên thân anh chàng Zacharias đang yếu ớt cựa quậy: Harry tỉnh bơ nói với giáo sư McGonagall đang nổi giận, “Thưa cô, con quên thắng lại, con xin lỗi vậy.” Harry bật cười, tách ra khỏi những người khác trong đội, ôm lấy Ginny, rồi buông ra thiệt là nhanh. Tránh ánh mắt đăm đăm của cô bé, Ron vỗ lên lưng Ron cỗ vũ, tất cả hiềm khích cũ được bỏ qua, toàn đội Gryffindor nắm tay nhau rời khỏi sân đấu, vừa gởi những cái hôn gió đến cổ động viên. Không khítrong phòng thay đồ thiệt là tưng bừng. “Seamus nói tiệc đã bày trên phòng sinh hoạt chung!” Dean hồ hởi nói. “Đi thôi, Ginny, Demelza!” Ron và Harry là hai đứa cuối cùng rời phòng thay đồ. Tụi nó sắp sửa đi ra thìHermione đi vào. Cô nàng đang vặn vẹo tấm khăn quàng cổ Gryffindor trong tay, có vẻ buồn giận nhưng kiên quyết. “Harry, mình muốn nói với bồ một lời.” Cô nàng hít vô một cái thiệt sâu. “Lẽ ra bồ không nên làm vậy. Bồ đã nghe Thầy Slughorn nói rồi đó, nó bất hợp pháp.” “Vậy bồ định làm gì, tố cáo tụi này à?” Ron hỏi gặng lại. “Hai bồ đang nói về cái gìvậy?” Harry hỏi, vừa quay ra treo cái áo chùng của nó lên để hai đứa kia không thấy nó nhe răng cười. “Bồ biết quá rõ tụi này đang nói về cái gìmà!” Hermione ấm ức nói. “Bồ pha thuốc may mắn vô nước bícủa Ron trong bữa điểm tâm! Phúc lạc dược!” “Đâu có, mình không hề làm vậy,” Harry nói, quay lại để đối mặt với hai đứa nó. “Có, Harry, bồ có làm, và vìvậy mà mọi thứ diễn ra suôn sẻ, cầu thủ đội Slytherin không thể tham dự trận đấu, và Ron cứu được tất cả các cột gôn!” “Mình không hề pha gì vô hết!” Harry nói, cười toét cả miệng. Nó thọc tay vô túi áo khoác lấy ra một cái chai nhỏ xíu mà Hermione đã nhìn thấy trong tay Harry vào buổi sáng. Cái chai vẫn đầy ắp thuốc vàng óng và nút chai vẫn còn gắn chặt bằng sáp. “Mình muốn Ron tưởng vậy, nên khi thấy bồ nhìn, mình giả bộ như rót vô ly của nó.” Nó nhìn Ron, “Bồ cứu được mọi cột gôn bởi vìbồ có cảm giác may mắn. Nhưng bồ đã thành công nhờ vào chính tài sức của bồ.” Nó lại nhét cái chai vô túi áo. “Thiệt tình là không có gì hết trong món nước bí của mình hả?” Ron nói, hơi ngẩn ngơ. “Nhưng mà thời tiết thì tốt… và Vaisey không thể thi đấu… mà thiệt là mình không hề được uống thuốc hên sao?” Harry lắc đầu. Ron há hốc mồm nhìn nó một lát, rồi quay lại Hermione, nhái giọng cô bé. “Bồ bỏ Phúc lạc dược vô trong nước uống của Ron hồi sáng này, Ron cứu được tất cả các cột gôn! Thấy chưa! Mình có thể cứu gôn mà không cần trợ lực, Hermione à!” “Mình không hề nói bồ không thể… Ron à, chính bồ cũng tưởng là bồ được uống thuốc mà!” Nhưng Ron đã bước ngang qua mặt cô nàng đi ra cửa với cây chổi bay vác trên vai. “Ở,” Harry nói để phá tan sự im lặng đột ngột; nó đã không dè kế hoạch của nó lại bị phản thùng như vậy. “Vậy… Tụi mình có nên đi ăn tiệc không?” “Bồ đi đi!” Hermione nói, chớp chớp mắt để ngăn lệ rơi. “Lúc này mình phát chán Ron rồi, mình không biết mình đã làm gì…” Và cô nàng cũng đùng đùng đi ra khỏi phòng thay đồ. Harry bước chầm chậm lên sân trường, về phía tòa lâu đài, ngang qua đám đông, nhiều người hét lên chúc mừng nó, nhưng nó có một cảm giác nặng nề là bị thất vọng; nó đã tưởng chắc là nếu Ron thắng trận đấu này, thìRon và Hermione sẽ lập tức trở lại là bạn bè như xưa. Nó không biết làm cách nào để có thể giải thích với Hermione, rằng cái điều mà Hermione khiến cho Ron bị tổn thương chính là việc cô nàng đã hôn Viktor Krum, cho dù thời điểm xảy ra cái tội đó đã từ lâu quá rồi. Harry không gặp được Hermione trong bữa tiệc mừng chiến thắng của nhà Gryffindor. Lúc nó đến thì bữa tiệc đang hồi tưng bừng náo nhiệt nhất. Sự xuất hiện của nó lại làm nổi lên một tràng vỗ tay và hoan hô mới, và chẳng mấy chốc nó bị một đám người vây quanh chúc tụng. Vừa mới cố gắng rứt ra khỏi anh em nhà Creevey cứ đòi phân tích từng pha một của trận đấu, thì lại có một đám con gái cứ bu quanh, chơm chớp mắt và cười ồ với cả những lời bình ít thú vị nhất của nó, nên nó coi bộ mất khá lâu mới có thể tìm ra Ron. Cuối cùng, nó tự giải vây cho mình thoát khỏi Romilda Vane, cô nàng này gợi ý trắng trợn là muốn đi cùng Harry đến bữa tiệc Giáng sinh của Thầy Slughorn. Khi nó lách được đến gần cái bàn để thức uống, nó đi thẳng tới gặp Ginny, con Bông Thoa LùnArnold đang cỡi lên vai cô bé, và con mèo Crookshanks đang kêu meo meo bên gót chân Ginny đầy hy vọng. “Kiếm anh Ron hả?” Cô bé hỏi, nở nụ cười ngạo nghễ. “Anh ta ở đằng kia kìa, đồ đạo đức giả thối tha ấy.” Harry ngó về phía cái góc phòng mà cô bé chỉ. Ở đó, giơ mình ra trước mắt cả căn phòng, Ron đang đứng, quàng tay quanh Lavender Brown sát đến nỗi khó mà biết tay ải tay ai. “Trông như thể anh ta đang cạp cái mặt chị ta hả?” Ginny nói với vẻ thất vọng não nề. “Nhưng em cho rằng anh ấy cần phải tinh luyện lại kỹ thuật thế nào đó. Trân đấu hay lắm, anh Harry à.” Ginny vỗ nhẹ lên cánh tay Harry; nó cảm thấy bồi hồi trong dạ, nhưng rồi cô bé bỏ đi để lấy cho mình một chai bia bơ. Crookshanks lon ton chạy theo sau cô bé, đôi mắt vàng khè của nó cứ trừng trừng ngó conArnold. Harry quay lưng lại phía Ron, anh chàng này không có vẻ gì sẽ sớm tỉnh cơn mê, vừa lúc cái lỗ chân dung đóng lại. Với một cảm giác nôn nao, nó tưởng như nhìn thấy một mái tóc nâu dầy bồng bềnh thoáng phất qua tầm mắt. Nó lao tới trước, lãnh tránh Romilda Vane một lần nữa, và đẩy cái lỗ chân dung Bà béo ra. Hành lang bên ngoài dường như vắng ngắt. “Hermione ơi?” Nó tìm thấy Hermione trong phòng học không khóa đầu tiên mà nó thử vào. Cô bé đang ngồi bên bàn giáo viên, một mình, nếu không kể bầy chim yến vàng đang bay quanh trên đầu; hẳn nhiên là Hermione đã úm ba la ra chúng từ trong không khí. Harry không thể không ngưỡng mộ tác phẩm bùa chú của Hermione trong hoàn cảnh như thế này. “À, chào Harry,” cô bé bói giọng dễ quạu. “Mình đang thực tập.” “Ừ… chúng… ơ… đẹp thiệt…” Harry nói. Nó chẳng biết nói gìvới Hermione nữa. Nó còn đang tự hỏi không biết Hermione có kịp để ý thấy Ron không, hay cô bé rời khỏi phòng chỉ vìbữa tiệc um sùm quá, thìHermione bỗng nói, giọng lanh lảnh cao một cách bất thường, “Ron dường như khoái chúc tụng.” “Ơ… vậy hả?” Harry nói. “Đừng làm bộ như bồ không hiểu nó,” Hermione nói. “Nó cũng chả thèm giấu diếm…?” Cánh cửa phía sau tụi nó chợt mở tung ra. Harry kinh hãi thấy Ron bước vào, cười cợt, kéo tay Lavender. “Ủa,” nó nói, đứng khựng lại khi nhìn thấy Harry và Hermione. “Í!” Lavender kêu lên, và cô nàng lui ra khỏi phòng, khúc khích cười. Cánh cửa đóng mạnh sau lưng cô ta. Căn phòng chợt im lặng căng thẳng ngột ngạt dễ sợ. Hermione trừng mắt nhìn Ron, anh chàng này lại cố tránh ánh mắt cô bé, nhưng gượng nói với bộ điệu vừa tỏ ra ta đây anh hùng vừa lọng ngọng lớ quớ, “Chào, Harry! Không biết bồ đi đâu mất tiêu!” Hermione trượt khỏi cái bàn. Bầy chim vàng tiếp tục ríu rít bay vòng vòng trên đầu nên trông cô bé giống như một mô hình hệ thái dương bằng lông vũ lạ lùng. “Bồ không nên để Lavender chờ đợi ở bên ngoài,” Hermione lặng lẽ nói. “Bạn ấy có thể thắc mắc bồ đi đâu.”
  • 71. Cô bé thẳng lưng đi chậm rãi về phía cánh cửa. Harry liếc nhìn Ron, anh chàng này có vẻ như thở phào nhẹ nhõm là đã không xảy ra chuyện gìtồi tệ hơn. Bỗng một tiếng hô the thé vang lên từ ngưỡng cửa, “Công kích!” Harry quay phắt lại để thấy Hermione đang chĩa cây đũa phép vào Ron, vẻ mặt cô nàng hoang dại: bầy chim nhanh như một loạt đạn vàng bay vun vút về phía Ron, anh chàng thét rống lên, giơ hai tay che mặt, nhưng bầy chim vẫn tấn công, mổ, rỉa, và quào từng thẻo da thịt nhỏ xíu mà chúng có thể đụng tới. “Tránh xa ta!” Ron thét lên, nhưng Hermione quẳng cho nó ánh mắt cuối cùng tràn đầy cơn phẫn nộ bất dung thứ, rồi vặn cửa mở ra và biến mất sau cánh cửa. Harry tưởng như nó nghe được một tiếng khóc nấc trước khi cánh cửa đóng sầm lại. Chương 15 Phép thề bất khả bội Một lần nữa tuyết lại bay xoáy vào những cửa sổ bám đầy băng giá; Lễ Giáng sinh đến nhanh. Bác Hagrid đã một mình vác cả mười hai cây thông Giáng sinh vào Đại sảnh đường; những chuỗi kim tuyến và giấy hoa trang tríđã được treo quấn quít quanh lan can các cầu thang; những cây nến mãi mãi không tắt tỏa ánh sáng từ bên trong những chiếc nón sắt của những bộ áo giáp, và từng chùm dây tầm gởi treo lủng lẳng cách từng khoảng đều dọc những hành lang. Tụi con gái có xu hướng tụ tập thành đám đông bên dưới những chùm cây tầm gửi mỗi khi Harry đi ngang qua, điều này gây tắc nghẽn các hành lang; nhưng may thay những cuộc đi rong buổi tối thường xuyên của Harry đã giúp nó có một kiến thức phi thường về những ngõ ngách bímật trong tòa lâu đài, nhờ vậy nó thường không mấy khó khăn chọn được những lối đi không có dây tầm gửi để đi lại giữa các lớp học. Ron, có lẽ một khi đã nhận ra việc bắt buộc phải lẩn tránh lòng vòng này là nguyên do đáng để nó ganh tị hơn là để vui nhộn, đã rống lên cười. Mặc dù Harry khoái anh chàng Ron đùa giỡn cười cợt này hơn cái mẫu người hung hãn quạu đeo rầu rĩ mà nó đã phải chịu đựng suốt mấy tuần lễ trước, nhưng để có được chàng Ron tiến bộ này nó đã phải trả một cái giá đắt. Trước tiên, Harry phải chịu đựng sự hiện diện thường xuyên của Lavender Brown, cô nàng này dường như coi bất cứ khoảnh khắc nào không được ôm hôn Ron kể như khoảnh khắc đó bỏ đi; và kế đến, Harry nhận thấy một lần nữa nó lại là người bạn tốt nhất của hai con người không có vẻ gìsẽ nói chuyện lại với nhau. Bàn tay và cánh tay của Ron vẫn còn đầy những vết quào vết đứt do bị bầy chim của Hermione tấn công, nên giọng nó vừa phân trần vừa phẫn uất. Nó nói với Harry, “Nó không thể trách móc gìcả. Nó hôn hít Krum. Vậy thìnó sẽ thấy có người muốn hôn hít mình chớ. Ôi, xứ sở tự do mà. Mình không làm cái gìbậy bạ cả.” Harry không trả lời, nhưng giả đò như đang say mê đọc cuốn sách mà tụi nó được giao đọc cho xong trước buổi học Bùa chú sáng hôm sau (cuốn Tinh chất: Một cuộc tìm kiếm). Vìnó đã quyết định duy trìtình bạn với cả Ron và Hermione, nó dành phần lớn thìgiờ ngậm chặt miệng lại. “Mình đâu đã hứa hẹn gì với Hermione đâu hè?” Ron làu bàu. “Nghĩa là, ừ thì, mình có định đi với nó đến bữa tiệc Giáng sinh của Thầy Slughorn, nhưng mà nó chưa bao giờ nói... chỉ là bạn bè... mình là người tự do mà...” Harry lật một trang trong cuốn Tinh chất, biết là Ron đang quan sát nó. Giọng của Ron nói láp váp một hồi thành tiếng lầm bầm, khó mà nghe được trong tiếng củi cháy kêu rất to trong lò sưởi, mặc dù Harry một lần nữa nghĩlà nó nghe lọt mấy tiếng “Krum” và “không thể trách móc”. Thời khóa biểu của Hermione đầy ắp đến nỗi Harry chỉ có thể nói chuyện đàng hoàng với cô bé vào buổi tối, khi Ron, dù trong tình huống nào cũng vậy, đã quyện chặt với Lavender đến nỗi chẳng buồn để ý chuyện Harry đang làm. Hermione không chịu ngồi trong Pháp sưhc khi có mặt Ron ở đó, vì vậy Harry thường gặp cô bé trong thư viện, nghĩa là tụi nó chỉ có thể thìthầm khi trò chuyện. “Nó hoàn toàn tự do hôn bất cứ ai nó thích,” Hermione nói, trong lúc người quản thủ thư viện, bà Pince, lảng vảng ở mấy kệ sách sau lưng tụi nó. “Mình thiệt tình chỉ có thể quan tâm tới mức đó thôi.” Cô bé giơ cây viết lông ngỗng lên chấm một cái lê chữ “i’, mạnh bạo đến nỗi đục một cái lỗ trên tờ gd. Harry không nói gì cả. Nó nghĩ chẳng bao lâu nữa giọng nói của nó sẽ biến mất vì hết chuyện xài tới. Nó cúi xuống thấp hơn trên cuốn Bào chế thuốc cao cấp và tiếp tục ghi chú về món Vĩnh Phúc dược, thỉnh thoảng ngừng lại để suy đoán những bổ sung hữu ích của Hoàng tử vào văn bản của Libatius Borage. “Và nhân đây,” Hermione nói, sau một chút ngập ngừng, “bồ cần phải cẩn thận.” “Lần cuối cùng nhe,” Harry nói, giọng hơi khào khòa sau ba khắc đồng hồ im lặng, “Mình sẽ không trả lại cuốn sách này đâu. Mình đã học ở Hoàng Tử lai nhiều hơn những gìThầy Snape hay Thầy Slughorn đã dạy mình trong...” “Mình không nói về cái gọi là Hoàng tử ngu ngốc đó của bồ,” Hermione nói, vừa nhìn cuốn sách cảu Harry một cách khó chịu như thể nó đã hỗn láo với cô bé. “Mình đang nói về chuyện trước đó. Trước khi mình đến đây, mình đi vô nhà vệ sinh nữ, trong đó có khoảng một tá các cô nàng, kể cả Romilda Vane, đang thử tính xem làm cách nào lén bỏ tình dược cho bồ. Cả đám đều đang hy vọng chài được bồ để bồ rủ đi dự bữa tiệc Giáng sinh của Thầy Slughorn, và cả đám cũng đã mua tình dược của anh Fred và anh George, và mình e rằng mấy thứ thuốc đó có thể có công hiệu...” “Vậy tại sao bồ không tịch thu mấy thứ đó?” Harry hỏi gặng lại. Kể cũng lạ thường khi một người mắc chứng mê tuân thủ nội qui như Hermione mà chịu bỏ qua thời cơ quyết định này. “Chúng không đem theo tình dược vô nhà vệ sinh,” Hermione nói giọng miệt thị. “Chúng chỉ bàn bạc mưu mẹo với nhau thôi. Bởi vì mình không tin là Hoàng Tử lai,” (cô nàng lại liếc cuốn sách một cách khinh bỉ) “có thể bịa ra một thứ thuốc giải tức thì cho một tá tình dược khác nhau, mình thà là mời phứt ai đó đi với bồ, để cho mấy đứa khác ngừng tơ tưởng viễn vông là chúng vẫn còn có một cơ hội. Tối mai là mở tiệc, chúng đang quýnh lên.” “Chẳng có ai mà mình muốn mời cả,” Harry lầm bầm, nó vẫn còn cố gắng không suy nghĩ về Ginny nhiều hơn mức chẳng đặng đừng, bất chấp thực tế là cô bé cứ bất ngờ hiện ra trong những giấc mơ của nó bằng nhiều cách khiến nó vô cùng biết ơn là Ron không thể thực hiện phép Đọc tư tưởng. “Thôi thì, chỉ cần chú ý cái gìbồ uống, bởi vìcoi bộ Romilda Vane dám làm lắm,” Hermione nói dứt khoát. Cô bé kéo mạnh cuồn gd đang viết dở dang bài lv về Số học và tiếp tục dùng cây viết lông ngỗng híhoáy làm bài. Harry ngắm Hermione mà đầu óc phiêu bạt ở đâu đâu. “Xímột chút,” nó chậm rãi nói. “Mình tưởng là thầy Filch đã ngăn cấm mọi thứ mua ở tiệm tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley mà?” “Nhưng ai mà bận tâm đến những cấm kỵ của thầy Filch chứ?” Hermione nói, vẫn tập trung vào bài luận của mình. “Nhưng mình tưởng tất cả lũ cú đều bị lục soát? Vậy làm sao mà tụi con gái có thể đem tình dược vào trường được chứ?” “Anh Fred và anh George đã gửi chúng dưới dạng ngụy trang là nước hoa và thuốc ho. Đó là bộ phận Dịch vụ đặt hàng qua Bưu cú của mấy ảnh.” “Bồ biết nhiều về dịch vụ đó há.” Hermione ngó Harry một cách kinh tởm như cái kiểu cô nàng đã nhìn cuốn Bào chế thuốc cao cấp của nó: “Dịch vụ đó đều được ghi ở phía sau mấy cái chai mà mấy ảnh đưa cho Ginny và mình coi hồi hè,” cô bé lạnh lùng nói, “Mình không đi loanh quanh bỏ thuốc vô đồ uống của người khác... hay giả bộ làm vậy... cách nào cũng tệ hại như nhau.” “Ừ, thôi bỏ qua đi,” Harry nói nhanh. “Vấn đề là thầy Filch đang bị đánh lừa, đúng không? Tụi con gái đang nhận được đồ gởi vô trường dưới cái vỏ ngụy trang là thứ khác. Vậy thìtại sao Malfoy không thể đem xâu chuỗi đó vô trường được chứ?” “Ôi, Harry, đừng nói chuyện đó nữa.” “Nhưng mà, tại sao đừng?” Harry hỏi gặng lại. “Bởi vì,” Hermione thở dài, “Phép dò Bí mật dò ra những thứ bị quỷ ếm, và những bùa chú giấu diếm, đúng không? Phép đó được dùng để tìm ra những đồ vật Hắc ám và Pháp thuật Hắc ám. Chỉ cần vài giây thôi là nó dò ra những thứ tà ma có tác động mạnh, như cáo ở trong xâu chuỗi chẳng hạn. Nhưng những thứ vớ vẩn bỏ nhầm chai sẽ không được dò ra – với lại, tình dược không phải là hắc ám mà cũng không nguy hiểm...” “Bồ nói thì dễ lắm,” Harry lẩm bẩm, nghĩ đến Romilda Vane. “...Vậy là vấn đề phụ thuộc vào thầy Filch, là người sẽ phán quyết một cái gì đó có phải là thuốc ho hay không, mà ông ấy lại không phải là một Pháp sư giỏi lắm, mình không tin là thầy có thể phân biệt được độc dược này với...” Hermione bỗng nín khe; Harry cũng nghe âm thanh đó. Có ai đó đang đi tới gần tụi nó từ phía sau, giữa những kệ sách tối hù. Tụi nó chờ, và chỉ tích tắc
  • 72. sau, bộ mặt hao hao chim kền kền của bà Pince hiện ra ở góc kệ sách, hai má bà hõm sâu, da bà trông như tấm gd, và cái mũi dài khoằm khoằm của bà bị ngọn đèn bà đang cầm rọi sáng một cách trơ trẽn. “Thư viện đóng cửa,” bà nói. “Phiền các trò trả lại đúng chỗ bất cứ thứ gìcác trò đã mượn – Thằng đồi trụy kia, trò đã làm gìcuốn sách đó hả?” “Đâu phải sách của thư viện, sách của tôi mà!” Harry vội vàng nói, cầm lấy ngay cuốn Bào chế thuốc cao cấp ra khỏi mặt bàn khi bà ta nhòa tới chụp cuốn sách bằng bàn tay giống y chang móng vuốt kền kền. “Hư hỏng!” Bà rít lên. “Tục tĩu, nhơ nhuốc!” “Chỉ là một cuốn sách có ghi chú trong đó thôi mà!” Harry nói, giằng cuốn sách khỏi bàn tay nắm chặt của bà Pince. Trông bà Pince như thể sắp xông vô tịch thu. Hermione vội vnagf gói ghém đồ đạc cảu mình lại, níu lấy cánh tay Harry, lôi nó đi trong tư thế lưng đâu lưng. “Bà ấy sẽ cấm bồ vô thư viện nếu bồ không cẩn thận. Mắc gìbồ phải đem theo cuốn sách ngu độn ấy?” “Hermione à, đâu phải lỗi tại mình mà bà ta la lối khùng điên đâu. Hay bồ có nghĩ là bà ấy nghe lóm bồ nói xấu thầy Filch không? Mình luôn cho rằng giữa hai người đó có chuyện gìđó...” “Ờ há.” Sung sướng vì có thể nói chuyện bình thường trở lại, hai đứa đi dọc theo những hành lang vắng vẻ có đèn thắp sáng, bàn cãi om sòm là liệu bà Pince và thầy Filch có bímật yêu nhau không. “Lòe loẹt,” Harry nói với Bà Béo, đó là mật khẩu mới. “Trò cũng thế,” Bà Béo đáp với một nụ cười gian xảo và quăng mình ra để đón nhận hai đứa nó vào phòng. Đúng ngay lúc nó vừa chui ra khỏi lỗ chân dung, Romilda Vane nói, “Chào anh Harry! Muốn làm một ly nước sâm không?” Hermione quay qua nhìn Harry với ánh mắt “Thấy chưa? Đã bảo mà!” “Không, cám ơn,” Harry nói nhanh. “Tôi không thích nước sâm lắm.” “Thì cứ uống đại đi mà,” Romilda nói, nhét vô tay nó một cái hộp. “Vạc socola, có tẩm rượu đế lửa đấy. Ông của em gởi cho em, nhưng em không thích lắm.” “Ờ... được... cám ơn nhiều.” Harry nói, nó không biết gìkhác nữa. “Ơ... tôi đang phải đi lại đằng này với...” Nó lật đật đi theo Hermione, giọng nhỏ dần một cách yếu ớt. “Đã bảo mà,” Hermione nói như kết luận, “Ngay khi bồ mời ai đó rồi, tụi nó sẽ buông tha bồ ngay và bồ có thể... Nhưng khuôn mặt cô bé bỗng nhiên ngây ra; cô nàng vừa nhìn thấy Ron và Lavender, hai đứa quấn lấy nhau trên cũng một chiếc ghế bành. “Thôi, ngủ ngon nha Harry,” Hermione nói, mặc dù lúc đó chỉ mới bảy giờ tối, vậy mà cô bé bỏ đi về phòng ngủ nữ sinh không nói thêm một lời nào nữa. Khi đi ngủ, Harry tự dỗ dành mình là chỉ còn phải ráng lên lớp thêm một ngày nữa, ráng thêm bữa tiệc Giáng sinh của Thầy Slughorn nữa, là xong; sau đó nó và Ron sẽ cùng nhau đi về trang trại Hang Sóc. Giờ đây hầu như vô phương giảng hòa giữa Ron và Hermione trước khi kỳ nghỉ lễ bắt đầu, nhưng có lẽ, biết đâu, kỳ nghỉ sẽ giúp hai đứa nó bình tĩnh lại, nghĩchín chắn hơn về cách cư xử của mình... Nhưng những hy vọng của Harry không cao lắm, đã vậy còn bị tụt xuống thấp hơn sau khi trải qua buổi học Biến hình với cả hai đứa nó vào ngày hôm sau. Tui nó vừa mới lao vô cái đề tài cực kỳ khó là biến hình người; đứng trước gương, tụi nó được giao phải đổi màu lông mày của chính mình. Hermione cười đầy gian ác trước nỗ lực đầu tiên hết sức thê thảm của Ron, trong lần cố gắng này, chẳng biết Ron làm sao mà lại tự gắn cho mình một bộ ria vểnh như cái ghi đông xe đạp trông hết sức ngoạn mục; Ron bèn trả đũa bằng cách nhại lại một cách chính xác và thô bỉ điệu bộ Hermione nhấp nhổm trên ghế mỗi lần giáo sư McGonagall nêu ra một câu hỏi, khiến cho Lavender và Parvati thấy buồn cười hết sức, và khiến cho Hermione chỉ chực òa khóc một phen nữa. Cô bé chạy ào ra khỏi lớp học ngay khi chuông vừa reng, bỏ lại một nửa đồ đạc của mình; Harry cho rằng lúc này Hermione cần bạn hơn Ron nhiều, nên vội vàng quơ hốt đồ đạc còn lại của Hermione và chạy theo cô bé. Cuối cùng nó theo dấu Hermione đến tận nhà vệ sinh nữ ở tầng dưới. Hermione từ trong đó hiện ra, có Luna Lovegood đi kèm, vừa lơ đãng vỗ nhè nhẹ lên lưng cô bé. “Ủa, chào anh Harry,” Luna nói. “Anh có biết là một trong hai bộ lông mày của anh màu vàng chói không?” “Chào Luna. Hermione à, bồ bỏ quên mấy thứ này...” Nó đưa trả mấy cuốn sách cho cô bé. “Ờ phải,” Hermione nói, giọng còn thổn thức, lấy lại đồ đạc và quay lưng đi ngay để giấu cái hình ảnh chùi nước mắt bằng cái bao đựng viết chì. “Cám ơn nha, Harry. Thôi, mình phải đi đây...” Và cô bé vội vàng bỏ đi, chẳng để cho Harry có chút thìgiờ nào nói đôi lời an ủi, mặc dù nó cũng thừa nhận là nó không thể nghĩra lời nào. “Chị ấy hơi buồn khổ,” Luna nói. “Lúc đầu em tưởng là con ma Myrtle Khóc nhè ở trong đó, nhưng hóa ra là chị Hermione. Chị ấy nói gì đó về anh Ron Weasley...” “Ừ, hai đứa nó giận nhau,” Harry nói. “Đôi khi anh ấy nói chuyện tiếu ghê hả?” Luna nói khi hai đứa cùng đi xuống hành lang với nhau. “Nhưng anh ấy có vẻ hơi ác một chút. Năm ngoái em để ý thấy vậy.” “Anh cũng nghĩ vậy,” Harry nói. Luna đang bộc lộ cái sở trường hay dùng tới của cô nàng là nói trắng ra những sự thất mất lòng; Nó chưa từng gặp ai giống như cô bé này cả. “Vậy là em qua được một học kỳ tốt đẹp hả?” “Ừ, suôn sẻ,” Luna nói. “Hơi cô đơn vì không có ĐQD. Nhưng Ginny vẫn luôn tử tế. Hôm kia bạn ấy bắt hai thằng ranh trong lớp Biến hình của tụi em không được gọi em là “Khùng” nữa.” “Em có muốn đi dự tiệc Giáng sinh ở chỗ Thầy Slughorn với anh tối nay không?” Lời nói vọt ra khỏi miệng Harry trước khi nó kịp chặn chúng lại; nó nghe mình thốt ra những lời đó như thể một người xa lạ nào đó đang nói. Luna trợn hai con mắt to lồ lộ nhìn Harry kinh ngạc. “Bữa tiệc ổ chỗ Thầy Slughorn hả? Với anh à?” “Ừ,” Harry nói, “tụi này được mời một người bạn cùng đến dự tiệc, cho nên anh nghĩcó thể em thích... ý anh muốn nói...” Nó muốn bày tỏ thật rõ ràng ý đồ cảu mình. “Ýanh là, chỉ như bạn bè, em hiểu chứ. Nhưng nếu em không muốn...” Nó đã phần nào hy vọng cô bé không muốn. “Ôi, em muốn đi với anh như bạn bè lắm chứ!” Luna nói, nở nụ cười tươi tắn mà nó chưa bao giờ thấy trên gương mặt cô bé trước đây. “Từ trước tới giờ chưa từng có ai mời em đi dạ tiệc, như một người bạn! Có phải anh nhuộm lông mày để đi dự tiệc không? Em có nên nhuộm lông mày của em không?” “Không,” Harry kiên quyết nói,“ cái đó do nhầm lẫn mà.Anh sẽ nhờ Hermione sửa lại cho anh. Vậy anh sẽ gặp em ở tiền sảnh vào tám giờ tối nay nhé.” “À HÁ!” một tiếng thét vang trên đầu hai đứa nó khiến cả hai thất kinh hồn vía; cả hai đứa đã không để ý là tụi nó vừa đi ngang qua phía dưới Peeves, con ma này đang treo chổng ngược dưới một chùm đèn và đang cười với tụi nó một cách hết sức nham hiểm. “Bô Xímời Khùng Khùng đi dự dạ tiệc! Bô Xíiu Khùng Khùng! Bô Xíiiiiiiiiiiiuuuuuuuuuu Khùng Khùng!” Và con ma bay véo đi, vừa cười khúc khích vừa ré lên, “Thằng Bô Xíyêu con Khùng!” “Giá mà giữ kín được những chuyện này,” Harry nói. Và vừa hay, chẳng mấy chốc cả trường đều đã biết là Harry Potter sẽ đưa Luna Lovegood đến dự dạ tiệc ở chỗ Thầy Slughorn. “Bồ không thể dẫn theo ai cũng được!” Ron nói vẻ không thể tin nổi lúc tụi nó đang ăn bữa chiều. “Ai cũng được! Vậy là bồ chọn Khùng Lovegood?”
  • 73. “Anh Ron, đừng gọi bạn ấy như vậy!” Ginny nạt ngay, cô bé dừng lại sau lưng Harry trên lối đi tới chỗ bạn mình. “Anh Harry, em rất vui là anh sẽ đưa bạn ấy đi dạ tiệc, bạn ấy háo hức lắm.” Và cô bé đi xuống phía cuối bàn ngồi cùng Dean. Harry cố gắng cảm thấy hài lòng là Ginny đã vui khi nó định đưa Luna đi dự tiệc, nhưng nó chẳng làm sao hài lòng cho được. Ở tuốt đầu kia của cái bàn, Hermione đang ngồi một mình, nghịch món thịt hầm của cô nàng. Harry để ý thấy Ron len lén nhìn Hermione. “Bồ có thể nói xin lỗi,” Harry đề nghị thẳng thừng. “Cái gì, để bị một bầy hoàng yến khác đánh cho te tua hả?” Ron làu bàu. “Bồ nhại bạn ấy để làm gì?” “Ai biểu nó cười nhạo râu của mình!” “Mình cũng cười vậy, đó là chuyện ngu nhất mình từng thấy.” Nhưng Ron không có vẻ chịu nghe nữa; Lavender vừa đến cùng với Parvati. Tự chen vô giữa Harry và Ron, Lavender vòng hai cánh tay quanh cổ Ron. “Chào anh Harry,” Parvati nói, cô này cũng như Harry, có vẻ hơi ngượng ngùng và ngao ngán cách cư xử của hai người kia. “Chào,” Harry nói, “khỏe không? Vậy là bạn ở lại trường Hog? Tôi nghe nói ba má bạn muốn bạn rời trường.” “Tôi tìm cách năn nỉ ba má tôi bỏ ý định đó trong lúc này,” Parvati nói. “Vụ Katie thực sự làm cho họ hoảng, nhưng từ đó đến giờ chẳng xảy ra thêm chuiyeenj gìnữa...A, chào Hermione!” Parvati cười tươi hết chỗ nói. Harry có thể nói là Parvati cảm thấy có lỗi vì đã cười nhạo Hermione trong lớp học Biến hình. Nó quay đầu lại và thấy Hermione cũng đang cười đáp lại, tươi không kém, thậm chícó thể rạng rỡ hơn nữa. Đôi khi con gái thiệt là kỳ lạ. “Chào Parvati!” Hermione nói, hoàn toàn lờ đi Ron và Lavender. “Bồ có đi dự dạ tiệc của Thầy Slughorn tối nay không?” “Không được mời,” Parvati rầu rĩnói. “Nhưng mà mình muốn đi lắm, nghe coi bộ vui nhộn đây... Bồ sẽ đi dự mà, phải không?” “Ừ, mình hẹn với Cormac lúc tám giờ, tụi này sẽ...” Một âm thanh vang lên nghe như tiếng ống bơm rút ra khỏi một cái chậu bị nghẹt và Ron chườn mặt ra. Hermione làm như thể cô nàng không hề nghe thấy hay thấy gìhết. “...tụi này sẽ đi dự tiệc với nhau.” “Cormac à?” Parvati nói. “Bồ muốn nói là Cormac McLaggen hả ?” “Đúng vậy,” Hermione nói một cách duyên dáng. “Người suýt chút nữa – cô nàng nhấn mạnh vào mấy chữ này – trở thành thủ môn của đội Gryffindor.” “Vậy là bồ cặp với anh ta à ?” Parvati trợn to mắt hỏi. “Ờ… phải… chứ bồ không biết sao?” Hermione nói, vừa khúc khích cười không giống kiểu Hermione chút nào. “Không!” Parvati nói, tỏ ra hết sức hào hứng về câu chuyện tào lao này. “Ái chà, bồ khoái cầu thủ Quid nhỉ? Trước tiên là Krum, kế đến là McLaggen…” “Mình khoái cầu thủ Quid giỏi thực sự kìa,” Hermione chỉnh lại nhận xét của cô bạn, vẫn mỉm cười. “Thôi, hẹn gặp sau nhé… Phải đi để chuẩn bị cho buổi dạ tiệc…” Hermione bỏ đi. Ngay lập tức Lavender và Parvati chụm đầu lại với nhau để bàn bạc về diễn biến mới toanh này, với tất cả mọi thông tin mà họ từng nghe về McLaggen, và tất cả mọi điều mà họ từng suy đoán về Hermione. Ron có vẻ ngẩn ngơ một cách lạ lùng và chẳng nói năng gì cả. Harry cũng lặng thinh mà ngẫm nghĩsự sâu sắc mà con gái có được khi muốn trả thù. Tám giờ tối hôm đó Harry ra đến tiền sảnh thì thấy một đám con gái đông khác thường đang túm tụm ở đó, tất cả đều dường như căm phẫn trừng mắt ngó nó tiến đến cạnh Luna. Cô bé này mặc một bộ váy áo lấm tấm kim tuyến bạc, bộ váy áo này đã khiến những người đứng ngó rúc rích cười đã đời, nhưng thực ra trông cô bé rất xinh. Mà dù thế nào thìHarry cũng mừng là cô bé không đeo tòng teng đôi bông tai củ cải, hay đeo lủng lẳng xâu chuỗi bằng nút chai bia bơ, hay là cặp Kính Chiếu yêu. “Chào em,” Harry nói. “Vậy tụi mình đi được chưa?” “Ồ, được chứ,” cô bé vui vẻ nói. “Bữa tiệc ở đâu?” “Trong văn phòng Thầy Slughorn,” Harry nói, dẫn cô bé xuống cầu thang đá hoa cương, xa khỏi những tiếng xì xầm và những cái nhìn trơ tráo. “Em có nghe nói là sẽ có một con ma cà rồng đến dự không?” “Ông Rufus Scrimgeour hả?” Luna hỏi. “Anh… cái gì?” Harry nói. Nó bối rối. “Em định nói ông Bộ trưởng Pháp thuật hả?” “Đúng vậy, ông ta là một con ma cà rồng,” Luna nói đơn giản. “Ba em có viết một bài báo dài về chuyện đó khi ông Scrimgeour mới thay thế ông Cornelius Fudge, nhưng ba em bị ai đó ở Bộ ép không cho in. Rõ ràng là họ không muốn sự thật bị lộ ra!” Harry nghĩ ông Rufus Scrimgeour không thể nào là một con ma cà rồng được, nhưng nó đã quen với việc Luna lặp lại những quan điểm kỳ quái của ba mình như thể là chuyện thật, nên nó không đáp lời cô bé. Hai đứa nó đã đi đến gần vp Thầy Slughorn và cứ mỗi bước tụi nó tới thì âm thanh những tràng cười, tiếng ca hát và chuyện trò náo nhiệt càng lớn hơn. Cho dù vốn được xây dựng như vậy, hoặc vì Thầy Slughorn đã dùng mánh khóe Pháp thuật mà biến ra như vậy, vp Thầy Slughorn cũng rộng hơn phòng làm việc thông thường của các giáo sư khác rất nhiều. Trần và tường phòng được treo mắc những màn trướng màu xanh ngọc, đỏ tía và vàng chóe, để tạo cảm giác như thể mọi người đang ở bên trong một căn lều vĩ đại. Căn phòng đông đúc và ngột ngạt tắm đẫm ánh sáng đỏ phát ra từ một cây đèn bằng vàng được trang trí hết sức công phu thòng xuống từ giữa trần nhà. Trên cái trần đó những nàng tiên thật đang chấp chới bay, mỗi nàng một đốm sáng rực rỡ. Tiếng hát vang được hòa theo bằng tiếng gì nghe như đàn măng-đô-lin vọng ra từ một góc xa xa; một đám khói thuốc lá mù mịt lơ lững trên đầu một nhóm nhiều chiến tướng cao tuổi đang say sưa bàn luận, và một số gia tinh đang léo nhéo xin đường giữa một rừng đầu gối, bị che khuất đươi những cái mâm bạc đựng đồ ăn thức uống mà chúng đang đội, khiến cho mấy cái mâm đó giống như những cái bàn di động. Gần như ngay khi Harry và Luna vừa chen lọt qua cửam Thầy Slughorn đã la oang oang, “Harry, chàng trai của ta! Hãy lại đây, có rất nhiều người thầy muốn giới thiệu với con!” Thầy Slughorn đội một cái nón nhung có tua rua hài hòa với bộ áo khoác xì-mốc-kinh của thầy. Nắm chặt cánh tay Harry đến mức thầy có thể cùng độn thổ với nó, Thầy Slughorn dẫn nó vô bữa tiệc một cách trang trọng, còn nó thìnắm chặt tay Luna kéo cô bé theo cùng. “Harry, thầy muốn con làm quen với Eldred Worple, một cựu học sinh của thầy, tác giả quyểnAnh em cốt nhục: Đời tôi giữa những con ma cà rồng – và, dĩnhiên, cả Sanguini, ban của ông ấy.” Worple là một người đeo kiếng, chắc khỏe, tuy nhỏ con. Ông ta chụp tay Harry và lắc lấy lắc để một cách nhiệt thành; con ma cà rồng Sanguini, cao nhòng hốc hác, hai mắt quầng thâm, chỉ gật đầu. Con ma có vẻ buồn chán. Một đám con gái nhốn nháo đang đứng gần y, tỏ vẻ hiếu kỳ và kích động. “Chào Harry Potter, tôi rất hân hạnh!” Ông Worple nói, nhướn đôi mắt cận thị lên nhìn tận mặt Harry. “Mới hôm kia tôi còn nói với Thầy Slughorn như vầy, Đâu rồi cái tiểu sử của Harry Potter mà tất cả chúng ta đều đang chờ đợi?” “Ơ,” Harry nói, “ông chờ thiệt hả?” “Đúng là khiêm tốn y như thầy Horace miêu tả!” Ông Worple nói. “Nhưng nói nghiêm túc nhé,” ông bỗng nhiên thay đổi thái độ, trở nên thực tế, “tôi sẽ sung sướng nếu được viết cuốn tiểu sử đó – người ta đang thèm muốn được biết nhiều hơn về cậu, cậu bé à, rất thèm muốn! Nếu cậu chuẩn bị dành sẵn cho tôi vài cuộc phỏng vấn, để coi, mỗi cuộc chừng bốn năm tiếng đồng hồ, thì chúng ta có thể hoàn tất quyển sách trong vòng vài tháng. Và tôi cam đoan với cậu phần cậu không phải gắng sức gì cho lắm – cứ hỏi Sanguini đây xem có đúng thế không – Sanguin, ở lại đây!” Ông Worple nói thêm, đột ngột nghiêm nghị, bởi vì con ma cà rồng đang nhích gần về phía đám con gái gần đó, trong mắt lộ ra sự đói khát. “Đây, ăn đỡ cái bánh nướng này,” ông Worple nói, chộp một cái bánh từ cái mâm của một con gia tinh bưng ngang qua nhét vào tay Sanguini, rồi mới chuyển sự quan tâm của mình trở lại với
  • 74. Harry. “Cậu bé thân mến của tôi à, cậu không biết cậu sẽ làm ra được bao nhiêu vnagf đâu...” “Tôi tuyệt nhiên không thích thú gì cả,” Harry nói dứt khoát, “và tôi vừa mới thấy một người bạn, xin lỗi ông nhé.” Nó kéo Luna đi theo nó chen vào đám đông; nó quả thực vừa nhìn thấy mái tốc nâu dài mất hút giữa hai người có vẻ là thành viên ban nhạc Quái Tỷ Muội. “Hermione! Hermione!” “Harry! Úi trời ơi, bồ ở đây! Chào Luna!” “Chuyện gìđã xảy ra cho bồ vậy?” Harry hỏi, bởi vìtrông Hermione rõ ràng phờ phạc như thể cô nàng vừa vùng vẫy vượt ra khỏi một bụi cây Rắn Quỉ. “Ôi, mình vừa mới chạy thoát – ý mình là, mình vừa bỏ Cormac dưới đám tầm gửi,” Hermione giải thích, trong khi Harry tiếp tục nhìn cô bé dò hỏi. “Cho đáng đời bồ cặp với hắn,” nó gay gắt nói với cô bé. “Mình nghĩhắn sẽ làm Ron khó chịu nhất,” Hermione thản nhiên nói. “Mình cân nhắc một lúc về ZacHarryias Smith, nhưng mình nghĩnói chung...” “Bồ tính rủ Smith hả?” Harry nói, dịu lại. “Ừ, mình đã tính vậy, và mình đang nghĩphải chi mình chọn anh ta, so với McLaggen thìGrawp cũng trông còn ra vẻ quân tử hơn. Tụi mình đi lối này, có thể nhìn thấy hắn đến, hắn cao quá chừng...” Ba đứa nó len lỏi đi tới đầu kia của căn phòng, hớt mấy ly rượu mật ong trên đường đi, nhận ra hơi trễ là giáo sư Trelawney đang đứng đó một mình. “Chào cô,” Luna lễ phép chào giáo sư Trelawney. “Chào trò, cục cưng ạ,” giáo sư Trelawney nói, chú mục vào Luna với ít nhiều khó khăn. Một lần nữa Harry có thể ngửi được mùi rượu nâu. “Dạo gần đây ta ít thất trò trong lớp của ta...” “Dạ, năm nay con học với thầy Firenze ạ,” Luna nói. “À, dĩ nhiên,” giáo sư Trelawney nói với một tiếng cười khan giận dữ sặc hơi men. “Hay Dobà Béoin, ta thích gọi hắn như vậy hơn. Trò hẳn đã nghĩ, học trò chằng hề nghĩ, rằng giờ đây ta đã trở về trường thìgiáo sư Dum có thể tống khứ con ngựa ấy đi không? Nhưng không... chúng ta chia lớp ra dạy... nói thẳng nhé, đó là một sự xúc phạm, một sự xúc phạm. Trò có biết...” Giáo sư Trelawney dường như xỉn đến nỗi không nhận ra Harry. Thừa lúc bà còn mải tức tối phê bình Firenze, Harry nhích đến gầm Hermione hơn và nói, “Tụi mình hãy giải quyết sòng phẳng với nhau. Bồ có định nói với Ron là bồ đã can thiệp vô vụ tuyển chọn thủ môn không?” Hermione nhướn mày lên, “Bồ thiệt tình nghĩlà mình có thể hạ thấp mình tới mức đó sao?” Harry nhìn xoáy vào cô bé. “Hermione à, nếu bồ đã có thể cặp với McLaggen...” “Có sự khác nhau,” Hermione nói với thái độ chững chạc. “Mình không hề dự định nói với Ron về những gì có lẽ đã xảy ra, hay không hề xảy ra, ở cuộc đấu tuyển thủ môn.” “Tốt,” Harry nhiệt thành nói. “Bởi vìnó sẽ lại suy sụp tinh thần một lần nữa, và chúng ta sẽ thua trận đấu tới...” “Quid!” Hermione giận dữ nói. “Có phải đó là tất cả những gìbọn con trai quan tâm tới không? Cormac đã không hề hỏi một câu về mình, không, mình chỉ được đãi món liên khúc Một trăm pha cứu gôn được Cormac McLaggen thực hiện triền miên từ đầu đến cuối… Ôi thôi, hắn đến kìa!” Cô nàng biến đi thật nhanh như thể đã độn thổ; một một thoáng trước Hermione còn đứng đó, một thoáng sau, cô nàng đã chen vô giữa hai mụ phù thủy đang cười hô hố, và biến mất. Một phút sau McLaggen chen lấn qua đám đông, hỏi, “Có thấy Hermione không?” “Không, rất tiếc,” Harry nói, và nó quay nhanh lại để tham gia vô câu chuyện của Luna, quên béng đi trong tíc tắc là cô bé đang nói chuyện với ai. “Harry Potter!” Giáo sư Trelawney kêu lên bằng một giọng run run bíhiểm khi nhận ra nó lần đầu tiên từ nãy đến giờ. “Dạ, chào cô,” Harry nói xuôi xị. “Cậu bé cưng của ta!” Bà ta nói bằng một giọng thì thầm nhừa nhựa. “Những lời đồn đại! Những câu chuyện! Kẻ Được Chọn! Dĩ nhiên ta đã biết tất cả từ lâu lắm rồi... điềm xúi quẩy chẳng bao giờ tốt, Harry à... Nhưng tại sao trò không quay lại lớp Tiên tri của ta hả? Môn học này cực kỳ quan trọng đối với trò hơn tất cả những người khác!” “A, cô Sybill, tất cả chúng ta đều cho rằng môn mình dạy là quan trọng nhất!” Một giọng nói to vang lên, và Thầy Slughorn hiện ra ở phía bên kia giáo sư Trelawney, mặt thầy đỏ au, cái nón nhung hơi bị lệch, một tay cầm ly rượu mật, tay kia cầm một miếng bánh bự tổ chảng. “Nhưng tôi nghĩ là trước giờ tôi chưa từng biết đến một tài năng bẩm sinh nào về Độc dược như thế!” Thầy Slughorn nói, nhìn Harry với ánh mắt thích thú tuy rằng đỏ ké. “Thuộc bản năng, cô biết chứ... như mẹ của trò ấy vậy! Tôi chỉ có vài ba học sinh có loại năng khiếu này, tôi có thể nói với cô điều đó, cô Sybill à... Ủa, cả thầy Severus...” Và Harry kinh hoàng nhận thấy Thầy Slughorn vung ra một cánh tay và dường như xúc được thầy Snape từ không trung đem về phía họ. “Đừng lỉnh đi nữa, đến đây mà nhập bọn với chúng tôi, thầy Severus!” Thầy Slughorn nấc cục một cách vui vẻ. “Tôi đang nói chuyện về khả năng bào chế thuốc phi thường cảu Harry! Dĩnhiên, một phần công lao là thuộc về thầy, thầy đã dạy trò ấy những năm năm!” Bị mắc kẹt trong cánh tay Thầy Slughorn vòng qua vai mình, thầy Snape ngó xuống Harry qua cái mũi khoằm, đôi mắt đen nheo lại. “Buồn cười, tôi chưa bao giờ có cảm tưởng là mình tìm được cách dạy nổi Potter bất cứ điều gì.” “Chà, vậy thì đó là một năng khiếu tự nhiên!” Thầy Slughorn la lên. “Lẽ ra thầy nên xem cái mà trò ấy đưa tôi, ngay trong buổi học đầu tiên, đó là thuốc tử Thần sống. Chưa hề thấy học sinh nào trong lần thử đầu tiên mà bào chế tốt hơn, kể cả thầy nữa, thầy Severus à...” “Vậy à?” thầy Snape khẽ nói, mắt thầy vẫn nhìn như xoáy khoan vào đầu Harry, khiến nó cảm thấy một nỗi bồn chồn lo âu gì đó. Nó chẳng muốn chút nào nếu thầy Snape bắt đầu điều tra nguyên nhân tài năng độc dược mới phát lộ của nó. “Harry, con nhắc thầy nhớ coi mấy môn khác của con là gì?” Thầy Slughorn hỏi. “Dạ, pch, Bùa chú, Biến hình, Dược thảo...” “Tất cả những môn cần thiết để trở thành một Thần Sáng,” thầy Snape nói với vẻ nhạo báng mơ hồ. “Dạ, đúng như vậy, đó là công việc mà con thích làm,” Harry bướng bỉnh nói. “Và con sẽ trở thành một Thần Sáng vĩđại!” Thầy Slughorn nói oang oang. “Em không nghĩ là anh nên làm Thần Sáng, anh Harry à,” Luna bất ngờ lên tiếng. Mọi người cũng nhìn cô bé. “ Thần Sáng là một bộ phận của bè đảng Nanh Nục, em tưởng ai cũng biết điều đó. Họ đang âm mưu lật đổ Bộ Pháp thuật từ bên trong bằng cách xài Pháp thuật Hắc ám kết hợp với bệnh nha chu.” Nửa ngụm rượu mật ong Harry vừa uống sặc lên tới mũi khi nó phá ra cười. Thiệt tình, chỉ mỗi chuyện này cũng rất đáng công đưa Luna đi dự tiệc. Xuất hiện lại sau cốc rượu, vừa ho vừa sặc, rượu văng ướt nhem, nhưng vẫn còn cười, nó thấy một thứ tính ra còn nâng tinh thần nó lên cao hơn nữa: Draco Malfoy đang bị thầy Filch nắm vành tai kéo về phía họ. “Thưa giáo sư Slughorn,” thầy Filch thở khò khè, xương hàm đánh lập cập và hai con mắt lồ lộ lóe ra ánh sáng điên rồ vì phát hiện việc sai quấy. “Tôi khám phá ra trò này thập thò trong một hành lang trên lầu. Nó nói là được mời dự tiệc của thầy và đi trễ. Thầy có mời nó không?” Malfoy vùng ra khỏi tay thầy Filch, hết sức giận dữ. “Thôi được, tôi không được mời!” Nó tức tối nói. “Tôi định lẻn vào dự tiệc ké, ông vừa lòng chưa?” “Không, tôi không hài lòng!” thầy Filch nói, một câu nói hoàn toàn trật chìa với vẻ hướn hở trên gương mặt thầy. “Trò gặp rắc rối rồi, chính trò đấy! Chẳng phải thầy hiệu trưởng đã nói rằng đi lảng vảng ban đêm bị cấm tuyệt, từ khi được phép, hả?” “Thôi, được rồi, thầyArgus à, được rồi,” Thầy Slughorn xua tay nói, “Giáng sinh mà, và muốn đi dự tiệc thìcũng chẳng phải tội ác gìghê gớm. Chỉ một lần này thôi, chúng ta hãy quên hết sự trừng phạt; trò có thể ở lại dự tiệc. Draco à.” Vẻ mặt thất vọng điên cuồng của thầy Filch hoàn toàn có thể đoán trước được; nhưng Harry thắc mắc khi quan sát Malfoy, tại sao Malfoy cũng có vẻ
  • 75. buồn bực không kém thầy Filch? Và tại sao thầy Snape nhìn Malfoy như thể vừa tức giận vừa... chẳng lẽ nào?... hơi e dè? Nhưng Harry chưa kịp xác định điều nó vừa nhận thấy, thầy Filch đã quay lưng lại và lếch thếch bước đi, lầm bầm trong miệng; Malfoy đã bình tĩnh lại, nặn ra một nụ cười trên mặt và đang cám ơn sự rộng lượng của Thầy Slughorn, và gương mặt thầy Snape lại phẳng lìbíhiểm. “Không có chi, không có chi,” Thầy Slughorn nói, xua tay trước sự tri ân của Malfoy. “Nói cho cùng, thầy có quen biết ông nội của trò...” “Thưa thầy, ông con thường ca ngợi thầy hết lời,” Malfoy nhanh nhẩu nói ngay. “Ông con nói thầy là người bào chế độc dược giỏi nhất mà ông con từng biết...” Harry chăm chú nhìn Malfoy. Không phải những lời nịnh nọt làm nó chú ý, nó đã thấy Malfoy nịnh bợ thầy Snape lâu rồi. Điều khiến Harry chú ý là, quả thật malfoy trông có vẻ hơi bệnh. Đây là lần đầu tiên trong một thời gian khá dài nó được nhìn tận mặt Malfoy; nó thấy Malfoy giờ đây có quầng thâm dưới mắt và nước da xám ngoét một cách rõ rệt. “Ta muốn nói riêng với trò đôi lời, Draco,” thầy Snape bỗng nhiên nói. “Thôi mà, thầy Severus,” Thầy Slughorn nói, lại nấc cụt, “Giáng sinh mà, đừng có khe khắt quá...” “Tôi là chủ nhiệm của Nhà, và tôi sẽ quyết định mức độ nghiêm khắc, hay dễ dãi nên có,” thầy Snape nói cộc lốc. “Đi theo ta, Draco.” Hai thầy trò rời bữa tiệc, thầy Snape đi trước dẫn đường, Malfoy tỏ vẻ phẫn uất. Harry đứng yên một lúc, do dự, rồi nói, “Luna à, anh sẽ trở lại ngay... Ờ... anh đi nhà vệ sinh.” “Được mà” cô bé vui vẻ nói, và khi vội vã chen vô đám đông, nó nghĩ nó nghe thấy tiếng cô bé đang tiếp tục đề tài Bè đảng Nanh Nục với giáo sư Trelawney, bà ta có vẻ hứng thú một cách chân thành. Khi đã chuồn khỏi đám tiệc rồi thì việc rút tấm Áo khoác tàng hình ra khỏi túi xong tự trùm lên mình chỉ là chuyện nhỏ, bởi vì hành lang hoàn toàn vắng vẻ. Chuyện khó khăn hơn là tìm thầy Snape và Malfoy. Harry chạy dọc xuống hành lang, tiếng chân của nó bị át đi trong tiếng ca nhạc và chuyện trò ồn ào phát ra từ văn phòng Thầy Slughorn đằng sau lưng. Có thể thầy Snape đã dắt Malfoy về văn phòng của thầy dưới tầng hầm... hay có lẽ thầy đang điệu hắn về phòng sinh hoạt chung của nhà Slytherin... Harry ép tai vô từng cánh cửa một trong khi lao xuống hành lang, cho đến khi, choáng váng vì hồi hộp, nó thụp xuống kề tai vô lỗ khóa của phòng học cuối dãy hành lang và nghe tiếng người nói. “... Không thể trả giá nổi cho sai lầm đâu, Draco, bởi vìnếu trò bị đuổi học...” “Tôi không dính dáng gìtới chuyện đó, được chưa?” “Ta hy vọng trò nói thật, bởi vìchuyện đó vừa vụng về vừa ngu ngốc. Trò đã bị nghi ngờ có nhúng tay vào vụ đó.” “Ai nghi ngờ tôi?“ Malfoy tức giận hỏi. “Tôi nói lần cuối cùng, tôi không làm chuyện đó, được chưa? Cái con nhỏ Bell ắt hẳn là có một kẻ thù nào đó mà không ai biết... đừng nhìn tôi kiểu đó! Tôi biết tôi đang làm gì, tôi không ngu, chẳng qua việc không thành... tôi có thể dừng thầy lại đấy!” Cả hai cùng im lặng rồi thầy Snape nói khẽ, “À... ta hiểu rồi, dì Bellatrix đang dạy trò Bế quan Bí thuật. Trò đang cố giấu diếm ông chủ của mình điều gì vật, Draco?” “Tôi không cố giấu diếm Ngài cái gìcả, tôi chỉ không muốn thầy xía vô thôi!” Harry ép tai nó sát lỗ khóa hơn nữa... Chuyện gìđã xảy ra khiến Malfoy nói năng với thầy Snape kiểu này - thầy Snape, người mà nó luôn bày tỏ lòng kính trọng, thậm chíyêu mến? “Thì ra đó là lý do trò đã cố tình tránh mặt ta trong học kỳ vừa rồi? Trò sợ ta can thiệp à? Trò có bao giờ nhận thấy có bất cứ kẻ nào khác cưỡng lại được việc đến văn phòng ta một khi ta đã lặp đi lặp lại là phải đến đó, có không, Draco...” “Vậy thìthầy cứ cấm túc tôi đi! Cứ méc lão Dum đi!” Malfoy nhạo báng. Lại một lúc im lặng nữa. Rồi thầy Snape nói, “Trò biết quá rõ là ta không hề muốn làm điều nào trong hai điều đó mà.” “Vậy tốt nhất thầy đừng bảo tôi đến văn phòng thầy nữa!” “Nghe ta nói đây,” thầy Snape nói, giọng thầy lúc này nhỏ đến nỗi Harry phải dán chặt tai vô lỗ khóa mới nghe được. “Ta đang cố gắng giúp trò. Ta đã thề với mẹ trò là ta sẽ bảo vệ trò. Ta đã thực hiện phép thề Bất khả bội, Draco à...” “Xem ra thầy sẽ phải bội thề thôi, bởi vì tôi không cần đến sự bảo vệc của thầy! Đó là công tác của tôi, ngài đã giao cho tôi và tôi đang làm, tôi đã có kế hoạch và kế hoạch sẽ thành công, chỉ hơi lâu hơn tôi tưởng một chút xíu!” “Kế hoạch của trò là gì?” “Không mắc mớ gìđến thầy!” “Nếu trò nói cho ta biết trò đang cố gắng làm gì, ta có thể giúp trò...” “Tôi đã có tất cả sự trợ giúp cần thiết, cám ơn thầy, tôi không đơn độc!” “Trò chắc chắn đơn độc tối hôm nay, một việc cực kỳ ngu xuẩn, lảng vảng trong hành lang mà không ai canh gắc hay bọc hậu, đây là những lỗi lầm sơ đẳng...” “Nếu thầy không cấm túc Crabà Béoe và Goyle thìtụi nó đã có thể canh phòng cho tôi!” “Nói nhỏ thôi!” thầy Snape nạt, bởi vì Malfoy đã cất cao giọng đầy phấn khích. “Nếu hai thằng Crabà Béoe và Goyle có ý định đậu chứng chỉ Pch trong kỳ thi lại bằng Pháp thuật Thường đẳng lần này, hai đứa nó cần học hành chăm chỉ hơn cái mức tàng tàng của chúng hiện nay.” “Cái đó ăn nhằm gì chứ?” Malfoy nói. “Pch – chẳng qua một trò đùa, một màn kịch mà thôi, đúng không? Làm như tất cả chúng ta đều cần bảo vệ chống lại Nghệ thuật hắc ám...” “Đó là một màn kịch tối cần thiết cho sự thành công, Draco à!” thầy Snape nói. “Trò nghĩ xem ta ở đâu trong suốt những năm này, nếu ta không biết đóng kịch? Hãy nghe lời ta! Trò đã bất cẩn đi lang thang trong đêm, để mình bị bắt, và nếu trò tin cậy vào những kẻ phụ tác như Crabà Béoe và Goyle...” “Tụi nó không phải là những kẻ phụ tá duy nhất, tôi còn có những người khác bên cạnh, những người giỏi hơn nhiều!” “Vậy sao không tính luôn ta, và ta có thể...” “Tôi biết thầy đang toan tính điều gì! Thầy muốn cướp đoạt vinh quang của tôi!” Lại một phen im lặng nữa, rồi thầy Snape lạnh lùng nói, “Trò nói năng như một đứa con nít. Ta hoàn toàn thông cảm rằng trò buồn khổ về chuyện cha của trò bị bắt và bị cầm tù, nhưng...” Harry chỉ không có tới một giây báo động; nó nghe tiếng bước chân của Malfoy vang lên phía bên kia cánh cửa, và nó phải nhoài người qua một bên ngay khi cửa mở tung. Malfoy đang sải dài bước chân đi xuống hành lang, ngang qua cánh cửa mở của văn phòng thầy Snape, đi vòng qua góc tường tuốt bên kia, và khuất bòng. Đến thở cũng không dám thở, Harry vẫn ngồi co rúm khi thầy Snape từ từ đi ra khỏi phòng học. Với vẻ mặt không thể dò hỏi được, thầy trở lại bữa tiệc. Còn Harry ngồi trên sàn nhà, ẩn khuất dưới lớp Áo khoác tàng hình, đầu óc quay cuồng. Chương 16 Một mùa Giáng sinh giá buốt Vậy là Thầy Snape đề nghị giúp đỡ nó? Có chắc là ổng đòi giúp nó không? “Nếu bồ hỏi câu đó thêm một lần nữa,” Harry nói, “mình sẽ ịn mụt măng này vô...” “Mình chỉ hỏi lại cho chắc!” Ron nói. Tụi nó đang đứng một mình bên cái chậu trong nhà bếp ở trang trại Hang Sóc gọt măng cho bà Weasley. Tuyết đang bay lơ lửng bên ngoài khung cửa sổ trước mặt tụi nó. “Ừ, Thầy Snape đề nghị giúp đỡ nó!” Harry nói. “Thầy nói thầy đã hứa với mẹ của malfoy là sẽ bảo vệ nó, thầy đã thề Không Bội hay cái gì đó đại khái vậy.” “Phép thề Bất Khả bội à?” Ron nói, vẻ mặt sững sờ. “Không, thầy không thể nào... Bồ có chắc không?”
