ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢU THU HÀ
GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HÀNH VI GÓP VỐN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢU THU HÀ
GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HÀNH VI GÓP VỐN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 0107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Ngô Huy Cƣơng
HÀ NỘI – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả
Lƣu Thu Hà
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................6
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.......................................................6
2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................7
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn............................8
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................9
5. Bố cục của Luận văn....................................................................................10
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU
QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓPVỐN THÀNH LẬP CÔNG TY......11
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi
góp vốn thành lập công ty................................................................................11
1.1.1. Khái quát chung về công ty....................................................................11
1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn ..........14
1.1.3. Các hình thức góp vốn ...........................................................................20
1.1.4. Định giá tài sản góp vốn........................................................................38
1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn.............................................................41
1.2. Hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty..........................45
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ
HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY50
2.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả
pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty................................................50
2.1.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập
công ty ..............................................................................................................50
2.1.2. Những hạn chế của pháp luật hiện hành về góp vốn thành lập công ty....52
2.1.3. Quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất............................................55
2.2. Thực trạng các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty ..............................................................................................57
2.2.1. Các qui định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty..............................................................................................57
2.2.2. Những hạn chế của các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của góp
vốn thành lập công ty .......................................................................................59
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA
HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY ........................................63
3.1. Các định hướng hoàn thiện .......................................................................63
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu
quả của hành vi góp vốn thành lập công ty......................................................69
KẾT LUẬN.....................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................77
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt sau sự
kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta có
sự phát triển đáng kể. Khu vực kinh tế nhà nước đang được cải tổ mạnh mẽ để
vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn, linh động và làm quen dần với cạnh tranh quốc tế. Số
lượng các công ty được thành lập ngày càng nhiều đáp ứng các nhu cầu của
xã hội, tạo ra nhiều việc làm và tham gia vào phân công lao động quốc tế.
Đứng trước tình hình đó, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đang được đặt
ra, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Doanh nghiệp 2005.
Trong việc thành lập công ty, vốn góp là một vấn đề pháp lý then chốt.
Thực tế cho thấy kinh doanh bao giờ cũng gắn với vốn. Vốn là yếu tố đầu
tiên, có vai trò quyết định, có nghĩa là không có vốn thì không thể tiến hành
sản xuất kinh doanh. Một công ty chỉ có thể được thành lập và đi vào hoạt
động khi có sự đóng góp tài sản của thành viên hoặc các thành viên của nó để
tạo thành vốn của công ty. Việc góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp, các
mô hình khác nhau tạo nên qui chế pháp lý khác nhau đối với người góp vốn.
Trong một chừng mực nào đó, Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những thành
công nhất định trong việc tạo sự đa dạng các hình thức kinh doanh nhằm huy
động các nguồn vốn. Tuy nhiên, đứng trước các cơ hội và thách thức mới,
Luật Doanh nghiệp 2005 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, thiếu sót cần chỉnh
sửa để một mặt tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc góp vốn thành lập
công ty, mặt khác tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý
Nhà nước về các hình thức góp vốn vào doanh nghiệp.
7
Góp vốn còn là một vấn đề pháp lý cơ bản để xác định quyền lợi của
các thành viên công ty. Nó không những đáp ứng các quyền lợi tương ứng của
họ, mà còn tạo ra sự tin tưởng và an toàn liên quan tới đầu tư và kinh doanh.
Xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của góp vốn và các hậu quả của nó
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các vấn đề pháp lý, tác giả lựa
chọn “Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật
Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Góp vốn là một vấn đề kinh tế và pháp lý gắn liền với hoạt động sản
xuất kinh doanh. Do đó nó không phải là một vấn đề mới đối với khoa học
pháp lý, cũng như khoa học kinh tế. Thế nhưng trong những hoàn cảnh cụ thể,
góp vốn vẫn cần phải được nghiên cứu trong nhiều phương diện. Trên thế giới
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về vấn đề này, nhất là trong
khoa học pháp lý. Tuy nhiên hiếm khi thấy có những nghiên cứu cụ thể cho
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là trong một hệ thống pháp luật đang
cần hoàn thiện bởi sự bất cập và mâu thuẫn, chồng chéo một cách đáng ngại.