  • 76. “Có chớ, mình chắc chắn,” Harry nói. “Nhưng mà sao vậy, điều đó có nghĩa là gì?” “Ôi, bồ không thể nào phản bội lại một lời thề Bất Khả bội...” “Nói vậy mà cũng nói, mình cũng tự suy ra được như vậy. Nhưng nếu mình bội thề thìsao?” “Thìbồ chết,” Ron nói đơn giản. “Anh Fred và George có lần đã thử bắt mình chịu phép thề ấy hồi mình mới năm tuổi. Suýt chút xíu là mình đã thề rồi, mình đã nắm tay anh Fred và sẵn sàng thì ba tìm thấy tụi này. Ba nổi cơn tam bành,” Ron nói, đôi mắt thóang qua ánh hồi tưởng. “Đó là lần duy nhất mà mình thấy ba giận không thua gìmá, sau trận đó anh Fred cho là cái mông trái của anh ấy chẳng bao giờ lành lặn lại như xưa nữa.” “Ừ, thìtẩm quất mông trái của anh Fred ấy mà...” “Xin lỗi, sao cơ?” Fred nói khi hai anh em sinh đôi đi vào nhà bếp. “Á à, George ơi, coi nè. Giờ này mà tụi nó còn dùng dao thớt và đủ thứ. Úi trời!” “Chừng hai tháng mấy nữa là em đủ mười bảy tuổi,” Ron gắt gỏng nói, “tới lúc đó em sẽ xài Pháp thuật để làm mấy chuyện này!” “Nhưng trong khi chờ đợi,” George nói, vừa ngồi xuống bên cạnh cái bàn nhà bếp và gác chân lên bàn, “tụi anh có thể thưởng thức cảnh tụi bây thao diễn cách dùng đúng đắn một cái... úi-chu-choa!” “Tại anh làm em mới bị thế!” Ron tức giận nói, vừa mút ngón tay cái bị đứt. “Anh đợi đây, khi nào em đủ mười bảy tuổi...” “Anh chắc thế nào mày cũng sẽ làm tụi anh lé mắt về những kỹ năng Pháp thuật cho đến giờ vẫn không ai ngờ,” Fred ngáp. “Và Ronald này, nhân nói đến những kỹ năng không ai ngờ,” George nói, “chẳng biết chuyện mày với một tiểu thư tên là Lavender Brown – nếu thông tin không sai – tụi anh nghe Ginny nói mà, là chuyện gìhá?” Ron hơi ửng hồng một tí, nhưng chẳng tỏ ra khó chịu lắm khi quay lại với đám măng. “Đừng xía vô chuyện người ta.” “Đối đáp gì mà thô lỗ,” Fred nói. “Anh thiệt tình không biết mày nghĩ sao về mấy chuyện đó. Không, cái điều tụi anh muốn biết là... chuyện đã xảy ra như thế nào?” “Nghĩa là sao?” “Có phải cô nàng bị một tai nạn hay gìgìđó không?” “Gì?” “Xời, ơi, chứ làm thế nào mà cô nàng sống nổi với một đầu óc chèm nhẹp bã đậu hả? Ấy, coi chừng!” Và Weasley đi vào vừa đúng lúc để nhìn thấy Ron phóng con dao gọt măng vô Fred, anh chàng này uể oải phẩy nhẹ cây đũa phép và biến con dao thành một chiếc máy bay giấy. “Ron!” Bà Weasley giận dữ la lên. “Con đừng bao giwof để cho má thấy con quăng dao một lần nữa nghe chưa!” “Vâng, con sẽ không quăng dao...” Ron nói, “...mà để cho má thấy,” (mấy tiếng cuối này nó lầm bầm thêm vào khi quay lại với đống măng.) “Má rất tiếc, Fred, George, hai con à, nhưng chú Remus sẽ đến vào tối nay, cho nên Bill sẽ phải chen chúc với hai đứa con.” “Vô tư,” George nói. “Vậy, chỉ còn Ron và Harry trên căn gác sát nóc, vìCharlie sẽ không về nhà, và nếu Fleur ở chung phòng với Ginny...” “...đó mới thiệt là Giáng sinh tưng bừng của Ginny...” Fred lầm bầm. “...mọi người ắt thoải mái thôi. Với lại, ai cũng có một cái giường cả,” bà Weasley nói, nghe hơi ngường ngượng. “Vậy là anh Percy chắc chắn không chườn cái bộ mặt ghê tởm của ảnh ra chứ,” Fred hỏi. Bà Weasley quay đi trước khi trả lời, “Không, má nghĩlà anh con bận ở Bộ.” Khi bà Weasley rời khỏi nhà bếp, Fred nói: “Ảnh là thằng đần nhất thế giới. Một trong hai thằng đần vĩđại nhất thế giới. Thôi, mình đi thôi George ơi.” “Hai anh âm mưu gì vậy?” Ron hỏi. “Anh có thể giúp tụi này thanh toán đám măng này không? Anh chỉ cần nhúc nhích cây đũa phép là tụi em được rảnh tay!” “Đâu được, anh không cho là tụi anh có thể làm được chuyện đó,” Fred nói một cách nghiêm túc. “Đó là công việc rèn luyện tính cách. Học cách gọt măng mà không cần Pháp thuật sẽ giúp mày đánh giá đúng nỗi khó khăn mà dân Muggle và á phù thủy phải chịu đựng...” “...và nếu mày muốn người ta giúp mình, Ron à,” George nói thêm, vừa quăng chiếc máy bay bằng giấy về phía Ron, “thìđừng có quăng dao vô người ta. Bật mí một tí nhé. Tụi anh sẽ đi ra làng, có một cô bé xinh xắn dễ thương làm việc trong một tiệm giấy nghĩ mấy tấm thiệp mánh của tụi anh là cái gì kỳ diệu lắm..., gần như ảo thuật thứ thiệt...” “Khỉ!” Ron nói giọng cay cú, ngó theo Fred và George băng ngang qua sân ngập đầy tuyết. “Họ chỉ cần bỏ ra chừng mười giây giúp tụi mình là tụi mình cũng có thể đi chơi.” “Mình không đi được,” Harry nói. “Mình đã hứa với thầy Dumbledore là mình sẽ không đi rong trong thời gian ở đây.” “Ừ há,” Ron nói. Nó gọt thêm vài mụt măng nữa rồi nói, “Bồ có tính kể cho thầy Dumbledore về những gì bồ nghe Thầy Snape và Malfoy nơi với nhau không?” “Có,” Harry nói. “Mình sẽ nói với bất cứ ai có thể ngăn chặn việc đó, và thầy Dumbledore là người đầu tiên. Có thể mình sẽ nói với ba bồ một lần nữa.” “Tiếc là bồ đã không nghe được thực sự việc Malfoy đang làm là việc gì.” “Làm sao mình có thể nghe được? Đó là toàn bộ mấu chốt, nó không chịu nói với cả Thầy Snape.” Im lặng một chút, rồi Ron nói, “Dĩ nhiên bồ biết tất cả họ sẽ nói gì rồi đó. Ba và thầy Dumbledore và tất cả những người khác ấy. Họ sẽ nói thực ra không phải Thầy Snape đang cố giúp đỡ Malfoy đâu, mà thầy chỉ cố gắng tìm hiểu xem Malfoy đang toan tính làm gìthôi.” “Tại họ không được nghe ổng nói,” Harry dứt khoát. “Không kịch sĩnào diễn giỏi như vậy được, kể cả Thầy Snape.” “Ừ... Nhưng mà, mình chỉ nói thế,” Ron nói. Harry quay mặt về phía Ron nhăn nhó, “Nhưng bồ nghĩlà mình đúng chứ?” “Ừ, thìđúng!” Ron nói vội. “Thực sự, mình nghĩbồ đúng! Nhưng tất cả những người khác đều tin chắc Thầy Snape là người của Hội, đúng không?” Harry không nói gì. Nó đã nghĩ đến điều này và thấy đó rất có thể sẽ là lý do để mọi người phản bác chững cớ mới của nó; thậm chí bây giờ nó cũng có thể nghe Hermione nói: Rõ như ban ngày, Harry à, thầy giả bộ đề nghị giúp đỡ để dụ dỗ Malfoy nói cho thầy biết nó đang mưu toan làm gì... Tuy nhiên đây chỉ là tưởng tượng suông, bởi vìnó chưa có dịp kể cho Hermione nghe chuyện nó nghe lỏm được. Cô nàng đã biến mất khỏi bữa tiệc của Thầy Slughorn trước khi Harry quay trở lại đó, hay ít ra đó là điều nó được anh chàng McLaggen đang tức cành hông báo cho biết, và khi tụi nó trở về đến phòng sinh hoạt chung thì cô nàng đã đi ngủ rồi. Vì Harry và Ron lên đường về trang trại Hang Sóc rất sớm vào ngày hôm sau, nên nó chỉ đủ thì giờ để cầu chúc cho Hermione một lễ Giáng sinh vui vẻ và nói với cô nàng rằng sau khi nghỉ lễ trở về nó sẽ có tin tức tối quan trọng để kể cho nghe; Tuy nhiên Harry không hoàn toàn chắc là Hermione có nghe được nó nói không; Vì cùng lúc đó, Ron và Lavender đang tam biệt nhau bằng ngôn ngữ không lời ngay sau lưng nó. Tuy vậy, ngay cả Hermione cũng sẽ không thể phủ nhận một điều: Malfoy chắc chắn đang mưu toan điều gì đó, và Thầy Snape biết điều đó, nếu thế thì Harry xẽ cảm thấy mình được chứng minh hoàn toàn đúng khi nói, “Đã bảo với bồ rồi mà,” đó cũng là cái câu nó đã nói với Ron vô số lần. Harry không kiếm được cơ hội để nói chuyện với ông Weasley, ông làm việc suốt ngày ở Bộ, cho đến tận nửa đêm Giáng sinh. Gia đình Weasley và khách khứa ngồi trong căn phòng khách mà Ginny đã trang hoàng phóng khoáng đến nỗi cảnh trí từa tựa như ngồi trong một mớ bòng bong giấy. Fred, George, Harry và Ron là những người duy nhất biết vị thiên thần trên ngọn cây thông Giáng sinh thực ra là một con quỷ lùn giữ của. Con quỷ lùn đã lỡ cắn vô mắt cá chân Fred khi anh ta nhổ cà rốt cho bữa tiệc Giáng sinh. Bị điểm huyệt cứng đơ, rồi bị sơn vàng chóe, nhồi thành một cái váy xòe tíhon với đôi cánh nhỏ dán dính vô lưng, con quỷ lùn trừng mắt ngó xuống tụi nó, đầu trọc lóc như củ khoai tây, chân cẳng xù xì lông lá. Harry chưa từng thấy thiên thần
  • 77. nào xấu khốc liệt như thế. Mọi người đều bị bắt nghe chương trình truyền thanh đêm Giáng sinh do ca sĩ được yêu thích nhất cảu bà Weasley, Celestina Warbeck thực hiện. Giọng ca cô này đang réo rắt vang ra từ một cái ra-đi-ô bằng gỗ khổng lồ. Dương như cảm thấy giọng ca của Celestina chán phèo, Fleur cứ nói chuyện om sòm ở góc bàn, khiến cho bà Weasley cau có cứ phải chĩa cây đũa phép về phía bảng điều chỉnh âm thanh, nhờ vậy giọng ca Celestina càng lúc càng to hơn. Thừa lúc đang diễn ra tiết mục đặc biệt vui nhộn có tên là “Một vạc tình ái đầy ắp sốt dẻo,” Fred và George bắt đầu trò chơi Táp nổ với Ginny. Ron thì cứ lén dòm Bill và Fleur, như thể hy vọng học mót được vài ngón nghề. Trong lúc đó thầy Remus Lupin ngồi bên cạnh lò sưởi, lúc này trông thầy gầy gò rách rưới hơn bao giờ hết. Thầy đang chăm chú nhìn vào đáy lò sưởi như vẻ không hề nghe giọng ca của Celestina. Ôi, đến mà khuấy cái vạc của em Nếu anh làm đúng điệu Thìem sẽ đun sôi ái tình sốt dẻo cho anh Để anh được ấm áp đêm nay. “Hồi tụi mình còn trẻ, tụi mình đã nhảy theo điệu hát này! Anh còn nhớ không anhArthur?” Bà Weasley nói, vừa quẹt nước mắt lên đồ len bà đan. “Hử?” Ông Weasley nói, vừa gục gặc cái đầu buồn ngủ trên trái kim quất mà ông đang gọt. “Ờ phải... âm điệu tuyệt vời...” Ông cố gắng ngồi thẳng lên một chút và ngoái nhìn sang Harry đang ngồi cạnh. “Xin lỗi con nhé,” ông nói, hất đầu về phía cái ra-đi-ô trong khi Celestina đột ngột chuyển sang hợp xướng. “Sắp hết rồi.” “Không sao đâu bác,” Harry nói, nhe răng cười. “Dạo này ở Bộ bận lắm hả bác?” “Bận lắm,” ông Weasley nói. “Thật ra cũng không sao nếu bọn bác đạt được điều gì đó, nhưng trong số ba vụ bắt bớ mà bọn bác thực hiện trong hai tháng vừa qua, bác nghi chỉ có một là Tử thần thực tử thực sự mà thôi... Mà đừng nhắc lại chuyện đó, Harry à,” ông vội nói thêm, bỗng nhiên tỏ ra tỉnh ngủ hơn. “Họ còn giam giữ anh Stan Shunpike không ạ?” Harry hỏi. “Bác nghĩ là còn,” ông Weasley nói. “Bác biết cụ Dumbledore đã thử trực tiếp thỉnh cầu ông Scrimgeour về vụ Stan... nghĩa là, bất cứ ai thẩm vấn anh ta cũng đồng ý là anh ta chẳng Tử thần thực tử hơn trái kim quất này chút nào... nhưng cấp lãnh đạo cao nhất muốn làm ra vẻ họ đang có tiến bộ, và “ba vụ bắt giữ” nghe đỡ hơn “ba vụ bắt nhầm rồi thả ra”... nhưng một lần nữa, đây toàn là chuyện tối mật...” “Con sẽ không nói gì đâu,” Harry nói. Nó ngập ngừng một lát, tự hỏi cách nào tốt nhất để khai mào cái điều nó muốn nói; và trong khi nó còn đang dàn ý trong đầu, thìCelestina Warbeck đã lại bắt đầu một bài ca tâm tình có tựa là “Chàng ếm bùa lấy mất trái tim thiếp.” “Bác Weasley à, bác biết cái chuyện mà con nói với bác ở nhà ga hồi tụi con đi lên trường không?” “Bác kiểm tra rồi, Harry à,” ông Weasley nói ngay. “Bác đã đi đến nơi và lục soát nhà của gia đình Malfoy. Ở đó chẳng có gìbất hợp pháp cả, dù là miểng vụn hay còn nguyên.” “Dạ, con biết, con có đọc trên tờ Tiên tri là bác đã kiểm tra... nhưng đây là một chuyện khác... Ơ, một chuyện...” Và nó nói với ông Weasley mọi điều mà nó nghe lóm được giữa Malfoy và Thầy Snape. Trong lúc nói, nó thấy đầu thầy Lupin hơi quay về phía nó, lắng nghe từng lwoif một. Khi nó kể xong, mọi người đều im lặng, ngoại trừ tiếng hát của Celestina. Ôi trái tim khốn khổ của thiếp đâu mất rồi? Nó đã bỏ thiếp đi cgir vìbị bỏ bùa... “Harry à, con có nghĩlà Thầy Snape chỉ giả bộ không?” Ông Weasley nói. “Giả bộ đề nghị giúp đỡ, để mà thầy có thể khám phá âm mưu của Malfoy ấy à?” Harry nói nhanh. “Dạ, con biết thế nào bác cũng nói vậy. Nhưng làm sao mình biết được chuyện đó?” “Chúng ta không việc gìphải biết cả,” thầy Lupin bất ngờ lên tiếng. Lúc này thầy đã xoay lưng lại lò sưởi và đối diện Harry ngang qua ông Weasley. “Đó là việc cảu cụ Dumbledore. Cụ Dumbledore tin tưởng anh Severus, và nhiêu đó là đủ cho tất cả chúng ta rồi.” “Nhưng,” Harry nói, “chỉ nói thídụ thôi – nói thídụ thầy Dumbledore tin Thầy Snape...” “Người ta nói vậy nhiều lần rồi. Vấn đề cơ bản là tin hay không tin sự phán đoán của cụ Dumbledore. Tôi tin; vìvậy, tôi cũng tin anh Severus.” “Nhưng thầy Dumbledore có thể nhầm lẫn,” Harry cãi lại. “Chính thầy cũng nói vậy mà. Và thầy, thưa thầy,” nó nhìn thẳng vào mắt thầy Lupin, “thầy có thành thực mến Thầy Snape không?” “Thầy không mến cũng không ghét thầy Severus,” thầy Lupin nói. “Không, Harry à, thầy đang nói thật,” thầy Lupin nói thêm vì Harry biểu lộ một vẻ mặt ngờ vực, “có lẽ thầy và thầy ấy không bao giờ là bạn chí cốt; sau tất cả những gì đã xảy ra giữa ba James của con cùng chú Sirius và thầy Severus, có quá nhiều cay đắng rồi. Nhưng thầy không quên là trong suốt cái năm thầy dạy ở trường Hogwarts, hàng tháng thầy Severus đã pha chế thuốc Bả Sói cho thầy, pha chế hoàn hảo, để thầy không bị đau đớn như thầy thường phải chịu đựng mỗi khi trăng tròn.” “Nhưng Thầy Snape cũng đã “tình cờ” để lộ ra chuyện thầy là người sói, khiến thầy phải ra khỏi trường!” Harry tức giận nói. Thầy Lupin nhún vai, “Đằng nào thì chuyện đó cũng lộ ra. Cả hai chúng ta đều biết thầy ấy muốn dạy môn mà thầy dạy, và thầy ấy đã có thể gây ra điều tệ hại hơn nhiều bằng cách bào chế thuốc dỏm cho thầy. Nhưng thầy ấy đã giúp thầy khỏe mạnh. Thầy phải biết ơn.” “Có lẽ thầy ấy không dám chế thuốc dỏm trước mặt thầy Dumbledore!” Harry nói. “Harry à, con cứ khăng khăng một mực căm ghét thầy ấy,” thầy Lupin nói với nụ cười yếu ớt. “Và thầy thông cảm; con là con ruột của ba James và là con đỡ đầu của chú Sirius, con đã thừa hưởng mọi thành kiến. Tất nhiên là con cứ kể cho cụ Dumbledore nghe những gì con đã kể cho bác Arthur và thầy, nhưng đừng trông mong cụ đồng quan điểm với con; và cũng đừng trông mong cụ ngạc nhiên về những điều con nói với cụ. Rất có thể chính cụ Dumbledore đã ra lệnh cho Thầy Snape chất vấn Draco.” Celestina kết thúc bài ca bằng một nốt nhạc cao vút và ngân nga rất lâu cùng tiếng vỗ tay ầm ĩ vang ra từ cái ra-đi-ô, được bà Weasley nhiệt liệt phụ họa theo. “Hết rồi hã?” Fleur hỏi to. “Phước đức, hát gìkhũng khiếp…” “Vậy là chúng ta đội nón Giáng sinh ddowcj rồi hả?” Ông Weasley đứng phắt dậy, la lớn. “Có ai muốn làm một ly rượu trứng không?” “Dạo gần đây thầy làm gì?” Harry hỏi thầy Lupin, trong khi ông Weasley hấp tấp đi pha rượu trứng, và mọi người duỗi ra thư giãn và xúm nhau chuyện trò. “Ôi, thầy hoạt động bí mật,” thầy Lupin nói. “Gần như đúng nghĩa đen. Chính vì vậy mà thầy không thể viết thư cho con được, Harry à; gởi thư cho con chẳng khác nào tiết lộ bímật.” “Nghĩa là sao ạ?” “Thầy đang sống lẫn với những dồng loại, đồng đẳng của thầy,” thầy Lupin nói. Rồi thầy nói thêm, khi thấy Harry tỏ vẻ chẳng hiểu gì cả, “những người sói ấy mà. Gần như tất cả những người này đều về phe Voldermort. Cụ Dumbledore muốn có người do thám và thầy đây… có sẵn điều kiện.” Giọng thầy nghe hơi cay đắng, và có lẽ thầy cũng nhận thấy vậy, nên thầy nở một nụ cười ấm áp hơn rồi nói tiếp, “Thầy không phàn nàn gì cả; đó là một công việc cần thiết, và còn ai khác có thể làm việc đó tốt hơn thầy? Tuy nhiên, cũng khó giành được lòng tin của họ. Thầy còn mang những dấu hiếu không thể nhầm lẫn được của việc đã cố gắng sống chung với đám pháp sư, con thấy đó, trong khi người sói thì xa lánh xã hội thông thường và sống bên lề, trộm cắp – đôi khi lại còn giết người… để ăn.” “Làm sao mà họ lại thích Voldermort nhỉ?” “Họ nghĩrằng họ sẽ có đời sống khá hơn dưới sự cai trị của hắn,” thầy Lupin nói. “Và thật khó mà tranh cãi khi có Greyback ở đó…” “Greyback là ai?” “Con chưa nghe nói về hắn à?” Hai bàn tay thầy Lupin lại run run đặt lên đùi. “Fenrir Greyback có lẽ là người sói man rợ nhất còn sống ở thời nay. Hắn
  • 78. coi sứ mạng đời hắn là cắn và truyền nọc người sói cho càng nhiều người càng tốt; hắn muốn tạo ra đủ người sói để chiến thắng giới pháp sư. Voldermort đã dùng miếng mồi đó để nhử Greyback phục vụ cho mình. Greyback đặc biệt khoái con nít… Hắn nói, cắn chúng khi còn trẻ và nuôi dưỡng chúng xa hẳn cha mẹ chúng, dạy cho chúng lớn lên căm ghét giới phù thủy thông thường. Voldermort đã đe dọa sẽ thả hắn ra cắn con cái người ta; lời đe dọa đó thường mang lại hiệu quả.” Thầy Lupin ngừng một chút rồi nói, “Chính Greyback đã cắn thầy.” “Cái gì?” Harry sửng sốt nói. “Khi… có phải thầy muốn nói là khi thầy còn nhỏ?” “Ừ. Ba của thầy đã làm hắn bực mình. Trong một thời gian rất lâu thầy không biết lai lịch của người sói đã tấn công thầy; thầy thậm chí còn thươws k thi ng hại hắn, vì nghĩ là hắn đâu có tự chủ được, tại lúc đó thầy đã biết khi bị biến hình thì mình cảm thấy thế nào rồi. Nhưng Greyback thì không như vậy. Khi trăng tròn, hắn chọn cho mình một vị trí gần nạn nhân, bảo đảm đủ gần để tấn công được. Hắn sắp đặt sẵn hết. Và hắn là kẻ mà Voldermort đang sử dụng để thống lãnh cộng đồng người sói. Thầy không thể giả bộ mà nói khoác rằng cách biện luận hợp tình hợp lý cảu riêng thầy có thể đối chọi rất hiệu quả với việc khăng khăng của Greyback, rằng người sói thìphải xứng đáng với dòng dõi, rằng người sói nên trút mối hận thù lên người bình thường.” “Nhưng thầy là người bình thường mà!” Harry hung dữ nói. “Thầy chỉ bị một... một... vấn đề...” Thầy Lupin bật cười, “Đôi khi con khiến thầy nhớ lại ba James. Ba con gọi đó là “một vấn đề lông lá nho nhỏ” cho có bầu có bạn. Nhiều người lại có cảm tưởng là thầy có một thói quen cư xử tồi tệ.” Thầy Lupin nhận một ly rượu trứng từ tay ông Weasley và nói cám ơn, có vẻ vui lên một chút, trong khi đó Harry lại cảm thấy một cơn phân khích dậy lên: việc thầy Lupin vừa nhắc đến ba nó khiến nó nhớ ra một chuyện mà nó đã trông ngóng gặp thầy Lupin để hỏi. “Thầy có bao giờ nghe nói đến người nào được gọi là Hoàng Tử lai không?” “Cái gìLai?” “Hoàng tử,” Harry nói, chăm chú nhìn thầy Lupin xem có dấu hiệu nào là thày biết không. “Không có Hoàng tử Pháp thuật,” thầy Lupin nói, bây giờ đã mỉm cười. “Có phải đây là danh hiệu mà con tính khoác cho mình không? Thầy thì cho rằng làm “Kẻ được chọn” cũng đủ rồi.” “Danh hiệu đó chẳng liên quan gì đến con hết!” Harry giận dữ nói. “Hoàng Tử lai là ai đó đã từng học ở trường Hogwarts, con có được cuốn sách độc dược của y. Yviết thần chú khắp cuốn sách, những thần chú mà y phát minh ra. Một trong những thần chú đó là Khinh thân...” “À, thần chú đó rất ư thịnh hành vào thời thầy học ở trường Hogwarts,” Thầy Lupin trầm ngâm nói. “Hồi thầy học năm thứ năm, mất vài tháng không ai di chuyển được gìvìcứ bị lôi bằng mắt cá chân treo chổng ngược lên không trung.” “Ba con từng làm vậy,” Harry nói. “Con thấy ba trong cái Tưởng Ký, ba con dùng thần chú đó ếm Thầy Snape.” Harry cố gắng nói giọng bình thường, như thể đây chỉ là một nhận xét bỏ đi, chẳng có gì quan trọng, nhưng nó không chắc là nó đạt được đúng hiệu quả; nụ cười của thầy Lupin hơi cảm thông quá đáng. “Ừ,” Thầy Lupin nói, “nhưng ba con không phải là người duy nhất. Như thầy vừa nói, thần chú đó rất thịnh hành... Con cũng biết kiểu những thần chú này thịnh hành rồi qua đi như thế nào rồi đó...” “Nhưng nghe có vẻ như thần chú đó được phát minh vào thời thầy học ở trường,” Harry vẫn ngoan cố. “Không nhất thiết vậy,” thầy Lupin nói. “Thần chú trù ếm cũng có mốt và cũng đề-mốt như mọi thứ khác.” Thầy nhìn vào mặt Harry rồi khẽ nói, “Ba James con là pháp sư thuần huyết, Harry à, và thầy cam đoan với con, ba con không hề bảo bạn bè gọi mình là “Hoàng tử”.” Khỏi cần giả đò nữa, Harry nói, “Và cũng không phải chú Siirius chứ? Hay là thầy?” “Chắc chắn không.” “À,” Harry nhìn đăm đăm vào lò sưởi. “Con cứ tưởng... chà, y giúp con nhiều lắm trong những buổi học Độc dược, vị Hoàng Tử ấy.” “Sách cũ cở nào hả, Harry?” “Con không biết, con chưa hề kiểm tra.” Ngay sau câu nói này, Fleur quyết định nhái Celestina hát bài “Một vạc tình ái đầy ắp sốt dẻo”, và mọi người coi đó như tín hiệu “giờ lên giường đã điểm” sau khi liếc thấy vẻ mặt cảu bà Weasley. Harry và Ron trèo hết cầu thang lên phòng ngủ của Ron tuốt trên gác xép, ở đó một cái giường dã chiến đã được dọn sẵn cho Harry. Ron lăn ra ngủ ngay tức thì, nhưng Harry moi móc cái rương của nó lôi ra cuốn Bào chế thuốc cao cấp trước khi lên giường. Nằm trên giường, nó lật mấy trang sách, tìm kiếm, đến khi cuối cùng nó tìm ra, ở ngay trang bìa của cuốn sách, ngày cuốn sách được in. Gần năm mươi năm. Cả ba nó lẫn bạn bè của ông đều không có mặt ở trường cách đây năm mươi năm. Cảm thấy thất vọng, Harry quăng cuốn sách trở vô rương, tắt đèn, và lật sấp người lại, nghĩ đến những người sói và Thầy Snape, Stan Shunpike với Hoàng Tử lai, và cuối cùng chìm vào một giấc ngủ khó chịu đầy những cái bóng rón rén trườn đi và tiếng khóc trẻ con bị cắn... “Chắc cô nàng giỡn chơi...” Harry giật mình thức giấc thấy một chiếc vớ phồng to nằm ngang chân giường. Nó đeo kính lên nhìn quanh; khung cửa sổ tíhon hoàn toàn mờ mịt vìtuyết, và ngay trước mặt nó, Ron đang ngồi thẳng lưng trên giường xem xét một cái gìđó giống như một sợi dây chuyền vàng mập ú. “Cái gìvậy?” Harry hỏi. “Quà của Lavender,” Ron nói, nghe ngao ngán chán chường. “Bộ cô nàng thiệt tình tưởng mình muốn đeo hả...” Harry nhìn cái vật đó kỹ hơn rồi phá ra cười ha hả. Phần dưới sợi dây chuyền là những mẫu tự kết thành mấy chữ vàng to tổ bố: “Cục cưng của em”. “Hay,” nó nói. “Ác liệt. Bồ nhất định phải đeo nó trước mặt anh Fred và George.” “Nếu bồ nói với hai anh ấy, ”Ron nói, vừa nhét sợi dây chuyền xuống dưới gối cho khuất mắt, “mình... mình... mình sẽ...” “...sẽ cà lăm hả?” Harry nói, nhe răng cười. “Thôi đi, đời nào mình làm vậy!” “Nhưng làm sao mà cô ta lại nghĩra được một thứ như cái đó chớ?” Ron cần không khí, coi bộ nó hơi bị sốc. “Thì, nhớ lại coi,” Harry nói, “có lần nào bồ lỡ lời nói là bồ thích đi đến nơi công cộng với mấy chữ Cục cưng của em đeo quanh cổ không?” “Ơ... tụi này đâu có nói gìnhiều với nhau đâu,” Ron nói. “Chủ yếu là...” “...hôn hít,” Harry nói. “Thì, ừ,” Ron nói. Nó ngập ngừng một chút rồi nói, “Hermione có bồ thiệt tình với McLaggen không?” “Ai mà biết,” Harry nói. “Hai người đó cùng đi dự tiệc ở chỗ Thầy Slughorn, nhưng mình không nghĩchuyện đó sẽ tới đâu.” Ron có vẻ hơi phấn khởi lên khi mò sâu vô trong chiếc vớ quà của nó. Quà Giáng sinh cho Harry gồm có một cái áo len có chữ Snitch Vàng ở mặt trước, do bà Weasley đan tay, một cái hộp to đùng những sản phẩm của tiệm tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley do hai anh em sinh đôi tặng, và một cái gói có mùi mốc, hơi ẩm ướt, có kèm theo một cái nhãn ghi: “KreacHermione gởi Cậu Chủ”. Harry trợn mắt ngó cái gói đó. “Bồ có nghĩlà sẽ an toàn nếu mở cái gói đó ra không?” Nó hỏi. “Chắc không thể là cái gì nguy hiểm được, tất cả thư từ của chúng ta đều được Bộ khám xét rồi mà,” Ron trả lời, mặc dù nó nhìn chừng cái gói đó một cách nghi ngờ. “Mình đã không nghĩ đến việc tặng cho KreacHermione cái gì cả. Người ta có thường tặng cho gia tinh của họ quà Giáng sinh không nhỉ?” Harry hỏi, vừa
  • 79. thận trọng chọc chọc gói quà. “Hermione thìcó đấy,” Ron nói. “Nhưng hãy chờ xem đó là cái gìtrước khi bồ bày tỏ lòng áy náy.” Chỉ giây lát sau, Harry hét lên một tiếng kinh thiên động địa và nhảy ra khỏi cái giường dã chiến của nó; cái gói chưa một đống bự những giogi và giòi. “Hay,” Ron nói, rống lên cười. “Cực kỳ sâu sắc.” “Mình thà nhận được đống giòi này hơn là sợi dây chuyền kia,” Harry nói, khiến Ron cụt hứng tức thì. Khi tất cả mọi người ngồi xuống bên bàn ăn bữa trưa Giáng sinh, ai ai cũng mặc áo len mới, ngoại trừ Fleur (có vẻ như bà Weasley đã không muốn uổng công đan cho một cái) và chính bà Weasley, bà cũng biểu diễn một cái nón phù thủy mới toanh màu xanh thẳm lấp lánh những hạt gìnhư kim cương nhái những ngôi sao nhỏ xíu, và một sợi dây chuyền vàng lộng lẫy. “Fred và George tặng cho má nè! Đẹp không?” “Ối, tụi con ngày càng biết ơn má nhiều hơn, má à, bây giờ tụi con phải tự giặt vớ của mình,” George nói, vừa xua tay thoải mái. “Ăn củ cải không, chú Remus?” “Harry à, trong tóc anh có một con giòi,” Ginny vui vẻ nói, chồm ngang qua cái bàn ăn để gỡ con giòi ra, Harry cảm thấy mấy cục thịt ngỗng vọt lên tới cần cổ nó mà không dính dáng gìtới con gioig. “Thấy ghê góa,” Fleur nói, khẽ rùng mình một cách hết sức điệu đàng. “Ừ, ghê thiệt há?” Ron nói. “Dùng nước sốt không, chị Fleur?” Trong lúc xăng xái phục vụ Fleur, Ron hất bay cái chén nước sốt; Bill bèn vẫy cây đũa phép và đám nước sốt đang bị văng giữa không trung ngoan ngoãn quay trở lại cái chén. “Em vụng về y như cô Tonks ới,” Fleur nói với Ron, sau khi đã hôn Bill để cám ơn. “Cô ta luôn hất văn...” “Chà,” bà Weasley nói. “Có lẽ có. Thực ra thìtôi có cảm tưởng cô ấy tính ăn Giáng sinh một mình.” Bà nhìn thầy Lupin bực mình, như thể lỗi tại thầy mà bà có cô Fleur làm dâu thay vì cô Tonks, nhưng Harry, khi liếc nhìn cảnh Fleur dùng nĩa của mình đút Bill ăn những miếng thịt gà tây, thì tin rằng bà Weasley đang chiến đấu trên một mặt trận đã thua dài. Tuy nhiên nó nhớ ra một câu hỏi liên quan đến cô Tonks, mà còn ai để hỏi tốt hơn thầy Lupin, người am hiểu mọi thứ về Thần Hộ mệnh? “Thần Hộ mệnh của cô Tonks đã thay đổi hình thức,” nó nói với thầy. “Ấy là Thầy Snape nói vậy. Con không biết là chuyện đó xảy ra được. Tại sao Thần Hộ mệnh của mình lại thay đổi?” Thầy Lupin nhẩn nha nhai miếng gà tây rồi nuốt luôn trước khi chậm rãi trả lời: “Đôi khi... một cơn khủng hoảng lớn... một chấn động tình cảm...” “Trông nó to và có bốn chân,” Harry nói, một ý nghĩđột ngột nảy ra và nó hạ thấp giọng. “A... không lẽ nó là...?” “Anh Arthur!” Bà Weasley bỗng nhiên kêu lên. Bà rời cái ghế đứng lên; bàn tay áp chặt lên trái tim, và bà chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ nhà bếp. “Anh Arthur... Percy kìa!” “Cái gì?” Ông Weasley ngoái lại nhìn. Mọi người cũng nhanh chóng nhìn ra cửa sổ; Ginny đứng dậy để nhìn cho rõ hơn. Kìa, quả nhiên là Percy Weasley đang sải bước băng qua mảnh sân đầy tuyết, đôi kính gọng sừng của anh ta sáng lấp lánh trong ánh nắng. Tuy nhiên, anh ta không di một mình. “AnhArthur, nó... nó đi với ông Bộ trưởng!” Và quả nhiên, người đàn ông mà Harry đã nhìn thấy trên tờ Nhật báo Tiên Tri đang đi theo dấu chân của Percy, hơi cà thọt, mái tóc dày xám của ông ta và tấm áo khaocs màu đen lấm tấm bông tuyết. Trước khi những người có mặt trong nhà bếp lúc ấy thốt ra được lời nào, trước khi ông và bà Weasley có thể làm gìkhác hơn là nhìn nhau sửng sốt, thìcánh cửa sau đã mở ra và Percy đứng ngay đó. Một khoảnh khắc im lặng đau đớn. Rồi Percy nói hơi sượng, “Chúc má Giáng sinh vui vẻ.” “Ôi, Percy!” Bà Weasley kêu lên, và lao vào vòng tay của con trai. Ông Rufus Scrimgeour dừng chân trên ngưỡng cửa, nghiêng mình tựa trên cây gậy và mỉm cười ngắm nhìn cái cảnh cảm động ấy. “hẳn bà sẽ tha thứ cho cuộc viếng thăm đường đột này,” ông Scrimgeour nói, khi bà Weasley quay lại nhìn ông, vừa lau nước mắt vừa tươi cười. “Percy và tôi đang ở quanh vùng đây... bà biết đấy, công tác mà... và anh chằng đã không thể không ghé về nhà thăm hết mọi người trong gia đình.” Nhưng Percy chẳng tỏ vẻ gì muốn chào hỏi hết mọi người còn lại tỏng gia đình. Anh ta đứng thẳng đơ như que cời lửa, có vẻ ngượng nghịu, và trơ mắt ngó đâu đó phía trên đầu mọi người. Ông Weasley, Fred và George cùng quan sát anh ta với vẻ mặt chai lạnh như đá. “Xin mời vào, ông Bộ trưởng, xin mời ngồi!” Bà Weasley luýnh quýnh, vừa sửa cái nón cho ngay lại. “Mời ông dùng chút bà tây, hay chút gánh nướng... ý tôi là...” “Khỏi, khỏi mà, bà Molly yêu quí,” ông Scrimgeour nói. Harry đoán ông ta đã hỏi Percy tên riêng của bà Weasley trước khi họ bước vào nhà. “Tôi không muốn đường đột chút nào, không hề định đến đây nếu Percy không tha thiết muốn thăm gia đình đến thế...” “Ôi, Perce con!” Bà Weasley nói trong nước mắt, nhón gót lên để hôn con trai. “...Chúng tôi chỉ ghé qua chừng năm phút, vậy tôi xin phép đi dạo một vòng quanh sân trong lúc cả nhà thăm hỏi Percy nhé. Không, không, tôi cam đoan với bà là tôi không muốn xen vô chuyện gia đình! Nào, có ai vui lòng đưa tôi đi xem khu vườn xinh xắn của bà không... A, chàng trai kia đã ăn xong, sao cậu không đi dạo cũng tôi nào?” Không khí quanh bàn ăn thay đổi thấy rõ. Mọi người hết nhìn ông Scrimgeour đến nhìn Harry. Có vẻ như ai cũng thấy sự giả vờ của ông Scrimgeour không biết tên Harry là không thể tin được, và không ai cho rằng chuyện Harry được chọn để tháp tùng ông Bộ trưởng dạo quanh vườn là ngẫu nhiên một khi chính Ginnyny, Fleur và George cũng đã ăn xong rồi. “Dạ, được ạ,” Harry thốt lên giữa im lặng. Nhưng nó không để bị lừa; Bất chấp toàn bộ bài diễn văn của ông Scrimgeour rằng họ chỉ ngẫu nhiên đến vùng này, rằng Percy muốn thăm gia đình anh ấy, đây mới hẳn là lý do thực sự khiến họ đến đây: có vậy ông Scrimgeour mới có thể nói chuyện với một mình Harry. “Không sao đâu,” nó nói khẽ khi đi ngang qua thầy Lupin, thầy đã nhổm dậy khỏi cái ghế. “Không sao,” nó nói thêm, khi ông Weasley há miệng toan nói. “Tuyệt vời!” ông Scrimgeour nói, đứng lùi lại để Harry bước qua cửa đi trước dẫn đường. “Chúng tôi sẽ chỉ đi một vòng quanh vườn, rồi Percy và tôi sẽ lên đường. Mọi người cứ tiếp tục ăn!” Harry đi ngang qua sân về phía mảnh vườn um tùm phủ đầy tuyết của gia đình Weasley, ông Scrimgeour đi hơi cà nhắc bên cạnh. Harry biết ông đã từng là Giám đốc Sở Thần Sáng; trông ông gân guốc và đầy thẹo chiến trường, rất khác với ông Fudge béo tốt trong cái nón hình trái dưa. “Đẹp lắm,” ông Scrimgeour nói, khi dừng bên hàng rào khu vườn, nhìn ra bãi cỏ bị tuyết phủ kín và cây cối không thể phân biệt là được cây gì với cây gì. “Đẹp lắm.” Harry không nói gì. Nó có thể nói là ông Scrimgeour đang quan sát nó. Một lát sau, ông Scrimgeour nói, “Tôi muốn gặp cậu từ lâu lắm rồi, cậu có biết điều đó không?” “Không ạ,” Harry thành thật nói! “Ừ phải, lâu lắm rồi. Nhưng cụ Dumbledore đã bảo vọc cậu kỹ quá,” ông Scrimgeour nói. “Đương nhiên, dĩ nhiên, tự nhiên thôi, sau tất cả những gì cậu đã trải qua... Đặc biệt là những gìđã xảy ra ở Bộ...” Ông chờ đợi Harry nói điều gìđó, nhưng Harry không buồn góp lời, cho nên ông nói tiếp, “Tôi vẫn hy vọng có dịp chuyện trò với cậu từ khi tôi nhậm chức, nhưng cụ Dumbledore đã... cũng hết sức dễ thông cảm thôi, như tôi đac nói đây... cụ đã ngăn chặn điều đó.” Harry vẫn không nói gì, chỉ chờ đợi. “Lời đồn đại đã bay khắp thế giới!” Ông Scrimgeour nói. “Chà, dĩ nhiên, cả hai chúng ta đều biết những câu chuyện đó đã bị bóp méo như thế nào... tất
  • 80. cả những lời xìxầm về một lời tiên tri... về việc vậu là “Kẻ được chọn”...” Harry nghĩbây giờ ông Scrimgeour và nó đang đi gần tới cái lý do khiến ông ta có mặt ở đây. “Tôi đoán là cụ Dumbledore đã bàn bạc chuyện này với cậu?” Harry suy nghĩ kỹ càng, tự hỏi nó có nên nói dối hay không. Nó ngó những dấu chân nho nhỏ của những con quỷ lùn in khắp vườn hoa, và một thẻo bị cào ra đánh dấu nơi mà Fred đã bắt được cái con quỷ lùn giờ này đang mặc váy xòe trên ngọn cây Giáng sinh. Cuối cùng Harry quyết định nói thật, hay một phần sự thật. “Dạ, thầy trò cháu có bàn về chuyện đó.” “Cậu đã, cậu đã...” ông Scrimgeour nói. Qua khóe mắt. Harry có thể thấy ông Scrimgeour đang liếc nhìn nó, cho nên nó giả đò say mê ngó một con quỷ lùn vừa mới thò đầu ra bên dưới một cây đỗ quyên bị đóng băng. “Vậy cụ Dumbledore đã nói gìvới cậu hở Harry?” “Cháu xin lỗi, nhưng đó là việc riêng giữa thầy trò cháu,” Harry nói. Nó cố giữ giọng nói thoải mái, và giọng ông Scrimgeour cũng vậy, nhẹ nhàng thân thiện khi nói, “Ồ, dĩnhiên, nếu đó là vấn đề riêng tư bímật, tôi không muốn cậu tiết lộ... không, không... Và đằng nào đi nữa, việc cậu có phải là “Kẻ được chọn” hay không có thành vấn đề không nhỉ?” Harry phải suy đi nghĩlại điều đó vài giây trước khi đáp: “Thưa ông Bộ trưởng, cháu không thực sự hiểu ông muốn nói gì.” “Chà, dĩ nhiên, đối với cậu điều đó sẽ cực kỳ có vấn đề,” ông Scrimgeour nói kèm theo một tiếng cười. “Nhưng đối với dư luận cộng đồng Pháp thuật... chẳng qua là nhận thức cả thôi, đúng không? Chính điều người ta tin mới là điều quan trọng.” Harry không nói gì. Nó nghĩ nó đã thấy, lờ mờ, nơi mà ông Scrimgeour đang nhắm tới, nhưng nó sẽ không giúp ông ta tới nơi đó. Con quỷ lùn phía gốc cây đỗ quyên đang đào trùn dưới rễ cây, và Harry không rời mắt khỏi con quỷ lùn ấy. “Người ta tin cậu là “Kẻ được chọn”, cậu hiểu chứ,” ông “Kẻ được chọn nói. “Họ nghĩ về cậu như một người hùng... Dĩ nhiên là cậu anh hùng rồi, Harry à, cho dù có được chọn hay không! Tính đến nay cậu đã đương đầu với Kẻ-chớ-gọi-tên-ra bao nhiêu lần rồi nhỉ? Thôi, đằng nào đi nữa,” ông dấn tới, không cần đợi Harry trả lời, “vấn đề chính là, cậu là biểu tượng hy vọng đối với nhiều người, Harry à. Cái ý nghĩ là có ai đó trên đời có khả năng, ai đó do định mệnh an bài, sẽ tiêu diệt Kẻ-chớ-gọi-tên-ra... thì đó, dĩ nhiên thôi, nó khiến người ta lên tinh thần. Và tôi không thể không nghĩ rằng, một khi cậu nhận ra điều này, cậu có thể coi đó như... chà... gần như là một bổn phận, sát cánh cùng Bộ, và nâng cao tinh thần mọi người lên.” Con quỷ lùn vừa xoay sở tóm được một con trùn. Bây giờ nó đang ra sức kéo con trùn, cố gắng lôi con trùn ra khỏi lớp đất đông cứng. Harry im lặng lâu đến nỗi ông “Kẻ được chọn hết nhìn Harry lại nhìn sang con quỷ lùn, nói, “Chúng buồn cười nhỉ, những gã tíhon ấy? Nhưng cậu nói sao, Harry?” “Cháu không hiểu một cách chính xác điều ông nói,” Harry chậm rãi nói. “Sát cánh với Bộ... nghĩa là gìạ?” “Ôi, thế này, không có gì nhọc nhằn cả, tôi cam đoan với cậu,” ông “Kẻ được chọn nói. “Thí dụ như nếu thỉnh thoảng người ta thấy cậu ra vô Bộ Pháp thuật, thì điều đó có thể tạo được ấn towngj tốt. Và dĩ nhiên, khi lui tới với Bộ, cậu sẽ có vô vàn cơ hội để nói chuyện với ông Gawain Robards, người kế nhiệm tôi làm Giám đốc Sở Thần Sáng. Bà Dolores Umbridge có nói với tôi là cậu đang nung nấu tham vọng trở thành mộ Thần Sáng. Chà, chuyện đó có thể dàn xếp dễ dàng thôi...” Harry cảm thấy cơn giận đang sôi sục trong bao tử của nó: thìra mụ Dolores Umbridge vẫn còn ở Bộ sao? “Vậy căn bản,” nó nói, như thể nó chỉ muốn làm rõ vài điểm, “Ông muốn tạo ấn tượng là cháu đang làm việc cho Bộ?” “Việc đó sẽ giúp mọi người lên tinh thần khi nghĩ là cậu đã can dự nhiều hơn, Harry à,” ông Scrimgeour nói, có vẻ nhẹ nhõm là Harry đã hiểu ra nhanh chóng. “Kẻ được chọn, cậu biết đó... tất cả chỉ nhằm tạo cho người ta niềm hy vọng, cho người ta cái cảm tưởng rằng có những điều kỳ thú đang xảy ra...” “Nhưng nếu cháu cứ chạy ra chạt vô Bộ,” Harry nói, vẫn cố gắng giữ giọng nói thân mật, “thìcó vẻ như cháu tán thành chuyện Bộ đang làm?” “Ừ,” ông Scrimgeour nói, hơi cau mày, “Ừ, phải, đó là một phần vìsao chúng tôi muốn...” “Không, cháu không nghĩ là điều đó ăn thua gì đâu,” Harry vui vẻ nói. “Ông hiểu không, cháu không thích một số chuyện mà Bộ đang làm. Thí dụ như nhốt anh Stan Shunpike.” Ông Scrimgeour không mở miệng trong chốc lát, nhưng vẻ mặt của ông ngay lập tức đanh lại. “Tôi không hy vọng gì cậu hiểu được,” ông nói, và không ngăn nổi sự bực dọc lộ ra trong giọng nói như Harry đã làm được. “Hiện nay tình hình đang nguy hiểm, và cần thi hành những biện pháp nhất định. Cậu mới mười sáu tuổi...” “Thầy Dumbledore già hơn một đứa mười sáu tuổi rất nhiều, vậy mà thầy cũng không nghĩanh Stan đáng bị tống vô ngục Azkaban,” Harry nói. “Ông đang biến anh Stan thành vật hy sinh, cũng giống như ông muốn biến cháu thành vật cầu phúc.” Cả hai người nhìn thẳng nhau, chiếu tướng nhau thật kỹ và thật lâu. Cuối cùng ông Scrimgeour nói, chẳng còn chút giả vờ thân thiện nào nữa, “Tôi hiểu. Cậu muốn... giống như vị anh hùng của trò, cụ Dumbledore ấy... muốn tự tách mình ra khỏi Bộ à?” “Cháu không muốn bị lợi dụng,” Harry nói. “Một số người sẽ nói bổn phận của cậu là để cho Bộ sử dụng!” “Vâng, và một số người khác có thể nói bổn phận của ông là kiểm tra xem người ta có thực sự là Tử thần thực tử hay không trước khi tống họ vô tù,” Harry nói, giờ đây cơn giận của nó đang bốc lên. “Ông đang làm điều mà Barty Crouch đã làm. Bọn người các ông chẳng bao giờ biết hành sự cho đúng đắn sao? Chúng tôi hết gặp phải ông Fudge, cứ giả bộ như mọi thứ đều dễ thương trong khi người ta bị ám sát ngay dưới mũi, lại gặp tới ông, tống người lương thiện vô tù và giả bộ như mình có “Kẻ được chọn” đang làm việc dưới trướng!” “Vậy cậu không phải là “Kẻ được chọn” sao?” Ông Scrimgeour nói. “Tôi tưởng ông đã nói là đăng nào thì chuyện đó cũng không thành vấn đề kia mà?” Harry nói, kèm theo tiếng cười chua chát. “Dù sao thì cũng không được chọn cho ông.” “Nếu là tôi thìtôi sẽ chẳng nói năng như vậy,” ông Scrimgeour nói nhanh. “Thật sống sượng...” “Không, thật trung thực chứ,” Harry nói. “Điều trung thực duy nhất mà ông nói với tôi. Ông chẳng bận tâm chuyện tôi sống hay chết, nhưng ông lại bận tâm đến chuyện tôi giúp ông phủ dụ mọi người rằng ông đang thắng trong trận chiến chống Voldermort. Thưa ông Bộ trưởng, tôi không quên...” Nó giơ nắm tay phải lên. Trên mu bàn tay lạnh cóng của nó là những vết sẹo trắng bóng mà mụ Dolores Umbridge đã buộc nó khắc vào chính da thịt mình: Tôi không được nói dối. “Tôi không nhớ ông có từng xông tới bảo vệ tôi khi tôi cố gắng nói cho mọi người biết là Voldermort đã trở lại không. Bộ không hề tỏ ra là cánh hảo của tôi hồi năm ngoái.” Cả hai lại đứng im lặng lạnh lùng hệt như mặt đất dưới chân. Con quỷ lùn cuối cùng đã tìm được cách rút con trùn của nó ra và giờ đây đang vui vẻ nhâm nhi miếng mồi, trong khi dựa lưng vào mấy cành thấp nhất của bụi cây đỗ quyên. “Cụ Dumbledore đang âm mưu gì?” Ông Scrimgeour hỏi một cách lỗ mãng. “Khi cụ không có mặt ở trường Hogwarts thìcụ đi đâu?” “Không biết,” Harry nói. “Tốt, vậy thì, tôi sẽ phải suy xét xem phải chăng tôi chẳng còn cách nào khác nữa.” “Ông cứ việc,” Harry dửng dưng nói. “Nhưng ông có vẻ không hơn ông Fudge, nên tôi nghĩ chắc ông phải học được từ sai lầm của ông ấy. Ông ấy đã cố gắng can thiệp vào trường Hogwarts. Ông có thể nhận thấy ông ấy khoogn còn là Bộ trưởng nữa, nhưng thầy Dumbledore vẫn là hiệu trưởng. Nếu tôi là ông tôi sẽ không đụng tới thầy Dumbledore.” Cả hai im lặng khá lâu. “Thôi, tôi thấy rõ là cụ ấy dạy cậu giỏi đấy,” ông Scrimgeour nói, đôi mắt lạnh lùng và khắc nghiệt sau cặp kính gọng kim loại. “Cậu hoàn toàn là người của cụ Dumbledore, đúng không, Potter?”
  • 81. “Đúng vậy,” Harry nói. “Mừng là ông đã hiểu ra.” Và quay lưng lại ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật, nó rảo bước trở vô nhà. Chương 17 Một ký ức bị nhiễu Sau Tết Dương lịch vài ngày, vào một buổi xế chiều, Harry, Ron và Ginny đứng thành hàng bên cạnh lò sưởi trong nhà bếp để trở về trường Hogwarts. Bộ đã sắp xếp tuyến vận-hành-một-lần này kết nối với mạng chuyên chở Floo để đưa học sinh về trường nhanh chóng và an toàn. Chỉ có bà Weasley tiễn đưa tụi nó, bởi vì ông Weasley, Fred, George, Bill và Fleur đều đã đi làm. Bà Weasley sụt sịt khóc ngay khi bắt đầu chia tay. Phải công nhận rằng gần đây hở ra là bà khóc; từ bữa Percy đùng đùng bỏ ra khỏi nhà vào ngày Giáng sinh với đôi kính dính tèm lem vụn củ cải nghiền (thành tích mà Fred, George và Ginny đều giành), bà Weasley cứ sụt sịt miết, khóc rồi nín, nín rồi khóc. “Đừng khóc nữa, má,” Ginny nói, vỗ nhẹ lên lưng bà Weasley khi bà gục trên vai nó khóc nức nở. “Không sao đâu mà...” “Ừ, má đừng lo cho tụi con,” Ron vừa nói vừa để cho bà Weasley hôn một cái đẫm lệ lên gò má nó, “cũng đừng lo buồn về anh Percy. Đần độn như thế thìcũng chẳng coi là mất mát được, đúng không má?” Bà Weasley lại khóc lóc thảm thiết hơn nữa khi ôm choàng lấy Harry trong vòng tay mình. “Con hứa với bác là con sẽ bảo trọng nhé... tránh đâm đầu vô rắc rối...” “Con luôn làm như bác dặn, bác Weasley à,” Harry nói. “Bác biết con thích cuộc sống yên tịnh mà.” Bà gật gù trong nước mắt và đứng lùi lại. “Vậy, tất cả các con ráng ngoan nhé...” Harry bước vào ngọn lửa màu xanh ngọc và hô to, “Trường Hogwarts!” Trước khi bị hút chìm vào ngọn lửa, nó còn thoáng nhìn thấy lầm cuối cảnh nhà bếp gia đình Weasley, và gương mặt đẫm nước mắt của bà Weasley. Quay mòng mòng thiệt nhanh, nó thoáng thấy lờ mờ phòng khách các gia đình Pháp thuật, nhưng nó chưa kịp nhìn cho rõ thì cảnh trí đã vụt qua mất rồi; sau đó nó xoay chậm lại, cuối cùng thì dừng hẳn lại trong lò sưởi của văn phòng giáo sư McGonagall. Bà chẳng buồn rời mắt khỏi công việc đang làm để ngước lên nhìn Harry loay hoay trèo ra khỏi cái vỉ lò. “Chào trò, Potter. Cố gắng đừng làm vung vãi quá nhiều tro trên thảm.” “Dạ, thưa cô.” Trong khi Harry chỉnh mắt kiếng cho ngay và vuốt tóc tai cho gọn lại, thì Ron hiện ra xoay tít mù. Khi Ginny đến nơi, cả ba đứa nó kéo nhau ra khỏi văn phòng giáo sư McGonagall rồi đi về phía tháp Gryffindor. Harry liếc vô những cửa sổ dọc hành lang khi tụi nó đi ngang qua; mặt trời đã chìm xuống ngang mặt đất phủ thảm tuyết dày hơn cả lớp tuyết trong vườn trang trại Hang Sóc. Phía xa xa, nó có thể nhìn thấy bác Hagrid đang cho con Buckbeak ăn phía trước căn chòi của bác. “Lòe loẹt,” Ron nói giọng tự tin khi tụi nó đến trước bức chân dung Bà Béo, trông bà ta tái nhợt hơn mọi khi và giọng nói to của Ron khiến bà ta nhăn mặt. “Không,” bà nói. “Bà nói “không” nghĩa là sao?” “Đổi mật khẩu mới rồi,” Bà Béo nói. “Và làm ơn đừng hò hét.” “Nhưng mà tụi này đi vắng, làm sao tụi này biết...?” “Harry! Ginny!” Hermione đang hấp tấp đi về phía tụi nó, gương mặt hồng hào, vẫn còn mặc áo choàng, đội nón và đeo găng tay. “Mình mới trở về trường cách đây hai tiếng đồng hồ, mình vừa mới xuống dưới chòi thăm bác Hagrid và con Buck... ý là con WitHermionewingiáo sư,” cô bé nói muốn hụt hơi. “Mấy bồ ăn Giáng sinh vui vẻ không?” “Vui,” Ron nói ngay. “Khá nhiều sự kiện, ông Rufus Scrim...” “Mình có cái này cho bồ nè, Harry,” Hermione nói, không thèm ngó tới Ron mà cũng chẳng tỏ dấu hiệu gì có nghe anh chàng này nói. “Ôi, chờ xíu... mật khẩu. Chay tịnh!” “Chính xác,” Bà Béo nói giọng phều phào, rồi quăng mình về phía trước, để lộ ra cái lỗ chân dung. “Bả bị sao vậy?” Harry hỏi. “Rõ ràng là đã bê tha chè chén trong dịp Giáng sinh,” Hermione nói, mắt đảo tròn khi dẫn đường tụi nó đi vào phòng sinh hoạt chung đông như nêm. “Bả với bà bạn Violet uống tìtìhết tất cả rượu trong bức tranh những thầy tu xỉn dưới hành lang Bùa chú. À đây...” Cô bé lục lọi túi áo một lát, rồi rút ra một cuộn giấy da trên đó có nét chữ viết tay của thầy Dumbledore. “Hay quá,” Harry nói, mở cuộn giấy da ra ngay tức thì để thấy buổi học tiếp theo với thầy Dumbledore được xếp vào buổi tối ngày hôm sau. “Mình có cả đống điều muốn nói với thầy... và bồ nữa. Tụi mình ngồi xuống đây đi...” Nhưng đúng lúc đó vang lên một tiếng ré to “Won-Won!” và Lavender Brown chẳng biết từ đâu ra và lao vào vòng tay Ron. Bao nhiêu người nhìn cảnh đó đều khúc khích cười; Hermione bật cười khan và nói, “Có chỗ ngồi quanh cây cột đằng kia... đi không, Ginny?” “Không, cám ơn chị, em đã hứa gặp Dean,” Ginny nói, nhưng Harry không thể không nhận ra giọng nói cô bé không được nhiệt tình lắm. Bỏ lại Ron và Lavender trong tư thế sát cánh nhau như hai tên đáu vật, Harry dẫn Hermione đến một cái bàn trống. “Giáng sinh của bồ vui không?” “Ờ, vui,” cô bé nhún vai. “Chẳng có gìđặc biệt. Ở nhà Won-Won thế nào?” “Chút xíu nữa mình sẽ kể bồ nghe,” Harry nói. “Nhưng, Hermione này, bồ có thể nào đừng…” “Không, mình không thể,” cô bé nói thẳng thừng. “Cho nên đừng đòi hỏi mình.” “Mình nghĩcó lẽ, bồ biết mà, qua lễ Giáng sinh…” “Harry à, chính Bà Béo là kẻ đã uống hết một hũ rượu vang ủ năm trăm năm, chứ không phải mình. Sao, bồ muốn nói với mình điều gìquan trọng vậy?” Trông Hermione quá ư hung hăng, không thể cãi nhau vào lúc này, nên Harry bỏ qua đề tài Ron và kể lại cho cô bé nghe những điều nó đã nghe lóm trong cuộc chuyện trò giữa Malfoy và Thầy Snape. Khi nó nói xong, Hermione ngồi im suy nghĩmột lát rồi nói, “Bồ có nghĩlà…?” “…thầy giả vờ đề nghị giúp để có thể dụ khị Malfoy kể cho thầy nghe về việc nó đang làm, chứ gì?” “Ừ,” Hermione nói. “Ba của Ron và thầy Lupin cũng nghĩ vậy,” Harry nói vẻ miễn cưỡng. “Nhưng điều này chứng tỏ chắc chắn rằng Malfoy đang có một âm mưu gì đó, bồ không thể phủ nhậ điều này.” “Không, mình không phủ nhận,” cô bé hcaamj rãi trả lời. “Và nó đang hành động theo lệnh của Voldermort, đúng như mình đã nói!” “Hừm… có ai trong hai người đó thực sự nhắc đến cái tên Voldermort không?” Harry cau mày, cố gắng nhớ lại. “Mình không nhớ chắc… Thầy Snape chắc chắn có nói “ông chủ của trò,” và kẻ đó có thể là ai khác chứ?” “Mình không biết,” Hermione nói, cắn cắn môi. “Có thể là ba nó không?” Hermione nhìn đăm đăm qua căn phòng mà thậm chíchẳng để ý Lavender đang cù lét Ron, hiển nhiên là cô bé đang chìm đắm trong suy nghĩ. “Thầy Lupin ra sao?” “Không khỏe lắm,” Harry nói, và nó kể cho Hermione nghe hết về nhiệm vụ của thầy Lupin giữa những người sói và những khó khăn thầy phải đối phó. “Bồ có bao giờ nghe nói tới Fenrir Greyback không?” “Có, mình có nghe!” Hermione nói, vẻ ngạc nhiên. “Và bồ cũng đã nghe rồi mà Harry!”
  • 82. “Hồi nào, trong lớp Lịch sử pháp thuật hả? Bồ quá biết là mình đâu có bao giờ nghe giảng…” “Không, không, không phải trong lớp Lịch sử pháp thuật – Malfoy đã đem cái tên đó ra đe dọa ông Borgin!” Hermione nói. “Bồ không nhớ sao, lúc ở hẻm Knockturn ấy? Nó nói với ông Borgin rằng Greyback là bạn bè lâu đời với gia đình nó và hắn sẽ kiểm tra công việc sửa chữa của ông Borgin!” Harry há hốc mồm nhìn cô bé. “Mình quên béng đi! Nhưng điều này chứng tỏ Malfoy là một Tử thần thực tử, chứ làm sao mà nó có thể liên lạc với Greyback và sai bảo được hắn?” “Cái đó hơi đáng ngờ,” Hermione nói khẽ. “Trừ phi…” “Thôi mà, nói đi, Hermione,” Harry nói trong cơn điên tiết, “bồ không thể tránh né hoài điều này được!” “Ừ thì… có thể đó chỉ là một lời đe dọa suông thôi.” “Bồ thiệt là quái, đúng là quái,” Harry lắc đầu nói. “Chúng ta sẽ chờ coi ai đúng… rồi bồ sẽ phải thừa nhận bồ sai lầm, Hermione à, như Bộ ấy. À quên, mình cũng gây với ông Rufus Scrimgeour một trận…” Và phần còn lại cảu buổi tối đó trôi qua trong thân tình kiểu cùng cánh hẩu khi cả hai cũng hè nhau xỉ vả Bộ Pháp thuật, bởi vì Hermione, giống y chang Ron, cho rnagwf giờ đây họ thiệt là trơ trẽn mặt dày mới đi nhờ Harry giúp đỡ, sau tất cả những gì mà Bộ đã khiến Harry phải chịu đựng trong năm học trước. Học kỳ mới bắt đầu vào sáng hôm sau bằng một bất ngờ thú vị dành cho học sinh năm thứ sáu: một thông báo tổ chảng đã được đính trên tấm bảng thông tin trong phòng sinh hoạt chung từ hồi khuya. LỚP ĐỘN THỔ Học sinh mười bảy tuổi, hay sẽ đủ mười bảy tuổi Vào đúng ngày hay trước ngày 31 tháng tám sắp tới, Đủ điều kiện ghi danh vào lớp phụ đạo Độn thổ Kéo dài mười hai tuần lễ, do giáo viên Độn thổ Của Bộ pháp thuật phụ trách. Mời ký tên dưới đây nếu muốn tham gia. Học phí: 12 Galleon. Harry và Ron nhập vô đám đông đang xúm xít chung quanh cái thông báo và lần lượt ghi tên mình xuống dưới. Ron vừa mới rút cây viết lông ngỗng của nó ra để ký tên sau Hermione thìLavender lẻn đến sau lưng nó, bịt nhanh hai bàn tay cô nàng lên mắt nó rồi ngân nga nói, “Đoán xem ai nè, Won-Won?” Harry quay lại thấy Hermione ngạo nghễ bỏ đi ngay lập tức. Nó bám theo gót cô bé ngay vìchẳng muốn ở lại với Ron và Lavender chút xíu nào, nhưng nó ngạc nhiên thấy Ron cũng bắt kịp hai đứa nó khi cách cái lỗ chân dung không xa lắm, tai Ron đỏ tía và mặt mày nó quạu quọ hết biết. Chẳng nói một lời, Hermione bước nhanh hơn để sánh cùng với Neville. “Vậy là… Độn thổ,” Ron nói, giọng nó biểu lộ hết sức rõ ràng rằng Harry chớ có đá động đến chuyện vừa mới xảy ra. “Chắc là vui lắm, nhỉ?” “Mình không biết,” Harry nói. “Có lẽ tự làm thìkhá hơn, chứ lúc đi ké thầy Dumbledore mình chẳng thích thú chút nào.” “Mình quên mất là bồ đã từng độn thổ rồi... Mình phải đậu ngay kỳ kiểm tra đầu tiên mới được,” Ron nói, tỏ vẻ lo lắng. “Hồi đó anh Fred và George đậu ngay kỳ thi đầu.” “Nhưng mà anh Charlie thìrớt, đúng không?” “Ừ, nhưng anh Charlie bự con hơn mình nhiều,” Ron dang hai tay ra như thể nó là một con khỉ đột, “thành ra anh Fred và George không cần phải cố gắng nhiều lắm... hoặc là không lộ ra mặt...” “Chừng nào tụi mình mới thi thiệt?” “Ngay khi tụi mình mười bảy tuổi. Mình thi vào tháng ba này!” “Ừ há, nhưng bồ đâu có thể độn thổ ở đây, trong tòa lâu đài...” “Cái đó không thành vấn đề. Vấn đề là mọi người sẽ biết nếu mình muốn độn thổ là độn thổ được.” Ron không phải là người duy nhất háo hức về cái viễn cảnh học Độn thổ. Suốt ngày hôm đó đâu đâu cũng toàn là bàn tán về những buổi phụ đạo sắp tới; đánh giá rất cao về việc có thể biến mất và tái xuất hiện như ý. “Thiệt là sướng khi mình có thể chỉ cần...” Seamus búng ngón tay diễn tả sự biến mất. “Thằng anh họ Fergus cứ làm vậy để chọc tức mình, cứ đợi đấy đến khi mình có thể chơi đẹp lại... Nó đừng hòng có được một phút yên lành nhé...” Say sưa với mơ tưởng về triển vọng hạnh phúc này, Seamus vẫy cây đũa phép của nó hơi bị nhiệt tình một tí, nên thay vì tạo ra một tia nước trong lành theo đúng mục tiêu bài học Bùa chú hôm nay, nó lại làm phun ra cả một cái vòi rồng từ trần nhà, xịt thẳng vô mặt giáo sư Flitwick. Giáo sư Flitwick bèn vẫy cây đũa phép của ông để tự hong khô, và bắt Seamus chép phạt câu: “Tôi là một pháp sư, chứ không phải một con khỉ đầu chó khua loạn xạ một cây gậy.” “Harry từng độn thổ rồi,” Ron nói với anh chàng Seamus hơi bị tẽn tò. “Thầy Dumbledore... ơ... ai đó dắt nó theo. Bồ biết đó, Độn-thổ-ôm ấy mà.” “Hết sẩy!” Seamus thì thào, và cùng với Dean và Neville chụm đầu lại gần hơn một chút để nghe coi cảm giác độn thổ nó ra làm sao. Suốt thời gian còn lại của ngày hôm đó, Harry bị những học sinh năm thứ sáu khác xúm lại yêu cầu miêu tả cảm giác độn thổ. Tất cả tụi kia đều tỏ ra kính sợ chứ không ngán ngại, khi Harry kể cho nghe độn thổ khó chịu như thế nào, và nó vẫn còn tiếp tục trả lời những câu hỏi chi tiết cho đến tám giờ kém mười buổi tối hôm đó. Tới giờ đó nó đành phải nói dối, rằng nó cần trả lại thư viện một cuốn sách, nhờ đó mà chuồn được đúng giờ để đến lớp học riêng với cụ Dumbledore. Đèn trong văn phòng cụ Dumbledore sáng trưng, chân dung của các vị hiệu trưởng tiền nhiệm đang ngáy êm đềm trong các khung tranh, và cái chậu Tưởng Ký lại một lần nữa đặt sẵn trên bàn. Hai bàn tay của cụ Dumbledore đặt song song hai bên cái Tưởng Ký, bàn tay phải vẫn đen thui và cháy khô quắt như dạo gần đây. Nó dường như không lành lặn lại chút nào và có lẽ hàng trăm lần rồi, Harry tự hỏi, cái gì đã gây nên một vết thương đặc biệt như vậy, nhưng nó chưa bao giờ dám hỏi cụ Dumbledore; Cụ từng nói rằng rốt cuộc nó cũng sẽ biết, nhưng mà rồi lần nào cũng có một đề tài khác mà cụ muốn thảo luận. Trước khi Harry có thể kể điều gìvề Thầy Snape và Malfoy, cụ Dumbledore đã nói: “Thầy nghe nói con có gặp ông Bộ trưởng Bộ Pháp thuật trong dịp Giáng sinh?” “Dạ, phải,” Harry nói. “Ông ấy không được hài lòng lắm về con.” “Ừ,” cụ Dumbledore thở dài. “Ông ấy cũng chẳng hài lòng với thầy. Chúng ta phải cố gắng đừng lún vô nỗi thống khổ của mình, Harry à, mà vùng lên đấu tranh thôi.” Harry nhe răng cười. “Ông ấy muốn con nói với cộng đồng Pháp thuật là Bộ đang làm một công việc tuyệt vời.” Cụ Dumbledore mỉm cười. “Con biết đấy, ý tưởng đó nguyên là của ông Fudge. Trong những ngày cuối cùng còn tại vị của ông ấy, ông ấy đã cố gắng bám lấy chức vị một cách tuyệt vọng, ông ấy đã tìm cách gặp mặt con, hy vọng con sẽ ủng hộ ông ấy...” “Sau tất cả những gìông Feudge đã làm hồi năm ngoái sao?” Harry tức giận nói. “Sau vụ mụ Umbridge ấy sao?” “Thầy đã nói với ông Cornelius là chẳng có cơ may nào đâu, nhưng khi ông ấy rời khỏi văn phòng Bộ trưởng rồi, ý tưởng đó vẫn chẳng mất đi. Trong cuộc họp kéo dài mấy tiếng đồng hồ với thầy sau khi ông Scrimgeour được bổ nhiệm, ông này cứ đòi thầy dàn xếp cho một cuộc gặp gỡ với con…”
  • 83. “Vậy ra đó là nguyên nhân khiến thầy với ông ấy đã cãi nhau!” Harry vuột miệng nói. “Chuyện đó có đăng trên tờ Nhật báo Tiên Tri.” “Tờ Tiên Tri thỉnh thoảng cũng báo cáo sự thật,” cụ Dumbledore nói, “cho dù chỉ là ngẫu nhiên. Phải, đó là nguyên nhân thầy và ông ấy cãi nhau. Chà, xem ra ông Rufus cuối cùng cũng kiếm được cách bắt chẹt con.” “Từ đầu đến cuối ông ấy cáo buộc con là “người của cụ Dumbledore.”” “Ông ta thô bỉ quá.” “Con có nói với ông ấy con đúng là người của thầy.” Cụ Dumbledore mở miệng ra định nói, nhưng rồi lại ngậm miệng lại. Sau lưng Harry, chim phượng hoàng Fawkes thốt lên tiếng kêu như hát, nhỏ nhẹ, êm dịu. Harry cực kỳ bối rối khi nó bỗng dưng nhận ra đôi mắt xanh sáng của cụ Dumbledore có vẻ ươn ướt, nó bàn quýnh quáng cúi xuống ngó chằm chằm cái đầu gối của mình. Nhưng khi cụ Dumbledore cất tiếng, giọng cụ vẫn cương nghị. “Thầy rất cảm động, Harry à.”
  • 84. “Ông Scrimgeour muốn biết thầy đi đâu khi thầy không có mặt ở trường Hogwarts,” Harry nói, vẫn ngó chằm chằm cái đầu gối của nó. “Ừ, ông ta rất tò mò về chuyện đó,” cụ Dumbledore nói, bây giờ nghe có vẻ hóm hỉnh hơn, và Harry nghĩchắc là ngó lên được rồi. “Ông ta đã cố gắng cho người theo dõi thầy. Tức cười thật. Ông ta phái Dawlish theo đuôi thầy. Không được tử tế cho lắm. Thầy đã buộc lòng ếm bùa Dawlish một lần; thầy lấy làm tiếc vô cùng khi phải lại làm điều đó.” “Vậy là họ vẫn chưa biết thầy đi đâu?” Harry hỏi, hy vọng biết thêm được chút gìđó về đề tài hết sức khêu gợi trítò mò này, nhưng cụ Dumbledore chỉ mỉm cười qua cặp kính nửa vầng trăng. “Không, họ không biết, và cũng chưa tới lúc chín mùi để cho con biết. Thôi, thầy đề nghị chúng ta gấp rút lên, trừ phi còn điều gìkhác nữa...?” “Thưa thầy, thực ra cũng còn một việc,” Harry nói, “liên quan đến Malfoy và ông Snape.” “Giáo sư Snape, Harry à.” “Dạ, thưa thầy. Con nghe lóm họ trong bữa tiệc Giáng sinh ở chỗ Thầy Slughorn... Dạ, thực ra thìcon theo dõi họ...” Cụ Dumbledore lắng nghe Harry kể với một nét mặt bình thản. Khi Harry kể xong, cụ không nói gìtrong một lát, rồi bảo, “Cám ơn con đã kể cho thầy nghe chuyện này, Harry à, nhưng thầy đề nghị con nên gạt chuyện đó ra khỏi đầu. Thầy không cho là chuyện đó quan trọng lắm đâu.” “Không quan trọng lắm?” Harry lặp lại, có vẻ không thể tin được. “Thưa thầy, thầy có hiểu...?” “Có, Harry à, may phước là thầy có một trílực phi thường, thầy hiểu hết mọi điều con nói với thầy,” cụ Dumbledore nói, khá dứt khoát. “Thầy nghĩcon cũng nên cân nhắc tới một khả năng là thầy hiểu nhiều hơn con hiểu. Một lần nữa, thầy vui mừng là con đã tin tưởng mà giãi bày với thầy, nhưng hãy để thầy cam đoan lại với con rằng con đã không nói với thầy bất cứ điều gìkhiến thầy băn khoăn.” Harry ngồi im mà ruột gan sôi sục, tròn mắt nhìn cụ Dumbledore. Chuyện gìđang xảy ra? Phải chăng điều này có nghĩa là quả thực cụ Dumbledore yêu cầu Thầy Snape tìm hiểu xem Malfoy đang làm gì, và nếu đúng như vậy thìcụ đã được Thầy Snape báo cho biết hết mọi điều mà Harry vừa kể cho cụ nghe? Hay là cụ quả thực có lo lắng về những điều vừa nghe nhưng lại giả vờ như không? “Vậy, thưa thầy,” Harry nói, bằng cái giọng mà nó hy vọng là bình tĩnh lễ phép, “thầy vẫn hoàn toàn tin tưởng...?” “Thầy đã rất kiên nhẫn trả lời câu hỏi đó rồi,” cụ Dumbledore nói, nhưng giọng cụ nghe ra chẳng còn kiên nhẫn nữa. “Câu trả lời của thầy không hề thay đổi.” “Ta không nghĩthế,” một giọng nói cạnh khóe vang lên; Cụ Phineas Nigellus hiển nhiên là chỉ giả vờ ngủ mà thôi. Cụ Dumbledore phớt lờ cụ Nigellus. “Và bây giờ, Harry à, thầy phải nhấn mạnh là chúng ta hãy gấp lên. Thầy còn những điều quan trọng hơn để thảo luận với con tối hôm nay.” Harry ngồi đó cảm thấy muốn nổi loạn. Nếu nó không chịu đổi đề tài thìsẽ ra sao, nếu nó cứ khăng khăng tranh cãi vụ cáo buộc Malfoy thìsao nào? Dường như đọc thấu suy nghĩcủa Harry, cụ Dumbledore lắc đầu. “Này, Harry, chuyện đó xảy ra thường lắm, ngay cả giữa những người bạn tốt nhất! Mỗi người trong chúng ta đều tin rằng điều mình cần phải nói quan trọng hơn bất cứ điều gìmà người khác có thể góp vào!” “Thưa thầy, con không nghĩlà những điều thầy cần phải nói là không quan trọng.” Harry nói không nhân nhượng. “Chà, con hoàn toàn đúng, bởi vìnó không hẳn không quan trọng,“ cụ Dumbledore nói nhanh. “Thầy có thêm hai ký ức để cho con xem vào tối hôm nay, cả hai đều vô cùng khó khăn mới có được, và cái thứ hai trong hai cái đó, theo thầy nghĩ, là ký ức quan trọng nhất mà thầy từng thu thập được.” Harry không nói gìvề điều này; nó vẫn còn tức tối về sự tiếp nhận dành cho những tâm tình nó tin cậy giãi bày, nhưng nó cũng không thể thấy chung cuộc sẽ được dái gìnếu cứ tiếp tục tranh cãi. “Vậy là,” cụ Dumbledore nói, giọng ngân nga, “chúng ta gặp nhau tối nay để tiếp tục câu chuyện của Tom Riddle, cậu bé mà chúng ta bỏ lại vào cuối buổi học trước đã đĩnh đạ bước qua ngưỡng cửa trường Hogwarts. Con còn nhớ cậu ta háo hức như thế nào khi nghe nói cậu ta là một pháp sư không, cậu ta đã từ chối sự tháp tùng của thầy trong chuyến đi đến Hẻm Xéo, và phần thầy, thầy cũng đã cảnh cáo cậu bé chớ có tiếp tục ăn cắp khi đến trường. Xem nào, Tom Riddle đến trường khi niên học bắt đầu, một cậu bé lặng lẽ trong bộ áo chùng cũ, sắp hàng với những học sinh năm thứ nhất khác để được phân loại. Cậu được xếp vào nhà Slytherin hầu như ngay khi cái nón phân loại vừa chạm vào đầu,” cụ Dumbledore nói tiếp, vừa vẫy bàn tay nám đen của cụ về phía cái kệ phía trên đầu, nơi đặt cái nón phân loại cổ xưa và im lìm. “Riddle biết được vị sáng lập nổi tiếng cảu Nhà Slytherin có thể nói chuyện với rắn – biết lúc nào thìthầy không chắc – có thể ngay buổi tối hôm cậu đến trường. Sự hiểu biết này càng kích thích cậu bé và làm tăng ý thức tự cao của cậu. Tuy nhiên, nếu cậu có dọa nạt hay gây ấn tượng gìvới bạn đồng môn trong nhà Slytherin bằng cách phô diễn Xà ngữ trong phòng sinh hoạt chung, thìban giám hiệu vẫn không hay biết gìcả. Cậu bé chẳng bày tỏ dấu hiệu kiêu căng lộ liễu hay hung hăng hiếu chiến gìhết. Là một đứa trẻ mồ côi rất đẹp trai và tài gioig phi thường, cậu bé tự nhiên thu hút được sự chú ý và cảm thông của thầy cô ngay từ lúc mới đặt chân đến trường. Cậu bé có vẻ lễ phép, lặng lẽ và khao khát tríthức. Gần như tất cả giáo ban đều có ấn tượng tốt về cậu.” “Thưa thầy, thầy không nói với những thầy cô khác rằng hắn như thế nào khi thầy gặp hắn ở viện mồ côi sao?” Harry hỏi. “Không, thầy không nói. Mặc dù cậu ta chẳng cho thấy có dấu hiệu ăn năn hối cải nào, nhưng có thể cậu cảm thấy hối tiếc về cách cư xử của mình trước đây và quyết tâm làm lại cuộc đời. Thầy quyết định dành cho cậu ta một cơ hội.” Cụ Dumbledore ngừng nói và nhìn Harry dò hỏi, nó há miệng ra toan nói. Một lần nữa, đây là khuynh hướng cả tin con người của cụ Dumbledore bất chấp có cả đống chứng cớ rằng họ không xứng đáng với lòng tin đó! Nhưng Harry nhớ ra một chuyện... “Nhưng thầy không thực sự tin hắn, đúng không thầy? Hắn đã nói với con... không, tên Riddle xuất hồn ra từ cuốn nhật ký ấy nói, “thầy Dumbledore dường như không thích tôi nhiều như các thầy cô khác.”” “Chúng ta cứ coi như thầy đã cho rằng cậu bé ấy không đáng tin,” cụ Dumbledore nói. “Như thầy đã nói, và thầy đã làm như vậy, thầy quyết tâm để mắt đến cậu bé. Thầy không thể giả bộ là chỉ quan sát lần đầu thôi đã lượm lặt được nhiều điều. Cậu bé rất cảnh giác đối với thầy; thầy chắc là cậu bé cảm thấy cậu đã nói hơi nhiều với thầy trong cậu chuyện ly kỳ về lai lịch thật cảu mình. Cậu bé thận trọng không để lộ thêm nhiều như vậy một lần nữa, nhưng cậu không thể thu hồi lại những gìcậu đã lỡ lời thốt ra trong cơn phấn khích, cậu bé có ý thức không bao giờ cố trù ếm thầy như cậu đã trù ếm rất nhiều đồng nghiệp của thầy. Khi cậu bé lên lớp cao hơn ở trường, cậu qui tập được một nhóm bạn bè tận tụy; thầy gọi chúng như thế là vìmuốn dùng chữ tốt hơn, mặc dù như thầy đã chỉ ra, Riddle chắc chắn không thân thiết với bất cứ đứa nào trong đám bạn đó. Nhóm này có một sức rù quến hắc ám bên trong tòa lâu đài. Chúng là một tập hợp tạp nham; một sự pha trộn giữa những kẻ yếu đuối tìm kiếm sự che chở, những kẻ đầy tham vọng tìm kiếm vinh quang chung, và những kẻ có máu côn đồ hướng về một thủ lĩnh có thể biểu diễn cho chúng xem nhiều hình thức bạo ngược tinh vi hơn. Nói cách khác, chúng là những nguyên mẫu của bọn Tử thần thực tử và thực ra là một số trong nhóm đó đã trở thành những Tử thần thực tử đầu tiên sau khi rời khỏi trường Hogwarts. Được Riddle kiểm soát chặt chẽ, chúng chẳng bao giờ bị phát hiện là đang làm điều gìsai quấy, mặc dù bảy năm chúng học ở trường Hogwarts được ghi dấu bằng một số vụ rắc rối đáng tởm mà chúng chẳng bao giờ bị liên đới trách nhiệm một cách thỏa đáng, dĩnhiên, vụ nghiêm trọng nhất là mở cửa phòng chứa bímật, đưa tới hậu quả là một nữ sinh thiệt mạng. Như con đã biết, bác Hagrid đã bị kết án oan về tội ác dó. Thầy đã không tìm được nhiều ký ức về Riddle ở trường Hogwarts,” cụ Dumbledore nói, vừa đặt bàn tay khô quắt của mình lên cái Tưởng Ký. “Ít ai biết về y thời đó chịu nói về y; họ quá khiếp đảm. Những gìmà thầy biết được thầy chỉ phát hiện ra sau khi y rời khỏi trường Hogwarts, sau nhiều nỗ lực vất vả, sau khi lần theo dấu những người ít ỏi có thể dụ dỗ nói ra, sau khi đã tìm kiếm những hồ sơ cũ và chất vấn những nhân chứng trong giới phù thủy cũng như giới Muggle. Những người thầy có thể thuyết phục mở miệng đã kể cho thầy nghe rằng Riddle bị ám ảnh về dòng dõi của cha mẹ y. Điều này có thể hiểu được, tất nhiên; y đã lớn lên trong một viện mồ côi và đương nhiên ước ao được biết bằng cách nào mà mình bị đưa vào đó. Có vẻ như y đã tìm kiếm vô vọng dấu
  • 85. tích của Tom Riddle cha trong những huy hiệu ghi tên những người có thành tích và được tưởng thưởng nằm trong phòng truyền thống, trong danh sách các Huynh trưởng lưu ở hồ sơ của trường, thậm chítrong cả những cuốn sách Lịch sử Pháp thuật. Cuối cùng y buộc phải thừa nhận là cha của y chưa hề đặt chân đến trường Hogwarts. Thầy tin là chính lúc đó y từ bỏ vĩnh viễn cái tên cảu mình, tự khoác vào cái lý lịch của Chúa tể Voldermort, và bắt đầu cuộc điều tra về gia đình cảu người mẹ mà trước đó y đã miệt thị - người đàn bà mà, con sẽ nhớ ra, y đã nghĩkhông thể là một phù thủy, một khi không chống lại được sự yếu đuối nhục nhã rất con người là cái chết. Ychỉ có thể laafnt heo một cái tên duy nhất là “Marvolo”, mà những người điều hành viện mồ côi đã cho y biết đó là tên ông ngoại y. Cuối cùng, sau cuộc tìm kiếm vất vả, qua những bộ sách cổ về các gia đình Pháp thuật, y phát hiện ra sự tồn tại của một chi hệ còn sống sót của dòng họ Slytherin. Vào mùa hè năm mười sáu tuổi, y rời viện mồ côi mà đáng ra y phải quay trở về tá túc hàng năm để đi tìm họ hàng nhà Gaunt. Và bây giờ, Harry à, nếu con đứng...” Cụ Dumbledore đứng dậy, và Harry nhìn thấy một lần nữa cụ lại cầm một cahi thủy tinh nhỏ xíu đựng đầy ký ức óng ánh và xoáy tít. “Thầy hên lắm mới thu được ký ức này,” cụ nói, trong khi rót cái khối trắng bóng đó vô cái Tưởng Ký. “Để trải qua xong cái kinh nghiệm đi rồi con sẽ hiểu. Chúng ta bắt đầu nhé?” Harry bước tới bên cái chậu đá và ngoan ngoãn cúi xuống cho đến khi mặt nó chìm xuống dưới bề mặt của ký ức; nó cảm nhận được cái cảm giác quen thuộc chìm xuống cõi hư không rồi đáp xuống một cái sàn nhà bằng đá đầy bụi bặm trong bóng topois gần như đen đặc. Nhiều giây sau nó mới nhận ra nơi đó, cũng là lúc cụ Dumbledore đáp xuống bên cạnh nó. Ngôi nhà của gia đình Gaunt giờ đây dơ bẩn không sao tả xiết, dơ bẩn hơn bất cứ nơi nào mà Harry từng thấy. Trần nhà bám dày mạng nhện, sàn nhà phủ dày bụi bẩn; đồ ăn mốc meo và hư thúi nằm trên bàn giữa một đống hồi niêu cặn bã đóng váng. Ánh sáng duy nhất phát ra từ một ngọn nến tù mù đặt dưới chân một gã đàn ông râu tóc um tùm khiến Harry không thể nhìn thấy đâu là mắt đâu là miệng. Gã ngồi lún trong cái ghế bành bên lò sưởi và Harry thoáng thắc mắc là gã chết rồi chăng. Nhưng một tiếng gõ cửa vang lên và gã đàn ông giật mình thức giấc, tay phải giơ lên cây đũa phép và tay trái cầm một con dao ngắn. Cánh cửa cọt kẹt mở ra. Đứng trên ngưỡng cửa, cầm một cây đèn kiểu xưa, là một chàng trai mà Harry nhận ra ngay tức thì: cao, xanh xao, tóc đen và đẹp trai, ấy là chàng thiếu niên Voldermort. Đôi mắt Voldermort chậm rãi nhìn quanh căn phòng tồi tàn và rồi nhìn tới gã đàn ông ngồi trên ghế bành. Hai người nhìn nhau trong vài giây, rồi gã đàn ông lảo đảo đứng dậy, những chai rượu rỗng dưới chân gã kêu lanh canh và lăn lóc ngang qua sàn nhà. “MÀY!” gã rống lên. “MÀY!” Và gã nhào vô Riddle trong trạng thái say xỉn, cây đũa phép và con dao ngắn giơ cao. “Dừng lại.” Riddle nói bằng Xà ngữ. Gã đàn ông trượt ngã vô cái bàn, làm văng mấy cái nồi mốc meo đóng váng rớt rầm rầm xuống sàn. Gã trừng mắt nhìn Riddle. Cả hai cùng im lặng một hồi lâu trong lúc chiếu tướng lẫn nhau. Rồi gã đàn ông lên tiếng. “Mày nói được Xà ngữ hả?” “Phải, tôi nói được,” Riddle nói. Ytiến vô căn phòng, để cho cánh cửa tự đóng sập lại sau lưng. Harry không thể không cảm thấy một nỗi thán phục pha lẫn tức tối trước sự gan dạ tuyệt đối của Voldermort. Vẻ mặt cảu y chỉ biểu lộ sự ghê tởm và có lẽ cả sự thất vọng. “Marvolo đâu?” Yhỏi. “Chết.” Gã kia nói. “Lão chết nhiều năm rồi thìphải ?” Riddle cau mày. “Vậy ông là ai ?” “Tao là Morfin thìphải ?” “Con trai ông Marvolo hả ?” “Chính tao, đương nhiên, còn mày...” Morfin gạt mớ tóc lùm xùm ra khỏi gương mặt dơ hầy của gã để nhìn Riddle rõ hơn và Harry thấy gã đeo chiếc nhẫn mặt đá đen trên bàn tay phải. “Tao đã tưởng mày là tay Muggle đó,” Morfin thìthào. “Mày trông rất giống tay Muggle đó.” “Tay Muggle nào?” Riddle đột ngột hỏi. “Tay Muggle mà em gái tao si mê, tay Muggle sống trong căn nhà lớn cuối con đường,” Morfin nói và gã thình lình khạc xuống khoảng sàn trống giữa hai người. “Trông mày giống ý chang tay đó. Riddle. Nhưng bây giờ chắc hắn già đi rồi hả? Hắn già hơn mày, bây giờ tao nghĩra rồi...” Morfin có vẻ hơi sửng sốt và lảo đảo một tí, nhưng vẫn bám cô cạnh bàn mà đứng dậy. “Hiểu rồi, hắn trở về,” gã nói thêm một cách ngu độn. Voldermort chăm chú nhìn Morfin như thể đang đánh giá những khả năng của gã này. Bây giờ y tiến đến gần gã hơn và nói, “Riddle đã trở về à?” “Ờ, hắn bỏ rơi em gái tao, cho đáng đời con khốn đó, dám cưới đồ bẩn thỉu!” Morfin nói, lại khạc xuống sàn. “Cướp hết của chúng tao trước khi bỏ trốn, nói cho mày biết. Sợi dây chuyền đâu rồi, hả, sợi dây chuyền của dòng họ Slytherin ở đâu hả?” Voldermort không trả lời. Morfin đang nổi cơn cuồng nộ; gã khua con dao ngắn và hò hét, “Con đó làm nhục chúng ta, cái con thúi tha dâm đãng đó! Và mày là ai mà đến đây chất vấn tao về tất cả những chuyện đó hả? Hết rôi, phải không... hết rồi...” Gã nhìn ra chỗ khác, hơi choáng váng và Voldermort tiến tới trước. Khi y làm vậy, một bóng đen bất thường ập xuống, làm tắt ngọn đèn của Voldermort và ngọn nến của Morfin, làm tắt hết mọi thứ... Những ngón tay cảu cụ Dumbledore nắm chặt quanh cánh tay Harry và cả hai lại bay vèo về hiện tại. Ánh sáng vàng óng êm dịu trong văn phòng cụ Dumbledore dường như làm chói mắt Harry sau bóng tối đen đặc ấy. “Thưa thầy, hết rồi sao?” Harry hỏi ngay. “Tại sao bồng nhiên tối hù, chuyện gìđã xảy ra?” “Bởi vìMorfin không thể nào nhớ lại bất cứ điều gìtừ lúc đó trở đi,” cụ Dumbledore nói, vừa ra dấu cho Harry ngồi trở xuống ghế. “Khi Morfin tỉnh dậy vào sáng hôm sau, gã đang nằm dài trên sàn, chỉ còn một mình. Chiếc nhẫn của Marvolo đã biến mất. Trong thời gian đó, trong làng Hangleton Nhỏ, một người hầu gái chạy dọc phố Chính, gào thét là có ba xác chết trong phòng khách của ngôi nhà lớn: đó là Tom Riddle cha và cha mẹ ông ta. Nhà cầm quyền Muggle rất bối rối. Theo như thầy biết cả gia đình Riddle chết như thế nào, bởi vìphép nguyềnAvadu Kedavra thường không đrr lại dấu vết tổn thương nào cả... Trừ ngoại lệ duy nhất đang ngồi trước mặt thầy,” cụ Dumbledore nói thêm, kèm theo cái gật đầu về phía vết thẹo của Harry. “Ngược lại, Bộ Pháp thuật biết ngay đó là một vụ sát nhân do pháp sư gây ra. Họ cũng biết là có một kẻ căm ghét Muggle từng bị kết án đang sống gần nhà Riddle phía bên kia thung lũng, một kẻ căm ghét Muggle đã từng bị ngồi tù một lần vìtội tấn công một trong những người vừa bị giết. Thế là Bộ câu lưu Morfin. Họ không cần phải chất vấn gã hay dùng phép Ép nói thật hay phép Đọc tư tưởng. Gã thú nhận tội sát nhân ngay, cung cấp những chi tiết mà chỉ có kẻ sát nhân mới có thể biết. Gã nói, gã rất tự hào là đã giết bọn Muggle, bao nhiêu năm nay gã đã chờ đợi cơ hội này. Gã nộp cây đũa phép của gã, tang vật này đã được thẩm định ngay là hung khídùng để giết gia đình Riddle. Và gã tự để cho mình bị bắt và tống vòa ngục Azkaban mà không một chút kháng cự. Điều duy nhất khiến gã ú ớ là sự kiện chiếc nhẫn của cha gã đã biến mất. “Lão sẽ giết tôi vìtội để mất chiếc nhẫn,” gã nói đi nói lại với những người bắt gã. “Lão sẽ giết tôi vìtội để mất chiếc nhẫn”. Và về sau dường như gã chỉ lặp lại mối điều đó. Gã sống phần đời còn lại trong nhà ngục Azkaban, than vãn mãi việc mất của gia bảo cuối cùng của Marvolo, và gã được chôn cất bên cạnh nhà tù cùng với những linh hồn khốn khổ đã tàn đời trong vòng lao lý.” “Vậy là Voldermort đã ăn cắp cây đũa phép của Morfin và sử dụng nó?” Harry ngồi thẳng lưng lên, nói. “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói. “Chúng ta không có ký ức nào ghi nhớ sự kiện này, nhưng thầy nghĩchúng ta có thể biết khá chắc chắn điều gìđã xảy ra. Voldermort đã điểm huyệt người cậu ruột hắn, lấy cây đũa phép của gã và đi tiếp qua bên kia thung lũng đến “ngôi nhà lớn cuối con đường”. Ở đó hắn
  • 86. giết người đàn ông Muggle đã bỏ rơi bà mẹ phù thủy của hắn và để diệt nhân chứng, giết luôn ông bà nội thuộc dân Muggle của hắn và như thế diệt sạch dòng dõi Riddle không xứng đáng với hắn và trả mối thù của chính hắn đối với người cha đã không hề muốn hắn chào đời. Sau đó hắn quay về căn nhà tồi tàn của gia đình Gaunt, thực hiệm một chút pháp thuật phức tạp cấy vào đầu óc cậu hắn một trínhớ giả tạo, đặt cây đũa phép của Morfin bên cạnh vị chủ nhân đang bất tỉnh, nhét vô túi hắn chiếc nhẫn cổ xưa mà Morfin đeo, rồi ra đi.” “Và Morfin không bao giờ nhận ra gã đã không hề giết người à?” “Không bao giờ,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng thầy nói đó, gã đã tự thú một cách đầy đủ và khoác lác.” “Nhưng lúc nào trong đầu gã cũng có một ký ức thật mà!” “Đúng vậy, phải làm rất nhiều phép Đọc tư tưởng lão luyện mới moi ra được ký ức thật của gã,” cụ Dumbledore nói, “và tại sao lại phải đào bới sâu hơn vào đầu óc Morfin một khi gã đã tự thú nhận phạm tội ác đó? Tuy nhiên, thầy đã có thể thực hiện một cuộc viếng thăm Morfin vào những tuần cuối cùng của đời gã, vào thời gian mà thầy cố gắng khám phá càng nhiều càng tốt về quá khứ Voldermort. Thầy đã thu được ký ức này một cách vô cùng khó khăn. Khi đã thấy được nội dung của nó, thầy đã cố gắng dùng nó để xin thả Morfin ra khỏi ngục Azkaban. Nhưng Morfin đã chết trước khi Bộ có được quyết định.” “Nhưng làm sao mà Bộ lại không nhận ra được chính Voldermort đã đổ vấy tất cả chuyện đó cho Morfin?” Harry tức giận hỏi. “Lúc đó hắn chưa tới tuổi trưởng thành, đúng không ạ? Con tưởng Bộ có thể phát hiện được Pháp thuật Vị thành niên chứ!” “Con hoàn toàn đúng – họ có thể phát hiện Pháp thuật Vị thành niên, nhưng không thể tìm ra thủ phạm: con có nhớ con đã từng bị Bộ khiển trách vìbùa Bay lượn, mà thực ra thìdo...” “...Dobby làm,” Harry làu bàu; điều bất công này vẫn còn làm nó nhức nhối. “Vậy nếu mình vị thành niên và thực hiện Pháp thuật bên trong nhà của một pháp sư hay phù thủy trưởng thành thìBộ sẽ không biết sao?” “Họ chắc chắn không thể phân biệt được ai thực hiện Pháp thuật đó,” cụ Dumbledore nói, hơi mỉm cười trước vẻ cực kỳ phẫn nộ trên mặt Harry. “Họ dựa vào các bậc cha mẹ pháp sư phù thủy để buộc con cái tuân thủ qui định trong phạm vi nhà mình.” “Hừ, nhảm nhí,” Harry ngắt lời cụ Dumbledore. “Thử nhìn coi việc gìđang xảy ra ở đây, thử nhìn coi việc gìđã xảy ra cho Morfin!” “Thầy đồng ý,” cụ Dumbledore nói. “Dù Morfin là người thế nào đi chăng nữa, gã cũng không đáng phải chết như đã chết, không đáng bị trừng phạt về tội sát nhân mà gã không hề phạm. Nhưng đã khuya rồi, mà ta muốn con xem cái ký ức kia trước khi thầy trò mình chia tay...” Cụ Dumbledore lấy từ túi áo trong ra một chai thủy tinh tíhon khác và Harry làm thinh ngay tức thì, vìnhớ rằng cụ Dumbledore đã từng nói đó là ký ức quan trọng nhất mà cụ đã thu thập được. Harry nhận thấy cái khối bên trong chai tỏ ra khó rót vô cái Tưởng Ký, như thể nó hơi bị đặc sệt; ký ức mà cũng bị hư sao? “Cái này sẽ không dài đâu,” cụ Dumbledore nói, khi rốt cuộc cũng trút cạn được chai ký ức. “Chúng ta sẽ quay trở lại căn phòng này trước khi con kịp nhận ra. Vậy ta hãy vào Tưởng Ký một lần nữa...” Và Harry lại rơi xuyên qua bề mặt ánh bạc, lần này đáp xuống ngay trước mặt một người đàn ông mà nó nhận ra được ngay tức thì. Đó là thầy Horace Slughorn với mái tóc dày bóng màu rơm khiến nó bối rối; trông có vẻ như thầy cho lợp một mái tóc trên đầu, mặc dù cũng đã xuất hiện một lõm hói to bằng đồngGalleon bóng lưỡng ngay trên đỉnh đầu. Bộ ria mép của thầy, không rậm như bộ ria thầy hiện có, màu vàng hoe. Thầy cũng chưa đến nỗi béo phục phịch như Thầy Slughorn mà Harry biết, mặc dù thầy cũng hơi bị căng. Hai bàn chân nhỏ của thầy đặt trên cái ghế nệm kê chân bọc nhung, thầy đang ngồi sâu trong cái ghế bành điều chỉnh được một cách thoải mái, một bàn tay thầy cầm một ly rượu nhỏ, tay kia mò tìm trong một hộp kẹo khóm dẻo. Harry ngoái nhìn quanh khi cụ Dumbledore xuất hiện bên cạnh nó và thấy là hai thầy trò nó đang ở trong văn phòng Thầy Slughorn. Khoảng nửa tá nam sinh đang ngồi quanh Thầy Slughorn, trên những cái ghế nhỏ hơn và cứng hơn cái ghế thầy ngồi, và tất cả nam sinh đều khoảng mưởi lăm, mười sáu tuổi. Harry nhận ra Voldermort ngay tức thì. Hắn có gương mặt đẹp trai và thoải mái nhất trong đám nam sinh. Bàn tay phải của hắn đặt lơ đễnh trên chỗ gác tay của cái ghế hắn đang ngồi; Harry thót ruột lại khi nhận ra chiếc nhẫn đen-và-vàng-kim của Marvolo mà Voldermort đang đeo; vậy là lúc này hắn đã giết cha hắn rồi. “Thưa thầy, có đúng là giáo sư Merrythought sắp về hưu không?” Hắn hỏi. “Tom ơi, Tom à, nếu thầy biết thầy cũng không thể nói với con được,” Thầy Slughorn nói, vừa ngúc ngoắc một ngón tay bọc đường quở trách Riddle, mặc dù hiệu quả đó hơi bị triệt tiêu bằng một cái nháy mắt. “Thầy phải nói, thầy muốn biết con lấy thông tin đó từ đâu ra vậy, hả chàng trai, chàng hiểu biết nhiều hơn một nửa giáo ban đấy.” Riddle mỉm cười; những nam sinh khác cười to và nhìn hắn đầy thán phục. “Chắc là nhờ khả năng phi thường cảu con biết được những điều không nên biết và cả tài tâng bốc khéo léo những kẻ có máu mặt – nhân tiện, cám ơn con về món mứt khóm dẻo nhé, con tài lắm, đó là món thầy khoái nhất...” Trong khi bọn nam sinh khúc khích cười, một điều gìđó rất kỳ quái bỗng xảy ra. Toàn bộ căn phòng bỗng nhiên tràn đầy sương mù trắng xóa, khiến cho Harry không thể thấy gìkhác ngoài gương mặt cụ Dumbledore, người đang đứng bên cạnh nó. Sau đó giọng nói của Thầy Slughorn vang lên tè trong sương mù, to tiếng một cách khác thường, “Trò sẽ sai lầm, chàng trai, nhớ lấy lời ta đấy.” Sương mù tan thình lình y như lúc tỏa ra vậy mà không ai nhắc nhở gìtới đó nữa, cũng không ai tỏ vẻ gìnhư vừa trải qua một chuyện hết sức lạ thường. Quá ngạc nhiên, Harry nhìn quanh khi một cái đồng hồ nho nhỏ bằng vàng đứng trên bàn làm việc của Thầy Slughorn điểm mười một tiếng. “Mèn đét ơi, khuya dữ vậy rồi sao?” Thầy Slughorn nói. “Các con nên đi thôi, những chàng trai ạ, nếu không chúng ta sẽ bị rắc rối cho coi. Lestrange, thầy muốn con nộp bài luận văn ngày mai, nếu không thìcấm túc. Con cũng vậy,Avery à.” Thầy Slughorn nhấc mình lên khỏi cái ghế bành và đem cái ly đã cạn rượu của thầy đến bàn làm việc, trong khi bọn nam sinh lần lượt ra về. Tuy nhiên Voldermort ở lại sau cũng. Harry có thể thấy hắn cà rịch cà tang có chủ ý, vìmuốn là người cuối cùng còn lại trong phòng với Thầy Slughorn. “Nhanh lên, Tom,” Thầy Slughorn nói, khi quay lại thấy Voldermort vẫn còn ở đó. “Con đâu có muốn bị phạt vìkhông ở trên giường trong giờ ngủ hả và con lại là một huynh trưởng...” “Thưa thầy, con muốn hỏi thầy một điều.” “Vậy thìhỏi ngay đi, con trai ta, hỏi ngay...” “Thưa thầy, con thắc mắc thầy có thể biết gìvề... về Trường sinh linh giá?” Và một lần nữa chuyện đó lại xảy ra: sương mù dày đặc tỏa kín căn phòng đến nỗi Harry không thể nhìn thấy cả Thầy Slughorn lẫn Voldermort; chỉ có mỗi cụ Dumbledore bên cạnh nó đang mỉm cười bình thản. Sau đó giọng nói của Thầy Slughorn lại vang lên oang oang, y như lần trước. “Ta không biết gìvề Trường sinh linh giá, mà nếu có biết thìta cũng chẳng nói cho trò biết đâu! Bây giờ ra khỏi nới đây ngay và đừng để ta nghe trò nhắc đến chúng một lần nữa đấy!” “Thôi, có nhiêu đó thôi,” cụ Dumbledore điềm nhiên nói bên cạnh Harry. “Tới lúc đi rồi.” Và hai chân Harry rời khỏi sàn phòng để rơi trở lại, trong vài giây sau, trên tấm thảm phía trước bàn làm việc của cụ Dumbledore. “Tất cả chỉ nhiêu đó thôi sao?” Harry ngơ ngác nói. Cụ Dumbledore đã nói rằng đây là ký ức quan trọng hơn hết thảy, nhưng nó không thể hiểu điều gìkhiến ký ức đó có ý nghĩa đến thế. Đành rằng phải thừa nhận là trận sương mù và việc dường như chẳng ai để ý đến trận sương mù đó là rất ư quái đản, còn thìcó vẻ như chẳng có chuyện gìxảy ra ngoại trừ chi tiết Voldermort đã đặt một câu hỏi mà chẳng được trả lời. “Như con đã để ý thấy,” cụ Dumbledore nói, ngồi trở xuống sau bàn làm việc, “rằng ký ức đó đã bị nhiễu.” “Nhiễu?” Harry lặp lại. Nó cũng đã ngồi xuống.