Có một số công trình tiêu biểu trên thế giới liên quan tới đề tài Luận văn như
sau: (1) Peter Fearns, Business Studies, Hodder & Stoughton, London-
Sydney- Auckland, 1992; (2) Robert W. Hamilton, The Law of Corporations,
West Publishing Co., 1991; (3) Harry G. Henn & John R. Alexander, Laws of
Corporations and Other Business Enterprises, Third Edition, St. Paul, Minn.
West Publishing Co., 1983; (4) Friedrich Kuebler, Juergen Simon, Mấy vấn
đề pháp luật kinh tế Cộng hoà Liên bang Đức, Nxb Pháp lý, 1992; (5) Francis
Lemeunier, Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1993.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan tới đề tài Luận
văn. Đó là các công trình hết sức có giá trị lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên
8
việc gắn chặt góp vốn với vấn đề pháp lý trong giai đoạn hiện nay vẫn còn
những vấn đề pháp lý nhỏ để Luận văn có thể khai thác. Một số công trình
nghiên cứu trong nước tiêu biểu phải kể đến (nhưng không thể kể hết), bao
gồm: (1) Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại – Phần chung và
Thương nhân, Nxb. Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2013; (2) Lê Tài Triển,
Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân, Luật thương mại Việt Nam dẫn giải,
Quyển I vàg Quyển II, Sài Gòn, 1972; (3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo
trình luật thương mại- Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; (4) Viện
quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Công ti Vision & Associates, và Tổ
chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Tìm hiểu về Luật Doanh nghiệp 2005; (5)
Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1997; (6) Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình luật kinh tế- Tập 1:
Luật doanh nghiệp, Tình huống- Phân tích- Bình luận, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2006; (7) Dự án VIE/94/003, Báo cáo chuyên đề về các lĩnh
vực khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam; (8) Bùi Ngọc Cường, Xây dựng và
hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước
ta, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; (9) Nguyễn
Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung, Công ty- vốn, quản lý và tranh chấp theo
Luật Doanh nghiệp 2005, Nxb Tri Thức, TP. Hồ Chí Minh, 2009: (10)
Nguyễn Mạnh Bách, Các công ty thương mại, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Biên
Hòa, 2006.
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu này, tác
giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề pháp lý phát sinh liên quan tới hành vi góp vốn.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn có mục tiêu chủ yếu là làm rõ về mặt lý luận những vấn đề
pháp lý phát sinh từ hành vi góp vốn thành lập công ty và kiến nghị hoàn
thiện chế định pháp luật này.
Luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
9
+ Nghiên cứu lý luận về góp vốn và các hậu quả pháp lý phát sinh từ
hành vi góp vốn;
+ Đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp
lý của nó;
+ Kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Vì góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn là một lĩnh vực pháp lý
rộng. Do đó Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu
cơ sở lý luận pháp luật về góp vốn thành lập công ty, tức là các giao dịch về
góp vốn thành lập công ty mà không nghiên cứu góp vốn vào các lĩnh vực
khác, và cũng không phân tích việc góp vốn thành lập công ty dưới giác độ
kinh tế, văn hóa, xã hội. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu việc thi hành
pháp luật trong lĩnh vực này mà chỉ phân tích các qui phạm hiện hành thông
qua lý luận.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp mà luận án sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích
quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp,
thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình
hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy
phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định
của pháp luật hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập
Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn
áp dụng pháp luật.
10
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể
hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật để chỉ ra ưu
nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành
với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu…
5. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội
dung chủ yếu của Luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về góp vốn và hệ quả pháp lý của hành vi
góp vốn thành lập công ty.
Chương 2: Thực trạng pháp luật việt nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của
hành vi góp vốn thành lập công ty.
Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về góp
vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công
11
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ
PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của
hành vi góp vốn thành lập công ty
1.1.1. Khái quát chung về công ty
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của công ty
Công ty là loại một loại thương nhân xuất hiện trong nền kinh tế thị
trường. Theo quan niệm truyền thống, công ty được hiểu là sự liên kết của hai
hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành
một hoặc một số hành vi thương mại nhất định theo mục tiêu chung đã được
lựa chọn. Như vậy công ty là một loại thương nhân chuyên tiến hành một
hoặc một số hành vi thương mại nhất định và coi các hành vi đó là nghề
nghiệp của mình. Lưu ý rằng hành vi hoặc các hành vi này được xác định
trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà pháp luật Việt Nam hiện nay
gọi là ngành nghề kinh doanh. Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, thương nhân
là chủ thể thông thường của luật thương mại và được chia thành thương nhân
thể nhân (cá nhân kinh doanh – ví dụ như doanh nghiệp tư nhân) và thương
nhân pháp nhân (có nghĩa là các công ty) [22, tr. 69]. Vậy trước hết công ty là
thương nhân pháp nhân.