  • 87. “Chắc chắn,” cụ Dumbledore nói. “Giáo sư Slughorn đã gây nhiễu chính ký ức của mình.” “Nhưng tại sao thầy ấy lại làm điều đó?” “Bởi vì, ta nghĩ, thầy ấy xấu hổ về những gìthầy ấy nhớ lại,” cụ Dumbledore nói. “Thầy ấy đã cố gắng tái tạo lại ký ức để tự thể hiện mình trong ánh sáng tốt hơn, tẩy xóa đi những phần thầy ấy không muốn cho thầy xem. Như con để ý thấy, việc đó được làm rất sơ sài và làm như thế càng hay, bởi vìnó cho thấy phần ký ức thật vẫn còn đó, ẩn bên dưới của sự sửa đổi. Vậy là, Harry à, lần đầu tiên thầy giao bài tập về nhà cho con làm đây. Việc của con là thuyết phục giáo sư Slughorn bộc lộ ký ức thật, cái ký ức đó chắc chắn sẽ là mẩu thông tin quan trọng nhất của chúng ta.” Harry chăm chú nhìn cụ Dumbledore. “Thưa thầy, nhưng chắc chắn là,” nó nói, cố gắng giữ cho giọng nói hết sức kính trọng, “thầy không cần đến con – Thầy có thể dùng phép Đọc tư tưởng... hay phép Ép nói thật...” “Giáo sư Slughorn là một pháp sư tài giởi cực kỳ, thầy ấy dư sức đối phó với cả hai,” cụ Dumbledore nói. “Thầy ấy thực hiện phép Bế quan hoàn hảo hơn gã Morfin Gaunt khốn khổ nọ và thầy sẽ ngạc nhiên nếu thầy ấy không kè kè bên mình một liều thuốc giải cho phép Ép nói thật kể từ khi thầy buộc thầy ấy đưa cho thầy cái ký ức bôi bác này. Không, thầy nghĩlà tìm cách nạy sự thật từ Thầy Slughorn bằng sức mạnh là một cố gắng ngu ngốc và có thể đưa tới nhiều nguy hại hơn là tốt đẹp; Thầy không muốn thầy ấy bỏ trường Hogwarts mà đi. Tuy nhiên, thầy ấy cũng có nhược điểm như tất cả chúng ta và thầy tin con chính là người duy nhất có thể thâm nhập vào tuyến phòng thủ của thầy ấy. Việc lấy được ký ức thật của Thầy Slughorn là điều quan trọng nhất, Harry à... Quan trọng như thế nào thì chúng ta sẽ chỉ biết được khi chúng ta nhìn thấy cái ký ức thật. Vậy chúc con may mắn nhé... và ngủ ngon nhé.” Hơi sửng sốt vìbị đuổi ra đột ngột, Harry vội vã đứng lên. “Thưa thầy, chúc thầy ngủ ngon.” Khi đóng cánh cửa văn phòng sau lưng, nó còn kịp nghe rõ ràng cụ Phineas Nigellus nói, “ta có thể hiểu tại sao thằng nhỏ đó có thể làm khá hơn ông, Dumbledore ạ.” “Tôi cũng chẳng trông mong gìcụ làm được, cụ Phineas à,” cụ Dumbledore nói và con phượng hoàng Fawkes ngân nga một âm thanh réo rắt khe khẽ nữa. Chương 18 Những bất ngờ sinh nhật Hôm sau Harry đem nhiệm vụ mà cụ Dumbledore giao cho nó tâm sự với cả Ron và Hermione, nhưng với từng đứa riêng lẻ, bởi vìở đâu có mặt Ron thì Hermione chỉ ở lại đó đủ thời gian để ném cho một cái nhìn khinh bỉ rồi bỏ đi. Ron thìcho rằng Harry chẳng có vẻ gìsẽ gặp rắc rối với Thầy Slughorn cả. “Ổng khoái bồ,” nó nói trong bữa điểm tâm, vừa vung vẩy một nĩa đầy trứng chiên. “Ổng khoái bồ,” nó nói trong bữa điểm tâm, vừa vung vẩy một nĩa đầy trứng chiên. “Ổng sẽ không từ chối bồ điều gìđâu, đúng chưa? Hoàng tử độc dược nhỏ bé của ổng mà. Chỉ cần nán lại sau buổi học và đề nghị.” Tuy nhiên Hermione có cái nhìn tăm tối hơn. “Nếu đến cụ Dumbledore mà còn không thể bắt thầy ấy đưa ra được ký ức thực thìchắc là thầy ấy đã quyết tâm giấu diếm cái điều thực sự đã xảy ra,” cô bé nói khi hai đứa đứng trong sân trường phủ đầy tuyết vắng ngắt vào giờ ra chơi. “Trường sinh linh giá… Trường sinh linh giá… Mình chưa bao giờ nghe đến chúng…” “Bồ chưa nghe bao giờ à?” Harry thất vọng; nó đã hy vọng rằng Hermione có thể sẽ cho nó một manh mối để biết Trường sinh linh giá là cái gì. “Ắt hẳn đó là Pháp thuật Hắc ám rất cao cấp, chứ không thìtại sao Voldermort lại muốn biết? Harry à, mình nghĩbồ sẽ khó mà lấy được thông tin đó, bồ sẽ phải rất cẩn thận trong việc tiếp cận Thầy Slughorn, hãy nghĩra một chiến lược…” “Ron cho rằng mình nên nán lại sau buổi học Độc dược trưa nay…” “Ờ, há. Nếu Won-Won nghĩvậy thìbồ cứ làm vậy,” cô bé đổ quạu ngay và nói, “Xét cho cùng thìcó khi nào phán đoán của Won-Won sai lầm đâu!” “Hermione, chẳng lẽ bồ không thể nào…” “Không!” Cô bé giận dữ nói, rồi đùng đùng bỏ đi, để mặc Harry đứng một mình trong tuyết ngập đến mắt cá chân. Dạo này những buổi học Độc dược chẳng dễ chịu lắm bởi vìHarry, Ron và Hermione phải ngồi chung một bàn. Hôm nay, Hermione dọn cái vạc của cô nàng qua bên kia bàn để ngồi gần Ernie và chẳng buồn để ý đến cả Harry lẫn Ron. “Bồ đã làm gìhả?” Ron thìthầm hỏi Harry, vừa nhìn vẻ mặt kiêu kỳ của Hermione. Nhưng trước khi Harry có thể trả lời, Thầy Slughorn đã đứng trước lớp yêu cầu yên lặng. “Ngồi xuống, mời các trò ngồi xuống! Nào, nhanh lên, trưa nay có nhiều việc phải làm cho xong! Luật thứ ba của Golpalott… ai có thể nói cho thầy biết?... À dĩnhiên, cô Granger có thể!” Hermione đọc thuộc lòng cực nhanh: “Luật-thứ-ba-của-Golpalott-nêu-ra-rằng-thuốc-giải-cho-một-hỗ-hơp-độc-dược-sẽ-tương-đương-hoặc-nhiều-hơn- tổng-số-thuốc-giải-dành-cho-mỗi-thành-phần-độc-dược-riêng-lẻ.” “Chính xác!” Thầy Slughorn tươi cười. “Mười điểm cho nhà Gryffindor! Bây giờ, nếu chúng ta chấp nhận Luật thứ ba của Golpalott là đúng…” Harry đang phải chấp nhận lời Thầy Slughorn rằng Luật thứ ba của Golpalott là đúng bởi vìnó không hiểu chút xíu nào về luật đó cả. Cũng không có ai khác ngoại trừ Hermione có vẻ như hiểu kịp những gìThầy Slughorn nói tiếp theo đó. “...điều đó, dĩnhiên, nghĩa là giả sử chúng ta nhận ra được đúng lai lịch của những dược liệu tập hợp thành độc dược nhờ Thần chú Tiết lộ của Scarpin, mục đích cơ bản của chúng ta khoogn phải là thứ mục đíchtương đối đơn giản là chọn ra thuốc giải cho những hợp phần trong và ngoài chúng. Mà là tìm cho ra cái thành phần thêm vào, thành phần này, nhờ vào một qui trình gần như giả kim thuật, sẽ biến đổi những yếu tố tạp nham này...” Ron đang ngồi bên cạnh Harry, miệng hơi há ra, lơ đãng vẽ nguệch ngoạc trên cuốn sách Bào chế thuốc cao cấp còn mới của nó. Ron vẫn quên là nó giờ đây không còn có thể trông cậy Hermione giúp thoát khỏi thế bímỗi khi nó không hiểu kịp việc gìđang diễn ra. “...và vìvậy,” Thầy Slughorn kết thúc, “thầy muốn mỗi trò hãy lại đây lấy một trong những cái chai này trên bàn của thầy. Các trò phải tạo ra một thuốc giải cho độc dược chứa bên trong chai trước khi hết tiết học này. Chúc các trò may mắn và đừng quên đeo găng tay bảo hộ!” Hermione đã rời ghế của mình và đi được nửa đường về phía bàn của Thầy Slughorn trước khi cả lớp còn lại nhận ra là đã tới lúc cựa quậy và khi Harry, Ron, Ernie quay trở lại bàn của tụi nó, Hermione đã rót chất độc trong cái chai của cô nàng vô vạc và đang khơi lên ngọn lửa bên dưới cái vạc. “Thiệt nhục là Hoàng tử sẽ chẳng thể nào giúp được bồ nhiều lắm trong vụ này, Harry à,” cô nàng vừa híhửng nói vừa ưỡn thẳng người lên. “Lần này bồ phải hiểu những nguyên lý liên quan. Không mánh lới hay gian lận được!” Bực mình, Harry mở nút cái chai mà nó lấy từ trên bàn Thầy Slughorn xuống – một chai màu hồng hơi chói – rót vô cái vạc của nó và nhóm lửa bên dưới cái vạc. Nó hoàn toàn không biết là phải làm gìtiếp theo. Nó liếc qua Ron, anh chàng này đang đứng ngố ra sau khi cọp-pi theo hết những gìHarry vừa làm. “Bồ chắc là Hoàng tử không ghi lại mánh nào hết hả?” Ron thìthầm hỏi Harry. Harry rút cuốn Bào chế thuốc cao cấp đáng tin cậy cảu nó ra và lật đến chương Thuốc giải. Đây Luật thứ ba của Golpalott, trình bày đúng từng chữ một y chang như Hermione đã học thuộc lòng, không có thêm một ghi chú nào bằng chữ viết tay của Hoàng tử giải thích thêm điều đó nghĩa là gì. Dường như Hoàng tử cũng giống như Hermione hiểu điều đó một cách dễ dàng. “không có gìhết,” Harry rầu rĩnói.
  • 88. Hermione lúc này đang hăng hái vẫy cây đũa phép trên cái vạc của cô nàng. Thiệt xui xẻo, hai đứa nó không thể nhái theo câu thần chú của Hermione bởi vìgiờ đây cô nàng đã giỏi môn hô biến không lời đến nỗi chẳng cần phải hô câu thần chú nào ra miệng. Tuy nhiên, Ernie Macmillan đang đọc lâm râm bên trên cái vạc của nó, “Tiết lộ đặc tính!”, nghe cũng ấn tượng, nên Harry và Ron vội vã nhái theo. Harry chỉ mất năm phút để nhận ra tiếng tăm người-bào-chế-độc-dược-giỏi-nhất trong lớp của nó đang đổ vỡ loảng xoảng bên tai. Trong vòng rảo quanh lớp đầu tiên Thầy Slughorn đã dòm vô cái vạc cảu nó đầy hy vọng, chuẩn bị reo lên vui mừng như thầy vẫn thường làm, nhưng thay vìvậy, thầy phải vội vã thụt đầu lại, ho sặc sụa khi mùi trứng thối xộc vô mũi. Vẻ mặt Hermione títởn hết chỗ nói; cô nàng đã thề học cho xuất sắc trong mỗi tiết độc dược. Giờ đây cô nàng gạn ra những thành phần của độc dược đã được tách ra một cách bímật vào trong những lọ thủy tinh khác nhau. Không muốn gìhơn là tránh khỏi nhìn cảnh chướng mắt đó, Harry cúi xuống quyển sách của Hoàng Tử lai và lật vài trang mạnh bạo không cần thiết. Và đây rồi, vắt ngang qua một danh mục dài các thứ thuốc giải là dòng chữ: Chỉ cần nhét một sỏi dê vô họng chúng. Harry trố mắt nhìn những chữ này một hồi. Chẳng phải nó đã nghe nói đến “sỏi dê” một lần rồi sao, hồi lâu rồi? Chẳng phải chính Thầy Snape đã nhắc đến chúng ngay trong bài học Dộc dược đầu tiên? “Một hòn sỏi lấy ra từ bao tử của một con dê, sẽ bảo vệ ta khỏi ngộ nhiễm hầu hết các chất độc.” Đó không phải là lời giải cho bài toán Golpalott và nếu Thầy Snape vẫn còn là thầy Độc dược cảu tụi nó, Harry sẽ không dám làm chuyện này, nhưng bây giờ là lúc phải xử tríliều mạng. Nó vội vàng đi về phía tủ chứa nguyên dược liệu và lục lọi trong đó, đẩy qua một bên những sừng kỳ lân và những dược thảo khô rối nùi, cho đến khi tìm được một cái hộp giấy bồi nhỏ nằm sâu tuốt bên trong, trên hộp có ghi chữ “Sỏi dê”. Nó mở cái hoppj ra vừa đúng lúc Thầy Slughorn hô lên: “Còn hai phút nữa nhé các trò!” Bên trong hộp có chừng nửa tá vật màu nâu teo quắt, trông giống như những trái thận phơi khô hơn là sỏi thật. Harry chộp ngay một cái, đặt cái hộp trở vô tủ và vội vã quay trở lại cái vạc của nó. “HẾT... giờ!” Thầy Slughorn hớn hở rao lên. “Thôi, chúng ta hãy xem các trò làm ăn ra sao! Blaise... trò có gìcho ta xem nào?” Thầy Slughorn chậm rãi đi quanh phòng học, xem xét các thuốc giải khác nhau. Không ai hoàn tất bài tập mỹ mãn, mặc dù Hermione đang cố gắng nhét thêm một ít thành phần dược liệu vô trong cái chai trước khi Thầy Slughorn đi tới chỗ cô nàng. Ron đã đầu hàng vô điều kiện và chỉ cố gắng tránh hít phải làn khói thúi ùm bốc lên từ cái vạc của nó. Harry đứng đó đợi, nắm chặt viên sỏi dê trong bàn tay rịn mồ hôi. Thầy Slughorn đến bàn tụi nó sau chót. Thầy ngửi món thuốc Ernie pha chế rồi chuyển qua món thuốc của Ron với gương mặt nhăn nhó. Thầy không nấn ná lâu bên cái vạc của Ron, mà nhanh chóng lùi lại, hơi ọe một cái. “Và trò, Harry,” thầy nói. “Con có gìcho thầy xem nào?” Harry giơ tay ra, viên sỏi dê nằm trong lòng bàn tay nó. Thầy Slughorn ngó xuống viên sỏi đúng mười giây. Trong một thoáng Harry tự hỏi liệu thầy có quát vào mặt nó không. Nhưng thầy ngẩng đầu lên và phá ra cười. “Trò táo tợn lắm!” Thầy cầm lấy viên sỏi dê và giơ nó lên cao để mọi người có thể nhìn thấy, nói oang oang. “A, trò giỏi y như mẹ cảu trò... Chà, ta không thể bắt lỗi trò... một viên sỏi dê đương nhiên là có tác dụng như thuốc giải đối với tất cả Độc dược!” Mặt lấm tấm mồ hôi, mũi dính lọ nghẹ, Hermione có vẻ giận bầm gan tím mật. Món thuốc giải xong được nửa giai đoạn của cô nàng gồm có năm mươi hai thành phần dược liệu kể cả một cọng tóc của chính cô nàng, đang lờ đờ sủi bọt sau lưng Thầy Slughorn, lúc này mắt thầy chỉ thấy có mỗi một mình Harry. “Và tự một mình bồ nghĩra viên sỏi dê hả, Harry?” Cô nàng hỏi qua kẽ răng nghiến chặt. “Đó là tinh thần cá nhân mà một người bào chế độc dược thực sự cần đến!” Thầy Slughorn vui vẻ nói, trước khi Harry có thể trả lời. “Giống y chang mẹ của trò, cô ấy cũng hiểu thấu bằng trực giác việc bào chế độc dược y như vậy, chắc chắn là trò thừa hưởng khả năng này từ mẹ Lily của trò... Đúng, Harry à, đúng đó, nếu con có trong tay viên sỏi dê thìdĩnhiên đã giải trúng mẹo... Tuy nhiên, bởi vìsỏi dê không hiệu nghiệm đối với mọi thứ và lại khá hiếm nữa, nên cũng nên biết cách pha chế thuốc giải...” Người duy nhất trong phòng tỏ ra tức giận hơn cả Hermione là Malfoy. Harry khoái chínhận thấy hắn đã làm đổ vấy lên chính hắn cái gìđó trông như đồ meaof mửa. Nhưng trước khi Hermione hay Malfoy có thể bộc lộ nỗi bất bình về việc Harry đứng đầu lớp mà không cần làm bài tập, chuông reo. “Tới giờ dọn dẹp!” Thầy Slughorn nói. “Và thêm mười điểm cho nhà Gryffindor vìsự táo tợn thuần túy đấy nhé!” Vẫn cười hìhì, thầy đi lạch bạch về bàn thầy ở đầu phòng học. Harry nhẩn nha ở cuối phòng, bỏ ra cả đống thời gian chỉ để dọn dẹp đồ đạc vô cặp. Cả Ron và Hermione đều không thèm chúc nó may mắn khi tụi nó rời phòng học; cả hai có vẻ rất bực bội. Cuối cùng chỉ còn Harry và Thầy Slughorn ở lại trong phòng. “Nào nhanh lên, Harry, kẻo con sẽ trễ tiết học kế,” Thầy Slughorn ân cần nói, vừa đóng cái chốt khóa của cái cặp da rồng. “Thưa thầy,” Harry nói, không cách nào mà không nhớ tới Voldermort, “Con muốn hỏi thầy một điều.” “Vậy thìhỏi ngay đi, chàng trai thân mến ạ, cứ hỏi đi...” “Thưa thầy, con thắc mắc là thầy biết gìvề... về Trường sinh linh giá ạ?” Thầy Slughorn sững sờ. Gương mặt tròn trịa của thầy dường như lún vô. Thầy liếm môi và nói giọng khàn khàn, “Con nói cái gì?” “Thưa thầy, con hỏi thầy có biết gìvề Trường sinh linh giá không ạ. Xin thầy hiểu cho...” “Cụ Dumbledore xúi trò làm chuyện này,” Thầy Slughorn lẩm bẩm. Giọng của thầy thay đổi hoàn toàn. Chẳng còn cởi mở chút nào nữa, mà kinh hoàng, sợ hãi. Thầy mò trong túi áo ngực lấy ra một chiếc khăn tay, lau chân mày rịn mồ hôi. “Cụ Dumbledore đã cho trò coi cái đó... cái ký ức đó,” Thầy Slughorn nói. “Đúng không? Cụ có cho coi không?” “ Dạ có,” Harry nói, quyết định ngay tại chỗ là tốt nhất đừng nói dối. “Ừ, dĩnhiên,” Thầy Slughorn khẽ nói, vẫn chậm mồ hôi trên gương mặt trắng bệch. “Dĩnhiên... Chà, nếu trò đã xem cái ký ức đó rồi, Harry à, trò ắt biết là ta không biết gìhết – không biết gìhết” thầy lặp lại, nhấn mạnh vào mấy chữ đó, “ biết gìhết về Trường sinh linh giá.” Thầy nắm lấy cái cặp da rồng của thầy, nhét cái khăn tay trở vô túi và bước đều ra cửa phòng học ở tầng hầm. “Thưa thầy,” Harry khẩn thiết nói, “con chỉ nghĩcó thể thầy còn có thêm một chút ký ức nữa...” “Vậy hả?” Thầy Slughorn nói. “Vậy thìtrò nhầm rồi? NHẦM!” Thầy rống lên từ cuối cùng và trước khi Harry có thể nói thêm tiếng nào nữa, thầy đóng sầm cánh cửa phòng học lại. Cả Ron lẫn Hermione đều chẳng cảm thông gìhết khi Harry kể cho tụi nó nghe cuộc nói chuyện riêng tai hại ấy. Hermione vẫn còn sôi sực giận về cái cách Harry chiến thắng mà không cần làm việc đàng hoàng. Ron thìtức tối là Harry đã không chôm luôn cho nó một viên sỏi dê. “Nếu cả hai đứa cùng làm như vậy thìngu hết sức!” Harry cáu kỉnh nói. “Thử nghĩcoi, mình phải cố gắng làm mềm lòng thầy ấy để có thể hỏi về Voldermort, đúng không? Ôi, bồ có hiểu không hả!” Nó cáu tiết hỏi thêm, vìRon nhăn mặt khi nghe đến cái tên Voldermort. Giận điên lên vìthất bại của chính mình cùng thái độ của Ron và Hermione, Harry suy nghĩủ ê về Thầy Slughorn suốt mấy ngày liền sau đó. Nó quyết định rằng, trong lúc này, nó nên để cho Thầy Slughorn nghĩlà nó đã quên hết chuyện Trường sinh linh giá; Tốt nhất là ru thầy ngủ trong cảm giác an toàn giả trước khi quay trở lại tấn công. Khi Harry không theo hỏi Thầy Slughorn nữa, ông thầy Độc dược liền phcuj hồi cách đối xử thân tình của mình và có vẻ đã quên đi chuyện đó. Harry chờ đợi lời mời đến dự một trong những dạ tiệc nho nhỏ của thầy, quyết tâm nhận lời đi dự phen này cho dù có phải dời lại ngày luyện tập Quidditch. Nhưng mà, thiệt không may, chẳng có thư mời nào được gởi tới cả. Harry hỏi Hermione và Ginny: cả hai đứa nó cũng không nhận được thư mời và theo như tụi nó biết thìcũng chẳng ai được mời mọc gìhết. Harry không thể không thắc mắc phải chăng điều này có nghĩa là Thầy Slughorn không thực sự dễ quên như thầy làm ra vẻ như vậy, một mực nhất quyết không cho Harry cơ hội nào nữa để chất vấn thầy.
  • 89. Trong lúc đó, lần đầu tiên trong lịch sử, thư viện trường Hogwarts đã không đáp ứng được nhu cầu tra cứu của Hermione. Cô nàng sửng sốt đến nỗi quên béng đi là mình đang giận Harry về trò mánh của nó trong vụ viên sỏi dê. “Mình không tìm được một lời giải thích nào về chức năng của Trường sinh linh giá!” Cô nàng nói với Harry. “Dù chỉ một lời! Mình đã tra hết sách trong khu vực giới hạn và ngay cả tỏng những cuốn sách khủng khiếp nhất, những quyển dạy pha chế Độc dược rùng rợn nhất – mà không tìm ra gìcả! Điều duy nhất mình tìm được là, trong phần giới thiệu của cuốn Pháp thuật ác hại nhất... nghe này nhé... “chúng ta không nên nói đến hay hướng dẫn về Trường sinh linh giá, phát minh ác độc nhất trong những phát minh Pháp thuật”... vậy thì, nhắc đến nó làm gì?” Hermione sốt ruột nói, vừa đóng ập cuốn sách cũ lại, cuốn sách bèn rên lên một tiếng ma quái. “Ối, im đi,” cô nàng nạt cuốn sách và nhét nó vô cái túi xách của mình. Tuyết tan quanh trường khi tháng hai đến, thay vào đó là sự ẩm ướt lạnh lẽo buồn bã. Những đám mây xám thâm tím giăng thâm thấp phía trên tòa lâu đài và những cơn mưa lạnh buốt rơi liên miên khiến bãi cỏ lầy lội và trơn trợt. Hậu quả của việc này là bài học Độn thổ đầu tiên dành cho học sinh năm thứ sáu, được lên lịch vào sáng thứ bảy để cho không trùng với những lớp học bình thường khác, phải diễn ra trong Đại sảnh đường thay vìngoài sân. Khi Harry và Hermione đến Sảnh đường (Ron đã xuống trước với Lavender) hai đứa tụi nó thấy những cái bàn ăn dài đã biến mất. Mưa quật vào những khung cửa sổ cao và trần nhà được ểm bùa đang vần vũ âm u phía trên đầu tụi nó khi tất cả tập họp trước mặt các giáo sư McGonagall, Snape, Flitwick và Sprout – chủ nhiệm của mỗi Nhà – và một ps nhỏ thó mà Harry chắc là thầy dạy môn Độn thổ đến từ Bộ Pháp thuật. Ông ta nhợt nhạt một cách quái đản, lông mi trong suốt, tóc lưa thưa và có một vẻ mong manh như thể chỉ một cơn gió mạnh cũng có thể thổi bay. Harry không rõ, phải chăng việc cứ phải thường xuyên biến mất rồi lại hiện ra, kiểu gìđó đã làm teo tóp cơ thể của ông hay không, hay không chừng cấu tạo cơ thể mong manh đó lại là lý tưởng cho bất cứ ai thích việc tan biến. “Chào mọi người,” vị ps của Bộ nó, sau khi tất cả học sinh đã có mặt và các giáo viên chủ nhiệm đã yêu cầu chúng im lặng. “Tên tôi là Wilkie Twycross và tôi sẽ là hướng dẫn viên Độn thổ trong mười hai tuần lễ sắp tới. Tôi hy vọng có thể giúp các trò chuẩn bị cho kỳ thi Độn thổ của các trò trong thời gian này...” “Malfoy, im lặng và chú ý!” Giáo sư McGonagall quát. Mọi người nhìn quanh. Malfoy đã ửng lên một màu hồng lờ mờ; nó có vẻ giận dữ khi nhích ra xa Crabbe, coi bộ nó và Crabbe đang rù rìtranh cãi. Harry liếc nhanh về phía Thầy Snape, trông thầy cũng bực bội, mặc dù Harry rất ngờ là thầy bực bội vìsự vô lễ của Malfoy thìít mà về việc giáo sư McGonagall quở trách một học sinh của Nhà thầy thìnhiều. “...Vào lúc đó, nhiều trò đã có thể sẵn sàng để đi thi,” thầy Twycross tiếp tục, như thể không hề có sự gián đoạn nào cả. “Như các trò biết, thường thìkhông thể nào hiện ra hay biến mất trong trường Hogwarts. Ông hiệu trưởng đã gỡ bùa ếm, chỉ nội trong Đại sảnh đường, trong một tiếng đồng hồ, để cho các trò có thể thực tập. Cho phép tôi nhấn mạnh là các trò sẽ không thể nào độn thổ ra khỏi Đại sảnh đường này về nếu trò nào tìm cách làm vậy thìthực là dại dột. Tôi muốn các trò hãy đứng giãn ra sao cho mỗi trò cách người đứng trước mặt một thước rưỡi.” Mọi người chen lấn xô đẩy trong lúc giãn ra, đụng chạm nhau, và kêu đòi người khác tránh chỗ cho mình. Các chủ nhiệm Nhà đi lẫn trong đám học sinh của mình, sắp xếp chúng vô vị trívà chấm dứt những vụ cãi vã. “Harry, bồ đi đâu vậy?” Hermione hỏi. Nhưng Harry không trả lời; nó đang di chuyển thật nhanh xuyên qua đám đông, ngang qua chỗ giáo sư Flitwick đang cố gắng léo nhéo sắp chỗ cho mấy đứa nhà Ravenclaw, đứa nào cũng đòi đứng gần hàng đầu; ngang qua cả giáo sư Sprout, đang rượt mấy đứa nhà Hufflepuff đứng vô hàng, cho đến khi lách qua được Ernie Macmillan, nó tìm cách đứng cuối đám đông, ngay sau lưng Malfoy. Malfoy đang lợi dụng sự hỗn loạn chung này để tiếp tục cãi vã với Crabbe, thằng này đứng cách Malfoy một thước rưỡi và tỏ vẻ bất bình như muốn nổi loạn. “Tao không biết còn bao lâu nữa, hiểu không?” Malfoy quát Crabbe, quên mất Harry đang đứng ngay sau lưng. “Việc đó kéo dài lâu hơn tao tưởng.” Crabbe há miệng ra, nhưng Malfoy có vẻ như đoán được điều nó định nói. “Crabbe à, chuyện tao đang làm không mắc mớ gìđến mày, mày và Goyle cứ việc canh gác như tao bảo!” “Nếu tao muốn bạn bè canh gác cho tao thìtao phải nói cho chúng biết tao đang làm gì,” Harry nói, chỉ đủ to cho Malfoy nghe thôi. Malfoy quay phắt lại liền tại chỗ, bàn tay chụp ngay cây đũa phép của nó, nhưng đúng lúc đó cả bốn Chủ nhiệm nhà đều hét lên, “Im lặng!” Và mọi người lại nín khe. Malfoy từ từ quay mặt về phía trước. “Cám ơn,” thầy Twycross nói. “Thôi, bây giờ...” Thầy vẫy cây đũa phép. Những cái vòng bằng gỗ kiểu xưa hiện ra ngay tức thìtrên sàn trước mặt mỗi học sinh. “Những điều cần nhớ khi độn thổ là ba Đ!” Thầy Twycross nói. “Địa điểm, Định ý và Điềm tĩnh! Bước thứ nhất: tập trung ý chímạnh mẽ vào địa điểm mình muốn đến,” thầy Twycross nói. “Trong trường hợp này, địa điểm là bên trong cái vòng gỗ trước mặt các trò. Bây giờ các trò hãy vui lòng tập trung ý chívào địa điểm đó.” Mọi người len lén nhìn quanh, để thấy tất cả những người khác đều đang trố mắt ngó cái vòng gỗ của mình, rồi vội vã làm theo yêu cầu. Harry đăm đăm nhìn khoảnh sàn tròn bụi bặm trong cái vòng gỗ của nó và hết sức cố gắng không nghĩđến cái gìkhác cả. ĐIều này hóa ra không thể được, bởi vìnó không thể ngừng thắc mắc Malfoy đang làm gìmà cần người canh gác. “Bước thứ hai,” thầy Twycross nói, “định ý rõ ràng quyết tâm đạt tới không gian đã hình dung! Hãy để cho lòng mong muốn tiến vào không gian đã hình dung! Hãy để cho lòng mong muốn tiến vào không gian đó tràn ngập đầu óc và từng tế bào của cơ thể mình!” Harry lén nhìn quanh. Cách không xa bên trái, Ernie Macmillan đang ngó cái vòng của mình kỹ đến nỗi mặt nó đỏ hồng lên như thể đang rặn đẻ một cái trứng bự bằng trái banh Quaffle. Harry ráng nhịn cười và vội chăm chú ngó lại cái vòng của chính mình. “Bước thứ ba,” thầy Twycross nói, “và chỉ khi nào tôi ra lệnh... xoay tại chỗ, thận trọng tiến vào cõi hư vô, điềm tĩnh trong từng chuyển động. Bây giờ theo lệnh tôi... Một!” Harry lại liếc nhìn quanh; nhiều người có vẻ cực kỳ hoảng sợ khi bị yêu cầu độn thổ gấp như vậy. “...hai...” Harry cố gắng tập trung lại, suy nghĩvào cái vòng gỗ, nó đã quên béng đi ba Đ là viết tắt cảu cái gì. “BA!” Harry quay vòng vòng tại chỗ, mất cân bằng và suýt té. Nó không phải là người duy nhất làm vậy. Toàn thể Đại sảnh đường bỗng đầy những con người lảo đảo; Neville té ngửa trên sàn; Ngược lại Ernie Macmillan đã làm được một cú nhảy vô cái vòng của nó và có vẻ phấn khích được một lúc, cho đến khi thấy Dean THogsmeadeas rống lên cười nhạo nó. “Không sao, không sao,” thầy Twycross nói tỉnh bơ, thầy không có vẻ gìlà đã kỳ vọng một tình hình tốt hơn. “Hãy điều chỉnh lại cái vòng gỗ của các trò và đứng trở lại vị trícũ...” Lần thứ hai không khá hơn gìlần thứ nhất. Lần thứ ba cũng tệ cỡ vậy. Đến lần thứ tư mới có sự cố hào hứng. Một tiếng thét hãi hùng đau đớn vang lên và mọi người ngoảnh nhìn lại, kinh hoàng khi thấy Susan Bones của nhà Hufflepuff đang loạng choạng bên trong cái vòng của cô nàng trong khi chân trái hãy còn đứng lại chỏng chơ tại chỗ cô nàng khởi hành cách đó một thước rưỡi. Chủ nhiệm các Nhà xúm lại quanh Suán; một tiếng nổ to vang lên và một cụm khói tím bốc lên rồi tan đi để lộ cô nàng Susan đang thút thít khóc, tuy chân cẳng được ráp lại lành lặn nhưng vẻ mặt còn sợ khiếp. “Thân tứ tán hay sự tách rời một bộ phận bất kỳ trên thân thể,” thầy Wilkie Twycross thản nhiên nói, “xảy ra khi đầu óc chưa định ý đủ đô. Các trò phải tập trung liên tcuj vào địa điểm, rồi di chuyển, không hấp tấp mà phải điềm tĩnh... như vầy nè.”
  • 90. Thầy Twycross bước tới trước, giang hai cánh tay ra duyên dáng xoay tại chỗ và biến mất qua một cái phất của vạt áo chùng, rồi xuất hiện lại phía cuối Đại sảnh đường. “Hãy nhớ ba Đ,” thầy nói, “và thử lại một lần nữa... một... hai... ba!” Nhưng một tiếng đồng hồ sau, vẫn chỉ có vụ thân tứ tán của Susan là sự kiện hào hứng nhất. Thầy Twycross chẳng có vẻ gìlà nản chí. Gài chặt cổ áo khoác, thầy chỉ nói, “Hẹn thứ bảy tới nhé, mọi người và đừng quên Địa điểm, Định ý, Điềm tĩnh.” Nói xong, thầy vẫy cây đũa phép khiến những cái vòng gỗ biến mất rồi bước ra khỏi Đại sảnh đường cùng giáo sư McGonagall. Tiếng chuyện trò lập tức nổi lên khi đám học trò bắt đầu di chuyển về phía tiền sảnh. “Bồ làm ăn ra sao?” Ron hỏi, vừa vội vàng đi về phía Harry. “Mình tin là mình cảm nhận được cái gìđó trong lần thử cuối cùng – một cảm giác ngứa ngáy ở bàn chân.” “Tôi cho rằng tại giày của ban hơi nhỏ, Won-Won à,” một giọng nói vang lên từ phía sau hai đứa nó và Hermione hiên ngang bước qua mặt tụi nó, môi nở một nụ cười mỉa mai. Không đẻ ý đến sự xía ngang đó, Harry nói, “Mình chẳng cảm thấy gìhết, nhưng lúc này mình không bận tâm chuyện đó.” “Ýbồ là sao, bồ không bận tâm... Bồ không muốn học Độn thổ hả?” Ron ngờ vực hỏi. “Thiệt tình mình không hào hứng lắm. Mình thích bay hơn,” Harry nói, vừa liếc chừng ra sau để xem Malfoy ở đâu và bước nhanh hơn khi tiến vào tiền sảnh. “này, bồ làm ơn nhanh lên, có một việc mình muốn làm...” Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, Ron chạy theo Harry trở lại tháp Gryffindor. Tụi nó bị con ma Peeves cản trở một lúc, con ma này đã chèn cánh cửa ở lầu bốn thật chặt và không chịu cho ai đi qua nếu người đó không xẹt lửa lên cái quần của chính mình. Harry và Ron chỉ đơn giản quay lưng lại và đi theo lối tắt an toàn của tụi nó. Chỉ trong vòng năm phút sau, tụi nó đã trèo qua cái lỗ chân dung. “Bồ có định nói cho mình biết là tụi mình đang làm gìkhông hả?” Ron thở hổn hển hỏi. “Lên đây,” Harry nói và nó băng ngang qua phòng sinh hoạt chung, dẫn đường tới cửa vào cầu thang lên phòng ngủ nam sinh. Đúng như Harry hy vọng, phòng ngủ của tụi nó vắng vẻ. Nó mở tung cái rương ra và bắt đầu lục lọi trong đó, trong khi Ron sốt ruột nhìn nó. “Harry à...” “Malfoy đang dùng Crabbe và Goyle làm người canh gác cho nó. Nó vừa cãi nhau với Crabbe. Mình muốn biết... đây rồi.” Nó đã tìm được, một tấm giấy da vuông vức được gấp lại, dường như không có chữ nghĩa gìtrong đó, nó trải tấm giấy da ra và gõ đầu cây đũa phép lên đó. “Tôi trang trọng thề là tôi đang mưu toan chuyện không tốt... hay Malfoy thìcũng vậy” Lập tức tấm Bản đồ đạo tặc hiện ra trên tấm giấy da. Đây là một bản đồ chi tiết về mọi tầng trong tòa lâu đài và những cái chấm li ti có kèm tên đang di động trên khắp bản đồ biểu thị cho từng người đang có mặt trong tòa lâu đài. “Giúp mình tìm Malfoy,” Harry khẩn khoản nói. Nó đặt tấm bản đồ trên giường và cùng Ron chồm lên dò tìm. Cỡ chừng một phút sau, Ron nói: “Kìa! Nó đang ở trong phòng sinh hoạt chung nhà Sly, coi kìa... đàn đúm với Parkinson, Zabini, Crabbe và Goyle...” Harry ngó xuống tấm bản đồ, thất vọng, nhưng trấn tĩnh lại ngay tức thì. “Thôi được, từ giờ trở đi mình sẽ để mắt tới nó,” Harry kiên quyết nói. “Và bất cứ lúc nào mình thấy nó thập thò đâu đó trong khi Crabbe và Goyle canh gác bên ngoài, thìmình sẽ mặc ngay tấm Áo khoác tàng hình để tới đó liền, tìm hiểu xem nó đang...” Harry ngừng ngang khi Neville đi vô phòng ngủ đem theo mùi vải cháy khét lẹt và bắt đầu lục lọi cái rương của nó để kiếm một cái quần mới. Mặc dù quyết tâm bắt quả tang Malfoy, Harry chẳng thu chút kết quả nào trong hai tuần lễ tiếp theo. Dù cho nó đã tham khảo tấm bản đồ hết sức thường xuyên, đôi khi không cần thiết mà cũng đi vô nhà vệ sinh giữa hai tiết học để tìm kiếm, nhưng nó chẳng hề bắt gặp Malfoy ở đâu đáng nghi ngờ cả. Phải thừa nhận là nó có dò la được Crabbe và Goyle đi loanh quanh trong tòa lâu đài thường xuyên hơn mà không có Malfoy đi cùng, đôi khi chúng cứ ở ìmột chỗ trong những hành lang vắng vẻ, nhưng vào những lúc ấy lại không thấy Malfoy ở đâu gần đó, mà cũng không thể xác định được vị trícủa thằng này trên tấm bản đồ. Đây là điều bíẩn nhất. Harry nghĩchơi là có khả năng Malfoy đã thực sự rời khỏi khuôn viên nhà trường, nhưng không thể biết làm thế nào hắn lại làm được việc đó, trong bối cảnh an ninh được giám sát ở mức rất cao bên trong tòa lâu đài. Nó chỉ có thể giả đoán rằng nó đã để sót Malfoy giữa hàng trăm chấm đen li ti trên tấm bản đồ. CÒn đối với việc Malfoy, Crabbe và Goyle dạo này có vẻ hay đi theo những lối khác nhau trong khi trước đây chúng vốn rất gắn bó, Harry cho là chuyện bình thường vẫn xảy ra khi người ta lớn lên. Như Ron và Hermione chẳng hạn, Harry buồn bã ngẫm nghĩ, đúng là một bằng chứng sống. Tháng hai chuyển qua tháng ba mà thời tiết vẫn không thay đổi, ngoại trừ càng lúc càng nhiều gió và rất ẩm ướt. Một thông báo xuất hiện trên bảng thông cáo ở phòng sinh hoạt chung loan tin chuyến dã ngoại đến làng Hogsmeade đã bị hoãn khiến mọi người phẫn nộ. Ron tức tối lắm. “Hôm đó trùng với sinh nhật mình!” Nó nói, “Mình đã trông mong cho tới ngày đó!” “Nhưng cũng không đến nỗi bất ngờ, đúng không?” Harry nói. “Sau chuyện xảy ra cho Katie.” Cô bé vẫn còn điều trị ở bệnh viện Thánh Mungo. Đã thế Nhật báo Tiên Tri tường thuật thêm nhiều vụ mất tích nữa, gồm cả những thân nhân của học sinh trường Hogwarts. “Nhưng bây giờ thìtất cả háo hức trông chờ của mình chỉ còn buổi học Độn thổ ngu ngốc!” Ron quạu quọ nói. “Cuộc vui sinh nhật tổ bự...” Đã qua ba buổi học, môn Độn thổ vẫn chứng tỏ là thứ khó nuốt, mặc dù đã có thêm vài ba đứa xoay sở được phép nối thân cho chính mình. Sự nản lòng lan khắp đám học sinh và có một số ác cảm nhất định đối với thầy Wilkie Twycross cùng phương châm ba Đ của thầy, phương châm này làm nảy ra một số hỗ danh mà tụi nó gán cho thầy, mà trong số hỗ danh đó, hai cái tên lịch sự nhất là Đầu-cứt và Đại-cẩu. “Chúc mừng sinh nhật, Ron,” Harry nói, khi hai đứa thức dậy vào buổi sáng ngày mồng một thứ Ba lúc Seamus và Dean ồn ào ra khỏi phòng đi ăn điểm tâm. “Có quà đây.” Nó liệng gói quà qua giường Ron, hùn vô một đống nho nhỏ những gói quà khác ắt là đã được bọn gia tinh đem đến hồi khuya, theo như Harry đoán. “Vui lên,” Ron thẫn thờ nói và trong lúc nó xé toạc mấy tờ giấy gói quà thìHarry ra khỏi giường, mở cái rương của mình ra và bắt đầu lục lọi tìm tấm Bản đồ đạo tặc mà nó luôn giấu đi sau mỗi lần dùng. Nó moi ra gần một nửa thứ bên trong rương mới tìm được tấm bản đồ giấu bên dưới mấy cái vớ cuộn tròn mà trong đó nó vẫn còn giấu chai thuốc hên, Phúc Lạc dược. “Đây rồi,” nó lẩm bẩm, cầm tấm bản đồ trở lại giường, gõ nhẹ lên tấm bản đồ và thìthầm, “Tôi trang trọng thề là tôi đang mưu toan chuyện không tốt,” để cho Neville lúc đó đang đi ngang qua phía chân giường nó không thể nghe thấy. “Ê Harry, đẹp lắm!” Ron nói một cách nồng nhiệt, vừa vung vẩy cặp găng tay thủ môn Quidditch mà Harry tặng nó. “Không có chi,” Harry lơ đãng nói, trong khi vẫn rà kỹ phòng ngủ nhà Sly để tìm kiếm malfoy. “Ê... mình không nghĩlà nó còn nằm trong giường...” Ron không trả lời; nó đang quá bận rộn mở những gói quà, thỉnh thoảng bật ra tiếng kêu khoái trá. “Nghiêm túc mà nói thìnăm nay được một mẻ khấm khá!” Ron tuyên bố, vừa giơ cao một cái đồng hồ đeo tay to bằng vàng có những ký hiệu kỳ quái chạm khắc quanh rìa và những ngôi sao chuyển động thay cho kim đồng hồ. “Coi ba má tặng mình cái gìnè? Úi trời, mình cũng nghĩnăm tới là mình đến tuổi rồi...” “Xịn,” Harry lẩm bẩm, chỉ liếc cho cái đồng hồ một cái trước khi chíu mũi dò kỹ tấm bản đồ. Malfoy ở đâu cà? Hắn không có vẻ gìlà đang ăn điểm tâm ở bàn ăn nhà Sly trong Đại sảnh đường, hắn cũng không lảng vảng đâu đó gần Thầy Snape đang ngồi trong văn phòng của thầy... hắn cũng không ở trong bất cứ nhà vệ sinh nào trong bệnh thất... “Muốn một cái không?” Ron nói giọng rít chịt, tay giơ ra một hộp kẹo vạc Sôcôla. “Không, cám ơn,” Harry nói, ngước nhìn lên. “Malfoy lại biến mất một lần nữa!”
  • 91. “Biết làm sao được,” Ron nói, vừa nhét thỏi sôcôla thứ hai vô miệng trong lúc tuột xuống giường để mặc quần áo vào. “Nhwnh lên. Nếu bồ không lẹ lên thì bồ sẽ phải độn thổ với một cái bao tử trống không... mà mình nghĩbiết đâu lại dễ hơn há...” Ron đăm chiêu nhìn hộp vạc sôcôla, rồi nhún vai, tự lấy cho mình một thỏi nữa. Harry gõ cây đũa phép lên tấm bản đồ, lầm rầm, “Quản lý tầm bậy,” mặc dù tấm bản đồ không bao giờ như vậy, rồi nó amwcj quần áo vào, suy nghĩcăng thẳng. Nhất định phải có một lý do cho sự biến mất từng lúc của malfoy, nhưng Harry tuyệt không thể nghĩra lý do đó là cái gì. Cách tốt nhất để tìm ra là theo đuôi hắn, nhưng cho dù nó có tấm Áo khoác tàng hình thìý tưởng này cũng không thực tế; Nó phải lên lớp học, luyện tập Quidditch, làm bài tập ở nhà và học Độn thổ nữa chứ; nó không thể nào lẽo đẽo theo Malfoy đi khắp trường cả ngày mà không làm mọi người chú ý đến sự vắng mặt của nó. “Xong chưa?” Nó hỏi Ron. Nó đã đi được nửa đường ra tới cửa phòng ngủ thìnhận thấy Ron vẫn ngồi bất động, tựa vào cây cột giăng màn, đăm đắm nhìn ra ngoài khung cửa sổ ràn rạu nước mưa với một vẻ mặt ngơ ngơ ngáo ngáo kỳ lạ. “Ron à? Đi ăn điểm tâm.” “Mình không đói.” Harry trố mắt nhìn nó. “Mình tworng bồ vừa nói...?” “Ừ, thôi được, mình sẽ xuống với bồ,” Ron thở dài, “nhưng mình không muốn ăn.” Harry chăm chú nhìn thiệt kỹ Ron mà lòng đầy nghi ngờ. “Có phải bồ vừa ăn hết nửa hộp Vạc sôcôla không?” “Không phải vậy,” Ron thở dài. “Bồ... bồ không thể hiểu nổi đâu.” “Hiểu chứ,” Harry nói khi mở cửa, mặc dù nó chẳng hiểu gì. “Harry à!” Bỗng nhiên Ron nói. “Cái gì?” “Harry à, mình không thể nhịn được!” “Bồ không thể nhịn được cái gì?” Harry hỏi, lúc này nó bắt đầu cảm thấy thực sự hoảng sợ. Ron hơi nhợt nhạt và trông có vẻ như sắp bệnh. “Mình không thể nhịn không nghĩđến nàng!” Ron nói giọng khàn khàn. Harry há hốc mồm nhìn Ron. Nó không ngờ sự thể như vầy và không chắc là nó có muốn nghe chuyện đó không. Tụi nó có thể là bạn bè chícốt, nhưng nếu Ron bắt đầu gọi Lavender là “Lav-Lav”, thìnó nên kiên quyết. “Nhưng mắc gìchuyện đó lại khiến bồ không ăn điểm tâm chớ?” Harry gỏi, cố gắng cài cắm vô diễn biến câu chuyện một lưu ý rất đời thường. “Mình không nghĩlà nàng biết có mình trên đời,” Ron nói với một cử chỉ tuyệt vọng. “Cô nàng nhất định phải biết có bồ trên đời chứ,” Harry nói, cảm thấy hoang mang. “Cô nàng vẫn hôn hít bồ mà?” Ron chớp chớp mắt. “Bồ đang nói về ai?” “Còn bồ đang nói về ai?” Harry nói, càng lúc càng nhận thấy cuộc đối thoại không còn mạch lạc nữa. “Romilda Vane,” Ron dịu dàng nói và cả gương mặt nó dường như bừng sáng khi nói ra cái tên đó, như thể dwocj một tia sáng mặt trời trong trẻo nhất rọi chiếu. Hai đứa trợn mắt nhìn nhau gần một phút, sau đó Harry nói, “Chuyện tiếu lâm hả? Bồ đang đùa.” “Mình nghĩ... Harry à, mình nghĩmình yêu nàng,” Ron nói giọng líu lại. “Được rồi,” Harry nói, vừa đi tới gần Ron để nhìn kỹ hơn vào đôi mắt thần thờ và nước da xanh xao của Ron, “Được rồi... nghiêm mặt mà nói lại điều đó đi.” “Mình yêu nàng,” Ron thìthào lặp lại. “Bồ đã từng nhìn thấy mái tóc của nàng chưa? Đen nhánh, óng ả, mượt mà... và đôi mắt của nàng nữa? Đôi mắt to đen huyền của nàng? Và...” “Chuyện này thiệt là tức cười và lộn xộn quá đi,” Harry hết kiên nhẫn nói, “nhưng đùa nhiêu đó đủ rồi, nhé? Dẹp đi.” Nó quay lưng định bỏ đi; nhưng mới đi được hai bước về phía cửa thìmột trái đấm như trời giáng tống vào bên tai phải nó. Nó loạng choạng suýt té và ngoái nhìn lại. Ron vừa mới rút nắm tay về, mặt bừng bừng cơn giận; nó sắp đấm thêm một cái nữa. Harry phản ứng theo bản năng, rút cây đũa phép ra khỏi túi áo và câu thần chú bật ra ngay trong đầu nó mà không cần suy nghĩtỉnh táo: Khinh thân! Ron rú lên khi gót chân nó bị kéo ngược lên một phen nữa; nó bị treo lủng lẳng không thể làm gìđược, đầu chúc xuống, cẳng chổng lên trời, vạt áo chùng của nó bị lật ngược. “Tại sao lại đấm mình chứ?” Harry rống lên. “Harry, bồ xúc phạm nàng! Bồ dám nói là chuyện tức cười hả!” Ron hét, mặt anh chàng này đang từ từ chuyển sang tím ngắt bới vìbao nhiêu máu đều dồn cả xuống đầu. “Chuyện này điên quá!” Harry nói. “Mắc gìmà...?” Và đột nhiên nó nhìn thấy cái hộp còn mở nắp trên giường Ron và sự thật dộng vô đầu nó bằng sức mạnh của một con quỉ khổng lồ đang chạy tán loạn. “Bồ lấy mấy thỏi Vạc sôcôla đó ở đâu vậy?” “Quà sinh nhật đó!” Ron thét lên, vừa xoay mình chầm chậm giữa không trung trong nỗ lực tự giải thoát. “Mình có mời bồ một thỏi mà?” “Bồ lượm nó lên từ dưới sàn, đúng không?” “Nó rớt từ giường mình xuống mà, đúng chưa? Thả mình ra!” “Nó không hề rớt khỏi giường bồ, đồ đần độn ạ, có hiểu không? Nó là của mình, mình đã móc nó ra khỏi cái rương của mình khi lục tìm tấm bản đồ. Đó là Vạc sôcôla mà Romilda đã tặng cho mình trước lễ Giáng sinh và thỏi nào cũng đã được tẩm tình dược!” Nhưng chỉ có một từ trong những điều Harry nói dường như lọt tai Ron. “Romilda hở?” Ron lập lại. “Bồ vừa nhắc đến Romilda à? Harry... bồ biết nàng ư? Bồ có thể giới thiệu mình với nàng không?” Harry đăm đăm nhìn anh chàng Ron đang treo lơ lửng, mà vẻ mặt giờ đây bừng lên hy vọng tràn trề và nó ráng nhịn thắt ruột để khỏi phá ra cười. Một phần Harry – phần gần cái tai phải đang đau nhói nhất – thìkhoái cái ý tưởng thả Ron xuống và ngắm nó chạy quẩn làm chuyện điên khùng cho đến khi thuốc hết công hiệu... nhưng mặt khác, tụi nó kể như là bạn bè, Ron đâu còn là chính Ron khi đấm Harry và Harry nghĩrằng mình đáng bị đấm một cái nữa nếu cho phép Ron thổ lộ tình yêu bất tử với nàng Romilda Vane. “Được, mình sẽ giới thiệu bồ,” Harry nói, vừa suy nghĩthiệt nhanh. “Bây giờ mình thả bồ xuống, được chứ?” Nó thả Ron rớt xuống sàn một cái rầm (tai nó đau cũng cỡ đó) nhưng Ron chỉ bật dậy đứng lên nhe răng cười. “Cô ấy sẽ có mặt ở văn phong Thầy Slughorn,” Harry nói giọng đang tin, vừa dẫn ddowwngf đi ra cửa. “Tại sao nàng lại đến đó?” Ron lo lắng hỏi, vừa vội vã đi theo. “À, cô ấy có học thêm lớp Dộc dược với thầy,” Harry nói, bịa đại ra. “Có lẽ mình có thể xin học chung với nàng?” Ron háo hức nói. “Ýhay,” Harry nói. Nhưng Lavender đang đợi ở bên ngoài bức chân dung, một tình huống phức tạp mà Harry không dự đoán tới. “Anh trễ quá vậy, Won-Won!” Cô nàng dẩu môi hờn dỗi. “Em có quà sinh nhật cho anh nè.” “Hãy để tôi yên,” Ron sốt ruột nói, “Harry sắp giới thiệu tôi với Romilda Vane.” Và không nói thêm một lời nào nữa với cô nàng, nó giành đường chui ra khỏi lỗ chân dung. Harry cố gắng bày tỏ một vẻ mặt có lỗi với Lavender, nhưng
  • 92. có lẽ mặt nó chỉ lộ ddowwcj vẻ khoái trá, bởi vìcô nàng tỏ ra bị xúc phạm hơn bao giờ hết lúc bà Béo đóng ập cái lỗ lại sau lưng tụi nó. Harry đã hơi lo lắng là Thầy Slughorn có thể đang ăn điểm tâm, nhưng khi nó mới gõ cửa một tiếng thầy đã mở ra ngay, trong lúc đang mặc một cái áo ngủ bằng nhung màu xanh lục cùng màu với cái nón ngủ trùm đầu và trông mắt thầy có vẻ lờ đờ. “Harry,” thầy làu bàu. “Thăm viếng giờ này thìsớm quá... thường thường ta ngủ nướng vào thứ bảy...” “Thưa thầy, con thiệt tình xin lỗi đã quấy rầy thầy, nhưng Ron bạn con đã lỡ nuốt nhầm một liều tình dược,” Harry nói hết sức nhỏ, trong khi Ron đứng kiễng lên, nhấp nhổm, cố gắng nhìn nhóng vô căn phòng sau lưng Thầy Slughorn. “Thầy có thể cho nó một liều thuốc giải không ạ? Lẽ ra con nên đem nó đến cho bà Pomfrey chữa trị, nhưng tụi con không được phép có bất cứ cái gìxuất xứ từ tiệm Phù thỉ Wỉ Wái của Weasley và thầy biết đó... rồi những câu hỏi bất tiện...” “Thầy lại nghĩmột chuyên viên độc dược như con, Harry à, thìcon sẽ dư sức pha cho nó một liều thuốc chữa chứ?” Thầy Slughorn hỏi. “Ơ,” Harry nói, hơi bị phân tán bởi vìRon lúc này đang huých cùi chỏ vô be sườn nó để chen vô căn phòng, “Dạ, thưa thầy, con chưa từng pha thuốc giải cho tình dược và đợi tới lúc mà con pha chế ra được thìRon có thể đã làm điều gìđó nghiêm trọng...” Thiệt là được việc, Ron chọn đúng lúc đó để rên rỉ, “Mình chẳng thấy nàng đâu cả. Harry... ổng giấu nàng rồi hả?” “Độc dược đó còn hạn sử dụng không?” Thầy Slughorn hỏi, lúc này thầy ngắm Ron với ánh mắt thích thú thuần chuyên môn. “Trò biết đấy, càng được cất giữ lâu, chúng càng tăng hiệu lực.” “Dạ, hèn chi,” Harry thở hổn hển, bây giờ nó đang phải vật lộn với Ron để giữ anh chàng này khỏi quật ngã Thầy Slughorn. “Thưa thầy, hôm nay là sinh nhật bạn ấy,” nó nói thêm, giọng nài nỉ. “À, được thôi, vào đây, vậy thìvào đây,” Thầy Slughorn nói, giọng dịu đi. “Ta có đủ những thứ cần thiết trong cái túi của ta đây; thuốc giải đó cũng không khó pha chế lắm...” Ron xộ qua cửa vô văn phòng được sưởi quá ấm và chất quá nhiều đồ đạc, vấp phải một cái ghế đẩu gác chân có tua rua, gượng lấy lại thăng bằng bằng cách chụp lấy cần cổ Harry và thìthầm: “Nàng không nhìn thấy mà, đúng không?” “Cô ấy chưa đến,” Harry nói, vừa nhìn Thầy Slughorn mở bộ đồ pha chế độc dược của thầy ra và thêm vào một bẹo cái này, một bẹo cái kia, bỏ vô trong một cái chai pha lê nhỏ xíu. “Vậy mà hay,” Ron nhiệt thành nói. “Trông mình thế nào?” “Đẹp trai lắm,” Thầy Slughorn nói giọng vuốt ve, vừa đưa Ron một ly chứa chất lỏng trong veo. “Bây giờ uống cạn cái này đi, đó là một tjuoocs bổ thần kinh, giúp trò bình tĩnh khi nàng đến, trò hiểu chứ.” “Xuất sắc,” Ron háo hức nói và nuốt ực thuốc giải một cái rột. Harry và Thầy Slughorn ngắm nó. Ron toe toét cười với hai thầy trò kia một lát. RỒi, rất ư từ từ, nụ cười của nó xìu xuống và biến mất, thay vào đó là vẻ mặt cực kỳ hoảng sợ. “Vậy là đã trở lại bình thường rồi?” Harry nhe răng cười và nói. Thầy Slughorn khoái trá ra mặt. “Thưa thầy, cám ơn thầy nhiều lắm...” “Không có chi, chàng trai của ta, không có chi cả,” Thầy Slughorn nói, trong khi Ron ngồi thụp xuống cái ghế bành gần đó, trông hết sức te tua. “Rượu bổ, đó là thứ trò ấy cần,” Thầy Slughorn nói tiếp, lúc này thầy đang vội vã đi tới một cái bàn để đầy thức uống. “Thầy có bia bơ, thầy có rượu, thầy còn có một chai rượu mật rừng sồi già cuối cùng... chà... đã định tnawgj cụ Dumbledore vào dịp lễ Giáng sinh... à thôi...” thầy nhún vai “...Cụ ấy đâu có thể tiếc cái mà cụ ấy chưa có! Tại sao chúng ta lại không khui nó ra để chúc mừng sinh nhật cậu Weasley nhỉ? Để xoa dịu nỗi đau thất tình thìchẳng gìbằng rượu ngon...” Thầy lại khúc khích cười và Harry cười theo. Harry nhận ra đây là lần đầu tiên mà nó gần như chỉ có một mình với Thầy Slughorn kể từ lần đầu cố gắng một cách thảm hại để có được ký ức thật của thầy. Có lẽ, nếu nó cứ duy trìđược tâm trạng hồ hởi của Thầy Slughorn... có lẽ nếu tụi nó chịu đựng nổi đủ lượng rượu mật rừng sồi già... “Đây, mời trò,” Thầy Slughorn nói, đưa cho Harry và Ron mỗi đứa một ly rượu mật trước khi nâng chính ly của thầy lên. “Nào, chúc mừng sinh nhật vui vẻ nhé, Ralph...” “Ron,” Harry thìthào nhắc vở. Ron, chẳng có vẻ gìlắng nghe lời chúc tụng, đã nốc cạn ly rượu vào họng nó và nuốt trọng. Chỉ trong một giây, không hơn một nhịp đập của trái tim, Harry biết ngay có chuyện gìđó tai hại khủng khiếp, nhưng Thầy Slughorn dường như không nhận ra. “...và trò có thể uống thêm...” “Ron!” Ron buông rơi cái ly cảu nó; nó hơi nhổm dậy khỏi ghế và rồi ngã gục xuống, tay chân co giật không cách nào kiểm soát được. Nước miếng sùi ra từ miệng nó nhểu xuống và con mắt nó lồi rakhoir hốc mắt. “Thưa thầy!” Harry rống lên. “Thầy làm gìđi chứ!” Nhưng Thầy Slughorn dường như tê liệt vìsửng sốt. Ron co giật và nghẹt thở, da nó đang đổi màu xanh lè. “Cái gì... Nhưng mà...” Thầy Slughorn lắp bắp. Harry nhảy qua một cái bàn thấp và lao về phía bộ đồ pha chế độc dược của Thầy Slughorn còn để mở, lôi ra nào hũ, nào túi, trong khi tiếng thở khò khè kinh khủng của Ron vang khắp phòng. Đột nhiên nó tìm được cái ấy: viên sỏi giống trái thận teo quắt mà Thầy Slughorn đã lấy của nó trong lớp học Độc dược. Harry lật đật quay trở lại bên cạnh Ron, banh hàm Ron ra và thở dốc ra, rồi cơ thể nó trở nên mềm rũ và bất động. Chương 19 Gia tinh bám đuôi “Vậy, túm lại, đây không phải là một trong những sinh nhật khá khẩm gìhơn của Ron hả?” Fred nói. Lúc đó trời đã tối; bệnh thất yên tĩnh, cửa sổ được kéo màn kín, đèn đuốc thắp sáng. Giường của Ron là cái duy nhất có người nằm. Harry, Hermione và Ginny đang ngồi chung quanh; chúng đã chầu chực đợi chờ bên ngoài cánh cửa đôi suốt cả ngày trời, tìm cách nhìn vào bên trong mỗi khi có người ra vào. Bà Pomfrey chỉ cho chúng vòa thăm từ tám giờ trở đi. Fred và George đến vào lúc tám giờ mười. “Tụi anh không tưởng tượng ra nổi lại trao quà cho em như vậy,” George cười hìhì, vừa đặt xuống cái tủ nhỏ bên cạnh giường Ron một gói quà to đùng và ngồi xuống cạnh Ginny. “Đúng vậy, khi tụi này hình dung ra được cảnh tượng thìcu cậu đã tỉnh,” Fred nói. “Tụi anh lúc đó đang chờ ở làng Hogwartssmeade để dành cho nó một sự bất ngờ…” George nói. “Hai anh có ở Hogwartssmeade à?” Ginny ngước nhìn lên hỏi. “Tụi anh đang nghĩđến việc mua lại tiệm Zonko,” Fred rầu rĩnói. “Em biết không, tính mở một chi nhánh ở Hogwartssmeade, nhưng mà chẳng được tích sự gìnếu như các em không được phép đi chơi dã ngoại cuối tuần để mua đồ của tụi anh nữa… nhưng bây giờ bỏ qua chuyện đó đi.” Fred kéo một cái ghế đến ngồi cạnh Harry và nhìn vào gương mặt nhợt nhạt của Ron. “Chính xác thìchuyện xảy ra như thế nào, Harry?”
  • 93. Harry kể lại câu chuyện mà nó đã tường thuật tỉ mỉ có lẽ đến một trăm lần rồi, cho cụ Dumbledore, cho cô McGonagall, cho bà Pomfrey, cho Hermione và cho Ginny. “…rồi em nhét viên sỏi dê xuống cổ họng nó và hơi thở của nó dịu đi một chút, Thầy Slughorn chạy đi kêu cứu, cô McGonagall và bà Pomfrey chạy đến và họ mang Ron tới đây. Họ cho là Ron sẽ bình phục tốt. bà Pomfrey nói là nó sẽ phải ở lại đây một tuần hay khoảng đó… tiếp tục uống tinh chất cửu lý hương…” “Mèn đét ơi, may là em nghĩra viên sỏi dê đó,” George nói giọng thầm thì. “May là có sẵn một viên ở trong phòng,” Harry nói, nó vẫn còn ớn lạnh khi nghĩđến chuyện gìđã có thể xảy ra nếu như nó không tìm ra được viên sỏi nhỏ đó. Hermione bật ra một tiếng khịt mũi gần như không nghe được. Cô nàng đã im lặng khác thường suốt cả ngày. Sau khi đâm sầm vào Harry ở bên ngoài bệnh thất với gương mặt trắng bệch và yêu cầu nó phải cho biết chuyện gìđã xảy ra, Hermione đã gần như không tham dự vào cuộc bàn luận đầy ám ảnh giữa Harry và Ginny về việc Ron bị ngộ độc như thế nào, cô nàng chỉ ngồi bên cạnh hai đứa nó, miệng mím chặt và vẻ mặt hãi hùng, cho đến khi cả đám được phép vào thăm Ron. “Ba má biết chưa?” Fred hỏi Ginny. “Ba má tới thăm anh ấy rồi, cách đây một tiếng đồng hồ… bây giờ ba má đang ở trong văn phòng thầy Dumbledore, nhưng ba má sẽ quay lại ngay…” Rồi có một khoảng lặng ngắn, khi mọi người cùng quan sát Ron lảm nhảm gìđó trong giấc ngủ. “Vậy là chất độc ở trong ly rượu à?” Fred nói khẽ. “Dạ,” Harry nói ngay; nó không thể nghĩđến điều gìkhác nữa và vui mừng vìcó cơ hội để lại thảo luận chuyện đó một lần nữa. “Thầy Slughorn rót rượu ra…” “Liệu thầy có thể lén bỏ cái gìđó vô ly của Ron mà em không nhìn thấy không?” “Có thể lắm,” Harry nói. “Nhưng tại sao Thầy Slughorn lại muốn đầu độc Ron?” “Ai mà biết,” Fred nói, rồi cau mày lại. “Em không nghĩlà ông ta nhầm lẫn mà đưa lộn ly à? Hay là muốn đầu độc em?” “Tại sao Thầy Slughorn lại muốn đầu độc Harry chứ?” Ginny hỏi. “Anh chả biết,” Fred nói, “nhưng chắc phải có cả đống người muốn đầu độc Harry, đúng không? “Kẻ được chọn” và đủ thứ lăng nhăng ấy?” “Vậy anh nghĩThầy Slughorn là một Tử thần thực tử hả?” Ginny nói. “Bất cứ điều gìcũng có thể xảy ra,” Fred rầu rĩnói. “Có thể ông ta bị ếm lời nguyền Độc đoán,” George nói. “Hoặc cũng có thể thầy vô tội,” Ginny nói. “Chất độc có thể ở trong chai rượu, trong trường hợp này thìngười bị nhắm tới có lẽ chính là Thầy Slughorn.” “Ai mà muốn giết Thầy Slughorn chứ?” “Cụ Dumbledore cho rằng Voldermort muốn Thầy Slughorn đứng về phe hắn,” Harry nói. “Thầy Slughorn đã trốn tránh suốt một năm trước khi thầy đến trường Hogwarts. Và...” Nó nghĩđến cái ký ức của Thầy Slughorn mà thầy Dumbledore vẫn chưa thể lấy được. “và có thể Voldermort muốn khử thầy ấy, biết đâu hắn nghĩThầy Slughorn có thể có ích cho cụ Dumbledore.” “Nhưng anh nói là Thầy Slughorn đã tính tặng thầy Dumbledore chai rượu đó nhân lễ Giáng sinh mà,” Ginny nhắc Harry. “Vậy thìkẻ đầu độc rất có thể đã nhắm vào thầy Dumbledore.” “Nếu vậy thìkẻ đầu độc không biết Thầy Slughorn rõ lắm,” Hermione nói, đây là lần mở miệng đầu tiên trong suốt mấy tiếng đồng hồ và giọng cô nàng nghe như thể đang bị cảm lạnh nặng lắm. “Bất cứ ai quen Thầy Slughorn đều phải biết rằng hễ có cái gìngon lành là y như rằng thầy sẽ giữ cái đó lại cho mình.” “Ơ-mai-ni” Ron bỗng nhiên rên lên giữa chừng. Tất cả lại im lặng, lo lắng nhìn Ron, nhưng sau một lúc lảm nhảm mấy tiếng không thể hiểu được, nó bắt đầu ngáy. Cửa phòng ngủ chợt mở ra, khiến tất cả tụi nó giật bắn người: bác Hagrid đang sải dài bước chân về phía tụi nó, tóc bác lấm tấm nước mưa, tấm áo khoác da gấu của bác đánh phần phật sau lưng, một cái ná cầm trong tay, bác để lại khắp sàn những dấu chân bết đầy sình bự bằng con cá heo. “Ở trong rừng cả ngày!” Bác thở hổn hển. “Aragog trở bệnh nặng, bác đã đọc sách cho nó nghe – không kịp ăn tối, vừa mới về đến nơi thìnghe giáo sư Sprout cho hay chuyện của Ron! Nó sao rồi?” “Dạ, không đến nỗi nào,” Harry nói. “Họ nói nó xẽ bình phục.” “Không được có quá sáu khách viếng thăm cùng một lúc!” Bà Pomfrey nói, vừa lật đật đi ra khỏi phòng bà. “Tính cả bác Hagrid mới đủ sáu,” George chỉ ra. “Ờ… phải…” Bà Pomfrey nói, dường như bà tính bác Hagrid thành nhiều người vìthân hình đồ sộ của bác. Để lấp liếm sự lộn xộn của mình bà lại lật đật đi lau sạch mấy dấu chân đầy bùn bằng cây đũa phép. “Hổng thể nào tin được chuyện này,” bác Hagrid khàn khàn nói, vừa lắc lắc cái đầu tóc râu ria bờm xờm to tướng khi bác ngó xuống Ron. “Hổng thể nào tin được… Coi thằng bé nằm kìa… ai lại muốn hại nó hả?” “Tụi con đang bàn bạc về chuyện đó,” Harry nói. “Tụi con không biết.” “Ai đó có hận thù gìđó với đội Quidditch nhà Gryffindor, có thể nào không há?” Bác Hagrid lo lắng nói. “Ban đầu là Katie, bây giờ là Ron…” “Cháu không hiểu nổi ai mà lại đi khử một đội Quidditch cơ chứ,” George nói. “Ai chứ Wood thìcó thể khử đội Slytherin, nếu nó chạy được tội đó,” Fred nói ra vẻ công bằng. “Em không nghĩđó là chuyện Quidditch, nhưng em nghĩhai vụ tấn công có liên quan với nhau,” Hermione khẽ nói. “Em lý giải điều đó ra sao?” Fred hỏi. “À, lý do thứ nhất, cả hai cuộc tấn công đều có thể gây chết chóc nhưng mà không ai chết, mặc dù chỉ hoàn toàn nhờ may mắn. Và lý do thứ hai, cả Độc dược lẫn xâu chuỗi đều không tới được người bị nhắm giết.” Rồi cô bé nói thêm với vẻ nghiền ngẫm, “Dĩnhiên, điều đó khiến cho kẻ đứng đằng sau chuyện này càng trở nên nguy hiểm hơn, bởi vìkẻ đó dường như chẳng bận tâm đến chuyện hắn sẽ giết chết bao nhiêu người trước khi hắn thực sự đạt được tới đúng nạn nhân.” Chưa ai kịp đáp lại tuyên bố đáng sợ này thìcánh cửa phòng bệnh lại mở ra và ông bà Weasley tất tả đi vào. Họ chẳng làm được gìhơn là tự thuyết phục mình rằng Ron sẽ bình phục hoàn toàn trong lần thăm bệnh cuối cùng của họ; bà Weasley lúc này ôm chầm lấy Harry và siết nó thật chặt. “Cụ Dumbledore nói với hai bác là con đã cứu Ron bằng viên sỏi dê,” bà sụt sịt khóc. “Ôi, Harry ơi, hai bác biết nói gìđây? Con đã cứu Ginny... con đã cứu bác Arthur... giờ đây con cứu thằng Ron.” “Xin bác đừng... con đâu có...” Harry lúng túng nói khẽ. “Bây giờ bác dừng lại ngẫm nghĩthìthấy dường như một nửa gia đình bác đã nợ ơn cứu mạng của con,” ông Weasley nói bằng giọng cố kìm nén. “Thôi thì, Harry à, tất cả những gìbác có thể nói là cái hôm mà Ron quyết định ngồi chung toa với con trên tàu Tốc hành Hogwarts thiệt là một ngày may mắn cho nó.” Harry không thể nghĩra lời nào để đáp lại điều này và gần như vui mừng khi bà Pomfrey nhắc nhở mọi người là chỉ có sáu khách thăm bệnh được phép vây quanh giường Ron thôi; nó và Hermione đứng dậy ngay để đi ra và bác Hagrid quyết định đi theo tụi nó, để Ron ở lại cùng gia đình. “Thiệt là khủng khiếp,” bác Hagrid làu bàu trong mớ râu khi ba người bwocs dọc hành lang đến cầu thang đá hoa cương. “Bất chấp tất cả biện pháp an ninh, bọn trẻ vẫn bị ahij... cụ Dumbledore lo phát bệnh... Cụ không nói nhiều, nhưng bác thấy được...” “Cụ Dumbledore có ý kiến gìkhông, bác Hagrid?” Hermione mạo muội hỏi.
  • 94. “Bác chắc cụ phải có hàng trăm ý nghĩ, đầu óc cụ siêu như vậy,” bác Hagrid nói. “Nhưng cụ vẫn không biết ai đã gởi xâu chuỗi hay ai đã bỏ thuốc độc vô chai rượu, chứ không thìchúng đã bị bắt rồi, đúng hông? Điều làm cho bác lo lắng,” Bác Hagrid nói, vừa nhỏ giọng lại vừa liếc mắt nhìn quanh. (Harry, để chắc chắn yên tâm, kiểm tra cả trần nhà coi có con ma Peeves không), “là trowngf Hogwarts còn có thể hoạt động được bao lâu nữa nếu học sinh cứ bị tấn công. Lại lặp lại vụ Phòng chứa bímật nữa sao? Sẽ có hoảng loạn, nhiều phụ huynh sẽ đem con ra khỏi trường và việc tiếp theo sẽ là Hội đồng Quản trị...” Bác Hagrid ngừng nói khi bóng ma của một phụ nữ tóc dài lừng lững trôi ngang qua, rồi bác nói tiếp bằng giọng thìthầm khó nghe, “...Hội đồng quản trị sẽ nói tới chuyện đóng cửa trường vĩnh viễn.” “Bác có chắc không?” Hermione nói, có vẻ lo lắng. “Phải nhìn vấn đề từ quan điểm của họ,” bác Hagrid nói một cách nặng nề. “Ýlà, xưa nay cho con cái đi học ở trường Hogwarts cũng là có chút mạo hiểm, đúng hông? Cả trăm phù thủy vị thành niên bị nhốt chung với nhau, thế nào cũng có xảy ra tai nạn, đúng hông? Nhưng chuyện ám sát có chủ mưu là chuyện khác. Cho nên cũng không lạ gìcụ Dumbledore nổi giân với thầy Sna...” Bác Hagrid ngừng ngang giữa chừng, có thể thấy vẻ áy náy quen thuộc trên gương mặt đầy râu đen rối mù của bác. “Sao?” Harry nói nhanh. “Cụ Dumbledore nổi giận với Thầy Snape à?” “Bác đâu có nói vậy,” bác Hagrid nói, nhưng không có gìtố cáo bác trắng trợn hơn vẻ hoảng hốt của bác. “Coi mấy giờ rồi. Cũng sắp tới nửa đêm rồi, bác phải đi...” “Bác Hagrid ơi, tại sao cụ Dumbledore nổi giận với Thầy Snape?” Harry hỏi to. “Suỵt!” bác Hagrid nói, tỏ vẻ vừa giận vừa lo. “Đừng có hét om sòm những chuyện như vậy chứ, Harry, con muốn cho bác mất việc hả? Quên, con hơi đâu mà bận tâm chuyện đó, bây giờ con đâu có còn học lớp Chăm sóc sinh vật huyền...” “Bác đừng cố làm cho con áy náy, chẳng ăn thua gìđâu!” Harry nói mạnh mẽ. “Thầy Snape đã làm gìhở bác?” “Bác không biết, Harry à, lẽ ra bác không nên nghe gìhết! Bác... chà, bác đang đi ra khỏi khu rừng đêm hôm kia thìtình cờ nghe họ nói với nhau... ờ, cãi nhau. Không muốn họ chú ý đến mình nên bác xũng có tránh đi và không muốn lắng nghe, nhưng mà... Họ cãi nhau nảy lửa nên cũng không dễ gìbịt tai lại.” “Sao hả bác?” Harry năn nỉ, trong khi bác Hagrid nhấp nhổm trên đôi chân khổng lồ một cách khó chịu. “Thì... bác chỉ nghe Thầy Snape nói cụ Dumbledore hơi xem nhẹ mọi việc quá và có lẽ thầy ấy – Thầy Snape – không muốn làm việc đó nữa...” “Làm việc gì?” “Bác không biết, Harry à, nghe có vẻ như thầy ấy cảm thấy công việc hơi quá sức, vậy thôi... đằng nào đi nữa thìcụ Dumbledore đã nói thẳng thừng với thầy ấy là thầy ấy đã đồng ý làm việc đó và chỉ vậy thôi. Cụ hơi cứng rắn với thầy ấy. Và rồi cụ nói gìđó về chuyện Thầy Snape lục soát Nhà Slytherin của thầy ấy. Thìcũng không có gìlạ về chuyện đó!” bác Hagrid vội vã nói thêm trong khi Harry và Hermione nhìn nhau đầy ngụ ý. “Tất cả chủ nhiệm Nhà đều phải điều tra vụ xâu chuỗi đó mà...” “Dạ, nhưng thầy Dumbledore đâu có gây gỗ với các chủ nhiệm nhà kia?” Harry nói. “Coi đây nè,” bác Hagrid vặn vẹo cây ná trong tay một cách bực bội; Một tiếng tróc vang lên khá to và cây ná gãy làm đôi. “Bác biết con nghĩthế nào về Thầy Snape, Harry à và bác không muốn con dấn sâu vô chuyện này nữa.” “Coi chừng,” Hermione nói nhanh. Cả ba quay lại vừa đúng lúc để tháy cái bóng của thầyArgus Filch hiện lù lù trên bức tường sau lưng ba bác cháu trước khi chính bản thân thầy giám thị quẹo qua góc tường, lưng gù, cằm run lẩy bẩy. “À há!” thầy Filch khò khè nói. “Thức khuya như vầy nghĩa là sẽ bị cấm túc đấy!” “Không đâu thầy Filch à,” bác Hagrid nói gọn. “Các trò này đi cùng tôi mà.” “Thìchuyện đó có gìkhác nhau đâu?” thầy Filch khinh bỉ hỏi lại. “Tôi là một thầy giáo có thớ, đúng không hả đồ á phù thủy dấm dúi?” Bác Hagrid phản pháo lại ngay tức thì. Trong khi thầy Filch phồng lên giận dữ thìcó một tiếng rít lên khó chịu; Bà Norris đã đến mà không ai nhìn thấy và đang ưỡn ẹo quấn mình quanh mắt cá chân khẳng khiu của thầy Filch. “Đi đi,” bác Hagrid kín đáo nói qua khóe miệng. Harry không cần đợi bảo đến lần thứ hai; có nó và Hermione đều lật đật bỏ đi; giọng nói của bác Hagrid lẫn giọng của thầy Filch đều được cất cao lên và vang dội sau lưng khi tụi nó bỏ chạy. Hai đứa vwotj qua con ma Peeves gần chỗ quẹo vô Tháp Gryffindor, nhưng con ma này đang híhửng xẹt về phía phát ra những tiếng quát tháo, vừa khục khặc cười vừa kêu lên: Khi nào có oánh nhau và khi nào có lộn xộn Thìkêu Peevsie tới, nó sẽ làm mọi chuyện rối gấp đôi! Bà Béo đang ngủ gục và chẳng vui gìkhi bị đánh thức, nhưng bà cũng quăng mình ra một cách quạu quọ để cho hai đứa nó trèo vô căn phòng sinh hoạt chung vắng vẻ yên tĩnh một cách hiền lành bác ái. Không có vẻ gìlà thiên hạ đã biết chuyện của Ron; Harry thấy nhẹ nhõm: hôm nay nó đã bị hạch hỏi đủ rồi. Hermione chúc nó ngủ ngon rồi đi về phòng ngủ nữ sinh, tuy nhiên Harry vẫn nán lại, ngồi bên cạnh lò sưởi và nhìn đăm đăm vào đống than hồng đang tàn lụi. Vậy là cụ Dumbledore đã cãi nhau với Thầy Snape. Mặc cho tất cả những gìcụ đã nói với Harry, mặc cho cụ một mực khẳng định rằng cụ tin tworng hoàn toàn Thầy Snape, cụ vẫn mất bình tĩnh với Thầy Snape... Cụ đã không tin là Thầy Snape đã cố gắng đúng mức để điều tra học sinh nhà Slytherin à?... Hay có lẽ, điều tra một đứa Slytherin duy nhất: Malfoy? Có phải vìcụ Dumbledore không muốn Harry làm chuyện ngu ngốc, tự ý hành động, mà cụ đã giả đò như sự nghi ngờ của Harry là vô căn cứ? Có thể như vậy lắm. Cũng có thể cụ Dumbledore không muốn bất cứ điều gìphân tán tâm tríHarry ngoài chuyện học hành, hay chuyện lấy cho kỳ được ký ức của Thầy Slughorn. Có lẽ cụ Dumbledore không coi chuyện tâm tình với một học sinh mười sáu tuổi về giáo viên trong trường là chuyện đứng đắn... “Potter, cậu đây rồi!” Harry giật mình đứng bật dậy, tay lăm lăm cây đũa phép. Nó đã đinh ninh phòng sinh hoạt chung hoàn toàn vắng vẻ, nó chẳng hề chuẩn bị khi một hình thù to lớn thô kệch đột nhiên nhô lên khỏi một cái ghế bành ở đằng xa. Nhìn kỹ lại thìra đó là Cormac McLaggen. “Tôi đợi cậu về từ nãy giờ,” McLaggen nói, coi thường cây đũa phép đang chĩa ra của Harry. “Chắc là tôi đã ngủ thiếp đi. Thế này, tôi thấy họ khiêng Ron vô bệnh thất hồi sáng. Nó coi bộ sẽ không đấu ddwwocj cho trận đấu tuần tới.” Harry mất một lát mới hiểu ra McLaggen đang nói về cái gì. “Ờ... phải... Quidditch,” nó nói, nhét cây đũa phép trở vô thắt lưng của cái quần bò và mệt mỏi lùa bàn tay qua mớ tóc của nó. “Ừ... có thể nó không tham dự được.” “A, vậy thì, tôi sẽ chơi ở vị tríthủ môn chứ?” McLaggen nói. “Ừ,” Harry nói. “Ừ, tôi nghĩvậy...” Nó không thể nghĩra lý lẽ tranh cãi lại chuyện đó; nói cho cùng, McLaggen đã đứng hạng thứ hai trong cuộc dợt tuyển cầu thủ. “Tuyệt vời,” McLaggen nói giọng thỏa mãn. “Vậy khi nào thìtập dợt?” “Cái gì? À... tối mai có một buổi tập.” “Tối. Nghe đây, Potter, chúng ta nên bàn chuyện này trước. Tôi có vài ý kiến về chiến lược mà cậu có thể tháy là xài được.” “Được,” Harry nói không được hăng hái lắm. “Thôi, ngày mai tôi sẽ nghe. Bây giờ tôi hơi mệt... hẹn gặp lại nhé...”
  • 95. Cái tin Ron bị ngộ độc lan truyền nhanh chóng vào ngày hôm sau, nhưng không gây chấn động như vụ tấn công Katie. Người ta dường như nghĩrằng có thể đó chỉ là một tai nạn, xét bối cảnh lúc đó nó đang ở trong phòng của ông thầy về Độc dược, rồi việc nó được cho thuốc giải độc ngay tức thì, lại cũng không có thương tổn thật sự nào cả. Thật ra, học sinh nhà Gry nói chung quan tâm đến trận Quidditch sắp tới hơn, đội nhà sẽ đấu với đội Hufflepuff, bởi vìnhiều đứa muốn được thấy Zacharias Smith, truy thủ của đội Hufflepuff, bị trừng phạt đích đáng về những lời bình luận của hắn trong suốt trận khai mạc giữa đội Gryffindor và đội Slytherin. Tuy nhiên, Harry chưa bao giờ quan tâm đến Quidditch ít như vậy; nó đã nhanh chóng bị chuyện Draco Malfoy ám ảnh. Vẫn tiếp tục kiểm tra tấm Bản đồ đạo tặc mỗi khi có dịp, đôi khi nó đi một vòng đến những nơi mà Malfoy ngẫu nhiên xuất hiện, nhưng vẫn khoogn dò ra được thằng này làm điều gìbất thường. Và vẫn còn đó những lần Malfoy chỉ đơn giản biến mất khỏi tấm bản đồ một cách không thể giải thích được... Nhưng Harry không có nhiều thìgiờ để nghiền ngẫm vấn đề, làm sao mà nghiền ngẫm ddwwocj với nào là luyện tập Quidditch, nào là bài tập ở nhà và lại thêm một điều nữa là bây giờ bất kể nó đi đâu cũng bị Cormac McLaggen và Lavender Brown đón đầu. Nó không thể nói được ai trong hai người đó gây nhiều phiền toái hơn. McLaggen cứ để tuôn trào một dòng chảy triền miên những ngụ ý rằng nó sẽ là một thủ môn cố định cho đội giỏi hơn Ron và một khi Harry đã nhìn thấy nó chơi thường xuyên thìHarry chắc chắn cũng sẽ nghĩnhư vậy thôi; Nó cũng phê bình rất gay gắt những cầu thủ khác và cung cấp cho Harry những kế hoạch huấn luyện chi tiết, đến nỗi Harry đã hơn một lần buộc phải nhắc nó nhớ ai là đội trưởng. Cùng lúc đó, Lavender cứ lẽo đẽo đi theo Harry để nói chuyện về Ron, chuyện này Harry thấy còn ngán hơn cả những bài diễn văn Quidditch của McLaggen. Ban đầu, Lavender rất ư là bực dọc rằng chẳng ai nghĩđến chuyện nói cho cô nàng biết rnawgf Ron đang nằm bệnh thất - “Ýlà, mình là bạn gái của anh ấy mà!” – Nhưng không may là giờ đây cô nàng đã tha thứ cho Harry về sự đãng tríđó và tha thiết muốn có nhiều buổi trò chuyện chu đáo cới Harry về tình cảm của Ron – một kinh nghiệm khốn khổ nhất mà Harry sẽ xin chừa ra một cách vui vẻ. Sau khi trải qua một cuộc chất vấn gạn hỏi nhìnhằng của Lavender bao gồm từ chuyện Ron nói gì, một cách chính xác, về những cái áo đầm mới của cô nàng, đến chuyện liệu Harry có nghĩlà Ron coi mối quan hệ với Lavender là “nghiêm túc” không, Harry hỏi: “Này nhé, tại sao bạn không nói với Ron về tất cả những chuyện này?” “À, mình sẽ nói, nhưng mình đến thăm lúc nào cũng thấy anh ấy ngủ!” Lavender bực bội nói. “Vậy hả?” Harry nói, ngạc nhiên vìnó nhận thấy Ron đã hoàn toàn tỉnh táo mỗi khi nó đến bệnh thất thăm bạn, cả hai đã hết sức quan tâm đến cái tin cụ Dumbledore và Thầy Snape cãi nhau và hăm hở chìchiết McLaggen đến mức tối đa. “Hermione Granger có còn đến thăm anh ấy không?” Lavender chợt gặng hỏi. “Còn, mình nghĩvậy. Thì, họ là bạn bè của nhau mà, đúng không?” Harry nói không được thoải mái lắm. “Bạn bè à, đừng chọc cho mình cười đấy,” Lavender đay nghiến nói. “Sau khi Ron bắt đầu hẹn hò với mình, Hermione không thèm nói chuyện với anh ấy mấy tuần lễ liền! Nhưng bây giờ anh ấy đang gây chú ý thìcô nàng lại muốn làm lành...” “bạn coi chuyện bị ngộ độc là gây chú ý à?” Harry hỏi. “À... xin lỗi, mình phải đi... kìa McLaggen đang tới để nói về chuyện Quidditch,” Harry hấp tấp nói và xẹt ngang vô một cánh cửa giả đò như một bức tường chắc chắn và phóng xuống lối đi tắt dẫn nó đến lớp Độc dược, nơi mà, may phước, cả Lavender lẫn McLaggen không thể rượt theo nó. Vào buổi sáng diễn ra trận Quidditch với đội Hufflepuff, Harry ghé qua bệnh thất trước khi đi xuống sân đấu. Ron bồn chồn khích động; Bà Pomfrey không cho nó xuống sân vận động xem trận đấu, vìbà cảm thấy trận đấu quá ư khích động đối với nó. “Vậy McLaggen làm ăn ra sao?” Nó lo lắng hỏi Harry, hiển nhiên quên béng là nó đã hỏi câu đó hai lần rồi. “Mình đã nói với bồ rồi,” Harry nói một cách kiên nhẫn, “hắn có thể xếp vào đẳng cấp thế giới và mình cahwnrg muốn giữ hắn trong đội chút nào. Hắn cứ cố dạy bảo mọi người phải làm gì, hắn nghĩhắn có thể chơi ở bất cứ vị trínào hay hơn hết thảy những người còn lại tỏng đội. Mình chỉ mong đá hắn đi cho rồi. Và nhân nói chuyện đá đi cho rồi,” Harry nói thêm khi đứng dậy cầm cây chổi Tia chớp của nó, “bồ làm ơn đừng giả đò ngủ khi Lavender đến thăm bồ, được không? Cô ta cũng làm mình phát điên luôn.” “Ờ,” Ron nói, có vẻ ngượng ngùng. “Được thôi.” “Nếu bồ không muốn hẹn hò với cô nàng nữa thìbồ cứ nói cho cô nàng biết,” Harry nói. “Ừ... được... mà đâu có dễ như vậy hả?” Ron nói. Nó ngừng một chút. “Hermione có ghé qua đây trước trận đấu không?” Nó nói thêm một cáh không tự nhiên. “Không, cô nàng đi xuống sân đấu với Ginny rồi.” “Ờ,” Ron nói, có vẻ hơi buồn. “Thôi được. Chúc may mắn. Hy vọng bồ đánh bại McLag… ủa, Smith chứ.” “Mình sẽ cố gắng,” Harry nói, vác cây chổi lên vai. “Gặp lại bồ sau trận đấu nhé.” Nó vội vàng đi xuyên qua những hành lang vắng vẻ; cả trường đều đã ra ngoài, hoặ là đã ngồi trên khán đài ở sân vận động, hoặc là đang đi tới đó. Nó đang ngó ra những cửa sổ mà nó đi ngang qua, cố gắng ước chừng sức gió mà tụi nó sẽ phải đương đầu khi bay, thìmột tiếng động phía trước khiến nó liếc nhìn lên và thấy Malfoy đang đi về phía nó, cặp kè với hai đứa con gái, cả hai đều có vẻ rầu rĩvà tức tối. Malfoy hơi bị chựng lại khi thấy Harry, rồi cười một tiếng cụt ngủn chẳng chút khôi hài, xong lại tiếp tục bước đi. “Mày đang đi đâu đó?” Harry gặng hỏi. “Ừ, tao thiệt tình định nói cho mày biết, bởi vìđây là chuyện cảu mày mà, Potter,” Malfoy khinh khỉnh nói. “Mày liệu hồn nhanh chân lên, họ đang đợi “Đội trưởng được chọn”… “Thằng bé ghi bàn”… hay mỹ danh gìđó mà họ gán cho mày những ngày này.” Một trong hai đứa con gái cười đầy miễn cưỡng. Harry nhìn chằm chằm cô bé. Cô ta đỏ bừng lên. Malfoy đẩy Harry tránh qua một bên để đi qua và cô bé cùng cô bạn cũng đi theo Malfoy bén gót, cả ba biến mất khi quẹo qua một góc tường. Harry đứng như mọc rễ tại chỗ và nhìn ba đứa kia mất tăm. Thiệt là điên tiết lên ddwwocj; nó đã canh me chính xác để ra sân đấu đúng giờ, vậy mà giờ lại gặp Malfoy đang lén lút ở đây trong khi cả trường không có mặt: đây là cơ hội tốt nhất để Harry khám phá coi Malfoy đang âm mưu trò gì. Những giây im lặng trôi qua và Harry vẫn còn đứng tại chỗ, đông cứng, đăm đăm nhìn về nơi mà Malfoy vừa mất hút… “Nãy giờ anh ở đâu?” Ginny gặng hỏi khi Harry phóng vào phòng thay đồ. Toàn đội đã thay đồ xong và đã sẵn sàng; Coote và Peakes, những Tấn thủ đều đang đập cây gậy cảu họ vô chân một cách sốt ruột. “Anh gặp Malfoy,” Harry khẽ nói với cô bé trong khi cởi tấm áo chùng đỏ tía của nó ra. “Thế là anhmuoons biết nó làm gìtrong tòa lâu đài với hai cô bạn gái trong khi mọi người khác đều đang ở dưới đây…” “Chuyện đó quan trọng lắm vào lúc này à?” “À, chẳng qua anh muốn tìm hiểu thôi.” Harry vừa nói vừa nắm lấy cây Tia chớp của nó và sửa cho cặp kiếng ngay lại. “Thôi, đi nào!” Và không nói thêm một lời, nó đi vào sân đấu giữa tiếng hoan hô và la ó rân trời. Có một chút xíu gió; mây từng mảng bàng bạc; thỉnh thaongr đó đây lại hửng lên ánh nắng rực rỡ. “Điều kiện thi đấu phức tạp!” McLaggen dõng dạc nói với cả đội “Coote, Peakes, hai bạn cần bay tránh hướng mặt trời, để bọn kia không thấy hai bạn bay đến…” “Tôi là đội trưởng, McLaggen à, làm ơn đừng dạy bảo các bạn ấy nữa,” Harry tức giận nói. “Bạn chỉ cần trổ tài điều khiển bên các cột gôn là đủ!” Khi McLaggen đã bỏ đi rồi, Harry quay lại Coote và Peakes. “Các bạn phải chắc chắn bay tránh mặt trời nhé,” nó nói một cách bất đắc dĩ. Nó bắt tay đội trưởng nhà Hufflepuff và khi tiếng còi của bà Hooch vang lên, nó đạp mạnh xuống đất một cái và bay lên không trung, cao hơn tất cả những người khác trong đội, lượn quanh sân đấu để tìm trái banh Snitch. Nếu nó có thể bắt được trái banh sớm thìcó thể còn cơ hội để nó trở lại tòa lâu đài, vớ
  • 96. lấy tấm Bản đồ đạo tặc và tìm xem Malfoy đang làm gì… “Và Smith của nhà Hufflepuff đang có trái Quaffle,” một giọng nói mơ màng vang lên, vọng qua sân trường. “Anh ta là bình luận viên trong trận đấu trước, và dĩnhiên, Ginny Weasley đã bay tông vào anh chàng, tôi nghĩcó lẽ cố ý, thấy giống như vậy lắm. Smith đã hơi bất lịch sự với đội Gryffindor, tôi tin là anh ta hối tiếc là bây giờ lại phải đấu với họ… Ôi, nhìn kìa, anh ta mất trái Quaffle rồi, Ginny đã cướp được của anh ta, tôi thích Ginny lắm, chị rất tử tế…” Harry ngó chăm chăm xuống đài bình luận viên. Chắc chắn là không ai có đầu óc bình thường lại để Luna Lovegood bình luận. Nhưng cho dù nhìn từ trên cao, nó vẫn không thể nhầm lẫn mái tóc vàng óng dài và dơ, với xâu chuỗi làm bằng nút chai bia bơ… Bênh cạnh Luna, giáo sư McGonagall có vẻ hơi khó chịu một chút, như thể bà quả thực đã nghĩlại về sự bổ nhiệm của mình. “…nhưng giờ đây gã cầu thủ kếch xù của nhà Hufflepuff ấy đã lấy lại được trái banh Quaffle của chị, tôi không làm sao nhớ được tên anh ta, cái gìnghe như Bibble… không, Buggins…” “Đó là Cadwallader!” Giáo sư McGonagall bên cạnh Luna nói to. Đám đông rộ lên cười. Harry chăm chú nhìn quanh tìm trái banh Snitch; Chắng thấy dáu hiệu nào của nó cả. Một lát sau Cadwallader ghi bàn. McLaggen lúc đó đang hò hét phê bình Ginny đã để mất trái Quaffle, hậu quả là anh chàng không để ý thấy trái banh đỏ bự tổ chảng bay vèo ngang qua mang tai phải của mình. “McLaggen, bạn làm ơn để ý đến công việc của bạn và để những người khác yên!” Harry rống lên, vừa xoay lại để đối diện thủ môn của nó. “Mày có làm gương đâu!” McLaggen quát lại, mặt đỏ ngầu và giận điên lên. “Và Harry Potter lúc này đang cãi nhau với Thủ môn của mình,” Luna bình thản nói, trong khi đám Hufflepuff và Slytherin bên dưới trong đám đông hè nhau reo hò và chế giễu. “Tôi không tin chuyện đó sẽ giúp anh tìm được trái banh Snitch, nhưng có thể đó là một mánh lới khôn ngoan…” Tức giận văng tục, Harry xoay một vòng và bay đi lượn vòng quanh sân đấu một lần nữa, rà khắp chốn tìm dấu hiệu cảu trái banh vàng tíhon. Ginny và Demelze mỗi người đã ghi được một bàn, khiến cho những người cổ động áo đỏ tía và vàng kim có dịp reo hò. Sau đó Cadwallader lại ghi bàn nữa, san bằng tỉ số, nhưng Luna dường như không để ý; cô nàng tỏ ra không hứng thú lắm những chuyện tầm thường như ghi bàn thắng và tiếp tục cố gắng hướng sự chú ý của đám đông vào những chuyện hay ho như hình dạng những đám mây trời và khả năng Zacharias Smith, người cho tới giờ phút này chưa giữ được trái Quaffle nào lâu quá một phút, sẽ phải chịu đựng một thứ có tên gọi là “Dị ứng bại sĩ.” “Bảy mươi bốn điểm cho đội Hufflepuff!” Giáo sư McGonagall quát vào miệng loa của Luna. “Ủa, vậy à?” Luna mơ màng nói. “Ôi, nhìn kìa! Thủ môn đội Gryffindor chụp được cây gậy của một trong những tấn thủ.” Harry xoay tròn giữa không trung. Quả đúng, McLaggen, vìlý do chỉ có anh ta mới biết, đã giựt cây gậy của Peakes và có vẻ đang biểu diễn minh họa cách đánh một trái Bludger về phía anh chàng Cadwallader đang bay tới. “Anh làm ơn trả cây gậy lại cho bạn ấy và trở lại vị tríthủ môn!” Harry gầm lên, vừa nhào về phía McLaggen đúng lúc McLaggen quật một cú tàn khốc vào trái Bludger và đánh hụt trái banh. Một cơn đau lòa mắt lộn ruột... một tia chớp nhá sáng... những tiếng gào rú xa xăm... và cảm giác rơi xuống một đường hầm dài thăm thẳm... Chuyện kế đến mà Harry biết là nó đang nằm trong một cái giường hết sức êm ấm thoải mái và đang nhìn lên ngọn đèn đang tỏa một vòng ánh sáng vàng óng lên cái trần tôi tối. Nó ngoc đầu lên một cách khó khăn. Nằm bên trái nó là một anh chàng tóc đỏ hoe, mặt lấm tấm tàn nhang, trông quen quen. “Bồ ghé vô thiệt là hay,” Ron nhe răng cười, nói. Harry chớp mắt nhìn quanh. Dĩnhiên rồi: nó đang nằm trong bệnh thất. Bầu trời bên ngoài nhuộm màu chàm còn vương mấy vệt đỏ thắm. Trận đấu hẳn là đã kết thúc cách đây nhiều tiếng đồng hồ... không biết còn chút hy vọng nào về vụ Malfoy không. Harry cảm thấy đầu nó nặng một cách kỳ lạ; nó giơ tay lên và cảm thấy một lớp băng quấn cứng ngắc. “Chuyện gìđã xảy ra?” “Nứt sọ,” bà Pomfrey nói, lật đật chạy ra và đẩy nó nằm trở xuống gối. “Không có gìđáng lo, tôi đã vá nó lại ngay tức thì, nhưng tôi phải giữ trò lại bệnh thất đêm nay. Trò không nên cố gắng quá sức trong vòng vài tiếng đồng hồ.” “Con không muốn ở lại đây suốt đêm,” Harry tức tối nói, vừa ngồi bật dậy và quăng chăn mền ra. “Con muốn tìm McLaggen và giết nó.” “Tôi e rằng như thế sẽ rơi vào khoản “cố gắng quá sức”,” bà Pomfrey nói, vừa kiên quyết đẩy nó nằm trở xuống giường và giơ cây đũa phép của bà lên đe dọa. “Trò sẽ ở lại đây cho đến khi nào tôi cho trò xuất viện, Potter à, nếu không, tôi sẽ báo cho thầy Hieuj trưởng biết.” Bà lại tất tả quay trở lại văn phòng của mình và Harry nằm vật xuống gối, giận xìkhói. “Bồ có biết mình thua với tỉ số bao nhiêu không?” Nó hỏi Ron qua kẽ răng nghiến chặt. “À, có, mình có biết,” Ron nói với giọng chân thành cáo lỗi. “Tỉ số chung cuộc là ba trăm hai mwoi và sáu mươi.” “Xuất sắc,” Harry nói một cách hung tợn. “Thiệt là xuất sắc! Mình mà túm được McLaggen…” “Bồ không muốn túm nó đâu, nó đã sưng phù lên bằng quỉ khổng lồ rồi,” Ron nói vẻ phải chăng. “Riêng mình, mình nghĩcó nhiều điều đáng nói về chuyện ếm xìbùa hắn bằng cái móng chân gìđó trong cuốn sách của Hoàng tử. Dù sao thìnhững người khác trong đội có lẽ đã thanh toán sòng phẳng với hắn trước khi bồ ra được khỏi đây, tụi nó cũng đâu có vui mừng gì…” Trong giọng nói của Ron có một niềm hân hoan được đè nén hơi tồi ; Harry có thể nói Ron cũng khoái chírằng McLaggen đã làm nên cớ sự tòe loe toét loét như vậy. Harry nằm đó, đăm đăm nhìn lên mảng ánh sáng trên trần, cái sọ vừa mới được vá lại của nó không đau đớn một cách cụ thể, mà chỉ có cảm giác hơi mỏng mảnh bên dưới tất cả những lớp băng. “Nằm đây mình có thể nghe được bình luận,” Ron nói, giọng nó bây giờ run run vìcười. “Mình hy vọng từ giờ trở đi Luna sẽ bình luận mọi trận đấu… Dị ứng bại sĩ…” Nhưng Harry vẫn còn giận đến nỗi chẳng thấy chút gìhài hước trong tình cảnh ấy và một lát sau tiếng cười hô hố của Ron ngớt đi. “Ginny có đến thăm bồ trong lúc bất tỉnh,” Ron nói sau một hồi im lặng và trítưởng tượng của Harry vọt lên mức “cố gắng quá sức”, nhanh chóng tạo dựng cái cảnh tượng Ginny, vừa khóc nức nở trên thân hình không sự sống của nó, vừa thú nhận tình cảm mê đắm của cô bé đối với nó trong khi Ron chúc phúc cho cả hai… “Con nhỏ nói là bồ chỉ đến nơi vừa đúng giờ bắt đầu trận đấu. Sao vậy? Bồ ra khỏi đây lúc còn sớm mà.” “Ờ…” Harry nói, cái cảnh trong đầu nó tắt phụt. “Ừ… chẳng là, mình nhìn thấy Malfoy lén lút với hai đứa con gái coi bộ không muốn đi với nó chút nào và đó là lần thứ hai mà nó canh chắc không ra sân đấu Quidditch với cả trường ; Nó cũng đã không dự trận vừa rồi, nhớ không?” Harry thở dài. “Phải chi lúc đó mình đi theo dõi nó, trận đấu đúng là một thảm bại…” “Đừng có ngu,” Ron nói ngay. “Bồ không thể nào bỏ qua một trận đấu Quidditch chỉ để theo dõi Malfoy, bồ là Đội trưởng mà !” “Mình muốn biết nó đang âm mưu gì,” Harry nói. “Và đừng nói là mình chỉ tưởng tượng, nhất là sau khi mình nghe lóm được cuộc trò chuyện giữa nó với Thầy Snape…” “Mình không hề nói là bồ chỉ tưởng tượng,” Ron nói, vừa nhấc mình tựa trên cùi chỏ để quay sang nhìn Harry và nhăn mặt lại, “nhưng chẳng có luật lệ nào nói cùng một lúc, ở đây, chỉ cho phép một người được mưu tính chuyện gìđó ! Bồ hơi bị Malfoy ám ảnh rồi đó, Harry à. Ýmình nói là, nếu nghĩđến chuyện bỏ trận đấu chỉ để theo dõi nó…” “Mình muốn bắt quả tang nó!” Harry nói trong cơn thất vọng nản lòng. “Mình muốn nói là, nó đi đâu khi nó biến mất khỏi tấm bản đồ chứ?” “Ai mà biết… Hogwartssmeade chăng?” Ron ngáp dài đưa ra giả thuyết. “Mình không hề nhìn thấy nó đi dọc theo bất cứ hành lang bímật nào trên bản đồ. Với lại mình nghĩmấy hành lang đó giờ đây đều được canh gác mà ?” “Chà, vậy thì, mình không biết rồi,” Ron nói. Hai đứa lại im lặng. Harry đăm đăm nhìn lên vòng tròn ánh sáng đèn trên trần, nghĩngợi… Giá mà nó có được quyền lực của ông Rufus Scrimgeour, nó sẽ cử người theo đuôi Malfoy, nhưng rủi thay Harry đâu có một văn phòng đầy những Thần
  • 97. sáng đặt dưới sự chỉ huy của nó… Nó nghĩngay đến việc lập ra cái gìđó giống như ĐQD, nhưng lại nảy sinh vấn đề là tụi nó sẽ bị mất buổi học ; Phần lớn tụi nó, nói cho cùng, đều có một thời khóa biểu đầy kín… Từ bên giường Ron vọng sang tiếng ngáy khò khò. Một lát sau bà Pomfrey ra khỏi văn phòng, lần này bà mặc một cái áo ngủ dày. Giả vờ ngủ là chuyện dễ nhất đời ; Harry lăn qua nằm nghiêng và lắng tai nghe tất cả màn cửa sổ đang tự khép lại khi bà Pomfrey vẫy cây đũa phép. Đèn mờ đi và bà quay trở vô văn phòng ; nó nghe tiếng cửa đóng lại một cái kịch sau lưng bà và biết là bà đã lên giường ngủ. Nằm trong bóng tối Harry nhớ lại, đây là lần thứ ba nó bị đem đến bệnh thất vìthương tích khi chơi Quidditch. Lần vừa rồi nó ngã khỏi cây chổi bay vìsự có mặt cảu những giám ngục chung quanh sân đấu và lần trước đó nữa thìtất cả xương xẩu của cánh tay nó đã bị ngài giáo sư LockHarryt bất tài khoác lác tháo rời ra… tính cho tới nay thìđó là lần bị thương đau đớn nhất… nó nhớ nỗi thống khổ khi phải mọc lại cả nắm xương nội trong một đêm và nỗi lo lắng cũng chẳng dịu đi được khi có sự xuất hiện của một vị khách bất ngờ vào lúc nửa… Harry ngồi bật dậy, tim nó dộng bình bình, lớp băng quấn đầu của nó bị lệch đi. Cuối cùng nó cũng có được giải pháp : có một cách để theo dõi Malfoy… Làm sao mà nó lại có thể quên được, tại sao nó không nghĩđến chuyện đó từ trước nhỉ? Nhưng vấn đề là làm sao gọi được hắn ? Hồi trước làm cách nào nhỉ ? Harry nói trong bóng tối, khe khẽ, ngập ngừng. “Kreacher ?” Một tiếng nổ rất to vang lên và tiếp đến là tiếng xô đẩy kêu la the thé vang đầy căn phòng yên tĩnh. Ron thức giấc, kêu ư ử. “Cái gì…?” Harry vội vã chĩa cây đũa phép về phía cửa văn phòng bà Pomfrey và lầm rầm, “Bít kín !” để bà không thể nào xộc ra. Rồi nó lồm cồm ngoi đến cuối giường để nhìn cho rõ hơn chuyện đang diễn ra. Hai con gia tinh đang lăn tròn ngay giữa sàn bệnh thất, một con mặc một cái áo thun màu hạt dẻ nhăn nhúm và đội vô số nón len, con kia thìmặc một miếng giẻ rách cũ xìdơ hầy vắt vẻo ngang hông như một cái khố. Bỗng nhiên lại nổ ra một tiếng to nữa và con ma Peeves xuất hiện giữa không trung bên trên hai con gia tinh đang vật lộn. “Ta đang quan sát trò đấy, Bô xí!” Nó nói với Harry một cách phẫn nộ, vừa chỉ vào hai kẻ đang đánh nhau, rồi rú lên cười khùng khục. “Hãy nhìn mấy sinh vật nhầy nhụa này cự cãi nhau ầm ĩ, cắn nhau cạp nhau, cấu véo nhau…” “Kreacher không được xúc phạm Harry Potter trước mặt Dobby, không, chớ bao giờ, nếu không Dobby sẽ khớp mõm Kreacher lại giùm cậu ấy !” Dobby la lên bằng giọng eo éo. “…đã vô, quào lại !” Peeves reo hò híhửng, lúc này nó đang trút vụn bánh xuống hai con gia tinh để khiến chúng nổi khùng thêm. “Véo mạnh, thúc sâu!” “Kreacher sẽ nói cái gìmình muốn nói về chủ nhân, ừ, đúng, chủ nhân gìthằng ấy chứ, bạn bè nhơ nhuốc với bọn Máu bùn, ôi, bà chủ tội nghiệp của Kreacher sẽ nói sao… ?” Harry không thể biết được chính xác bà chủ của Kreacher sẽ nói gì, bởi vìlúc đó Dobby đút nguyên nắm tay nhỏ khẳng khiu đầu mấu vô miệng Kreacher làm văng ra một nửa bộ răng của nó. Harry và Ron cũng nhảy ra khỏi giường và gỡ hai con gia tinh ra, mặc dù cả hai vẫn còn cố đá và véo lẫn nhau, có thêm Peeves đốc vô, con ma này bay vòng vòng quanh ngọn đèn ré lên, “Thọc ngón tay vô mũi nó, kéo chóp nó, nhéo tai nó…” Harry chĩa cây đũa phép vào Peeves và nói, “Khóa lưỡi !” Peeves chụp lấy cổ họng nó, ráng nuốt nuốt, rồi bay vụt ra khỏi phòng, vừa làm mấy động tác tục tĩu nhưng không thể nói được tiếng nào nữa, do cái lưỡi của nó đã bị dán dính vô vòm miệng. “Hay,” Ron nói vẻ khen ngợi, vừa nhấc Dobby lên không trung để chân tay cù néo của nó không quờ trúng Kreacher. “Có phải đó là một bùa khác trong cuốn sách của Hoàng tử không ?” “Ừ,” Harry nói, vừa bẻ quặt nửa chừng cánh tay quắt queo của Kreacher. “Được rồi… ta cấm bọn bay đánh nhau! À, Kreacher, ta cấm mi đánh nhau với Dobby. Dobby, tôi biết tôi không được phép ra lệnh cho bạn…” “Dobby là gia tinh tự do và nó có thể vâng lệnh bất cứ ai nó thích và Dobby sẽ làm bất cứ điều gìHarry Potter muốn nó làm !” Dobby nói, nước mắt chảy dài qua gương mặt nhỏ xíu nhăn nheo thấm vào cái áo thun. “Thôi được ,” Harry nói và nó với Ron thả hai con gia tinh ra, tụi nó cùng rớt xuống sàn nhưng không còn đánh nhau nữa. “Cậu chủ gọi tôi hả ?” Kreacher khào khào nói, nhún xuống cúi chào cho dù ánh mắt nó nhìn Harry rõ rnagf là chỉ cầu chúc cho Harry một cái chết đau thương. “Phải, ta gọi,” Harry nói, vừa liếc mắt về phía cánh cửa văn phòng bà Pomfrey để kiểm tra xem bùa Bịt kín còn hiệu nghiệm không; Chẳng có dấu hiệu gì chứng tỏ bà có nghe trận náo loạn vừa rồi. “Ta có công việc giao cho mi,” Harry nói. “Kreacher sẽ làm bất cứ điều gìchủ nhân muốn,” Kreacher nói, lại nhún xuống cúi chào thấp đến nỗi môi nó gần chạm vào những ngón chân xương xẩu, “bởi vìKreacher không có sự lựa chọn nào cả, nhưng Kreacher xấu hổ có một chủ nhân như vầy, đúng…” “Dobby sẽ làm công việc đó, thưa cậu Harry Potter !” Dobby ré lên, hai con mắt bự bằng trái banh quần vợt của nó ràn rụa nước mắt. “Dobby xin được vinh dự giúp đỡ Harry Potter!” “Để nghĩcoi, nếu cả hai cùng làm việc đó thìcũng tốt thôi,” Harry nói. “Vậy thìđược… ta muốn bọn mi theo dõi Draco Malfoy.” Phớt lờ vẻ mặt vừa ngạc nhiên vừa bực dọc của Ron, Harry tiếp tục nói, “Ta muốn biết hắn đi đâu, hắn gặp ai và hắn làm gì. Ta muốn bọn mi theo dõi hắn hai mươi bốn trên hai mươi bốn tiếng đồng hồ.” “Dạ thưa cậu Harry Potter !” Dobby nói ngay, hai con mắt bự chảng của nó sáng lên niềm phấn khích. “Và nếu Dobby làm sai, Dobby sẽ tự quăng mình ra khỏi tầng tháp cao nhất, thưa cậu Harry Potter !” “Không cần phải làm như vậy,” Harry vội vã nói. “Chủ nhân muốn tôi theo dõi cậu trẻ của dòng họ Malfoy à?” Kreacher khào khào hỏi. “ Chủ nhân muốn tôi do thám người chắt trai thuần huyết của nữ chủ nhân trước đây của tôi à?” “Chính là hắn,” Harry nói, thấy trước một mối nguy hiểm khủng khiếp và quyết định ngăn chặn ngay tức thì. “Và ta cám mi để lộ cho hắn biết, Kreacher à, hay cho hắn thấy việc mi đang làm, hay nói chuyện với hắn, hay viết thư cho hắn, hay... tiếp xúc với hắn bằng bất cứ cách nào, hiểu không?” Nó nghĩlà nó thấy được Kreacher đang cố gắng tìm một khe hở trong chỉ thị mà con gia tinh vừa nhận được và nó chờ đợi. Sau một lúc Harry hết sức hài lòng thấy Kreacher cúi xuống thật thấp và nói với nỗi oán hận cay đắng. “Chủ nhân đã nghĩhết mọi điều và Kreacher phải vâng lệnh chủ nhân mặc dù Kreacher thà làm nô lệ cho cậu trẻ Malfoy hơn, ôi, phải...” “Vậy là ổn rồi nhé,” Harry nói. “Ta cần được báo cáo thường xuyên, nhưng phải canh chắc khi không có ai ở quanh ta thìmới được đến báo cáo. Ron và Hermione có mặt cũng được. Và đừng nói với ai việc bọn mi đang làm. Chỉ cần bám lấy Malfoy như hai miếng cao dán mụn ấy.” Chương 20 Thỉnh cầu của chúa tể Voldermort Việc đầu tiên xảy ra vào sáng hôm sau là Harry và Ron rời khỏi bệnh thất, sức khỏe hoàn toàn bình phục nhờ sự chăm sóc của bà Pomfrey và giờ đây chúng có thể thưởng thức những ích lợi của việc bị đấm ngã chổng kềnh và bị đầu độc suýt chết, trong đó có cái lợi lớn nhất là giờ đây Hermione đã trở lại bạn bè với Ron như xưa. Hermione thậm chícòn cặp kè tụi nó xuống phòng ăn điểm tâm, đem theo cái tin Gin đã cãi nhau một trận với Dean. Cái gã đang lờ đờ ngủ trong ngực Harry bỗng nhiên ngóc đầu dậy, hít hửi không khítràn trề hy vọng.