Thương nhân, theo PGS. TS. Ngô Huy Cương có hai yếu tố xác định:
Thứ nhất, chuyên tiến hành các hành vi thương mại; và thứ hai, lấy hành vi
thương mại làm nghề nghiệp thường xuyên của mình, mà trong đó yếu tố thứ
nhất được xem là điều kiện cần, và yếu tố thứ hai được xem là điều kiện đủ.
Từ các phân tích ở trên ta có thể hiểu: Công ty là thương nhân pháp nhân và
công ty có các đặc điểm như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Công ty là pháp nhân.
12
Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy công ty là một thực thể tách
biệt với thành viên của nó, có nghĩa người thành lập công ty có mục đích tạo
ra một thực thể tách biệt với mình, và thực thể này có khả năng hưởng quyền
và gánh vác nghĩa vụ riêng biệt so với quyền và nghĩa vụ của người thành lập
nên nó. Vì vậy công ty mang đầy đủ các dấu hiệu của một pháp nhân. Trong
các dấu hiệu này, có một dấu hiệu quan trọng liên hệ trực tiếp với đề tài Luận
văn là công ty có tài sản riêng, khác với tài sản của chủ sở hữu hoặc các chủ
sở hữu của nó. Tài sản này trước hết được tạo lập bởi hành vi góp vốn của chủ
sở hữu hoặc các chủ sở hữu của công ty.
Như vậy công ty là chủ thể của pháp luật. Các mối quan hệ bên trong
cũng như bên ngoài của công ty được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn pháp
luật qui định công ty có quyền sở hữu và sử dụng vốn đúng mục đích; phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng tài sản của mình; và tự danh mình
tham gia các quan hệ pháp luật… Luật Doanh nghiệp 2014 định nghĩa về
doanh nghiệp mà trong đó có công ty rằng: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” (Điều 4, khoản 7). Định nghĩa này
cho thấy doanh nghiệp (hay công ty) mang dáng dấp của pháp nhân - một chủ
thể quan trọng của pháp luật.
Đặc điểm thứ hai: Công ty là thương nhân.
Công ty là chủ thể thông thường của luật thương mại bởi như trên đã
phân tích công ty chuyên tiến hành các hành vi thương mại và lấy hành vi
thương mại là nghề nghiệp thường xuyên của mình. Công ty có nghĩa vụ đăng
ký kinh doanh, có nghĩa là đăng ký việc làm nghề thương mại của mình. Ở
đây cần lưu ý hành vi thương mại có điểm khác với hành vi dân sự. Hành vi
thương mại nói đơn giản là hành vi do thương nhân thực hiện nhằm mục đích
sinh lời. Còn hành vi dân sự là hành vi do các chủ thể của pháp luật thực hiện
nhằm mục đích tiêu dùng. Tuy nhiên sự phân biệt này là một vấn đề khoa học
phức tạp mà khó có thể lý giải trong phạm vi của Luận văn này.
13
Đặc điểm thứ ba: Việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bị giới hạn
bởi pháp luật.
Các hình thức góp vốn thành lập công ty và việc sở hữu vốn của công
ty luôn luôn được pháp luật quan tâm và điều tiết. Vốn ban đầu hình thành từ
sự đóng góp của thành viên hoặc các thành viên. Thông qua việc góp vốn,
thành viên đổi lại quyền lợi trong công ty và quyền chi phối công ty. Hơn nữa
công ty luôn có sự tác động lớn tới cộng đồng bởi khả năng cung cấp hàng
hóa hoặc dịch vụ, và khả năng huy động vốn từ bên ngoài. Pháp luật xen vào
điều tiết việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bởi các lý do như vậy.