  • 98. “Tụi nó cãi nhau về chuyện gì?” Nó hỏi, cố gắng nói giọng bình thường; lúc đó tụi nó đang quẹo vào một hành lang ở tầng thứ bảy vắng vẻ, ngoại trừ một cô gái nhỏ xíu đang săm soi một tấm thảm thêu hình những chú lùn ranh mặc váy xòe. Khi nhìn thấy các anh chị năm thứ sáu đến gần, cô bé hốt hoảng đến nỗi làm rớt cái cân bằng đồng mà cô bé đang cầm. “Không sao!” Hermione ân cần nói, vội vàng đi tới để giúp đỡ. “Đây…” Cô nàng gõ đầu cây đũa phép lên cái cân bể và nói, “Chữa lành”. Cô bé kia không nói cảm ơn, chỉ đứng như bị trời trồng tại chỗ khi các anh chị năm thứ sáu đi ngang qua và nhìn theo tụi nó đi khuất tầm mắt. Ron liếc nhìn lại cô bé. Nó nói. “Mình thề là cái cân sẽ teo nhỏ đi.” “Đừng bận tâm đến con bé,” Harry nói, hơi sốt ruột. “Gin và Dean cãi nhau về chuyện gìvậy, Hermione?” “Ôi, Dean cười chuyện McLaggen tông trái Bludger vô bồ,” Hermione nói. “Cảnh đó chắc là tức cười lắm,” Ron nói ra vẻ công bằng. “Chẳng tức cười chút nào hết!” Hermione nổi sung nói. “Trông dễ sợ hết sức và nếu Coote và Peakes không chụp Harry kịp thời thìHarry có thể đã bị thương trầm trọng!” “Ừ, thôi, Gin và Dean cũng không cần phải chia tay về chuyện đó, Harry nói, vẫn cố gắng làm ra vẻ bình thường. “Hay là tụi nó vẫn còn bồ nhau?” “Còn, tụi nó vẫn còn bồ nhau… Nhưng tại sao bồ quan tâm dữ vậy?” Hermione hỏi, nhìn soi mói Harry. “Mình chỉ không muốn đội Quidditch rối ren lộn xộn một lần nữa!” Harry hấp tấp nói, nhưng Hermione vẫn tỏ vẻ nghi ngờ. Cho nên nó thở phào khi nghe có tiếng gọi. “Harry!” từ đằng sau giúp nó có cớ quay lưng lại Hermione. “Ủa, chào Luna.” “Em đi vô bệnh thất tìm các anh,” Luna nói, vừa lục lọi trong túi xách. “Nhưng họ nói các anh đã về rồi…” Cô bé nhét vào tay Ron một cái có vẻ là cọng hành lá, một tai nấm lốm đốm và một bụm gìđó giống như cứt mèo, cuối cùng kéo ra được một cuộn giấy da bèo nhèo để đưa cho Harry. “…Em được biểu đưa cho anh cái này.” Đó là một cuộn giấy da nhỏ mà Harry nhận ra ngay tức thìlà thư cụ Dumbledore gọi nó đi học. “Tối nay,” nó nói với Ron và Hermione, sau khi đã mở thư ra xem. “Bình luận trấn đấu vừa rồi hay ghê!” Ron nói với Luna khi cô bé lấy lại cọng hành xanh, cái nấm đốm và bụm cứt mèo. Luna mỉm cười ngờ ngợ. “Anh đang chọc quên em phải không?” Cô bé nói. “Ai cũng nói dở ẹt.” “Không, anh nói nghiêm túc mà!” Ron nói một cách chân thành. “Anh nhớ chưa bào giờ khoái nghe bình luận hơn lần vừa rồi! Nhân tiện hỏi cái này là cái gìvậy?” Nó nói thêm, giơ cái vật giống cọng hành xanh lên ngang tầm mắt. “À, đó là Rễ canh,” cô bé nói, vừa nhét cứt mèo và cái nấm đốm trở lại túi xách. “Anh cứ giữ lại nếu anh thích, em còn mấy cái nữa. Mấy cái đó canh phòng bọn Bộng Nuốt hay lắm.” Và cô bé bước đi, bỏ lại Ron cời phát sặc, tay vẫn còn nắm cọng Rễ canh. “Mấy bồ biết không, mình càng ngày càng thấy thích Luna hơn.” Ron nói khi tụi nó tiếp tục đi tới Đại sảnh đường. “Mình biết con nhỏ đó khùng, nhưng mà hay ở chỗ…” Nó đột nhiên ngừng nói. Lavender Brown đang đứng ngay chân cầu thang đá, vẻ mặt giận đùng đùng. “Chào,” Ron lo lắng nói. “Đi thôi,” Harry thìthầm với Hermione và hai đứa nó nhanh chân đi qua mặt Lavender, mặc dù vẫn kịp nghe cô nàng nói, “Tại sao anh không nói cho em biết là bữa nay anh xuất viện hả? Và tại sao anh lại cặp kè với con nhỏ đó hả?” Khi Ron xuất hiện ở bàn ăn điểm tâm nửa giờ sau, trông mặt nó vừa lầm lìvừa bực bội và mặc dù nó ngồi cùng bàn với Lavwnder, Harry không thấy tụi nó không nói một lời nào với nhau trong suốt thời gian ngồi cạnh nhau. Hermione hành xử như thể hoàn toàn không biết gìvề chuyện đó, nhưng một đôi lần Harry nhìn thấy một nụ cười vu vơ khó hiểu thoáng qua gương mặt cô nàng. Suốt ngày hôm ấy Hermione dường như ở trong một trạng thái đặc biệt vui và buổi tối đó trong phòng sinh hoạt chung cô nàng thậm chícòn bằng lòng ngó qua (nói cách khac là viết nốt) bài luận văn môn Dược thảo học cho Harry, một việc mà cho tới lúc đó cô nàng vẫn kiên quyết từ chối, vìbiết là Harry thể nào rồi cũng cho Ron sao y bản chính. “Cám ơn nhiều lắm, Hermione,” Harry vừa nói vừa vỗ nhè nhẹ lên lưng Hermione trong khi coi đồng hồ và thấy là đã gần tám giờ tối. “Nghe nè, mình phải gấp lên kẻo trễ buổi học với thầy Dumbledore...” Hermione không trả lời mà chỉ gạch bỏ đi vài câu văn lủng củng của Harry với vẻ hơi ngao ngán. Toét miệng ra cười, Harry lật đật chui qua lỗ chân dung để đi tới văn phòng thầy hiệu trưởng. Con thú đá nhảy qua một bên ngay khi nghe mật khẩu bánh kem bơ và Harry nhảy hai bậc một lên cầu thang xoắn, gõ lên cánh cửa vừa đúng lúc chuông đồng hồ bên trong văn phòng điểm tám tiếng. “Mời vào,” cụ Dumbledore gọi, nhưng khi Harry đưa tay để đẩy cánh cửa thìcửa đã được mở ra từ bên trong. Giáo sư Trelawney đứng ngay bên trong cửa. “Thìra!” Bà kêu lên, đột ngột chỉ vào mặt Harry, mắt bà chớp chớp sau cặp kính vĩđại trong lúc nhìn nó. “Thìra đây là lý do tôi bị tống ra khỏi văn phòng của ông không chút khách sáo, phải không ông Dumbledore!” “Cô Sybill thân mến ạ,” cụ Dumbledore nói bằng giọng hơi bực, “Làm gìcó chuyện tống cô ra khỏi bất cứ nơi nào không chút khách sáo, nhưng mà Harry quả là có hẹn trước và tôi thực sự không nghĩrằng còn điều gìđể nói nữa...” “Được lắm,” giáo sư Trelawney nói bằng giọng bị tổn thương sâu sắc. “Nếu ông không chịu trục xuất con ngựa tiếm quyền ấy, thìđành vậy... có lẽ tôi sẽ tìm một ngôi trường khác, nơi mà tài năng của tôi được đánh giá cao hơn...” Bà đẩy Harry qua một bên để đi ra và biến mất phía dưới cầu tahng xoắn; hai thầy trò nó nghe như bà ta té nhào ở khoảng giữa cầu thang, Harry đoán là bà đã giẫm phải một trong những vạt khăn quàng lòng thòng của bà. “Harry, con hãy đóng cửa lại và ngồi xuống,” cụ Dumbledore nói, nghe hơi mệt mỏi. Harry vâng lời khi ngồi xuống cái ghế nó vẫn thường ngồi trước bàn làm việc của cụ Dumbledore, nó để ý thấy cái Tưởng Ký lại nằm giữa hai thầy trò một lần nữa và thêm hai cái chai nhỏ xíu đựng đầy ký ức xoáy tít. “Thưa thầy, có phải giáo sư Trelawney không vui vìthầy Firenze vẫn còn dạy không?” Harry hỏi. “Ừ,” cụ Dumbledore nói, “Bộ môn Tiên tri hóa ra nhiều rắc rối hơn là thầy tiên liệu, bản thân thầy chưa từng học môn đó. Thầy không thể bảo thầy Firenze quay trở về rừng, ở đó bây giờ thầy ấy chỉ là một kẻ bị ruồng bỏ, mà thầy cũng không thể bảo cô Sybill Trelawney ra đi. Điều này thầy trò mình biết với nhau thôi: cô ấy không hề biết nỗi nguy hiểm mà cô ấy sẽ gặp phải một khi cô ấy ra khỏi tòa lâu đài. Cô ấy không biết – và thầy nghĩlà sẽ chẳng không ngoan gìnếu làm sáng tỏ cho cô ấy – rằng chính cô ấy là người đã lập ra lời tiên tri về con và Voldermort, con hiểu chứ?” Cụ Dumbledore thở dài một cái thượt, rồi nói, “Nhưng đừng để ý chuyện của giáo ban. Chúng ta còn nhiều chuyện hơn cần bàn bạc. Trước tiên – con đã làm xong bài tập mà thầy giao cho con vào cuối buổi học trước chưa?” “Ôi,” Harry nói, ngẩn người ra. Nào là bài học Độn thổ và Quidditchm nào là Ron bị đầu độc và nó bị nứt sọ, lại thêm chuyện quyết tâm khám phá âm mưu của Draco Malfoy, khiến Harry hầu như quên béng đi cái ký ức của Thầy Slughorn mà thầy Dumbledore đã bảo nó phải làm sao moi cho được. “Dạ, thưa thầy, con đã hỏi Thầy Slughorn về chuyện đó vào cuối buổi học môn Độc dược, nhưng, ơ, thầy ấy không chịu cho con.” Hai thầy trò cùng im lặng một lúc. Cuối cùng cụ Dumbledore nói, “Thầy hiểu.” Cụ chăm chú nhìn Harry qua đầu gọng kính hình nửa vầng trăng và khiến cho Harry có cái cảm giác như mọi khi là nó đang bị chiếu tia X qua người. “Và con cảm thấy rằng con đã hết sức cố gắng trong vấn đề này rồi, đúng không? Rằng con đã vận dụng tất cả tài khôn khéo không nhỏ của con? Rằng con đã chẳng chừa lại chút tinh ranh nào mà không thử qua nhằm lấy cho bằng được cái ký ức đó?”
  • 99. “Dạ,” Harry lặng người đi, quên tuốt luốt định nói tiếp cái gì. Nỗ lực duy nhất mà nó đã làm để lấy cái ký ức đó bồng nhiên có vẻ ấm ớ phát ngượng. “Dạ... cái bữa mà Ron nuốt nhầm thuốc độc con đem bạn ấy đến gặp Thầy Slughorn. Con nghĩcó lẽ nếu con làm cho thầy ấy cao hứng lên...” “Và cố gắng đó thành công chứ?” Cụ Dumbledore hỏi. “Dạ, thưa thầy, không, bởi vìRon trúng độc...” “...đương nhiên, điều đó đã khiến con quên sạch bách việc cố gắng lấy cái ký ức; Thầy không mong chờ điều gìkhác được, khi người bạn thân nhất của con lâm nguy. Tuy nhiên, khi đã rõ là cậu Weasley sẽ bình phục hoàn toàn, thầy đã hy vọng con quay lại công việc mà thầy giao. Thầy tưởng thầy đã nói rõ với con là cái ký ức đó quan trọng như thế nào. Thật vậy, thầy đã làm hết sức để cho con có ấn tượng rằng đó là cái ký ức chủ chốt nhất trong tất cả và nếu không có nó thìchúng ta chỉ lãng phíthời gian mà thôi.” Một cảm giác xấu hổ nóng ran và nhức nhối lan từ đỉnh đầu Harry xuống khắp cơ thể nó. Cụ Dumbledore không hề cất cao giọng, cụ không hề tỏ vẻ giận dữ, nhưng Harry muốn thà thầy quát tháo nó còn hơn; sự thất vọng lạnh lùng này còn tệ hơn bất cứ điều gìkhác. “Thưa thầy,” nó nói, với một chút liều mạng, “không phải là con không bận tâm hay gìgìkhác, chẳng qua con có... có những việc khác...” “Những việc khác trong đầu con,” cụ Dumbledore nói nốt câu giùm nó. “Thầy hiểu.” Hai thầy trò lại im lặng một lần nữa, sự im lặng khó chịu nhất mà Harry từng trải qua với cụ Dumbledore; Sự im lặng dường như cứ kéo dài, kéo dài mãi, thỉnh thoảng chỉ bị ngắt đoạn bằng tiếng ngáy rò rò của bức chân dung cụArmando Dippet phía trên đầu cụ Dumbledore. Harry cảm thấy nhỏ bé đi một cách kỳ lạ, như hteer nó bị co rút lại một chút kể từ khi bước vào căn phòng này. Khi không thể chịu đựng lâu hơn nữa, nó nói, “Thưa giáo sư Dumbledore, con thực sự xin thầy tha lỗi. Lẽ ra con nên làm nhiều hơn... lẽ ra con nên nhận thức được là thầy sữ chẳng yêu cầu con làm điều đó nếu điều đó không thực sự quan trọng.” “Cám ơn con đã nói như vậy, Harry à,” cụ Dumbledore khẽ nói. “Vậy thầy có nên hy vọng từ giờ trở đi con sẽ đặt vấn đề này lên hàng ưu tiên cao hơn không? Sau buổi tối này chúng ta sẽ chẳng có mấy lý do để gặp lại nếu không có cái ký ức đó.” “Thưa thầy, con sẽ làm việc đó, con sẽ lấy cái ký ức của Thầy Slughorn,” nó tha thiết nói. “vậy thìbây giờ chúng ta không nói thêm về việc đó nữa,” cụ Dumbledore nói thân mật hơn, “nhưng hãy tiếp tục câu chuyện của chúng ta từ chỗ chúng ta đã ngừng lại. Con có còn nhớ ở chỗ nào không?” “Dạ, thưa thầy, có ạ” Harry nhanh nhẩu nói. “Voldermort giết cha hắn và ông bà nội hắn xong, dàn dựng như thể cậu Morfin của hắn là thủ phạm. Sau đó hắn quay trở về trường Hogwarts và hỏi... hắn hỏi giáo sư Slughorn về Trường sinh linh giá,” nó ngượng ngùng nói línhí. “Tốt lắm,” cụ Dumbledore nói. “Bây giờ, thầy hy vọng, con còn nhớ rằng thầy đã nói với con từ hồi mới bắt đầu những buổi học này của thầy trò mình là chúng ta sẽ đi vào lĩnh vực của ước đoán và suy nghiệm?” “Dạ, thưa thầy.” “Cho tới bây giờ, như thầy hy vọng được con đồng ý, thầy đã cho con xem những nguồn dữ liệu tương đối vững chắc cho sự suy luận của thầy về những gìVoldermort đã làm cho đến khi hắn đến tuổi mưởi bảy?” Harry gật đầu. “Nhưng giờ đây, Harry à,” cụ Dumbledore nói, “giờ đây sự việc trở nên mịt mù hơn và lạ lùng hơn. Nếu việc tìm chứng cớ về cậu bé Riddle đac là khó khăn thìviệc tìm ai đó sẵn sàng hồi tưởng về người đàn ông Voldermort là chuyện không thể làm được. Thực ra, thầy nghi ngờ liệu có ai đó còn sống, ngoại trừ chính hắn ra, có thể kể cho chúng ta toàn bộ về cuộc sống của hắn sau khi rời khỏi trường Hogwarts không. Tuy nhiên, thầy còn hai cái ký ức cuối cùng mà thầy muốn cùng xem với con,” nói đến đó, cụ Dumbledore chỉ hai chai pha lê nhỏ xíu lấp lánh bên cạnh cái Tưởng Ký. “Sau đó thầy sẽ vui mừng muốn biết ý kiến của con là liệu những kết luận mà thầy rút ra có vẻ đúng hay không.” Ýnghĩrằng cụ Dumbledore đánh giá ý kiến của nó cao như thế khiến Harry càng cảm thấy xấu hổ vô cùng về việc nó đã không hoàn thành nhiệm vụ lấy cho được cái ký ức về Trường sinh linh giá và nó nhấp nhổm áy náy trên ghế khi cụ Dumbledore giơ một trong hai cái chai đó lên ánh sáng và xem xét. “Thầy hy vọng con chưa chán việc lặn vào ký ức của người ta bởi vìhai cái này chỉ là hồi ức tò mò,” cụ nói. “Cái thứ nhất này xuất xứ từ một gia tinh rất già có tên là Hokey. Trước khi con xem những gìHokey chứng kiến, thầy phải thuật lại thật nhanh chuyện Chúa tể Voldermort rời khỏi trường Hogwarts như thế nào. Như con có thể đoán được, khi học lên đến năm thứ bảy, hắn đứng đầu bảng trong tất cả các môn mà hắn thi. Khắp xung quanh, bạn bè hắn đều đang quyết định chọn lựa nghề nghiệp mà họ sẽ theo đuổi sau khi ra trường. Gần như mọi người trông chờ những điều kỳ vĩnơi Tom Riddle, huynh trưởng, Thủ lĩnh nam sinh, người nhậ được phần thưởng Dành cho cống hiến đặc biệt đối với nhà trường. Thầy biết là nhiều thầy cô giáo, trong số đó có giáo sư Slughorn, đề nghị hắn vào làm ở Bộ Pháp thuật, đề nghị dàn xếp những cuộc hẹn, giới thiệu hắn với những người quen biết lớn. Hắn từ chối tất cả những đề nghị. Chuyện tiếp theo mà các thầy cô biết là Voldermort là việc ở tiệm Borgin và Burkes.” “Ở tiệm Borgin và Burkes?” Harry sửng sốt lặp lại. “Ở tiệm Borgin và Burkes,” cụ Dumbledore bình thản lặp lại. “Thầy nghĩcon sẽ biết ở đó có những điều hấp dẫn gìmà giữ được chân hắn khi chúng ta đi vào ký ức của Hokey. Nhưng đây không phải là nghề nghiệp đầu tiên mà hắn chọn. Ít có ai biết được điều này vào thời đó. Thầy là một trong số rất ít người mà thầy hiệu trưởng thời đó nói riêng cho biết. Thoạt đầu Voldermort đã đến gặp giáo sư Dippet và hỏi liệu hắn có thể ở lại trường Hogwarts để dạy học không.” “hắn muốn ở lại đây à? Tại sao?” Harry hỏi, càng thêm ngạc nhiên. “Thầy tin là hắn có nhiều lý do, mặc dù hắn không trình bày những lý do đó với giáo sư Dippet,” cụ Dumbledore nói. “Trước nhất và rất quan trọng, thầy tin Voldermort gắn bó với ngôi trường này hơn với bất cứ người nào khác. Trường Hogwarts là nơi hắn đã vui sướng nhất; nơi đầu tiên và nơi duy nhất mà hắn cảm thấy là nhà.” Harry cảm thấy hơi nhột nhạt đối với những lời này, bởi vìnó cũng cảm thấy y như vậy về ngôi trường Hogwarts. “Lý do thứ hai, tòa lâu đài là một thành trìcủa Pháp thuật cổ xưa. Chắc chắn Voldermort đã thâm nhập vào rất nhiều bímật của lâu đài, nhiều hơn hầu hết những học sinh khác từng học qua ở ngôi trường này, nhưng có thể hắn cảm thấy nơi đây vẫn còn nhiều bímật để hắn lần ra manh mối, còn nhiều kho chứa Pháp thuật để hắn bòn rút. Và thứ ba, với tư cách một thầy giáo, hắn sẽ có nhiều quyền lực và ảnh hưởng đối với các pháp sư và phù thủy trẻ. Có lẽ hắn có được ý tưởng này từ giáo sư Slughorn, người thầy mà hắn có sự giao hảo tốt nhất, người đã thể hiện việc một thầy giáo có thể đóng một vai trò ảnh hưởng như thế nào. Thầy không tưởng tượng được dù trong một tích tắc rằng Voldermort dự tính sống cả đời hắn ở trường Hogwarts, nhưng thầy nghĩrằng hắn coi đây như một chỗ để chiêu binh và là một nơi hắn có thể bắt đầu tự thành lập cho mình một quân đội.” “Nhưng thưa thầy, hắn không được nhận về dạy ở trường à?” “Không, hắn không được nhậ. Giáo sư Dippet nói với hắn là hắn còn quá trẻ ở tuổi mười tám, nhưng giáo sư mời hắn nộp đơn trở lại trong vài năm tới, nếu đến lúc đó hắn còn muốn dạy học.” “Thưa thầy, hắn cảm thấy sao về việc đó?” Harry ấp úng hỏi. “Hết sức bực bội,” cụ Dumbledore nói. “Thầy đã khuyên giáo sư Armando chống lại sự bổ nhiệm đó – thầy không nêu ra những lý do mà thầy vừa nói với con, bởi vìgiáo sư Dippet rất yêu mến Voldermort và bị thuyết phục vìvẻ chân thực của hắn. Nhưng thầy không muốn Chúa tể Voldermort trở lại ngôi trường này và đặc biệt là trong một vị trícó quyền lực.” “Thưa thầy, hắn muốn công việc nào ở trường? Hắn muốn dạy môn gì?” Không biết bằng cách nào, nhưng Harry biết câu trả lời trước khi cụ Dumbledore đáp. “Phòng chống nghệ thuật hắc ám. Môn đó lúc ấy do một vị giáo sư cao tuổi tên là Galatea Merythought giảng dạy, vị này dạy ở trường Hogwarts gần năm
  • 100. mươi năm. Vậy là Voldermort đến làm việc ở tiệm Borgin và Burkes và tất cả thầy cô giáo đã từng ngưỡng mộ hắn đều nói chuyện đó thiệt là phíphạm, một pháp sư trẻ xuất sắc như thế mà làm việc trong một cửa hàng. Tuy nhiên, Voldermort không chỉ là một nhân viên giúp việc. Lịch sự, đẹp trai và khôn khéo, chẳng bao lâu sau hắn được giao cho những công việc đặc biệt thuộc loại chỉ tồn tại ở một nơi như tiệm Borgin và Burkes , công việc mà, như con biết đó, Harry, chuyên về những đồ vật mang đặc tính có quyền lực hùng mạnh và khác thường. Voldermort được mấy người hùn hạp cửa hàng phái đi thuyết phục người ta chịu từ bỏ những đồ vật quígiá của mình để đem bán và hắn, theo những thông tin thầy thu thập được, đã làm việc này giỏi một cách khác thường.” “Con dám cá là hắn giỏi,” Harry nói, không kềm được. “Ừ, khá giỏi,” cụ Dumbledore nói, với một nụ cười thoảng qua. “Và bây giờ là lúc chúng ta nghe gia tinh Hokey, gia tinh này làm việc cho một phù thủy rất già và rất giàu có tên là Hepzibah Smith.” Cụ Dumbledore dùng cây đũa phép gõ lên cái chai, nút chai bật ra và thầy rót mớ ký ức xoắn tít vô trong cái Tưởng Ký, vừa làm vừa nói, “Mời con đi trước, Harry.” Harry đứng dậy và một lần nữa nghiêng mình bên trên cái chất gợn sóng óng ánh bạc trong cái chậu đá. Nó rơi xuyên vô khoảng hư vô tăm tối và đáp xuống một phòng khách trước mặt một bà già cực kỳ mập mạp, đội một bộ tóc giả vàng hoe được trao chuốt tỉ mỉ và mặc một bộ áo váy màu hồng rực rỡ bay dập dờn quanh thân, tạo cho bà dáng vẻ của một cái bánh kem đang chảy. Bà đang nhìn vào một cái gương nhỏ cẩn châu báu và đánh phấn hồng lên đôi má đã đỏ thắm bằng một bông thoa phấn khổng lồ, trong khi mụ gia tinh già nhất và nhỏ thó nhất mà Harry từng thấy, cố nhét đôi chân ú na ú núc của bà vào đôi dép bằng vải sa tanh chật căng. “Nhanh lên, Hokey!” Bà Hepzibah nói giọng hống hách. “Chàng nói chàng sẽ đến lúc bốn giờ, chỉ còn vài phút nữa thôi và chàng thìchưa bao giờ trễ!” Bà cất kỹ cái bông thoa phấn trong khi mụ gia tinh sắp xếp đồ đạc cho ngăn nắp. Đầu mụ gia tinh cao không tới chỗ ngồi của cái ghế bà Hepzibah và lớp da nhăn nheo mắng trên thân hình của mụ giống y như tấm vải trải giường nhàu nát mà mụ khoắc kiểu xếp nếp như tấm áo choàng thời La Mã cổ. “Trông ta thế nào?” Bà Hepzibah hỏi, vừa quay đầu lại ngắm những góc cạnh khác nhau của gương mặt bà trong tấm gương. “Thưa cô, dễ thương lắm,” mụ Hokey nói the thé. Harry chỉ có thể cho rằng trong giao kèo của Hokey hẳn có ghi rằng mụ phải nói dối qua kẽ răng khi được hỏi câu này, bởi vìtheo ý kiến nó thìHepzibah Smith còn khuya mới gọi là dễ thương. Tiếng chuôn cửa reo leng keng và cả nữ chủ nhân lẫn mụ gia tinh đều nhảy dựng lên. “Nhanh lên, nhanh lên, chàng đến rồi, Hokey!” Bà Hepzibah kêu lên và mụ gia tinh hối hả ra khỏi phòng, căn phòng bày biện đầy nhóc đồ đạc đến nỗi thiệt khó mà biết được làm thế nào một ai đó có thể len lỏi đi giữa chúng mà không xô đổ ít nhất một tá món: nào là những cái tủ chất đầy những hộp sơn mài nho nhỏ, những cái kệ xếp đầy những cuốn sách khắc nổi chữ vàng, những cái giá đỡ những quả địa cầu với quả cầu thiên văn và nhiều cây kiểng mọc xum xuê trong mấy cái chậu bằng đồng. Thực ra, căn phòng trông như một sự pha tạp giữa một tiệm đồ cổ Pháp thuật và một nhà kiếng trồng cây. Mụ gia tinh quay trở lại nội trong vài phút, theo sau là một chàng trai trẻ cao ráo mà Harry chẳng có chút khó khăn nào để nhận ra là Voldermort. Hắn mặc đơn giản một bồ đồ đen; tóc có hơi dài hơn thuở còn trong trường một tívà hai má hõm sâu, nhưng tất cả đều thích hợp với hắn; trông hắn đẹp trai hơn bao giờ hết. Hắn cẩn thận đi qua căn phòng chật ních với một phong thái cho thấy hắn đã từng đến đây nhiều lần trước và hắn cúi mình thấp xuống để quệt môi lên bàn tay bé bỏng mập ù của bà Hepzibah. “Tôi có mang hoa đến cho cô,” hắn nói nhỏ nhẹ, đưa ra một bó hoa hồng không biết lấy ở đâu. “Chàng trai quá quắt này, cậu không nên làm như thế!” Bà già Hepzibah eo éo nói, mặc dù Harry để ý thấy bà đã để sẵn một cái bình không trên cái bàn con gần nhất. “Cậu quả là làm hư gái già này, Tom à... ngồi xuống, ngồi xuống đây nào... Hokey đâu? À...”
  • 101. Mụ gia tinh xẹt trở vào phòng, bưng theo một cái mâm đựng mấy cái bánh be bé mà mụ đặt cạnh cùi chỏ của nữ chủ nhân. “Tự nhiên nhé, Tom,” bà Hepzibah nói, “tôi biết cậu thích bánh của tôi lắm. Thế nào, cậu khỏe không? Trông cậu xanh xao quá. Họ bắt cậu làm việc quá độ ở cái tiệm đó, tôi đã nói thế cả trăm lần rồi...” Voldermort mỉm cười một cách máy móc và bà Hepzibah thìmỉm cười điệu đàng. “Sao, cậu vin cái cớ nào để đến thăm tôi lần này hở?” Bà hỏi, chớp chớp hàng mi. “Ông Burke muốn đưa ra một giá cao hơn cho bộ áo giáp do yêu tinh chế tạo,” Voldermort nói. “Năm trăm Galleon, ông ấy thấy giá đó cao hơn giá phải chăng...” “Ấy, ấy, đừng gấp gáp như vậy, kẻo tôi sẽ ngỡ là cậu chỉ đến đây vìmấy thứ đồ đạc rẻ tiền của tôi thôi!” bà Hepzibah phụng phịu trề môi. “Tôi được lệnh đến đây vì mấy thứ đó,” Voldermort khẽ nói. “Thưa cô, tôi chỉ là một trợ lý nghèo, phải làm những gì mình được sai bảo. Ông Burke muốn tôi hỏi thăm...” “Ôi, ông Burke, xù đi!” bà Hepzibah nói, phẩy bàn tay bé bỏng. “Tôi muốn cho cậu xem một món đồ mà tôi chưa bao giờ cho ông Burke xem! Cậu giữ bí mật được không, Tom? Cậu hứa với tôi là cậu sẽ không kể lại cho ông Burke biết là tôi có cái đó chứ? Ông ta sẽ chẳng bao giờ để cho tôi được yên nếu biết là tôi đã cho cậu xem và tôi sẽ không bán cho ông Burke hay bất cứ ai! Nhưng mà cậu, Tom à, cậu sẽ đánh giá cao món đồ này do lịch sử của nó, chứ không phải căn cứ vào số lượng Galleon mà cậu có thể kiếm được nhờ bán nó.” “Tôi sẽ vui sướng được xem bất cứ thứ gìcô Hepzibah cho tôi xem,” Voldermort nhẹ nhàng nói và bà Hepzibah lại khúc khích cười kiểu con gái mới lớn. “Tôi sẽ bảo Hokey đem nó ra giùm... Hokey, mi ở đâu? Ta muốn cho cậu Riddle đây xem báu vật đẹp nhất của ta.. Thực ra, cứ đem hết cả hai ra, nhân tiện mi lấy cái đó...” “Thưa cô đây ạ,” mụ gia tinh éo éo nói và Harry thấy hai cái hộp da, cái này đè lên cái kia, di chuyển ngang qua căn phòng như thể chúng tự di động, mặc dù nó biết mụ gia tinh tíhon đang đội hai cái hộp trên đầu đi giữa những cái bàn, những nệm gác chân, những ghế đẩu. “Xem này,” bà Hepzibah vui vẻ nói, vừa nhấc hai cái hộp ra khỏi đầu mụ gia tinh, đặt chúng lên đùi bà và chuẩn bị mở cái trên cùng ra, “tôi tin là cậu sẽ thích cái này, Tom à... Ôi, nếu gia đình tôi mà biết tôi cho cậu xem... họ thèm thuồng mong muốn được lấy những thứ này biết bao!” Bà mở nắp hộp ra. Harry nhích tới trước một tíđể nhìn cho rõ hơn và thấy một cái gìgiống như chiếc cúp bằng vàng có hai cái quai chạm khắc tỉ mỉ. “Tôi không biết cậu có biết cái này là gì không, Tom? Cầm nó lên đi, nhìn cho kỹ vào nhé!” bà Hepzibah thì thầm và Voldermort đưa bàn tay với những ngón tay dài nhấc cái cúp ra khỏi đám bao bì bằng lụa êm ấm. Harry nghĩ nó nhìn thấy một tia sáng đỏ lóe lên trong đôi mắt đen cảu Voldermort. Vẻ thèm muốn của hắn được phản chiếu một cách tò mò trên gương mặt bà Hepzibah , chỉ khác là đôi mắt nhỏ hí của bà thì đắm đuối nhìn nét đẹp trai của Voldermort. “Một gia huy,” Voldermort lẩm bẩm, vừa xem xét những chữ khắc trên cái cúp. “Vậy ra đây là...?” ”...di vật của Helga Hufflepuff, như cậu biết quá rõ, anh chàng thông minh ạ!“ bà Hepzibah nói, vừa chồm tới trước làm nổi lên một tiếng phựt của dây nịt áo trong bị đứt, mà thực ra bà chồm tới là để bẹo cái má hóp của Voldermort. “Chứ tôi chưa nói cho cậu biết là tôi thuộc hàng con cháu họ xa sao? Cái này đã được lưu truyền trong gia đình qua bao nhiêu năm. Dễ thương ghê há? Và nó được coi là có đủ thứ quyền phép nữa, nhưng tôi chưa bao giờ thử qua hết các quyền phpes đó, tôi chỉ giữ nó cho được an toàn và xinh xắn ở đây...” Bà gỡ cái cúp ra khỏi những ngón tay dài của Voldermort và đặt lại nó vào trong hộp trở lại; bà quá chăm chú vào việc đặt cẩn thận cái cúp vào đúng vị trid cũ của nó nên không để ý thấy một thoáng mờ ám lướt qua gương mặt Voldermort khi cái cúp được cất đi. “Và bây giờ,” bà Hepzibah vui vẻ nói, “Hokey đâu? À phải, mi ở đây... đem cái này cất đi nào, Hokey.” Mụ gia tinh ngoan ngoãn đội cái cúp trong cái hộp đi và bà Hepzibah hướng sự chú ý vào cái hộp dẹp hơn trên đùi bà. “Tôi tin cậu sẽ thích cái này thậm chíhơn cái kia đấy, Tom ạ,” bà thìthầm. “Chồm tới thêm một tínào, chàng trai yêu quí, để cậu có thể thấy... Dĩ nhiên, ông Burke biết tôi có món này, tôi đã mua nó của ông ta mà và tôi dám nói là ông ta muốn lấy lại nó một khi tôi khuất núi...” Bà đẩy nhẹ cái móc khóa bạc chạm trổ tinh vi và cái nắp hộp nhẹ nhàng bật mở. Trên nền nhung đỏ thắm êm mượt là một mặt dây chuyền hình trái tim bằng vàng y. Voldermort đưa tay ra, lần này không đợi mời và cầm lấy cái đó giơ lên ánh sáng, chăm chú nhìn. “Huy hiệu Sly,” hắn lặng lẽ nói, khi ánh sáng chờn vờn trên một chữ S uốn éo như rắn và được chạm trổ tinh xảo. “Đúng vậy!” bà Hepzibah nói, tỏ ra hớn hở trước ánh mắt sững sờ của Voldermort đăm đăm nhìn cái mặt dây chuyền. “Tôi đã phải trả cho cái này cả núi vàng, nhưng tôi không thể bỏ qua, một vật thực sự quí giá như món đồ này tất phải có trong bộ sưu tập của tôi. Ông Burke đã mua cái này, hiển nhiên từ một mụ đàn bà rách rưới dường như đã đánh cắp nó những chẳng biết gìđến giá trị thực sự của nó...” “Cậu có sao không đấy, Tom à?” “Ờ không,” Voldermort nói nhỏ. “Không, tôi vẫn khỏe...” “Tôi nghĩ... nhưng tôi cho là có lẽ do ánh sáng tạo ra vẻ như vậy thôi...” bà Hepzibah nói, có vẻ khó chịu và Harry đoán bà ta cũng đã nhìn thấy tia sáng đỏ đã nhất thời hiện ra trong mắt Voldermort. “Đây, Hokey, đem cất đi và khóa lại cẩn thận... dùng bùa chú thông thường...” “Đến lúc đi rồi, Harry,” Cụ Dumbledore khẽ nói và khi mụ gia tinh đeo nơ nhỏng nhảnh đội mấy cái hộp đi, cụ Dumbledore nắm lấy cánh tay Harry một lần nữa và cả hai cũng bay lên xuyên qua cõi lãng quên và trở lại văn phòng cụ. “Bà Hepzibah Smith chết hai ngày sau cái cảnh nho nhỏ ấy,” cụ Dumbledore nói, ngồi trở lại chỗ của cụ và ra dấu bảo Harry cũng nên làm tương tự. “Gia tinh Hokey bị Bộ kết án về tội ngộ sát nữ chủ nhân do bỏ nhầm thuốc độc vào ly ca cao để bà ta uống vào buổi tối.” “Không lẽ nào!” Harry giận dữ nói. “Thầy thấy chúng ta có cùng suy nghĩ,” cụ Dumbledore nói. “Chắc chắn, có nhiều điểm tương đồng giữa cái chết này và cái chết của những người trong gia đình Riddle. Trong cả hai trường hợp, đều có người nào đó bị đổ tội, người nào đó có trínhớ rõ ràng về việc gây án...” “Rồi Hokey thú tội?” “Mụ nhớ là đã bỏ cái gìđó vô trong ly ca cao của nữ chủ nhân, cái gìđó hóa ra không phải là đường, mà là một chất độc chết người ít được biết đến,” cụ Dumbledore nói. “Người ta kết luận là mụ gia tinh không cố ý làm điều đó, nhưng vìđã quá già và lẩn thẩn...” “Voldermort đã điều chỉnh trínhớ của mụ ấy, cũng giống như hắn đã làm như vậy đối với Morfin!” “Đúng, đó cũng là kết luận của thầy,” cụ Dumbledore nói. “Và cũng giống như trường hợp Morfin, Bộ đã bị lái về hướng nghi ngờ Hokey...” “...bởi vìmụ là một gia tinh,” Harry nói. Hiếm khi nào nó thấy cảm thông bằng lúc này đối với cái H.V.Đ.C.Q.L.G.T mà Hermione đã thành lập. “Chính xác,” cụ Dumbledore nói. “Mụ đã già, mụ thú nhận đã pha ly ca cao đó và không ai ở Bộ mất công điều tra xa hơn. Giống như trường hợp của Morfin, khi thầy lần ra được dấu vết mụ gai tinh và tìm cách thu hồi cái ký ức này thì mụ cũng gần như tàn đời rồi. Nhưng ký ức của mụ, dĩ nhiên, không chứng tỏ điều gìngoại trừ chuyện Voldermort có biết đến sự tồn tại của cái cúp và cái mặt dây chuyền. Khi Hokey bị kết án rồi, gia đình của bà Hepzibah mới nhận ra rằng hai trong số những món của cải quígiá nhất của bà ta đã biến mất. Mất một thời gian khá lâu họ mới khẳng định được điều này, bởi vìbà ta có rất nhiều chỗ giấu của, luôn luôn bo bo canh giữ bộ sưu tập của mình. Nhưng trước khi họ chắc chắn rằng cái cúp và cái mặt dây chuyền đều đã biến mất, thì người giúp việc ở tiệm Borgin và Burkes, chàng trai trẻ vẫn thường xuyên thăm viếng bà Hepzibah và quyến rũ bà rất tài tình, đã xin nghỉ việc và biến mất. Chủ của hắn không biết hắn đã đi đâu; họ cũng chỉ ngạc nhiên như những người khác về sự biến mất của hắn. Và đó là lần cuối cùng người ta nghe hay thấy Rom Riddle, trong một thời gian rất dài. Bây giờ,” cụ Dumbledore nói, “nếu không phiền con, Harry, thầy muốn tạm dừng một lần nữa để lưu ý con đến một số điểm trong câu chuyện của chúng ta. Voldermort đã phạm tội sát nhân một lần nữa; thầy không biết liệu đó có phải là tội ác đầu tiên kể từ khi hắn giết cả gia định Riddle hay không, nhưng thầy nghĩ vậy. Lần này, như con đã thấy, hắn không giết người để trả thù nữa mà để chiếm đoạt. Hắn muốn có hai món cổ ngoạn huyền thoại mà bà già
  • 102. mrr muội khốn khổ ấy đã cho hắn xem. Giống như hắn đã từng cướp đoạt của những đứa trẻ khác trong viện mồ côi, cũng giống như hắn đã cướp chiếc nhẫn của cậu Morfin của hắn, vậy là giờ đây hắn đã đào tẩu với cái mặt dây chuyền và cái cúp của Hepzibah.” “Nhưng,” Harry cau mày nói, “có vẻ điên rồ... Liều mọi thứ, bỏ cả việc làm, chỉ vìnhững cái đó...” “Có lẽ điên rồ đối với con chứ không điên chút nào đối với Voldermort,” cụ Dumbledore nói. “Thầy hy vọng khi nào tới lúc thì con sẽ hiểu những đồ vật cụ thể đó có ý nghĩa như thế nào đối với hắn, Harry à, nhưng con phải thừa nhận là cũng không khó tưởng tượng lắm, rằng hắn coi cái mặt dây chuyền, ít nhất là cái đó, phải là của hắn.” “Cái mặt dây chuyền thìcó thể,” Harry nói, “nhưng tại sao hắn lại lấy cả cái cúp?” “Đó là di vật của một sáng lập viên khác của trường Hogwarts,” cụ Dumbledore nói. “Thầy nghĩ hắn vẫn còn nặng lòng với ngôi trường và hắn không thể nào cưỡng được lòng ham muốn một di vật siêu phàm đến khó tin nổi trong lịch sử trường Hogwarts. Thầy nghĩ còn có những lý do khác nữa... thầy hy vọng có thể trình bày với con khi tới đúng thời điểm. Và bây giờ đến cái ký ức cuối cùng trong bộ sưu tập mà thầy phải cho con xem, ít nhất là cho đến khi con xoay xở lấy được ký ức của giáo sư Slughorn cho chúng ta. Ký ức này cách chuyện xảy ra trong ký của Hokey mười năm, trong suốt mười năm đó chúng ta chỉ có thể giả đoán những gì Chúa tể Voldermort đã làm...” Harry đứng dậy một lần nữa khi cụ Dumbledore đổ hết cái ký ức cuối cùng vô trong chậu Tưởng Ký. “Thưa thầy đó là ký ức của ai vậy?” Nó hỏi. “Của thầy,” cụ Dumbledore nói. Và Harry lặn theo cụ Dumbledore sâu vô khối bạc sóng sánh, đáp xuống đúng cái văn phòng mà hai thầy trò vừa mới rời khỏi. Kìa con phượng hoàng Fawkes đang sung sướng ngủ vùi trên nhánh cây và kia đằng sau cái bàn làm việc là cụ Dumbledore, trông rất giống cụ Dumbledore đang đứng bên cạnh Harry lúc này, nhưng cả hai bàn tay cụ còn lành lặn, không bị thương tổn và gương mặt của cụ có lẽ ít nếp nhăn hơn. Điểm khác biệt giữa văn phòng này với văn phòng thời hiện tại là trong quá khứ thìcó tuyết rơi; những đốm tuyết li ti màu lam nhạt bay lơ lửng trong bóng đêm bên ngoài cửa sổ và đọng lại thành lớp dày trên gờ cửa sổ bên ngoài. Cụ Dumbledore trẻ hơn này dường như đang chờ đợi điều gì đó và quả đúng như vậy, chỉ một lát sau khi hai thầy trò đến, có một tiếng gõ lên cánh cửa và cụ Dumbledore nói, “Mời vào.” Harry thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc bị nén lại vội vàng. Voldermort đã bước vào phòng. Nét mặt hắn không phải là nét mặt mà Harry đã nhìn thấy hiện ra từ cái vạc khổng lồ cách đây gần hai năm: nó chưa hẳn đã giống rắn, đôi mắt chưa đỏ tía, bộ mặt chưa trơ trơ như mặt nạ, nhưng hắn đã không còn là chàng Tom Riddle đẹp trai. Dường như mặt hắn đã bị phỏng hay bị làm nhòa đi; Nét mặt hắn căng như bôi sáp và méo mó quái đản, tròng trắng của đôi mắt giờ đây mang cái nhìn khát máu thường xuyên, mặc dù đôi con ngươi chưa bị chẻ đôi như sau này theo Harry biết. Hắn đang mặc một tấm áo chùng đen dài và mặt hắn nhợt nhạt như tuyết đọng long lanh trên vai. Cụ Dumbledore ngồi sau bàn làm việc không tỏ vẻ ngạc nhiên gìcả. Hiển nhiên cuộc viếng thăm này đã có hẹn trước. “Chào em, Tom,” cụ Dumbledore nói, vẻ dễ dãi. “Em không ngồi sao?” “Cám ơn,” Voldermort nói và hắn ngồi xuống cái ghế mà cụ Dumbledore phác tay chỉ - đúng cái ghế mà chỉ thoáng nhìn Harry cũng nhận ra là cái ghế nó vừa để trống trong thời hiện tại. “Tôi nghe ông đã trở thành hiệu trưởng,” hắn nói và giọng hắn hơi cao hơn và lạnh hơn trước đây. “Một sự lựa chọn xứng đáng.” “Thầy mừng là em tán thành,” cụ Dumbledore mỉm cười nói. “Thầy mời em uống nước nhé?” “Thế thìtốt lắm,” Voldermort nói. “Tôi vừa làm một hành trình dài.” Cụ Dumbledore đứng dậy và lướt tới bên cái tủ mà thầy để cái Tưởng ký, nhưng thời đó lại để đầy những chai rượu. Sau khi đưa cho Voldermort một ly rượu và tự rót cho mình một ly, thầy trở lại chỗ ngồi sau bàn làm việc. “Vậy là, Tom... nhân lý do gìmà thầy có cái hân hạnh này?” Voldermort không trả lời ngay, mà chỉ hớp từng ngụm rượu. “Người ta không còn gọi tôi là “Tom nữa,” hắn nói. “Bây giờ tôi được biết đến như...” “Thầy có biết danh hiệu mà người ta gọi em,” cụ Dumbledore nói, vẫn mỉm cười thoải mái. “Nhưng thầy e là đối với thầy, em vẫn luôn là Tom Riddle. Đó là một trong những điều dễ sùng nhất với các ông giáo già. Thầy e rằng họ không bao giờ quên hẳn thuở ban đầu trẻ trung của công việc mà họ đã gánh vác cả đời.” Cụ nâng ly lên như thể chúc tụng Voldermort, gương mặt hắn vẫn trơ trơ không biểu cảm. Tuy nhiên, Harry cảm thấy không khí trong phòng thay đổi một cách tinh tế: việc cụ Dumbledore từ chối xưng hô bằng cái tên Voldermort tự chọn là sự từ chối việc Voldermort ra điều kiện cho buổi gặp mặt và Harry có thể nói Voldermort cũng hiểu như vậy. “Tôi ngạc nhiên là ông còn ở lại đây lâu như vậy,” Voldermort nói sau một lúc im lặng. “Tôi luôn luôn không hiểu tại sao một pháp sư như ông lại không bao giờ ước ao rời khỏi trường.” “À,” cụ Dumbledore nói, vẫn mỉm cười, “đối với một pháp sư như bản thân thầy, thì không có điều gì quan trọng hơn truyền lưu những kỹ năng cổ điển, giúp sức mài giũa những khối óc non nớt. Nếu thầy nhó đúng, có lần em cũng đã nhìn thấy sức hấp dẫn của nghề giáo.” “Tôi vẫn còn thấy,” Voldermort nói. “Tôi chỉ không hiểu tại sao ông – người rất thường được Bộ hỏi xin ý kiến và người đã hai lần, tôi nghĩ vậy, được mời ra giữ chức Bộ trưởng...” “Thực ra thì ba lần, nếu tính đến lần mới đây,” cụ Dumbledore nói. “Nhưng công việc ở Bộ chưa bao giờ cuốn hút thầy như một sự nghiệp. Một điểm nữa mà thầy nghĩlà thầy trò ta giống nhau.” Voldermort khẽ nghiêng đầu, không mỉm cười và hớp thêm một ngụm rượu. Cụ Dumbledore không phá vỡ sự im lặng lan tỏa giữa hai người trong lúc này, mà, với một vẻ chờ đợi thoải mái, cụ chờ cho Voldermort nói trước. Một lúc sau hắn nói, “Tôi đã trở về, có lẽ trễ hơn thời gian giáo sư Dippet mong đợi... nhưng đằng nào thì tôi cũng đã trở về để một lần nữa thỉnh cầu cái điều mà có lần ông nói tôi còn quá trẻ không thể làm được. Tôi đến gặp để thình cầu ông cho phép tôi trở về tòa lâu đài, để dạy. Tôi nghĩông ắt biết là tôi đã trải nhiều và cũng đã làm được nhiều kể từ khi rời khỏi nơi này. Tôi có thể chỉ ra và dạy bảo học sinh của ông những điều mà chúng không thể tiếp thu được từ bất cứ một pháp sư nào khác.” Cụ Dumbledore cân nhắc nhìn Voldermort qua cái ly rượu của cụ một lúc rồi nói. “Phải, thầy chắc chắn biết là em đã trải nhiều và làm nhiều kể từ khi em rời trường,” cụ nói nhỏ nhẹ. “Tiếng đồn về việc làm của em đã lan tới trường, Tom à. Thầy phải xin lỗi là thầy chỉ tin chừng một nửa.” Vẻ mặt Voldermort vẫn dửng dưng khi hắn nói, “Sự vĩ đại gây ra đố kỵ, đố kỵ sinh ra hận thù, hận thù đẻ ra dối trá. Ông ắt biết điều này chứ, ông Dumbledore.” “Em gọi những gìem đã làm là “vĩđại” à?” Cụ Dumbledore tế nhị nói. “Đương nhiên, ” Voldermort nói và mắt hắn dường như cháy đỏ lên. “Tôi đã thínghiệm, tôi đã đẩy những giới hạn của Pháp thuật ra xa hơn, có lẽ, xa hơn mức mà chúng từng đạt tới trước đây... ” “...chỉ một số loại pháp thuật thôi,” cụ Dumbledore nhẹ nhàng sửa sai hắn. “Một số thôi. Còn một số khác, em vẫn còn... xin lỗi em nhé... dốt nát một cách đáng thương.” Lần đầu tiên, Voldermort mỉm cười. Một nụ cười hiểm độc, mắt long lên, mặt căng ra, trông đáng sợ hơn cả giận dữ. “Lại lý lẽ cũ mèm,” hắn nói nhỏ. “Nhưng ông Dumbledore à, tôi chưa hề tìm thấy điều gì treent hế giới này chứng minh tuyên ngôn nổi tiếng của ông rằng tình thương yêu mạnh hơn bất cứ loại Pháp thuật nào.”
  • 103. “Hay tại em tìm kiếm nó không đúng chỗ,” cụ Dumbledore giả thuyết. “Hừ, vậy thì, còn chỗ nào tốt hơn chỗ này, trường Hogwarts, để tôi bắt đầu lại cuộc tùm kiếm mới?” Voldermort nói. “Ông có cho tôi trở về không? Ông có cho tôi chia sẻ kiến thức của tôi với học sinh của ông không? Tôi giao bản thân tôi và tài năng của tôi cho ông để tùy nghi sử dụng. Tôi là người dưới quyền điều khiển của ông.” Cụ Dumbledore nhướn đôi mày lên. “Và những người dưới quyền điều khiển của em sẽ ra sao? Điều gì sẽ xảy ra cho những kẻ tự gọi mình là – hoặc được đồn đại là – Tử thần thực tử?” Harry có thể nói Voldermort đã không ngờ cụ Dumbledore biết đến cái tên gọi đó; Nó nhìn thấy mắt của Voldermort một lần nữa nhá lên tia sáng đỏ và cái lỗ mũi tựa như cái khe nở hểnh ra. Sau một lúc lặng thinh, hắn nói, “Tôi chắc chắn là các bạn tôi sẽ hoạt động được mà không cần tôi.” “Thầy mừng khi nghe em coi họ là bạn bè,” cụ Dumbledore nói. “Thầy đã có cảm tưởng họ thuộc hàng tôi tớ của em thìđúng hơn.” “Ông nhầm rồi.” Voldermort nói. “Vậy nếu tối nay thầy đi tới quán Đầu Heo, thầy sẽ không gặp một nhóm trong đám bạn bè của em – nào là Nott, Rosier, Muldber, Dolohov – đang ngồi đợi em quay trở lại với chúng chứ? Quả là những người bạn tận tụy, cùng em đi xa đến thế trong một đêm tuyết rơi, chỉ để chúc em may mắn trong cố gắng đạt được một chỗ dạy học.” Chắc chắn là sự hiểu biết tỉ mỉ của cụ Dumbledore về những kẻ cùng đi với Voldermort đã không được hắn vui vẻ đón nhận; Tuy nhiên, hắn trả đũa gần như ngay tức thì. “Ông quả là luôn luôn thông suốt mọi sự, ông Dumbledore à.” “Ồ không, chỉ cần thân thiết với những người pha rượu ở các quán địa phương thôi,” cụ Dumbledore nhẹ nhàng nói. “Bây giờ, Tom à...” Cụ Dumbledore đặt cái ly đã cạn rượu của cụ lên bàn và ngồi thẳng lưng trên ghế, mấy đầu ngón tay chụm vào nhau trong một điệu bộ rất đặc biệt. “Chúng ta hãy thẳng thắn nói với nhau. Tại sao đêm nay em đến đây, với bọn tay sai quanh quẩn, để thỉnh cầu một công việc mà cả thầy và em đều biết là em không muốn làm?” Voldermort tỏ ra ngạc nhiên một cách lạnh nhạt. “Một công việc mà tôi không muốn làm à? Ngược lại ông Dumbledore à, tôi muốn làm công việc đó lắm.” “À, em muốn trở lại trường Hogwarts, nhưng em đâu có tha thiết dạy học hơn thuở em mười tám tuổi. Em muốn gì hở, Tom? Tại sao không thử một lafn đưa ra lời yêu cầu thẳng thắn?” Voldermort nhếch mép cười nhạo. “Nếu ông không muốn cho tôi một chỗ dạy...” “Dĩ nhiên là thầy không cho,” cụ Dumbledore nói. “Và thầy không hề nghĩ em trông mong thầy sẽ cho. Dù sao đi nữa, em đã đến đây, em đã yêu cầu, em ắt hẳn có một mục đích.” Voldermort đứng dậy. Trông hắn ít giống Tom Riddle hơn bao giờ hết, mặt hắn dày lên cơn thịnh nộ. “Đây là lời cuối cùng của ông à?” “Đúng vậy,” cụ Dumbledore nói, cụ cũng đứng dậy. “Vậy thìông và tôi không còn gìđể nói với nhau nữa.” “Đúng, không còn gì,” cụ Dumbledore nói và một nỗi buồn mênh mông lan tỏa trên gương mặt cụ. “Đã qua lâu rồi cái thời thầy có thể làm em sợ bằng cách đốt tủ áo của em và buộc em phải bồi thường lại những hành động vô đạo đức của em. Nhưng thầy ước gìthầy có thể, Tom à... Thầy ước gìthầy có thể...” Trong một giây, Harry suýt hét lên lời cảnh giác không cần thiết: nó chắc chắn là Voldermort thọc tay vào túi áo nắm lấy cây đũa phép; nhưng khoảnh khắc đó qua liền, Voldermort đã quay ra, cánh cửa đang đóng lại và hắn đã đi mất. Harry cảm thấy bàn tay của cụ Dumbledore lại nắm chặt cánh tay nó và chỉ một giây sau hai thầy trò đã lại đứng hầu như cũng một chỗ trước đó, nhưng không có tuyết đọng trên gờ cửa sổ và bàn tay cụ Dumbledore một lần nữa trông như chết rồi, khô quắt thâm đen. “Thưa thầy, tại sao?” Harry nói ngay, vừa ngước lên nhìn vào gương mặt cụ Dumbledore. “Tại sao hắn trở về? Thầy có bao giờ tìm ra lý do không?” “Thầy có những ý nghĩ,” cụ Dumbledore nói, “nhưng chỉ là ý nghĩthôi.” “Thưa thầy, ý nghĩgìạ?” “Thầy sẽ nói cho con biết, Harry à, khi con đã lấy được ký ức của giáo sư Slughorn,” cụ Dumbledore nói. “Khi con có được mảnh cuối cùng của trò chơi lắp hình, thầy hy vọng, mọi thứ sẽ rõ ràng... đối với cả con lẫn thầy.” Harry vẫn còn sôi sục sự tò mò và mặc dù cụ Dumbledore đã đi ra cửa và mở sẵn cho nó, nó vẫn không chịu đi ngay. “Thưa thầy, có phải hắn lại muốn dạy môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám không? Hắn không hề nói...” “À, hắn chắc chắn là muốn dạy môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám,” cụ Dumbledore nói. “Hậu quả của cuộc gặp gỡ vừa rồi đã chứng minh điều đó. Con thấy đó, kể từ khi thầy từ chối thỉnh cầu của Voldermort, chúng ta không bao giờ có thể giữa được một giáo sư dạy môn Phòng chống nghệ thuật hắc ám lâu hơn một năm.” Chương 21 Phòng bất khả tri Harry suy nghĩ nát óc nguyên một tuần lễ sau đó để tìm ra cách thuyết phục được Thầy Slughorn giao bản ký ức thật, nhưng đầu óc nó vẫn chẳng nảy ra cái gì đáng được coi là sáng kiến cả, nên nó đành phải làm cái mà dạo này nó làm hơi thường xuyên mỗi khi không biết phải làm sao, ấy là: nghiền ngẫm cuốn sách Độc dược, hy vọng Hoàng tử nguệch ngoạc điều gìđó có ích bên lề sách, như chàng đã làm bao phen trước đó. “Bồ không kiếm được gìtrong đó đâu,” Hermione kiên quyết nói vào một buổi tối chủ nhật. “Đừng gây sự, Hermione”. Harry nói, “Nếu không nhờ Hoàng tử, giờ đây Ron chẳng còn được ngồi đây đâu.” “Nó sẽ vẫn còn ngồi đây nếu bồ chịu nghe lời Thầy Snape từ hồi năm thứ nhất,” Hermione sẵng giọng nói. Harry phớt lờ Hermione. Nó vừa tìm được một câu thần chú, (Cắt sâu mãi mãi!), được viết tháu bên dưới một dòng chữ rất đáng ngẫm nghĩ, “Dành cho kẻ thù”. Nó ngứa ngáy muốn thử ngay, nhưng nghĩtốt nhất là đừng làm trước mặt Hermione. Nó bèn lén xếp góc trang sách để làm dấu. Tụi nó đang ngồi bên lò sưởi trong phòng sinh hoạt chung; những đứa khác còn thức ddwwdu là đám bạn học năm thứ sáu. Trước đó, khi tụi nó trở về sau bữa ăn tối và trông thấy một thông báo mới trên bảng tin về ngày kiểm tra Độn thổ, đứa nào cũng xôn xao hồi hộp. Những ai đủ mười bảy tuổi trước hay đúng vào ngày kiểm tra đầu tiên, ngày hăm mốt tháng tư, sẽ có thể chọn ghi danh theo học những buổi luyện tập thêm được tổ chức ở làng Hogsmeade (có sự giám sát nghiêm ngặt). Ron phát hoảng khi đọc thông báo này; nó vẫn chưa biết cách độn thổ và lo sốt vó là nó chưa sẵn sàng để dự kỳ kiểm tra. Hermione đã độn thổ được hai lần nên hơi tự tin hơn một chút, còn Harry thì bốn tháng nữa mới đủ mười bảy tuổi, nên dù có sẵn sàng hay chưa thì cũng không thể dự thi. “Nhưng ít ra thìbồ cũng có thể độn thổ!” Ron nói giọng căng thẳng. “Bồ sẽ chẳng gặp khó khăn gìvào tháng bảy tới!” “Mình chỉ mới làm được một lần,” Harry nhắc Ron; trong buổi học trước nó rốt cuộc cũng tìm được cách biến mất rồi hiện hình trở lại bên trong cái vòng cảu nó. Vì đã lãng phí quá nhiều thì giờ giãi bày ra miệng nỗi lo lắng về chuyện Độn thổ, nên Ron giờ đây vẫn còn phải khốn khổ làm cho xong bài luận văn khó độc địa của Thầy Snape, trong khi Harry và Hermione đã xong từ đời tám hoánh. Harry hoàn toàn yên chí sẽ bị điểm thấp bài này bởi vì nó không đồng ý với Thầy Snape về cách thức tốt nhất để khắc phục bọn giám ngục, nhưng nó cóc cần: bây giờ đối với nó ký ức cuat Thầy Slughorn mới là điều quan
  • 104. trọng nhất. “mình nói cho bồ biết nhé, cái gã Hoàng tử ngu xuẩn đó sẽ không thể giúp được gì bồ trong chuyện này đâu, Harry!” Hermione nói, giọng to hơn. “Chỉ có một cách ép buộc người ta làm điều bồ muốn, ấy là ếm bùa Độc đoán, mà chuyện đó thìbất hợp pháp...” “Ừ, biết rồi, khổ lắm, cám ơn.” Harry nói, không rời mắt khỏi cuốn sách. “Chính vì vậy mà mình đang kiếm cách khác, một độc dược hay thần chú nào đó...” “Bồ đang đi trật hướng rồi,” Hermione nói. “Thầy Dum nói là chỉ có bồ mới lấy được ký ức đó. Điều đó tức có nghĩa là bồ có thể thuyết phục Thầy Slughorn bằng một cách mà những người khác không thể làm được. Cách đó nhất định không phải là lén bỏ thuốc mê cho thầy, vìai cũng có thể làm việc đó...” “Từ “tham chiến” đánh vần như thế nào nhỉ?” Ron vừa nói vừa lắc mạnh cây viết lông ngỗng vừa trợn mắt nhìn tờ giấy da của nó. “Đâu phải T-H-U-M...” “Không, trật rồi,” Hermione nói, kéo bài luận văn của Ron về phía mình. “Và từ “điểm” cũng không phải bắt đầu bằng L-I-M... Bồ đang dùng loại viết gì vậy?” “Một trong những cây viết Tự-kiểm-tra-chính-tả của anh Fred và George, nhưng mình nghĩcó lẽ bùa hết linh rồi.” “Ừ, chắc vậy,” Hermione nói, chỉ vào cái đề bài luận văn của Ron, “bởi vì đề bài thầy ra cho tụi mình là cách ứng phó với bọn giám ngục, chứ không phải bọn Dám-đục và mình cũng không nhớ là bồ có khi nào đổi tên thành ra “Roonil Wazlib” không.” “Đâu có!” Ron nói, kinh hoàng trợn mắt ngó tờ giấy da. “Đừng có nói là mình phải viết lại hết cả bài quỉ sứ này nghen!” “Không sao, tụi mình có thể sửa lại,” Hermione nói, kéo bài luận văn về phía cô bé và rút cây đũa phép ra. “Mình thương bồ quá, Hermione,” Ron nói, ngồi thừ xuống ghế, mệt mỏi dụi mắt. Hermione hơi ửng hồng nhưng chỉ nói, “Đừng có để cho Lavender nghe bồ nói vậy.” “Không,” Ron nói với hai bàn tay của nó. “Hay là mình cứ để cho cô ta nghe, may ra cô ta cho mình de.” “Tại sao bồ không cho cô ta de nếu bồ muốn gnhir chơi?” Harry hỏi. “Bồ chưa từng bỏ rơi ai, đúng không?” Ron nói. “Bồ với Cho chỉ...” “Ừ, đại khái là chia tay thôi,” Harry nói. “Ước gì mình với Lavender cũng chia tay,” Ron rầu rĩ nói và ngắm Hermione lặng lẽ gõ đầu cây đũa phép của cô bé lên từng chữ trật chính tả để những chữ này tự sửa cho đúng trên trang giấy. “Nhưng mình càng gợi ý chia tay thì cô ta lại càng bám chặt hơn. Chẳng khác gì mình bị bồ bịch với một con bạch tuộc khổng lồ.” Hai mươi phút sau, Hermione đưa trả lại bài luận văn của Ron và nói, “Xong.” “cám ơn vô cùng,” Ron nói. “Mình có thể mượn cây viết cảu bồ để làm nốt phần kết luận không?” Cho tới lúc ấy Harry vẫn chưa tìm thấy cái gìxài được trong những ghi chép của Hoàng tưt Lai, nó bèn ngước nhìn quanh và nhận thấy chỉ còn ba đứa nó trong phòng sinh hoạt chung; Seamus vừa mới đi về phòng ngủ, sau khi nguyền rủa Thầy Snape và bài luận văn thầy cho. Những aam thanh duy nhất còn vang lên là tiếng lửa reo tí tách trong lò sưởi và tiếng Ron hí hoáy viết ddaonj văn cuối cùng về bọn giám ngục bằng cây viết lông ngỗng của Hermione. Harry vừa gấp lại cuốn sách của Hoàng tử Lai, còn đang ngáp thì... Cạch! Hermione vuột miệng một tiếng rú nho nhỏ; Ron làm văng mực khắp bài luận văn mới ráo mực của nó và Harry kêu lên, “KreacHermione!” Con gia tinh cúi gập mình lại và hầu chuyện với mấy ngón chân xương xẩu của nó. “Chủ nhân nói người muốn nghe báo cáo thường xuyên về những gìcậu malfoy đang làm, cho nên KreacHermione đến để...” Cạch! Dobby xuất hiện bên cạnh KreacHermione, đội lệch cái nón bình tích. “Thưa cậu Harry Potter, Dobby cũng có giúp đỡ!” Con gia tinh thứ hai léo nhéo nói, vừa liếc cho KreacHermione một ánh mắt bực bội. “Và KreacHermione nên nói cho Dobby biết khi nào hắn đến gặp Harry Potter để hai bên cùng làm bản tường trình!” “Cái gìđây?” Hermione hỏi, vẫn còn kinh ngạc về sự xuất hiện thình lình của hai con gia tinh. “Chuyện gìvậy, Harry?” Harry ngần ngừ trước khi trả lời, bởi vì nó chưa nói với Hermione về việc sai KreacHermione và Dobby theo đuôi Malfoy; gia tinh luôn luôn là một đề tại nhạy cảm đối với Hermione. “À... chúng theo dõi Malfoy giùm mình,” nó nói. “Cả ngày và đêm,” KreacHermione làu bàu. “thưa cậu Harry Potter, Dobby đã không ngủ cả một tuần lễ!” Dobby tự hào nói, vừa lắc lư tại chỗ. Hermione có vẻ phẫn nộ. “Bạn không hề ngủ sao, Dobby? Nhưng mà, Harry, chắc chắn bồ đâu có biểu bạn ấy đừng...” “Không, dĩ nhiên mình không hề,” Harry nói nhanh. “Dobby, bạn cứ ngủ, nhé? Nhưng có ai phát hiện được điều gì không?” Nó hấp tấp hỏi thêm trước khi Hermione có thể can thiệp một lần nữa. “Cậu Malfoy di chuyển với dáng vẻ quí phái xứng đáng dòng dõi thuần huyết,” KreacHermione khào khào nói ngay. “nét mặt của cậu ấy gợi nhớ đến vẻ tao nhã của nữ chủ nhân và phong thái của cậu ấy là...” “Draco Malfoy là một thằng bé hư hỏng!” Dobby ré lên giận dữ. “Một thằng bé hư hỏng đã... đã...” Toàn thân Dobby run lên, từ cái quai bình tích đội trên đầu cho tới đầu ngón chân mang vớ và nó chạy ào tới bên lò sưởi, như thể sắp nhào đầu vô đó. Chuyện này không đến nỗi bất ngờ đối với Harry, nó vội ôm ngang hông con gia tinh và giữ thật chặt. Dobby vùng vẫy vài giây rồi rũ ra. “Cám ơn cậu Harry Potter,” con gia tinh thở hổn hển. “Dobby vẫn còn cảm thấy khổ sở khi nói xấu chủ nhân cũ.” Harry thả nó ra; Dobby sửa cái bình tích cho ngay lại và dõng dạc nói với KreacHermione, “Nhưng KreacHermione nên biết là Draco Malfoy không phải là một chủ nhân tốt của một gia tinh!” “Ừ, tụi này không cần nghe chuyện mi phải lòng Malfoy,” Harry bảo KreacHermione . “Chúng ta cứ đốt giai đoạn đi nhanh tới chỗ hắn đang thực sự làm gì.” KreacHermione lại cúi gập xuống, rồi nói. “Cậu Malfoy ăn trong Đại sảnh đường, cậu ngủ trong phòng ngủ ở tầng hầm, cậu học trong những lớp khác nhau...” Harry ngắt lời KreacHermione, “Dobby, bạn nói tôi nghe đi. Hắn có đi tới chỗ nào mà lẽ ra hắn không nên đến không?” “Thưa cậu Harry Potter,” Dobby nói eo éo, hai con mắt tròn to tổ bố của nó lấp lánh ánh lửa, “Dobby không thể phát hiện thằng nhãi Malfoy vi phạm nội qui, nhưng hắn rất giỏi che giấu hành tung. Hắn đã đi lên lầu bảy rất thường xuyên với những học sinh khác nhau, mấy đứa đó canh gác cho nó khi nó đi vô...” “Phòng theo yêu cầu!” Harry nói, vừa tự đập mạnh cuốn Bào chế thuốc cao cấp lên trán. Hermione và Ron trố mắt nhìn Harry. “Đó là nơi nó đã trốn vô! Đó là nơi nó đang làm… làm cái gì đó mà nó đang làm! Và mình cá chắc đó là lý do nó biến mất trên tấm bản đồ... Thử suy nghĩ xem. Mình chưa hề thấy Phòng theo yêu cầu hiện trên bản đồ!” “Có lẽ những tay Đạo tặc không hề biết có căn phòng đó,” Ron nói. “Mình nghĩđó là một khía cạnh huyền ảo của căn phòng.” Hermione nói. “Nếu bồ cần nó đừng hiển thị trên bản đồ thìnó sẽ không hiển thị.” “Dobby, bạn có tìm cách vô được trong đó để coi Malfoy làm gìkhông?” Harry sốt ruột hỏi.
  • 105. “Không, thưa cậu Harry Potter, không thể được,” Dobby nói. “Được, làm được chứ,” Harry nói ngay. “Malfoy đã đột nhập được Tổng hành dinh của tụi mình ở đó vào năm ngoái, thì mình cũng sẽ có thể lẻn vô đó để do thám nó, không hề gìcả.” “Nhưng mình không nghĩ bồ sẽ làm được, Harry à,” Hermione nói chậm rãi. “Kỳ đó Malfoy biết chính xác cách sử dụng căn phòng, chắc vậy, bởi vì con nhỏ Marietta đã ba hoa tiết lộ. Hắn yêu cầu căn phòng trở thành Tổng hành dinh ĐQD, thế là căn phòng hiện ra. Nhưng bây giờ bồ không biết căn phòng trở thành cái gìkhi Malfoy đi vào đó, thìbồ không thể biết phải yêu cầu nó biến thành cái gì.” “Sẽ có cách giải quyết được điều đó,” Harry nói đại. “Dobby, mi đã làm xuất sắc.” “KreacHermione cũng giỏi nữa,” Hermione tử tế nói; nhưng KreacHermione đã chẳng tỏ vẻ biết ơn tí tẹo nào thì chớ, lại trượn tròn hai con mắt đỏ ké tổ tường lên và gầm gừ với cái trần nhà, “Con Máu Bùn nói chuyện với KreacHermione, KreacHermione sẽ làm bộ không nghe gìhết…” “Cút đi!” Harry nạt nó và KreacHermione cúi gập người chào lần cuối rồi độn thổ mất tiêu. “Bạn cũng nên về và ráng ngủ một chút, Dobby à.” “Thưa cậu Harry Potter, cám ơn cậu!” Dobby vui vẻ ré lên và nó cũng biến mất. “Hay biết chừng nào!” Harry phấn khởi nói, khi quay qua Ron và Hermione ngay lúc căn phòng không còn bóng gia tinh nữa. “Chúng ta đã biết được Malfoy đi đâu! Bây giờ chúng ta đã bắt giò được nó rồi!” “Ừ, hay lắm,” Ron ủ rũ nói, nó đang cố gắng chùi đám mực chèm nhẹp trên cái mà mới đây là một bài luận văn gần xong. Hermione lại kéo bài luận về phía cô bé và bắt đầu dùng cây đũa phép rút mực ra khỏi tờ giấy da. “Nhưng còn cái chuyện nó đi lên trên đó với những học sinh khác nhau nghĩa là sao?” Hermione nói. “Có bao nhiêu đứa trong cái đám ấy? Bồ không nghĩ là nó để cho quá nhiều đứa biết chuyện nó đang làm chứ?” “Ừ, chuyện đó lạ thất,” Harry nói, cau mày lại. “Mình nghe nó bảo thằng Crabbe là chuyện nó đang làm không mắc mớ gìđến thằng Crabbe cả... vậy thìnó nói gì với cả những... những...” giọng Harry nhỏ dần đi; nó nhìn trừng trừng vào ngọn lửa. “Quỉ thần ơi, sao mà mình ngu quá mạng,” nó nói nhỏ. “Quá rõ ràng, chứ còn gìnữa? Dưới tầng hầm có cả một thùng khổng lồ thuốc đó... Trong suốt buổi học đó bất cứ lúc nào nó cũng có thể thuổng một mớ...” “Thuổng cái gì?” Ron hỏi. “Đa quả dịch. Nó đã ăn cắp một mớ Đa quả dịch mà Thầy Slughorn cho tụi mình xem trong bữa học Độc dược đầu tiên... Không thể có nhiều học sinh khác nhau đứng canh cho Malfoy... Chỉ có Crabbe và Goyle như mọi khi... Ừ, tất cả đều khớp!” Harry nói, rồi đứng bật dậy và bắt đầu đi qua đi lại phía trước lò sưởi. “Hai đứa đó ngu vừa đủ để làm những gì Malfoy sai bảo dù cho nó không thèm nói cho chúng biết nó đang làm gì, nhưng nó không muốn hai đứa kia bị bắt gặp thập thò bên ngoài Phòng theo yêu cầu, vậy là nó bắt chúng uống Đa quả dịch để cho giống người khác... Hai đứa con gái mà mình thấy đi cùng với nó cái bữa nó bỏ xem trận Quid... hìhì! Chính là Crabbe và Goyle!” “Có phải bồ cũng định nói,” Hermione nói bằng giọng cố im đi, “là cô bé mà mình sửa giùm cái cân...?” “Đúng, dĩ nhiên!” Harry nói to, vừa nhìn Hermione chòng chọc. “Dĩ nhiên rồi! Malfoy ắt hẳn đang ở bên trong căn phòng lúc đó, cho nên cô bé đó – mà mình đang nói về cái gì vậy? – thằng ấy làm rớt cái cân để báo cho Malfoy đừng đi ra, bởi vì có người đang ở đó! Và con bé làm rớt chai nòng nọc nữa! Tụi mình đã đi ngang qua nó bao nhiêu phen mà không nhận ra!” “Nó bắt Crabbe và Goyle biến hình thành con gái à?” Ron cười hô hố. “Quỷ thần ơi... hèn gì trông hai đứa nó dạo này chẳng được vui vẻ cho lắm. Mình ngạc nhiên là hai đứa nó không biểu Malfoy cút xéo cho rồi.” “Chà, tụi nó không dám đâu. Dám không nào, nếu nó chìa cho tụi kia coi Dấu hiệu hắc ám của nó?” Harry nói. “Hừm... cái Dấu hiệu hắc ám đó ai biết có tồn tại hay không,” Hermione ngờ vự nói, vừa cuộn tròn bài luận văn đã ráo mực của Ron lại trước khi có thêm chuyện gìlàm bài văn khốn đốn thêm, rồi đưa cho Ron. “Rồi sẽ thấy,” Harry nói một cách tin tưởng. “Ừ, rồi sẽ thấy,” Hermione nói, vừa đứng lên và vươn vai. “Nhưng mà, Harry à, nghe đây trước khi bồ mất hết bình tĩnh. Mình vẫn nghĩ là bồ sẽ không thể vô được Phòng theo yêu cầu nếu trước tiên không biết cái gìở trong đó. Và mình cũng nghĩlà bồ không nên quên...” cô nàng khoác cái túi xách lên vai và nhìn nó một cách nghiêm trang, “rằng điều mà bồ nên tập trung vào là lấy cho được cái ký ức của Thầy Slughorn. Ngủ ngon nhé.” Harry nhìn cô nàng bỏ đi, hơi quạu. Khi cánh cửa lên phòng ngủ nữ sinh đã được đóng lại sau lưng Hermione, Harry quay lại nói với Ron. “bồ nghĩsao?” “Ước gì mình có thể độn thổ giống một con gia tinh,” Ron nói, vẫn đăm đăm nhìn vào chỗ mà Dobby vừa biến mất. “Mình sẽ cầm chắc trong tay kỳ thi độn thổ.” Đêm đó Harry ngủ không yên giắc. Nó nằm thao thức trong một khoảng thời gian mà nó cảm giác là mấy tiếng đồng hồ, lòng cứ thắc mắc hoài là Malfoy đang sử dụng Phòng theo yêu cầu như thế nào và nó, Harry, nó sẽ thấy gì khi đi vào đó ngày hôm sau, bởi vì Hermione có nói gì đi nữa, Harry vẫn tin chắc là nếu Malfoy đã có thể thấy Tổng hành dinh của ĐQD, thì nó cũng sẽ có thể thấy được cái gì đó của Malfoy. Đó có thể là cái gì nhỉ? Một địa điểm hội họp? Một chỗ để lẩn trốn? Một kho chứa đồ? Một xưởng chế tạo? Đầu óc Harry làm việc căng thẳng và cuối cùng khi nó lăn ra ngủ, những giấc chiêm bao của nó cứ bị gián đoạn và xáo trộn bởi hình ảnh của Malfoy, thằng này biến ra Thầy Slughorn, rồi Thầy Slughorn lại biến thành Thầy Snape... Vào bữa điểm tâm sáng hôm sau, Harry ở trong trạng thái chờ đợi bồn chồn; nó có một tiết trống trước buổi học Phòng chống nghệ thuật hắc ám và nó quyết định dành tiết trống này để tìm cách vào Phòng theo yêu cầu. Hermione cahnwgr tỏ ra chút hứng thú gì cái kế hoạch đột nhập mà nó thì thầm với cô bé, điều này khiến nó quạu hết sức, bởi vìnó nghĩHermione đã có thể giúp ddwwocj nhiều nếu cô bé muốn giúp. ”này,“ nó nói khẽ trong lúc chồm tới trước và đặt một bàn tay lên tờ Nhật báo Tiên Tri mà Hermione vừa gỡ ra khỏi chân một bưu cú, để không cho cô bé mở tờ báo ra che kín mặt. “Mình không hề quên vụ Thầy Slughorn, nhưng mình chẳng có một chút gợi ý nào về cách lấy được cái ký ức của thầy, vậy tại sao trong khi chờ bộ não của mình nảy ra sáng kiến gìđó, mình không thử tìm hiểu xem Malfoy đang làm gì?” “Mình đã nói với bồ rồi, bồ cần phải thuyết phục Thầy Slughorn,” Hermione nói. “Chuyện đó không thể đánh lừa hay trù ếm thầy mà đạt được, chứ nếu không thì thầy Dum đã có thể làm như vậy trong một giây là xong. Thay vì làm chuyện tào lao bên ngoài căn Phòng theo yêu cầu...” cô nàng giật tờ Nhật báo Tiên Tri ra khỏi bàn tay Harry và mở ra nhìn vào trang nhất, “...bồ nên đi tìm Thầy Slughorn và thử làm động lòng nhân hậu của thầy. ”Có ai mà tụi mình biết...?” Ron hỏi, trong khi Hermione liếc qua các dòng tít. “Có!” Hermione nói, khiến cả Harry và Ron mắc nghẹn lúc đang ăn món điểm tâm. “Nhưng không sao, lão không chết... Đó là lão Mundungus, lão bị bắt và tống vô nhà ngục Azkaban! Chuyện gì đó liên quan đến hiện thân thành một Âm binh trong lúc trộm cắp có âm mưu và một người nào đó tên là Octavius Pepper đã biến mất. Ôi, thiệt là kinh khủng, một thằng bé chín tuổi đã bị bắt vì đã tìm cách giết cha mẹ nó, họ cho là thằng bé bị ếm bùa Độc đoán.” Tụi nó ăn cho xong bữa điểm tâm trong im lặng. Hermione đi ngay đến lớp Cổ tự Runes; Ron đi về phòng sinh hoạt chung, ở đó nó tiếp tục làm nốt phần kết luận cho bài luận văn về bọn giám ngục nộp Thầy Snape và Harry thìđi tới hành lang trong tầng bảy và đoạn nối dài của bức tường đối diện tấm thảm thêu của Barnabas xứ Barmy dạy bọn quỉ khổng lồ múa ba lê. Khi đã tìm được một hành lang trống vắng rồi, Harry trùm tấm Áo khoác tàng hình lên, nhưng nó cũng chẳng cần bận tâm mà chi. Lúc tới nơi, nó thấy nơi đó vắng ngắt. Harry không chắc khả năng nó vô được căn phòng đó sẽ dễ dàng hơn lúc Malfoy đang ở trong hay đang ở ngoài, nhưng ít nhất thì cố gắng lần đầu của nó cũng không bị sự có mặt cảu Grabbe hay Goyle dưới lớp một con bé mười một tuổi làm cho phức tạp thêm. Nó nhắm mắt lại khi đi đến gần chỗ giấu cánh cửa vào Phòng theo yêu cầu. Nó biết nó phải làm gì; Năm ngoái nó đã rất thành công về chuyện này. Tập trung tất cả sức lực, nó nghĩ, “Tôi cần việc mà Malfoy đang làm trong này... Tôi cần thấy cái việc mà Malfoy đang làm trong này.. Tôi cần thấy cái việc mà Malfoy đang làm trong này...” Nó đã đi ngang qua cánh cửa ba lần; rồi, tim đánh thình thình vì hồi hộp, nó mở mắt ra và nhìn thẳng trước mặt, nhưng nó vẫn chỉ thấy phần nối dài của bức tường trơ trụi. Nó bước tới trước và đẩy thử. Bức tường đá vẫn kiên cố và không nhượng bộ.
  • 106. “Được thôi,” Harry nói to. “Được thôi... Mình đã nghĩtrật...” Nó ngẫm nghĩmột lúc rồi lại bắt đầu bước, mắt nhắm, hết sức tập trung tư tưởng. “Tôi cần thấy được chỗ mà Malfoy cứ bí mật lui tới... Tôi cần thấy được chỗ mà Malfoy cứ bí mật lui tới... Tôi cần thấy được chỗ mà Malfoy cứ bí mật lui tới...” Sau ba lần đi qua, nó mở mắt ra háo hức hy vọng. Chẳng có cửa nẻo gìcả. “Ôi, hiện ra đi mà,” nó quạu quọ nói với bức tường. “Chỉ thị quá rõ ràng rồi còn gì. Được rồi.” Nó suy nghĩ muốn bể óc thêm nhiều phút nữa trước khi tiếp tục sải bước một lần nữa. “Tôi cần căn phòng trở thành cái chỗ đã trở thành chỗ cho Draco Malfoy...” Khi đi xong ba vòng, nó không mở mắt ra ngay tức thì; nó ráng hết sức lắng nghe thiệt kỹ, như thể nó có thể nghe tiếng cánh cửa vụt hiện ra. Nhưng mà, nó chẳng nghe được gìcả, ngoại trừ tiếng chim hót xa ca ở ngoài sân. Nó mwor mắt ra. Chẳng có cửa nẻo gìcả. Harry chửi thề. Ai đó rú lên. Nó ngoảnh lại thfi thấy một đám học sinh năm thứ nhất đang chạy vòng trở lại góc tường, có vẻ như tụi nhóc tưởng đâu vừa gặp phải một con ma chửi bậy đặc biệt. Harry cố thử mọi biến thể của câu “Tôi cần thấy việc mà Draco Malfoy đang làm bên trong căn phòng,” mà nó có thể nghĩra trong suốt một tiếng đồng hồ, cuối giờ nó đành phải thừa nhận là Hermione có lẽ có lý: căn phòng đơn giản là khoog chịu mở ra cho nó. Nản chí và bực bội, nó bỏ đi đến lớp học Phòng chống nghệ thuật hắc ám, vừa đi vừa kéo tấm Áo khoác tàng hình ra khỏi người và nhét vô túi xách. “Potter, trò lại trễ nữa,” Thầy Snape lạnh lùng nói, khi Harry vội vã đi vào căn phòng học được chiếu sáng bằng ánh nến. “Trừ nhà Gryffindor mwoif điểm.” Harry cau có nhìn Thầy Snape khi quăng mình ngồi xuống bên cạnh Ron. Một nửa lớp học vẫn còn đang đứng, vừa lấy sách vở ra vừa bày biện đồ đạc của chúng; nó đâu có trễ nải gìhơn mấy đứa khác hè. “Trước khi chúng ta bắt đầu, ta muốn các trò nộp bài luận văn về Giám ngục,” thầy Snape nói, vừa vẫy đại cây đũa phép, khiến cho hai mươi lăm cuộn giấy da bay vèo lên không trung rồi đáp xuống thành một xấp ngay ngắn trên bàn thầy. “Và ta hy vọng giùm các trò là những bài này sẽ khá hơn cái mớ vớ vẩn về phản kháng lại lời Nguyền Độc đoán mà ta đã phải chịu đựng. Bây giờ, phiền tất cả các trò mở sách tới trang... Cái gìđấy, cậu Finnigan?” “Thưa thầy,” Seamus nói, “Con đang thắc mắc, làm sao người ta phân biệt được một Âm binh và một con ma? Bởi vì trên báo Tiên tri có đăng cái gì đó về một Âm binh...” “Không, không phân biệt được,” Thầy Snape nói với giọng chán ngán. “Nhưng thưa thầy, con nghe người ta nói...” “Nếu cậu thực sự đọc bài bóa vừa nói đến, cậu Finnigan à, cậu sẽ biết rằng kẻ bị gọi là Âm binh đó chẳng qua là một tên trộm hôi hám bẻm mép có tên là Mundungus Fletcher.” “Mình tin là thầy Snape và lão Mundungus cùng một phe,” Harry thì thầm với Ron và Hermione. “Chứ không thì ông ấy đâu có bực mình chuyện lão Mundungus để bị tóm...” “Nhưng Potter dường như có khối chuyện để nói về đề tài này,” Thầy Snape nói, thình lình chỉ về phía cuối lớp, đôi mắt đen của thầy nhìn chằm chằm vào Harry. “Chúng ta hãy hỏi Potter làm thế nào chúng ta phân biệt được một Âm binh với một con ma.” Cả lớp ngoảnh lại nhìn Harry, nó vội vàng cố nhwos lại những gì thầy Dum đã nói với nó trong cái đêm hai thầy trò đi thăm Thầy Slughorn. “Ơ... Dạ... ma thìtrong suốt...” nó nói. “À, giỏi lắm,” Thầy Snape ngắt lời nó, môi thầy cong lên. “Đúng vậy, thật dễ thấy là gần sau năm trời học tập Pháp thuật kể như uổng công đối với trò, Potter à. “Ma thìtrong suốt.”” Pansy Parkinson bật ra tiếng cười hí hí chói tai. Nhiều đứa khác cũng cười khì. Harry hít sâu vào và tiếp tục bình tĩnh nói cho dù ruột gan nó đang sôi lên. “Dạ, ma thìtrong suốt, nhưng Âm binh là những xác chết, thưa thầy đúng không ạ? Do vậy chúng rắn chắc...” “Một dứa con nít năm tuổi cũng có thể nói được như vậy,” Thầy Snape châm chọc. “Âm binh là một cái xác chết đã bị thần chú của một pháp sư Hắc ám kích thích cho hoạt động trở lại. Nó không sống lại, nó chỉ được dùng như một con rối hành động theo mệnh lệnh của pháp sư đó. Một con ma, ta tin rằng tất cả các trò lúc này đã biết, đó là dấu vết còn lại của một linh hồn đã rời khỏi thế gian và dĩnhiên, như Potter đã khôn ngoan nói cho chúng ta biết, ma thì trong suốt.” “Dạ, điều Harry nói hết sức giúp ích cho tụi con phân biệt được hai thứ đó!” Ron nói. “Khi tụi con giáp mặt một Âm binh trong một hẻm tối, tụi con sẽ nhìn kỹ coi nó có rắn chắ không, chưa tụi con đâu có thể hỏi, “Xin lỗi, mi có phải là dấu vết của một linh hồn vừa rời khỏi thế gian không?” Một trận cười rộ lên, nhưng bị ánh mắt của thầy Snape dập tắt ngay. “Trừ nhà Gryffindor mười điểm nữa,” Thầy Snape nói. “Ta không trông mong nơi trò điều gì rắc rối hơn, Ronald Weasley ạ, một chàng trai rắn chắc đến nỗi không thể nào độn thổ ddwwocj hai phân trong phòng.” “Đừng,” Hermione thì thầm, túm lấy cánh tay Harry khi nó tức giận mở miệng toan nói. “Chẳng ích lợi gì đâu, bồ sẽ bị cấm túc một phen nữa cho coi, bỏ qua đi!” “Bây giờ các trò mở sách đến trang hai trăm mười ba,” Thầy Snape nói, hơi khủng khỉnh, “và đọc hai đoạn đầu về Lời nguyền hành hạ.” Rọn rất ơ thờ trong suốt buổi học. Khi chuông reo hết giờ, Lavender bắt kịp Ron và Harry (Hermione bí mật tan biến khỏi tầm nhìn khi thấy Lavender tới gần) và chửi rủa Thầy Snape không tiếc lời về chuyện thầy châm chọc chuyện độn thổ của Ron, nhưng điều đó dường như chỉ khiến Ron thêm quạu và nó rẫy cô nàng ra bằng cách rẽ vô nhà vệ sinh nam với Harry. “Nhưng mà Thầy Snape nói đúng, chứ gì nữa?” Ron nói sau khi đăm đăm nhìn vào cái gương bể chừng một hai phút. “Mình không biết có đáng cho mình đi thi không. Mình không thể nào hiểu nổi cách độn thổ.” “Bồ có lẽ chỉ cần học thêm những buổi phụ đạo thực hành ở Hogsmeade để coi bồ làm được tới đâu,” Harry nói một cách phải chăng. “Dù sao thì thực hành ở Hogsmeade cũng thú vị hơn là trong một cái vòng ngu xuẩn. Nếu đến lúc đó mà bồ vẫn không... bồ biết đấy... giỏi như bồ mong muốn, thì bồ có thể xin hoãn kỳ thi, đợi đến mùa hè cũng thi với mình luôn thể... Ê Myrtle, đây là nhà vệ sinh nam mà!” Bóng ma của một cô gái vừa hiện lên từ một cái bồn cầu trong một buồng cầu tiêu phía sau lưng tụi nó và bây giờ đang lơ lửng trôi giữa không trung, ngó chòng chọc xuống tụi nó qua đôi mắt kiếng dày cui. “Ôi,” con ma rầu rĩnói. “Thìra là hai anh.” “Chứ chị tưởng là ai ?” Ron nói, vừa nhìn con ma trong gương. “Không ai hết,” Myrtle nói, đăm chiêu nặn một cái mụn dưới cằm. “Anh ấy nói sẽ trở lại đây gặp em, nhưng rồi anh nói anh ghé vô và cũng thăm em…” con ma nhìn kỹ Harry, “…mà em thìkhông được gặp anh bao nhiêu tháng trời rồi. Em đã hiểu rằng đừng nên trông mong gìở tụi con trai.” “Tôi tưởng chị ở trong nhà vệ sinh nữ chứ ?” Harry nói, nó đã cẩn thận tránh xa chỗ đó mấy năm trời nay. “Thì em ở đó,” con ma nói, kèm theo một cái nhún vai hờn dỗi nhè nhẹ, “Nhưng như vậy đâu có nghĩa là em không thể đến thăm những chỗ khác. Có lần em đã ghé thăm anh ở buồng vệ sinh của anh, còn nhớ không?” “Rất rõ,” Harry nói. “Nhưng em nghĩ anh ấy thích em,” con ma than thở. “Có lẽ nếu hai anh đi ra thì anh ấy sẽ quay trở lại. Tụi này có nhiều điểm chung lắm. Em chắc anh ấy cũng cảm thấy như vậy.” Và con ma nhìn ra phía cửa tràn trề hy vọng. “Khi chị nói tụi chị có nhiều điểm chung,” Ron nói, lúc này giọng nó nghe có vẻ vui, “có phải ý chị nói là anh ta cũng ở trong cái ống con hình chữ S dưới bồn cầu ?”