1.1.1.2. Phân loại công ty
Ở các nước theo truyền thống Civil Law, người ta thường chia công ty
thành hai loại: công ty dân sự và công ty thương mại. Nguồn gốc của sự phân
chia này là việc có sự phân loại giữa luật dân sự và luật thương mại. Cách
thức phân loại này không được thể hiện rõ ở Việt Nam hiện nay. Luận văn
không đề cập tới công ty dân sự do đó không xuất phát nghiên cứu từ cách
phân loại này.
Căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ chịu trách nhiệm của thành viên
công ty và ý chí của nhà làm luật, mà dưới góc độ pháp lý người ta chia công
ty thành hai loại hình chính là công ty đối nhân và công ty đối vốn. Trong mỗi
loại này lại được phân chia thành các hình thức công ty cụ thể. Tuy nhiên phải
nói rằng cách phân loại này cũng không mấy rõ ràng, gây ra nhiều tranh luận.
Mặc dù vậy nó vẫn có những điểm đáng lưu ý về mặt khoa học.
Công ty đối nhân là hình thức công ty mà việc thành lập dựa trên sự
liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia. Đặc
điểm cơ bản của công ty đối nhân là các thành viên liên đới chịu trách nhiệm
vô hạn về các khoản nợ của công ty hoặc ít nhất cũng phải có một thành viên
chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Các thành viên chịu
trách nhiệm vô hạn đều có tư cách thương nhân và phải chịu thuế thu nhập cá
14
nhân. Có hai loại hình công ty đối nhân cơ bản là công ty hợp danh và công ty
hợp vốn đơn giản. Công ty hợp danh là công ty mà tất cả các thành viên đều
phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợi của công ty. Còn công ty
hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên: một loại chịu trách nhiệm vô hạn; và
loại khác chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty.
Công ty đối vốn ra đời muộn hơn so với công ty đối nhân. Công ty
đối vốn không quan tâm tới nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm tới
phần vốn góp. Có một điểm đặc biệt khác so với công ty đối nhân là ở công
ty đối vốn tất cả các thành viên của công ty đều có chế độ trách nhiệm hữu
hạn. Do cơ cấu thành lập công ty chỉ quan tâm tới vốn góp mà thành viên
của công ty đối vốn thường có số lượng lớn. Cũng do thành viên của công
ty đối vốn có số lượng lớn nên nó thường được pháp luật qui định chặt chẽ
hơn về quản trị và vận hành. Có hai loại công ty đối vốn là: công ty cổ
phần; và công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm loại có một thành viên và
loại có hai thành viên trở lên).
Công ty đối nhân và công ty đối vốn khác nhau tương đối nhiều về chế
độ pháp lý đối với vốn của công ty, nhất là hậu quả pháp lý của hành vi góp
vốn. Trong mỗi phân loại lớn đó lại có những phân loại nhỏ hơn (hình thức
công ty) có sự khác biệt ít nhiều về chế độ góp vốn và hậu quả pháp lý của
hành vi góp vốn. Tuy nhiên tựu trung lại vấn đề góp vốn và hậu quả pháp lý
của nó có những điểm chung nhất định.
1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn
1.1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty
Góp vốn thường được người Việt Nam hiểu là việc một người đưa hay
hùn tiền bạc hay tài sản vào một công cuộc kinh doanh nhất định và mong
nhận được lợi ích từ đó. Xét về mặt pháp lý, người góp vốn chuyển giao
quyền sở hữu tài sản của mình cho người kinh doanh (thương nhân) để đổi lại
những lợi ích từ việc góp vốn đó. Góp vốn thành lập công ty là việc một
người chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình vào công ty do tự mình
15
hoặc cùng với người khác thành lập nhằm mục tiêu kiếm lời. Tài sản góp vốn
về nguyên tắc là tất cả các loại tài sản mà theo quan niệm của pháp luật Việt
Nam hiện nay bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản (Điều 163,
Bộ luật Dân sự 2005). Tuy nhiên pháp luật có thể qui định cụ thể về tài sản
góp vốn đối với từng trường hợp cụ thể. Theo khoản 4, Điều 4 Luật Doanh
nghiệp, tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí
quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để
tạo thành vốn của công ty.
Việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản cụ thể lấy quyền lợi trong công ty
thường được qui đổi theo tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là tỉ lệ vốn góp mà
chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ.
Lợi ích mà người góp vốn nhận được là phần vốn góp hoặc cổ phần.