  • 107. “Không,” Myrtle bướng bĩnh cãi lại, giọng của nó vang to trong buồng vệ sinh lát gạch cũ. “Ý em nói là anh ấy nhạy cảm, cũng bị người ta ức hiếp và anh ấy cũng cảm thấy cô đơn, cũng không có ai để tâm tình, anh ấy cũng không sợ bộc lộ tình cảm và anh ấy cũng khóc nữa!” “Có một nam sinh khóc ở đây hả ?” Harry tò mò hỏi. “Một thằng bé à ?” “Bỏ qua đi!” Myrtle nói, hai con mắt nhỏ xíu tèm lem của nó ngó chằm chằm Ron, anh chàng rõ ràng đang nhe răng cười. “Em đã hứa với anh ấy là em sẽ không nói với ai hết, em sẽ đem theo bímật của anh ấy xuống…” “…xuống mồ hả, chắc là không há ?” Ron nói kèm tiếng khịt mũi. “Xuống cống thìcó thể.” Myrtle hú lên một tiếng giận điên lên được rồi lặn trở vô cái bồn cầu, khiến nước tràn ra miệng bồn chảy xuống sàn. Myrtle khốn khổ dường như khiến Ron vui lại. “Bồ nói đúng,” nó nói, vừa lẳng cái túi xách lên vai, “Mình sẽ học thêm những buổi thực hành phụ đạo ở làng Hogsmeade trước khi quyết định thi hay không.” Vậy là cuối tuần sau đó Ron đi học cùng Hermione và những học sinh năm thứ sáu khác, những đứa đủ mười bảy tuổi để dự kỳ thi sắp diễn ra trong nửa tháng tới. Harry cảm thấy hơi ganh tị khi nhìn tụi nó chuẩn bị đi vô làng; nó bỏ lỡ dịp đi xuống làng, mà hôm đó lại là một ngày xuân đặc biệt đẹp trời, một trong những ngày bầu trời quang đãng mà lâu lắm rồi tụi nó mới được nhìn thấy. Tuy nhiên, nó đã quyết định dùng thời gian này để cố gắng một lần nữa tấn công Phòng theo yêu cầu. Khi nó thổ lộ kế hoạch này với Ron và Hermione ở tiền sảnh, Hermione nói, “Bồ sẽ làm tốt hơn nếu bồ đi thẳng tới văn phòng của Thầy Slughorn và tìm cách lấy cái ký ức.” “Mình đã và đang cố gắng !” Harry nói gay gắt, mà điều đó hoàn toàn đúng. Nó đã cố tình nấn ná lại sau mọi buổi học Độc dược của tuần qua để ddwwocj một mình trò chuyện với thầy, nhưng bậc thầy Độc dược luôn luôn rời khỏi căn hầm nhanh đến nỗi Harry không thể nào bắt được thầy. Đã hai lần Harry đi tới văn phòng thầy và gõ cửa, nhưng không nhận được hồi âm nào, mặc dù trong lần thứ hai nó chắc chắn có nghe được âm thanh của một cái máy hát cũ bị đột ngột hãm lại. “Thầy không muốn nói chuyện với mình mà Hermione! Thầy có thể đoán ra mình đang cố gắng gặp riêng thầy một lẫn nữa và thầy sẽ không để chuyện đó xảy ra !” “Thìbồ vẫn phải đeo đuổi công việc đó, đúng không ?” Thầy Filch đang dùng cái Phép dò bí mật chọc chọc thúc thúc như mọi khi, hàng người ngắn ngủn đang sắp hàng chờ lọt qua sự kiểm tra của thầy Filch nhíc tới trước vài bwocs và Harry không trả lời, đề phòng trường hợp bị thầy giám thị nghe lóm. Nó cầu chúc cho cả Ron lẫn Hermione được may mắn, rồi quay lại, trèo lên lại mấy bậc cầu thang đá và bất kể Hermione nói gì đi nữa, nó vẫn quyết tâm dành trọn một hay hai tiếng đồng hồ cho Phòng theo yêu cầu. Khi đã đi khuất tiền sảnh, Harry rút tấm Bản đồ đạo tặc và tấm Áo khoác tàng hình ra khỏi túi xách. Sau khi che giấu bản thân mình rồi, nó gõ lên tấm bản đồ, miệng lầm rầm, “tôi trang trọng thề là tôi đang mưu toan chuyện không ra gì,” và cẩn thận rà tấm bản đồ. Vì lúc đó là sáng chủ nhật, hầu hết học sinh đều ở trong những phòng sinh hoạt chung của các nhà khác nhau, học sinh nhà Gryffindor thì ở trên một cái tháp, học sinh nhà Ravenclaw ở trên một cái tháp khác, học sinh nhà SlytHermionein thì ở trong một hầm ngục và học sinh nhà Hufflepuff thì ở trong tầng hầm gần nhà bếp. Đó đây có một đứa lạc lõng đi vẩn vơ quanh thư viện hay lên một hành lang. Có vài ba người ở ngoài sân và kìa Greogory Goyle đang ở trên hành lang tầng thứ bảy. Chẳng có dấu hiệu gìcủa Phòng theo yêu cầu, nhưng Harry không lo lắng về chuyện đó ; nếu Goyle đang đứng canh gác ở bên ngoài thì căn phòng ắt mở cửa, dù cho tấm bản đồ có biết hay không. Vì vậy nó phóng như bay lên cầu thang, chỉ giảm tốc độ khi đến được góc hành lang, bấy giờ nó bắt đầu bò, rất chậm, về phía cô bé hôm nọ đang nắm chặt cái cân bằng đồng nặng nề mà Hermione đã tử tế giúp gắn lại cách đây hai tuần lễ. Nó đợi cho đến khi bò đến ngay phía sau cô bé mới thìthào, “Chào… em đẹp quá hén em ?” Goyle hét lên một tiếng kinh hoàng, liệng cái cân lên không trung và phóng chạy đi, mất biến trước khi tiếng cân rớt xuống sàn thôi ngân vọng khắp hành lang. Harry cười hể hả, quay lại thưởng ngoạn bức tường trống trơn, nó biết chắc Draco malfoy đang đứng đông cứng đằng sau bức tường đó, biết là có ai đó ở ngoài này, nhưng không dám xuất hiện. Cảm giác dễ chịu nhất của Harry về công lực là lúc nó cố nhớ lại dạng khẩu lệnh nào mà nó chưa thử. Nhưng tâm trạng tràn trề hy vọng này không kéo dài được lâu. Nửa giờ sau, sau khi đã thử nhiều khẩu lệnh khác nhau để xem Malfoy đang làm gì, bức tường vẫn chỉ là bức tường không cửa như thường. Harry cảm thấy nản lòng không thể tin nổi. Malfoy có thể chỉ cách nó vài bước chân, vậy mà vẫn không có tới một thẻo bằng chứng nhỏ nhất nào về cái gì đó mà thằng này đang làm bên trong phòng. Mất kiên nhẫn hoàn toàn, Harry chạy a vô bức tường đá cho nó một cái. “Ối!” Nó tưởng như nó gãy ngón chân rồi và khi nó nắm lấy mấy ngón chân đau mà nhảy lò cò, tấm Áo khoác tàng hình tuột khỏi người nó. “Harry ?” Nó quay phắt lại, trên một giò, nên té lăn cù. Nó ngạc nhiên đến vuột kêu lên khi nhìn thấy cô Tonks đang đi về phía nó như thể cô thường xuyên đi rảo trên hành lang này. “Chị làm gìở đây ?” Nó hỏi, lại té sụm xuống ; tại sao cô luôn bắt gặp nó lúc nó đang nằm lăn quay trên sàn ? “Tôi đến gặp cụ Dum,” cô Tonks nói. Harry nghĩcô Tonks trông thiệt là khủng khiếp : gầy hơn mọi khi, mái tóc màu lông chuột của cô xõa rũ rượi. “Văn phòng của thầy không phải ở đây,” Harry nói, “nó ở tuốt bên kia của tòa lâu đài, phía sau một cái máng xối có hình con thú đã…” “Tôi biết,” cô Tonks nói. “Cụ không có mặt ở đó. Có vẻ như cụ lại đi vắng.” “Thầy đi vắng à?” Harry nói, vừa thận trọng thả ngón chân vị giập xuống sàn. “Này… em đoán là chị không biết thầy đi đâu hả ?” “Không,” cô Tonks nói. “Chị muốn gặp thầy về chuyện gì?” “Không có gì đặc biệt,” cô Tonks nói, vừa vô thức dứt dứt cái tay áo của tấm áo chùng cô đang mặc. “Tôi chỉ nghĩ là cụ có thể biết việc gì đang diễn ra. Tôi nghe được khá nhiều chuyện đồn đại… người ta đang bị hại.” “Dạ, em biết, chuyện đó đăng đầy trên báo,” Harry nói. “Thằng nhóc đó tìm cách giết…” “Tờ Tiên tri thường đưa tin chậm,” cô Tonks nói, cô không có vẻ gìlắng nghe nó. “Dạo gần đây em không nhận được thư của ai trong Hội sao ?” “Không ai trong Hội viết thư cho em nữa,” Harry nói, “từ khi chú Sirius…” Nó thấy mắt cô Tonks đã đầy ngấn lệ. “Em xin lỗi,” nó vụng về nói línhí. “Ýem nói là… em cũng nhớ chú lắm.” “Cái gì?” Cô Tonks thẫn thờ, như thể cô không hề nghe nó nói. “Thôi. Tôi sẽ gặp lại em sau nhé, Harry.” Và cô đột ngột quay lưng lại, đi trở xuống hành lang, để lại Harry chăm chú nhìn theo cô. Khoảng chừng một phút sau hay cỡ đó, nó lại choàng tấm Áo khoác tàng hình lên và tiếp tục cố gắng đột nhập Phòng theo yêu cầu nhưng nó không còn đặt hết nhiệt tình vào việc đó nữa. Cuối cùng, một cảm giác đói meo trong bao tử cộng với việc biết rằng Ron cùng Hermione sắp trở lại trường để ăn trưa, nó đành bỏ cuộc và bỏ cái hành lang lại cho Malfoy hy vọng Malfoy sẽ không ra khỏi nơi đó trong vài tiếng đồng hồ nữa vìquá sợ hãi. Nó gặp Ron và Hermione trong Đại sảnh đường đang ăn được nửa bữa ăn trưa sớm. “Mình làm được rồi... ờ, đại khái vậy!” Ron hăm hở nói với Harry khi vừa thấy bóng nó. “Mình được giao cho độn thổ tới bên ngoài tiệm trà của bà Puddifoot và mình hơi vọt quá một tí, hiện ra ở gần Scrivenshafts, nhưng ít ra thìmình cũng đã di chuyển được!” “Xịn lắm, Ron!” Harry nói. “Còn bồ thìsao, Hermione?” “Ôi, hiển nhiên là cô nàng tuyệt hảo,” Ron nói, trước khi Hermione có thể trả lời. “Điềm đạm, đoán điềm, đối đếm hay cái quỉ đờ đờ gì đó, đều tuyệt hảo… sau đó tất cả tụi này đi uống nước ở quán Ba cây chổi và bồ phải nghe gã Twycross huyên thuyên về cô nàng… Mình sẽ ngạc nhiên nếu hắn không
  • 108. cầu hôn sớm…” “Còn bồ thìsao?” Hermione hỏi Harry, phớt lờ Ron. “Lần này bồ có lên Phòng theo yêu cầu không?” “Có,” Harry nói. “Và thử đoán xem mình đã đụng ai trên đó? Cô Tonks!” “Cô Tonks hả?” Ron và Hermione cùng lặp lại, coi bộ ngạc nhiên vô cùng. “Ừ, cô ấy nói cô ấy đi thăm thầy Dum.” “Nếu bồ muốn biết ý kiến mình thì đây,” Ron nói ngay sau khi Harry kể lại hết cuộc đối thoại với cô Tonks, “cô ấy hơi bị kiệt sức. Mất tinh thần sau chuyện xảy ra ở Bộ.” “Hơi lạ.” Hermione nói, vì lý do nào đó, Hermione tỏ vẻ rất quan tâm. “Lẽ ra cô ấy phải canh gác ngôi trường, tại sao cô bồng nhiên rời bỏ vị trí công tác để đến gặp thầy Dum khi thầy ấy thậm chíkhông có mặt ở đây?” “Mình có một ý nghĩ,” Harry ngập ngừng nói. Nó cảm thấy kỳ về việc nói ra điều đó; chuyện này thuộc lãnh địa của Hermione hơn là của nó. “Mấy bồ có nghĩlà có thể cô ấy đã… mấy bồ biết đó… yêu chú Sirius không?” Hermione trợn mắt ngó nó. “Cái gìkhiến cho bồ nói vậy?” “Mình không biết,” Harry nhún vai, “nhưng cô ấy suýt khóc khi mình nhắc đến tên chú ấy và Thần hộ mệnh của cô ấy bây giờ là một con gì đó bốn chân bự chảng. Mình không biết liệu đó có thể là… mấy bồ biết… chú ấy không.” “Đó là một ý tưởng,” Hermione chậm rãi nói. “Nhưng mình vẫn không biết tại sao cô ấy lại xông vào tòa lâu đài để tìm thầy Dum, nếu đó thực sự là lý do để cô ấy có mặt ở chỗ đấy.” “Vậy là quay trở lại điều mình đã nói, đúng không?” Ron nói, lúc này nó đang xúc khoai tây nghiền trút vô miệng. “Cô ấy đã trở nên kỳ cục. Mất tinh thần.” Rồi nó nói với Harry với vẻ từng trải, “Phụ nữa mà, họ dễ nổi cơn lắm.” “Vậy mà,” Hermione chấm dứt cơn trầm tư, “Mình ngờ là bồ sẽ không tìm ra một phụ nữ nào lại đi giận dỗi nửa tiếng đồng hồ chỉ vì bà Rosmerta không cười nổi mấy chuyện tiếu lâm về mụ phù thủy già, Người chữa thương và cơn cuồng thổi bay Mimbulus.” Ron quắc mắt đổ quạu. Chương 22 Sau tang lễ Những khoảnh trời màu xanh rực rỡ đã bắt đầu hiện ra bên trên những tháp canh của tòa lâu đài, nhưng những dấu hiệu của mùa hè sắp đến này không làm tâm trạng Harry khá hơn. Nó cứ gặp trục trặc hoài, cả trong cố gắng tìm hiểu xem Malfoy đang làm gì, cả trong nỗ lực gợi chuyện với thầy Slughorn để may ra bằng cách nào đó dụ dỗ được thầy trao cho cái ký ức mà hình như thầy đã chôn sâu mấy chục năm trời. “Lần cuối cùng, hãy quên Malfoy đi,” Hermione kiên quyết nói với Harry. Hai đứa nó đang ngồi với Ron trong góc sân trường đầy nắng sau bữa ăn trưa. Cả Hermione lẫn Ron đều đang nắm chặt tờ rơi của Bộ Pháp thuật – Những Lỗi Độn Thổ Thông Thường và Cách Tránh – bởi vì tụi nó sẽ phải thi vào ngay buổi trưa hôm đó, nhưng cách gì thì gì, mấy tờ rơi đó chẳng chứng tỏ có tác dụng xoa dịu thần kinh của tụi nó chút nào. Ron bỗng giật mình và tìm cách núp sau lưng Hermione khi một cô gái vừa đi vòng qua cái góc tụi nó đang ngồi. “Không phải Lavender mà,” Hermione chán ngán nói. “Ừ, tốt,” Ron nhẹ nhõm nói. “Bạn là Harry Potter?” Cô ấy nói, “Tôi được sai đưa cho bạn cái này.” “Cám ơn.” Trái tim Harry chùng xuống lúc nó cầm cuộn giấy da nhỏ. Khi cô gái đã đi xa ngoài tầm tai, nó nói, “Thầy Dumbledore đã nói là mình sẽ khỏi học thêm buổi nào nữa cho tới khi mình lấy được ký ức thầy Slughorn.” “Có lẽ thầy muốn kiểm tra xem bồ đang làm gì?” Hermione suy đoán trong lúc Harry mở cuộn giấy da; nhưng thay vì nhận ra nét chữ dài, thon mảnh, xiên xiên của cụ Dumbledore, nó lại thấy dòng chữ chè bè lộn xộn, rất khó đọc vìnhững vết mực lem to thù lù nằm đầy trên tờ giấy da. Harry, Ron và Hermione yêu quý! Aragog đã chết tối qua. Harry và Ron, hai đứa con đã gặp cậu ấy và biết cậu ấy đặc biệt như thế nào. Hermione, bác biết con sẽ thích cậu ấy. Nếu các con chịu khó xuống đây dự tang lễ vào tối hôm nay thì điều đó an ủi bác nhiều lắm. Bác định làm tang lễ vào lúc hoàng hôn vì đó là thời điểm cậu ấy thích nhất trong ngày. Bác biết các con không được phép ra ngoài vào ban đêm, nhưng các con có thể xài tấm Áo Khoác Tàng Hình. Lẽ ra bác không nên rủ rê các con, nhưng bác không chịu nổi sự cô đơn này. Hagrid. “Đọc đi.” Harry nói, trao bức thư cho Hermione. “Ôi, Trời ơi!” Cô bé kêu lên, đọc lướt qua bức thư rồi chuyển cho Ron, anh chàng này đọc bức thư với vẻ ngờ vực càng lúc càng tăng. “Bác ấy khùng hả!” Nó giận dữ nói. “Cái đồ đó đã từng bảo đồng bọn ăn thịt Harry và mình! Từng bảo chúng cứ tự tiện chén! Vậy mà bây giờ bác Hagrid lại mong tụi mình đi xuống đó mà khóc thương cái thây lông lá đó!” “Không những thế,” Hermione nói, “bác ấy còn biểu tụi mình rời khỏi lâu đài vào ban đêm mà bác ấy biết an ninh ban đêm chặt chẽ một triệu lần hơn và nếu tụi mình bị bắt thìsẽ rắc rối biết chừng nào.” “Trước đây tụi mình đã từng xuống đó gặp bác ấy vào ban đêm mà,” Harry nói. “Ừ, nhưng liều vì một chuyện như vầy à?” Hermione nói. “Chúng ta đã mạo hiểm nhiều phen để giúp bác Hagrid, nhưng nói cho cùng – Aragog đã chết. Phải chi là vấn đề cứu mạng bác ấy…” “Mình càng không muốn đi,” Ron kiên quyết. “Bồ chưa gặp con quái vật đó, Hermione à. Cứ tin mình đi, chết sẽ làm cho nó tốt mã hơn.” Harry lấy lại lá thư và đăm đăm nhìn xuống những vết mực loang lổ khắp lá thư. Rõ ràng là nước mắt đã rớt xuống tờ giấy da liên tiếp từng hột bự… “Harry, bồ đừng có nghĩđến việc đi.” Hermione nói. “Không đáng bị cấm túc vìmột chuyện như thế.” Harry thở dài. “Ừ, mình biết,” nó nói. “Mình chắc là bác ấy sẽ phải chônAragog mà không có tụi mình.” “Ừ, chắc vậy.” Hermione nói, trông có vẻ yên tâm. “Coi nè, lớp Độc Dược chiều nay hầu như trống trơn, vì tất cả tụi này đều đi thi Độn Thổ… Vậy bồ thử tìm cách dụ dỗ thầy Slughorn đi.” “Bồ nghĩlần thứ năm mười bảy thìhên hả?” Harry cay đắng. “Hên?” Ron đột ngột la lên. “Đúng đó, Harry, cứ cầu may!” “Ýbồ là sao?” “Xài thuốc hên!” “Phải đó, Ron, đúng rồi!” Hermione nói, nghe thảng thốt. “Dĩnhiên rồi! Tại sao mình lại không nghĩra há?” “Phúc Lạc Dược hả?” Harry trợn mắt ngó hai đứa bạ. “Mình không biết… Mình định để dành nó…” “Để làm gì?” Ron ngờ vực hỏi. “Harry ơi, còn cái gìtrên đời này quan trọng hơn ký ức của thầy Slughorn hả?” Hermione hỏi. Harry không trả lời. Ý nghĩ xài đến chai nhỏ xíu vàng óng ấy đã lởn vởn đôi lần trong trí tưởng tượng của nó; những kế hoạch không định hình, không rõ ràng về việc Ginny chia tay với Dean, về việc Ron sẽ vui vẻ chấp nhận gã bồ mới của cô em gái đã nhen nhúm lâu nay tận đáy não nó, nhưng nó không chịu thừa nhận trừ khi chiêm bao hay lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mơ…
  • 109. “Harry? Bồ vẫn còn đang ngồi với tụi mình chứ?” Hermione hỏi “Cái… gì… À, dĩnhiên,” nó nói, tự chủ lại. “Thôi thì.. Ôkê. Nếu chiều nay mình không gợi chuyện được thầy Slughorn thìmình sẽ xài tới Phúc Lạc Dược để thử một phen nữa vào tối nay.” “Vậy quyết định rồi nhé.” Hermione nói dứt khoát và đứng dậy múa một điệu duyên dáng xoay tròn vòng quanh gót chân. “Địa điểm… Định ý… Điềm đạm…” Cô nàng lẩm bẩm. “Thôi, ngừng đi mà!” Ron năn nỉ, “Mình đã đủ phát bệnh vì… Mau lên, che mình lại!” “Không phải Lavender mà!” Hermione hết kiên nhẫn nổi, khi hai cô gái khác xuất hiện trong sân và Ron chuồn nhanh ra sau Hermione. “Bảnh!” Ron ngó qua vai Hermione nói. “Mèn ơi, coi bộ tụi nó không vui vẻ hén?” “Tụi nó là chị em Montgomery và dĩnhiên là tụi nó không thể vui vẻ rồi, chứ bộ bồ chưa nghe chuyện đã xảy ra cho thằng em trai của tụi nó hả?” Hermione nói. “Thành thật mà nói, mình hết biết chuyện gìđang xảy ra cho bà con của thiên hạ rồi,” Ron nói. “Ừ, em trai của tụi nó đã bị người sói tấn công. Người ta đồn rằng tại má tụi nó từ chối giúp đỡ bọn Từ Thần Thực Tử. Dù sao thì thằng bé cũng chỉ mới năm tuổi và đã chết trong bệnh viện thánh Mungo, họ không thể nào cứu chữa nổi thằng bé.” “Nó chết à?” Harry lặp lại, sững sờ. “Nhưng chắc chắn là người sói không giết người, họ chỉ biến người ta thành người sói như họ thôi mà?” “Thỉnh thoảng họ cũng làm chết người,” Ron nói, lúc này trông nó nghiêm chỉnh khác thường. “Mình nghe nói chuyện đó xảy ra khi người soi tha nạn nhân đi.” “Người sói đó tên gì?” Harry hỏi nhanh. “À, theo tin đồn thìđó là Fenrir Greyback,” Hermione nói. “Mình biết hắn – gã khùng ưa tấn công trẻ con ấy, cái gã mà thầy Lupin đã kể cho mình nghe!” Harry giận dữ nói. Hermione nhìn nó ngao ngán. “Harry, bồ phải lấy cho được ký ức đó,” cô nàng nói. “Mục tiêu cuối cùng của việc đó là để chặn Voldermort lại, đúng không? Tất cả những chuyện ghê rợn đang xảy ra nói cho cùng đều do hắn mà ra…” Tiếng chuông vang vọng từ tòa lâu đài khiến cả Hermione lẫn Ron đứng bật dậy, vẻ mặt hãi hùng. “Hai bồ sẽ thi tốt thôi,” Harry nói với tụi nó, khi tụi nó đi về phía tiền sảnh nhập vào đám học sinh sẽ thi Độn Thổ hôm đó. “Chúc may mắn nghe.” “Bồ cũng may mắn nhé!” Hermione nói với một cái nhìn đầy ý nghĩa, khi Harry đi về phía tầng hầm. Chỉ có ba học sinh trong lớp học độc dược chiều nay: Harry, Ernie và Draco Malfoy. “Các trò đều chưa đủ tuổi thi hả?” Thầy Slughorn xởi lởi nói. “Chưa tới mười bảy tuổi à?” Cả ba đứa đều lắc đầu. “Thôi thế này,” thầy Slughorn phấn khởi nói, “Vì lớp học của chúng ta hơi ít, chúng ta sẽ làm chuyện gì đó cho vui. Thầy muốn tất cả hãy bày cho thầy một trò thú vị!” “Thưa thầy, ý đó thiệt là hay,” Ernie xoa xoa hai tay vào nhau nịnh nọt. Malfoy không thèm nhếch mép. “Thầy muốn nói ‘một trò gìthú vị’ là trò gì?” Nó quạu quọ. “Ồ, cứ làm cho thầy ngạc nhiên,” thầy Slughorn nói thản nhiên. Malfoy mở cuốn Bào chế Thuốc Cao Cấp ra với nét mặt đưa đám. Quá rõ ràng là nó cho rằng buổi học này chỉ tổ mất thì giờ. Ló mặt qua cuốn sách, quan sát Malfoy, Harry nghĩ, chắc chắn Malfoy đang thèm được dùng thìgiờ này để chui vô Phòng Theo Yêu Cầu. Chẳng biết là do nó tưởng tượng hay quả thực Malfoy có vẻ gầy đi, như cô Tonks vậy. Chắc chắn là trông Malfoy xanh xao hơn; da nó bệch bạc màu tro có lẽ bởi vì dạo này nó hiếm khi thấy ánh mặt trời; không còn đâu vẻ mặt tự mãn, tự cao và háo hức nữa. Không còn chút gì dáng điệu nghênh ngang mà nó đã tỏ ra trên chuyến tàu tốc hành Hogwarts, khi nó công khai khoe khoang cái sứ mạng mà Voldemort giao cho nó… Chỉ có thể có một kết luận duy nhứt, theo ý Harry: cái sứ mạng đó, dù là sứ mạng gìđi nữa, cũng đang ngắc ngứ tồi tệ. Ýnghĩnày khiến Harry hồ hởi phấn khởi hẳn lên, nó thèm đọc lướt qua cuốn Bào Chế Thuốc Cao Cấp và tìm thấy một bản đã sửa đổi nát bấy của Hoàng tử Lai ở bài Thuốc Tạo Khoái. Cái này có vẻ chẳng những đáp ứng yêu cầu của thầy Slughorn, mà biết đâu còn có thể (tim Harry nhảy thót lên khi đầu nó nảy ra ý tưởng đó) làm cho thầy Slughorn tâm trạng sảng khoái để thầy sẵn sàng trao cho Harry ký ức của thầy, nếu mà Harry có thể thuyết phục thầy nếm thử một tí… Một giờ rưỡi sau thầy Slughorn nói, “Nào, tốt lắm, cái này coi bộ tuyệt vời,” thầy vỗ hai tay vào nhau khi bắt đầu ngó xuống cái chất vàng óng như nắng trong vạc của Harry. “Thuốc Tạo Khoái hả, thầy thử được không? Thầy ngửi được cái mùi gì đó? Chà… Trò cho thêm một nhánh bạc hà, phải không? Không đúng bài bản lắm, nhưng là một biến tấu hay, đương nhiên, Harry à, cái đó sẽ có xu hướng làm cân đối lại những tác dụng phụ đôi khi xảy ra như hát ca quá đà hoặc véo mũi… thầy thực sự không biết trò kiếm đâu ra bộ não tuyệt vời này, chàng trai ạ! … trừ phi…” Harry dùng chân đẩy cuốn sách của Hoàng tử Lai vô sâu trong cặp. “… đó là gien di truyền của mẹ trỗi dậy trong người trò!” “Dạ… Thưa thầy, có lẽ vậy,” Harry nói, thở phào ra. Ernie có vẻ hơi quạu: nó tính qua mặt Harry một phen, nên đã hấp tấp phát minh ra độc dược của riêng nó, một thứ thuốc keo vón lại và tạo thành một cục tím bầm nằm ngay ở đáy vạc. Malfoy thìđã dọn dẹp đồ đạc, mặt mày chua chat. Thầy Slughorn đã tuyên bố dung dịch Nấc Cụt của nó chỉ “tàm tạm”. Chuông reo, cả Ernic và Malfoy lập tức rời khỏi phòng học. “Thưa thầy… Thưa thầy! Thầy không muốn nếm thử Thuốc Tạo…” Harry tha thiết gọi theo. Nhưng thầy Slughorn đã đi khuất. Thất vọng, Harry đổ hết thuốc trong vạc ra, dọn dẹp đồ đạc, rời khỏi tầng hầm, và chậm rãi đi ngược lên cầu thang về phòng sinh hoạt chung. Ron và Hermione trở lại đó vào lúc xế chiều. “Harry!” Hermione gào lên khi cô nàng chui qua cái lỗ chân dung. “Harry ơi, mình đậu rồi!” “Giỏi lắm!” Nó nói. “Còn Ron?” “Nó hả… nó rớt rồi,” Hermione thì thầm trong khi Ron rũ người đi lừ đừ vô phòng trông rầu rĩ hết sức. “Thiệt là xui xẻo, một chi tiết vặt thôi, giám khảo phát hiện nó đã bỏ sót lại đằng sau nửa cái lông mày… Còn chuyện thầy Slughorn ra sao?” “Chẳng có gìvui,” Harry nói khi Ron nhập bọn với hai đứa nó. “Xui xẻo thôi mà, bồ tèo, lần sau bồ sẽ đậu… tụi mình có thể thi chung.” “Ừ, mình hy vọng vậy,” Ron cáu gắt. “Nhưng mà một nửa cái lông mày… làm như là vấn đề lớn lắm không bằng!” “Mình biết,” Hermione dỗ dành, “Quả là có vẻ khe khắt quá…” Tụi nó dành cả buổi tối để nói xấu giám thị cuộc thi Độn Thổ, và Ron trông có vẻ phấn chấn lên phần nào khi tụi nó đi trở lại phòng sinh hoạt chung, lúc này đang bàn bạc cái vấn đề nhìnhằng là thầy Slughorn và ký ức của thầy. “Vậy, Harry à… bồ sẽ xài tới Phúc Lạc Dược hay tính cách khác?” Ron hỏi. “Ừ, mình cho là có lẽ vậy tốt hơn,” Harry nói. “Mình nghĩ là không cần uống hết cả chai cho hên tới ‘hai-mươi-bốn-giờ’ đâu, việc đó cần gì tốn tới cả đêm… Mình chỉ uống một ngụm thôi. Hai ba tiếng đồng hồ hiệu nghiệm là đủ để làm.” “Bồ sẽ có cảm giác rất tuyệt vời khi uống vô,” Ron mơ màng nhớ lại. “Giống như là bồ không thể nào làm gìsai.” “Bồ đang nói gìvậy?” Hermione cười. “Bồ có xài qua thuốc đó bao giờ đâu!” “Ừ, nhưng lúc đó mình cứ nghĩ mình đã xài rồi, chứ gì nữa?” Ron nói như thể đang giảng giải một điều quá hiển nhiên. “Nói chung sự khác biệt nào thì
  • 110. cũng như nhau cả thôi…” Bởi vìtụi nó vừa thấy thầy Slughorn đi vào Đại Sảnh Đường và biết thầy ưa nhẩn nha kéo dài bữa ăn tối, cho nên tụi nó lần quần nán lại trong phòng sinh hoạt chung, kế hoạch là Harry sẽ đi tới phòng của thầy Slughorn một lần nữa khi thầy trở về đó. Khi nắng xế chùng xuống trên những ngọn cây trong khu rừng Cấm, tụi nó quyết định thời điểm đã đến, và sau khi kiểm tra cẩn thận để biết chắc là Neville, Dean và Seamus đều ở cả trong phòng sinh hoạt chung, tụi nó lẻn lên phòng ngủ nam sinh. Harry moi mấy chiếc vớ được cuộn tròn từ dưới đáy cái rương lên và rút ra một chai tíhon lóng lánh. “Nó đây,” Harry nói, giơ cái chai nhỏ xíu lên và ực một ngụm được ước lượng cẩn thận. “Bồ cảm thấy sao?” Hermione thìthẩm hỏi. Harry không trả lời mất một lúc. Sau đó, từ từ nhưng rõ rệt, cái cảm giác phấn khởi trước vận may vô cùng tận lan tỏa khắp người nó; nó cảm thấy như thể nó có khả năng làm được mọi việc, bất cứ việc gì… và việc lấy ký ức của thầy Slughorn bỗng nhiên có vẻ chẳng những có thể thực hiện được mà còn rất khả quan… Nó đứng lên, mỉm cười và tràn đầy tin tưởng. “Xuất sắc,” nó nói. “Thiệt là xuất sắc. Đúng… mình sẽ đi xuống chòi của bác Hagrid.” “Cái gì?” Ron và Hermione cùng kêu lên kinh ngạc. “Không phải đâu, Harry – bồ phải đi gặp thầy Slughorn chứ, nhớ không?” Hermione nói. “Không,” Harry nói một cách tự tin. “Mình sẽ đến nhà bác Hagrid, mình có một cảm giác tuyệt vời là phải đi gặp bác ấy.” “Bồ cảm thấy tuyệt vời về việc một con nhện khổng lồ hả?” Ron sửng sốt hỏi. “Ừ,” Harry nói, rút tấm áo khoác tàng hình ra khỏi túi xách của nó. “Mình cảm thấy đó mới chính là địa điểm mình cần có mặt tối nay, mấy bồ có hiểu mình nói gìkhông?” “Không,” Ron và Hermione đồng thanh, cả hai bây giờ trông hoảng hốt thực sự. “Mình đoán chắc là tại Phúc Lạc dược chăng?” Hermione lo lắng nói, vừa giơ cái bình ra ngoài ánh sáng. “Bồ còn chai nào khác chứa đầy… Mình không biết nữa…” “Cuồng Dược hả?” Ron đặt giả thuyết, trong khi Harry tung cái áo choàng qua vai. Harry cười to, Ron và Hermione trông càng hoảng sợ hơn. “Tin mình đi! Mình biết mình đang làm gì…. hay ít ra thì…” Nó tự tin bước ra cửa, “…Phúc Lạc Dược biết mình đang làm gì.” Nó kéo tấm Áo Khoác Tàng Hình trùm lên đầu và bắt đầu đi xuống cầu thang, Ron và Hermione nhanh chóng đi theo sau nó. Đến chân cầu thang, Harry nhẹ nhàng lướt qua một cánh cửa mở. “Anh làm cái trò gì với con đó ở trên ấy, hả!” Lavender Brown ré lên, trừng mắt nhìn xuyên qua Harry để thấy Ron và Hermione cùng nhau đi từ phòng ngủ nam sinh. Harry nghe Ron lắp bắp đằng sau, trong lúc nó băng nhanh qua phòng bỏ xa tụi kia. Chui qua cái lỗ chân dung là chuyện đơn giản, khi nó đến gần cái lỗ, Ginny và Dean vừa chui qua, Harry có thể len vô giữa hai đứa đó. Lúc nó làm vậy, nó ngẫu nhiên đụng phải Ginny. “Làm ơn, đừng có xô em mà, Dean,” cô bé nói, giọng bực bội. “Anh cứ làm vậy hoài, em có thể tự chui qua một mình một cách hoàn hảo…” Bức chân dung đóng lại sau lưng Harry, nhưng nó cũng kịp nghe Dean tức tối cự nự lại… Cảm giác hồ hởi phấn khởi của nó càng tăng lên, Harry sải bước ra khỏi tòa lâu đài. Nó không cần phải thập thò rón rén, bởi vì nó chẳng gặp ai trên đường đi, nhưng điều đó chẳng làm nó ngạc nhiên chút nào: tối nay, nó là người may mắn nhất trường Hogwarts. Nó không biết tại sao đi đến chỗ bác Hagrid lại là một hành động đúng đắn. Có vẻ như cứ mỗi vài ba bước thì thuốc hên lại chiếu sáng lối nó đi: tuy nó không thể thấy được đích đến cuối cùng, nó không thể thấy thầy Slughorn từ đâu ra, nhưng nó biết nó đang đi đúng hướng để lấy được ký ức của thầy. Khi đi đến tiền sảnh, nó nhận thấy là thầy Flich đã quên khóa cửa trước. Harry tươi cười, mở của và hít thở hương thơm của cỏ và không khí trong lành một lúc trước khi bước xuống bậc thềm đi vào bóng hoàng hôn. Khi bước xuống bậc thềm cuối cùng, tự nhiên nó cảm thấy sẽ dễ chịu biết bao nếu đi ngang qua mảnh vườn rau trên đường đi tới căn chòi của bác Hargid. Mảnh vườn rau không hẳn nằm ngay trên đường đi, nhưng dường như đối với Harry đây rõ là một ngẫu hứng khôn ngoan mà nó nên làm. Thế là nó lập tức đổi hướng đôi chân về phía vười rau, chính ở đó, nó hài lòng, nhưng không đến nỗi ngạc nhiên lắm, khi gặp thầy Slughorn đang chuyện trò với cô Sprout. Harry núp sau bức tường đá thấp, cảm thấy an hòa với cả thế gian và lắng nghe cuộc chuyện trò của hai thầy cô. “Tôi hết sức cảm ơn cô đã dành cho nhiều thời giờ, cô Pomona à,” thầy Slughorn nhã nhặn nói. “Hầu hết những ai có thẩm quyền đều đồng ý là chúng sẽ có hiệu quả nhất nếu được hái vào lúc chạng vạng tối,” “Ồ, tôi hoàn toàn đồng ý,” giáo sư Sprout nhiệt tình nói. “Nhiêu đó đủ chưa?” “Nhiều lắm, nhiều lắm rồi,” thầy Slughorn nói, Harry thấy thầy mang một ôm đầy lá cây. “Nhiêu đây là đủ để chia cho mỗi học sinh năm thứ ba vài lá và còn dư một ít dự phòng trường hợp đứa nào đó hầm chúng quá như… Thôi, chào cô, một lần nữa cảm ơn cô nhiều lắm.” Giáo sư Sprout đi về khoảng tối phía những nhà lồng kiếng, và thầy Slughorn hướng bước chân về đúng nơi mà Harry đang đứng, vô hình. Một mong muốn lộ diện ngay tức thìthôi thúc Harry, nó bèn vung tay một cái, cởi bỏ tấm Áo Khoác. “Con chào thầy.” “Úi cha cha, Harry, trò làm thầy hết hồn,” thầy Slughorn đứng khựng giữa đường, điệu bộ cảnh giá. “Làm sao trò ra khỏi toà lâu đài được?” “Con nghĩlà thầy Flich quên khóa cửa chính,” Harry phấn khởi nói, và cảm thấy vui hết sức khi thầy Slughorn nổi quạu. “Thầy sẽ phải báo cáo về tay giám thị này. Nếu trò hỏi thầy, thìthầy cho rằng hắn lo lắng chuyện rác rưởi nhiều hơn vấn đề an ninh đúng mực…. Nhưng tại sao trò lại ra ngoài này, Harry?” “Dạ thưa thầy, đó là vìbác Hagrid,” Harry nói, nó biết rằng bây giờ cứ nói sự thật là đúng. “Bác ấy đang buồn khổ… Nhưng thầy đừng nói cho ai biết, thầy nhé? Con không muốn gây rắc rối cho bác ấy…” Óc tò mò của thầy Slughorn rõ ràng đã bị dựng dậy, “Chà, thầy không thể hứa như vậy,” thầy nói hơi cộc cằn. “Nhưng thầy biết cụ Dumbldore hoàn toàn tin tưởng bác ấy, cho nên thầy chắc rằng bác ấy không thể làm điều gìrùng rợn lắm đâu…” “Dạ, chẳng là có một con nhện khổng lồ, bác ấy đã làm bạn với nó nhiều năm… Nó sống trong khu rừng… Nó có thể nói và đủ thứ hết…” “Thầy cũng nghe đồn bác ấy có mấy con Khổng Nhện trong rừng,” thầy Slughorn nói nhỏ, hướng mắt về phía đám rừng cây đen hù. “Vậy đúng thiệt sao?” “Dạ,” Harry nói. “Nhưng mà con này, conAragog, là con đầu tiên mà bác Hagrid có được, nó đã chết tối hôm qua. Bác ấy suy sụp tinh thần. Bác ấy cần có bầu bạn khi chon cất con đó và con nói là con sẽ đến.” “Cảm động thay, cảm động thay,” thầy Slughorn nói một cách đãng trí, hai con mắt sùm sụp của thầy chăm chú nhìn về phái có ánh đèn xa xa của cặp chòi bác Hagrid. “Nhưng nọc độc Khổng Nhện rất quí hiếm… Nên con quái vật đó chỉ mới chết thì nọc của nó chắc là chưa khô cạn… Dĩ nhiên rồi, thầy sẽ không làm điều gìvô ý nếu bác Hagrid đang buồn khổ… Nhưng giá như có cách gìđó để lấy được một ít… Thầy muốn nói là, hầu như vô phương lấy nọc của một con Khổng Nhện khi nó còn sống…” Lúc này thầy Slughorn dường như đang nói chuyện với chính mình hơn là nói với Harry. “… xem ra thì thiệt là phí phạm khủng khiếp nếu không lấy được nọc… một xị có thể đáng giá cả trăm Galleon… thành thật mà nói, tiền lương của thầy đâu có nhiều…” Và bây giờ Harry thấy rõ ràng nó phải làm gì, “Dạ thưa thầy,” nó nói, với điệu bộ ngập ngừng hùng hồn nhất, “nếu thầy muốn đến đó, chắc là bác Hagrid sẽ mừng lắm… Chắc thầy cũng biết, để cho Aragog được tiễn đưa tử tế hơn…”
  • 111. “Ừ, dĩ nhiên rồi,” thầy Slughorn nói, mắt thầy giờ đây lóe lên lòng hăng hái. “Harry à, thầy nói với trò điều này, thầy sẽ gặp trò dưới đó, đem theo một hai chai… Chúng ta sẽ uống vì sức… Ờ… không được khỏe của con quái vật tội nghiệp đó… nhưng đằng nào chúng ta cũng sẽ đưa tiễn nó đúng lễ nghi, khi mà nó được chôn cất. Và thầy sẽ thay cà vạt khác, cái cà vạt nhỏ này coi hơi hoa mỹ trong tình huống này…” Thầy hối hả quay trở lại lâu đài, và Harry đi nhanh tới chỗ bác Hagrid, híha híhửng trong lòng. “Con tới đó hả,” bác Hagric làu bàu, khi mở cửa và thấy Harry từ trong tấm Áo Khoác Tàng Hình hiện ra trước mặt. “Dạ… nhưng mà Ron và Hermione không tới được,” Harry nói, “tụi nó thực tình xin lỗi bác.” “Hông… hông sao… dù gìthìcậu ấy cũng cảm động… là… là con đã tới.” Bác Hagrid khóc nấc lên thiệt to, bác đã tự làm một cái băng đeo màu đen trên cánh tay, trông như một miếng giẻ lau được nhúng vào xi đánh giày, và đôi mắt bác sưng hụp, đỏ ngầu. Harry vỗ nhè nhẹ vào cùi chỏ bác để an ủi, cùi chỏ là điểm cao nhất của bác mà nó có thể với tới. “Chúng ta sẽ chôn nó ở đâu ạ?” Nó hỏi. “Trong rừng hả bác?” “Không đâu, quỉ thần ơi,” bác Hagrid nói, vừa quẹt nước mắt đang chảy ròng ròng xuống vạt áo. “Bây giờ Aragog lìa đời rồi, những con nhện khác không cho bác đến gần mạng bọn chúng. Hóa ra chúng chưa ăn thịt bác là do lệnh của Aragog! Tin nổi điều đó không, Harry?” Câu trả lời rất thành thật là: “Có”; Harry nhớ lại với một sự dễ chịu ,à đau đớn cái cảnh nó và Ron đã phải đương đầu với lũ Khổng nhện. Tụi nó hiểu quá rõ rằng Aragog là trở ngại duy nhất khiến bọn kia không ăn thịt được bác Hagrid. “Trước đây có chỗ nào trong rừng mà bác không đến được chứ!” Bác Hagrid lúc lắc đầu nói. “Bác có thể nói với con… đem được cái xác Aragog ra khỏi đó không dễ chút nào… bọn Khổng nhện hay ăn thịt xác chết đồng loại, con hiểu không…. Nhưng bác muốn cậu ấy được chôn cất tử tế… được tiễn đưa đàng hoàng…” Bác lại nức nở khóc rống lên một lần nữa và Harry lại vỗ vỗ lên cùi chỏ bác, vừa làm vậy vừa nói (bởi vì dường như thuốc hên xúi rằng làm như vậy là đúng), “Bác Hagrid à, gs Slughorn bắt gặp con lúc đi xuống đây.” “Con đâu có bị rắc rối gìhả?” Bác Hagrid nói, ngước nhìn lên có vẻ cảnh giác. “Con không nên ra khỏi lâu đài vào ban đêm, bác biết, đó là lỗi của bác…” “Không sao, không sao hết, khi thầy ấy biết chuyện con đang làm thìthầy ấy nói là thầy ấy cũng muốn đến phân ưu và nói lời vĩnh biệt đối với Aragog…” “Ổng làm vậy thiệt sao?” Bác Hagrid nói, tỏ vẻ vừa ngạc nhiên vừa xúc động. “Thiệt… thiệt là một người tử tế lắm lắm, mà đúng là… ổng đâu có bắt con về nộp. Trước đây bác chưa từng giao du nhiều với Horace Slughorn… vậy mà ổng đến tiễn đưa Aragog? Chắc cậu ấy sẽ khoái lắm,Aragog sẽ…” Harry nghĩ riêng trong lòng rằng Aragog hẳn sẽ khoái Thầy Slughorn lắm vì cái khối lượng dồi dào thịt ăn được trên người thầy, nhưng nó chỉ đi tới cửa sổ sau của căn chòi bác Hagrid, ở đó nó thấy cảnh tượng ghê rợn là con nhện khổng lồ đã nằm chết nửa, giơ lên những cái chân co quắp và mắc míu vào nhau. “Bác Hagrid, chúng ta sẽ chôn nó ở đây, trong vườn của bác hả?” “Bác nghĩ là ngay ở bên kia đám bí rợ,” bác Hagrid nói trong tiếng nấc. “Bác đã đào… con biết đấy… cái huyệt. Chỉ nghĩ là chúng ta sẽ nói đôi điều tử tế về cậu ấy… những kỷ niệm vui vui, con biết đấy…” Giọng bác run run và đứt đoạn. Có tiếng gõ cửa, bác bèn quya ra tiếp khách, vừa mở cửa vừa hỉ mũi vô cái khăn mù xoa dơ hầy. Thầy Slughorn lật đật bước qua ngưỡng cửa, kẹp nách mấy chai rượu và đeo một cái cà vạt màu đen ảm đạm. “Bác Hagrid,” thấy nói bằng giọng trang nghiêm sâu sắc. “Thành kính paahn ưu trước mất mát của bác.” “Thầy thiệt là có lòng tốt,” bác Hagrid nói. “Cám ơn thầy nhiều lắm. Cũng cám ơn thầy không phạt Harry cấm túc…” “Không hề nghĩđến chuyện đó,” Thầy Slughorn nói. “Đêm buồn, đêm tang tóc… Sinh vật tội nghiệp đó ở đâu?” “Ngoài kia,” bác Hagrid nói giọng run run. “Vậy, chúng ta có nên… Nên bắt đầu chăng?” Ba người bước ra vườn sau. Lúc này trăng đang tỏa ánh sáng nhợt nhạt xuống rừng cây và ánh trăng pha lẫn ánh đèn hắt ra từ cửa sổ căn chòi của bác Hagrid soi tỏ cái xác conAragog nằm bên mép một cái hố khổng lồ bên cạnh một đống đất mới đào lên cao chừng ba thước. “Tuyệt vời,” Thầy Slughorn nói, đi đến gần đầu con nhện, nơi có tám con mắt trắng đục ngó thẳng lên bầu trời và hai cái nanh càng vĩ đại cong vòng bất động sáng bóng dưới ánh trăng. Harry tưởng như nó nghe được tiếng lanh canh của mấy cái chai va vào nhau khi Thầy Slughorn cúi khom người xuống đôi nanh vàng, làm như xem xét cái đầu đầy lông bự chảng. “Không phải ai cũng đánh giá đúng vẻ đẹp của chúng,” bác Hagrid nói với cái lưng Thầy Slughorn, nước mắt bác ứa ra từ khóe mắt nhăn nheo. “Tôi không dè thầy lại quan tâm đến những sinh vật như Aragog, thầy Horace à.” “Quan tâm hả? Bác Hagrid thân mến ơi, tôi sùng bái chúng ấy chứ,” Thầy Slughorn nói, lùi ra xa cái xác. Harry nhìn thấy ánh lấp lánh của một cái chai khuất bên dưới tấm áo khoác, nhưng bác Hagrid, lại chùi nước mắt một lần nữa, nên chẳng để ý thấy gìcả.
  • 112. “Bây giờ… mình tiến hành tang lễ chứ hả?” Thầy Slughorn nói. Bác Hagrid gật đầu và tiến tới trước. Bác cố nâng con nhện khổng lồ trong đôi tay và lăn nó xuống cái huyệt tối hù kèm theo một tiếng rên thiệt to. Cái xác chạm đáy huyệt mạnh ghê gớm, vang lên một tiếng huỵch thiệt lớn, bác Hagrid lại khóc nữa. “Dĩ nhiên, thật khó khăn cho bác, người hiểu nó nhất,” Thầy Slughorn nói, cũng giống như Harry, thầy không thể vói cao hơn cùi chỏ của bác Hagrid, nhưng thầy vẫn vỗ về cùi chỏ của bác Hagrid. “Bác cho phép tôi nói đôi lời tiễn biệt nhé?” Harry nghĩắt hẳn Thầy Slughorn đã lấy được khá nhiều nọc độc của conAragog, bởi vìthầy nở một nụ cười mãn nguyện khi bước tới bên miệng huyệt và nói bằng giọng chậm rãi gây xúc động sâu sắc, “Vĩnh biệtAragog, vua của loài nhện, những người từng biết mi sẽ không bao giờ quên được tình bạn lâu dài và chung thủy của mi! Cho dù thi thể mi sẽ hủy hoại, vong linh mi sẽ vẫn phảng phất những nơi vắng vẻ đầy mạng nhện trong rừng nhà của mi. Nhiều hậu duệ đa-nhãn của mi sẽ phát triển thịnh vượng và những bạn bè thuộc loài người của mi sẽ nguôi ngoai nỗi mất mát mà họ phải chịu đựng.” “Đó đó… thiệt là… hay!” Bác Hagrid rú lên và ngã nhào lên đống phân ủ, càng khóc to hơn bao giờ hết. “Thôi thôi,” Thầy Slughorn nói, vừa vẫy cây đũa phép của thầy để cho đống đất khổng lồ dâng lên rồi rớt xuống, kèm tiếng bình bịch khi chạm vào xác con nhện chết, lấp lại thành một cái gò phẳng phiu. “Chúng ta hãy vô nhà uống tí rượu. Harry, con hãy đứng qua bên kia của bác Hagrid… Đúng rồi… Đi thôi, bác Hagrid… Xong xuôi tốt đẹp rồi…” Hai thầy trò kè bác Hagrid vô nhà, đặt bác ngồi xuống ghế bên cạnh cái bàn. Fang, con chó đã trốn kỹ trong cái ổ của nó suốt tang lễ, bây giờ mới chui ra lỏn lẻn đi ngang qua mọi người để đến đặt cái đầu bự chảng của nó lên đùi Harry như thường lệ. Thầy Slughorn mở rút một trong những chai rượu thầy mang tới. “Thầy đã cho kiểm tra chất độc tất cả rồi,” thầy cam đoan với Harry, trong khi rót gần hết chai vô cái ca bự bằng cái xô của bác Hagrid rồi đưa cho bác. “Sau chuyện xảy ra cho thằng bạn khốn khổ Rupert của trò, thầy luôn cho một gia tinh nếm thử rượu trong từng chai.” Harry thấy, hiện lên trong đầu nó, vẻ mặt Her như thế nào nếu cô nàng biết đến sự hành hạ gia tinh này và nó quyết định không đời nào nói cho cô nàng biết. “Một ly cho Harry…” Thầy Slughorn nói, chia chai thứ hai vô hai cái ca. “…và một ly cho ta. Tốt.” Thầy giơ cao cái ca của thầy. “Để tưởng nhớ Aragog.” “Aragog,” Harry và bác Hagrid cùng nói. Cả Thầy Slughorn lẫn bác Hagrid uống một hơi dài. Tuy nhiên, Harry nhờ Phúc lạ dược soi đường dẫn lối nên hiểu là nó không nên uống, thế là nó chỉ làm bộ hớp một ngụm rồi đặt cái ca trên bàn trước mặt nó. “Thầy biết không, tôi đã nuôi nấng nó từ lúc còn là cái trứng,” bác Hagrid rầu rầu nói. “Khi nó mới nở ra, nó nhỏ xíu xìu xiu, chỉ bằng một con chó lùn mà thôi.” “Dễ thương,” Thầy Slughorn nói. “Trước đây vẫn để nó trong chạn bát của trường cho đến khi, chà…” Vẻ mặt bác Hagrid tối sầm lại và Harry biết tại sao : Tom Riddle đã âm mưu tính toán để bác Hagrid bị đuổi ra khỏi trường, vì bị đổ cho tội đã mở cửa Phòng chứa Bí mật. Tuy nhiên, Thầy Slughorn không tỏ vẻ lắng nghe ; thầy đang nhìn lên trần nhà, trên đó có treo một số nồi đồng cùng với một cuộn lông bạc trắng mượt mà. “Có phải lông bạch kỳ mã đó không, bác Hagrid ?” “Ờ phải,” bác Hagrid thản nhiên nói. “Bứt từ đuôi chúng, thầy biết đó, chúng hay làm vướng trên cành cây và các thứ khác trong rừng…” “Nhưng ông bạn thân mến à, ông có biết cái đó đáng giá bao nhiêu không ?” “Tôi dùng lông đó để may vá băng bó vân vân khi có sinh vật bị thương,” bác Hagrid nhún vai nói. “Cực kỳ hữu ích… rất hiệu nghiệm.” Thầy Slughorn ực thêm một hơi nữa từ cái ca của thầy, mắt thầy lúc này đang cẩn thận đảo quanh căn chòi, Harry biết, để tìm kiếm thêm những kho báu mà thầy có thể sẽ biến thành nguồn trao đổi phong phú với rượu mật rừng sồi, kẹo khóm dẻo và áo khoác nhung. Thầy lại rót đầy ca rượu của bác Hagrid và ca rượu của chính mình, rồi hỏi thăm bác về những sinh vật sống trong rừng dạo này và bác Hagrid làm thế nào có thể chăm sóc tất cả bọn chúng. Dưới ảnh hưởng của rượu và sự quan tâm phỉnh phờ cảu Thầy Slughorn, bác Hagrid trở nên cởi mở hết lòng, bác bèn thôi lau nước mắt và vui vẻ bắt đầu một cuộc giảng giải dông dài về nghề chăn nuôi cần cù vất vả. Đúng thời điểm này, Phúc lạc dược thúc Harry một cái và nó nhận thấy số lượng rượu mà Thầy Slughorn mang đến đang cạn nhanh. Harry chưa bao giờ thực hiện thành công bùa Đầy lại mà không cần hô thần chú ra miệng, nhưng cái ý nghĩ nó có thể không làm nổi điều đó đêm nay thiệt đáng cười nhạo. Quả có vậy, Harry đã tự cười roe toét với mình : không bị cả bác Hagrid lẫn Thầy Slughorn chú ý (lúc này thầy đang thù tạc câu chuyện mua bán trứng rồng bất hợp pháp) Harry cầm cây đũa phép của nó dưới gầm bàn chĩa vào mấy vỏ chai rỗng và mấy cái chai này lập tức đầy lại. Khoảng một giờ sau hay cỡ đó, bác Hagrid và Thầy Slughorn bắt đầu nâng ly chúc mừng tá lả : mừng trường Hogwarts, mừng cụ Dumbledore, mừng rượu gia tinh pha chế và mừng… “Harry Potter !” bác Hagrid rống lên, làm sóng sánh một ít rượu trong cái xô rượu thứ mười bốn của bác, tràn cả xuống cằm khi bác nốc cạn. “Ừ, đúng vậy,” Thầy Slughorn kêu lên, giọng hơi lè nhè, “Pary Otter, Thằng Bé được chọn… chà,,, hay cái gì đó na ná như vậy,” thầy nói trệu trạo, rồi cũng nốc cạn cái ca rwouj của thầy. Chẳng bao lâu sau đó, bác Hagrid đã ràn rụa nước mắt ép toàn bộ cái đuôi bạch kỳ mã cho Thầy Slughorn, thầy nhét nó vô túi kèm theo tiếng hô, “Mừng cho tình bạn ! Mừng tấm lòng hào hiệp ! Mừng một sợi lông đáng giá mười Galleon!” Và sau đó một hồi lâu bác Hagrid và Thầy Slughorn cứ ngồi bên cạnh nhau, ôm nhau hát một bài hát buồn bã lê thê về cái chết của một pháp sư tên là Odo. “Ôi, người tốt chết yểu,” bác Hagrid lẩm bẩm, gục thấp xuống mặt bàn, mắt đã gần híp lại, trong khi Thầy Slughorn tiếp tục ngâm nga điệp khúc. “Má thầy chẳng sống được lâu… mà má trò với ba trò cũng thế, Harry ơi à…” Những giọt nước mắt