Các phần vốn góp và cổ phần này không phải được hình thành từ thế giới vật
chất như các tài sản hữu hình (vật), cũng không phải là sản phẩm được hình
thành từ hoạt động sáng tạo của trí tuệ (đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ).
Phần vốn góp hiểu là kết quả của sự chuyển một phần giá trị tài sản cụ thể của
người góp vốn vào công ty để đổi lấy một phần giá trị khác trừu tượng hơn.
Tài sản góp vốn vào công ty và phần vốn góp là hai tài sản độc lập và thuộc
về hai sản nghiệp của hai chủ thể khác nhau. Phần vốn góp là tài sản thuộc
sản nghiệp của nguời góp vốn. Tài sản đem góp vốn là tài sản thuộc sản
nghiệp của công ty nhận tài sản góp vốn . Về mặt pháp lý, vốn của công ty là
do các thành viên, các cổ đông đóng góp. Đối với chủ nợ của công ty, số tiền
mà các thành viên, cổ đông bỏ vào công ty chính là sự cam kết lâu dài cho
việc đầu tư. Trong trường hợp công ty bị phá sản, các chủ nợ cóa thể lấy nợ
trên số tài sản hình thành từ vốn góp cùng với các tài sản khác của công ty.
Việc góp vốn vào công ty bằng cách chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng đối với tài sản của mình cho công ty để đổi lại tư cách sở hữu chủ hoặc
đồng sở hữu chủ của công ty đó.
16
1.1.2.2. Bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty
Từ khái niệm trên ta có thể nhận thấy bản chất pháp lý của góp vốn là
hành vi pháp lý làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn, làm
phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty và tạo lập ra công ty (một thực thể
kinh doanh) thuộc sở hữu của người góp vốn hoặc thuộc sở hữu chung của
những người góp vốn.
Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý.
Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay
một thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là
hành vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó phần vốn góp cũng được hiểu
theo nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm phần
vốn góp từ phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý [14, tr. 21].
Nếu xét trên phương diện kinh tế, góp vốn là việc tạo ra tài sản cho
công ty nhằm đảm bảo thực hiện các hoạt động kinh doanh theo mục đích đã
đăng ký của công ty và đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ trong trường hợp
công ty bị phá sản. Khi tài sản được một thành viên, một cổ đông góp vào
công ty, tài sản đó được chuyển dịch quyền sở hữu từ thành viên đó, cổ đông
đó sang công ty. Việc dịch chuyển quyền sở hữu này có thể được thực hiện
thông qua giao kết hợp đồng thành lập công ty của các cổ đông, thành viên
góp vốn. Bằng hành vi góp vốn các thành viên, các cổ đông sáng lập đã tạo ra
sản nghiệp ban đầu cho công ty để đổi lại quyền lợi của mình trong công ty.
Quyền lợi này được xác định theo các quy định của pháp luật và điều lệ của
công ty. Ở khía cạnh kinh tế, việc góp vốn hay hùn vốn cũng là việc nhiều
người cùng góp nguồn lực của mình để tạo nên một nguồn lực chung lớn hơn
nhằm thực hiện ý tưởng kinh doanh. Đó chính là ý nghĩa kinh tế quan trọng
xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển của công ty trong lịch sử. Cùng
với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, việc góp vốn thành lập công ty có
khi chỉ đơn giản là để nhà đầu tư kiếm lời từ vốn góp của mình chứ không
17
thực sự chú trọng vào mục đích thực hiện một hoạt động kinh doanh nào cụ
thể. Góp vốn vào công ty cũng dễ dàng chuyển nhượng lại phần vốn góp đó
cho người khác để hưởng chênh lệch hoặc thu lại một phần vốn. Số lượng
người góp vốn được mở rộng, khả năng bán lại phần vốn dễ dàng, người góp
vốn có thể thay đổi nhanh chóng song công ty vẫn tồn tại, đó là sự khác biệt
lớn của công ty đối vốn so với công ty đối nhân. Một vấn đề kinh tế khác khi
các thành viên, các cổ đông góp vốn vào công ty là việc thực hiện quyền quản
lý công ty để đảm bảo việc sử dụng đồng vốn của mình sẽ đem đến hiệu quả
kinh tế cao nhất. Do là công ty đối vốn điển hình nên quyền quản lý trong công
ty tương ứng với tỷ lệ số vốn góp vào công ty thông qua tỷ lệ vốn góp của từng
thành viên và số lượng cổ phần nắm giữ của từng cổ đông. [14, tr. 25 - 27].
Nếu xét trên phương diện pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao tài
sản để đổi lấy quyền lợi đối với công ty. Nói tóm lại góp vốn về bản chất
pháp lý là một hành vi pháp lý. Hành vi này là căn cứ làm chấm dứt quyền sở
hữu tài sản của người góp vốn đối với tài sản góp vốn cụ thể, đồng thời làm
phát sinh quyền sở hữu của công ty đối với tài sản góp vốn đó, và làm phát
sinh quyền sở hữu của người góp vốn đối với phần vốn góp vào công ty theo
tỷ lệ với các phần vốn góp khác hoặc quyền sở hữu của người góp vốn (người
mua cổ phần) đối với một hoặc một số cổ phần của công ty.
Có thể lý giải cụ thể rằng: thông qua hành vi góp vốn, mối quan hệ
pháp lý được tạo lập. Nghĩa vụ đối ứng giữa người góp vốn thành lập công ty
và công ty khác với nghĩa vụ đối ứng giữa các bên trong quan hệ mua bán hay
cho thuê. Hành vi góp vốn đổi lấy quyền lợi cũng khác với hành vi mua bán
hay hành vi cho thuê tài sản ở chỗ khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay
quyền hưởng dụng tài sản cho công ty, thì người góp vốn không nhận được
bất kể khoản tiền nào từ việc chuyển giao đó mà chỉ nhận lại được là một thứ
quyền đặc biệt đó là quyền sở hữu, quyền lợi công ty. Quyền lợi này có thể
chuyển đổi thành tiền, tuy nhiên còn phụ thuộc vào từng hình thức công ty và
quy chế riêng có thể có. Quyền sở hữu công ty này là quyền sở hũu một phần
18
tài sản của công ty tương ứng với tỷ lệ góp vốn và số cổ phần mà người đó
nắm giữ. Như vậy, việc góp vốn thành lập công ty có nét giống với sự trao đổi
tài sản giữa hai chủ thể, trong đó người góp vốn bỏ ra tài sản và nhận lại
quyền lợi từ công ty. Đặc biệt trong công ty cổ phần thì các cổ phần không
phải là một vật xác định hay quyền lợi gắn với vật đó mà người sở hữu được
thừa hưởng. Cổ phần thực chất chỉ là một tờ giấy nhưng nó ghi nhận quyền tài
sản quan trọng ràng buộc giữa cổ đông và công ty, đó là quyền quản lý và
quyền thu lợi từ lợi tức của công ty. Như vậy, cổ phần luôn luôn gắn với công
ty, có giá trị thay đổi theo tình hình tài chính của công ty và khi công ty
không còn tồn tại thì quyền tài sản này cũng sẽ mất đi [14, tr. 27 – 28].
1.1.2.3. Quyền góp vốn thành lập công ty
Hiến pháp 2013 tuyên bố: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong
những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Với nguyên tắc hiến
định này, có thể hiểu mọi người đều có quyền góp vốn thành lập công ty. Vì
vậy việc hạn chế góp vốn thành lập công ty chỉ có thể được thực hiện theo
những điều kiện nhất định. Hiến pháp 2013 qui định: “Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo qui định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14, khoản 2). Quyền tự do kinh
doanh được xếp vào các quyền con người và quyền cơ bản của công dân. Do
vậy việc hạn chế nó phải tuân thủ các điều kiện hiến định. Luật Doanh nghiệp
2014 khẳng định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài
có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của
Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này” (Điều 18, khoản 1).
Điều này đã cụ thể hóa nguyên tắc hiến định về tự do kinh doanh. Tuy nhiên
để bảo vệ cộng đồng trước những tác động tiêu cực của hành vi góp vốn thành
lập công ty và bảo vệ chính các công ty trước sự lạm dụng, Luật Doanh
nghiệp 2014 có những qui định hạn chế góp vốn thành lập công ty như sau:
19
“2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh
nghiệp tại Việt Nam:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng
tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ
quan, đơn vị mình;
b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, viên chức;
c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong
các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam,
trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước, trừ
những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị
mất năng lực hành vi dân sự;
e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết
định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc
hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công
việc nhất định liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các
trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham
nhũng.
Trong trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký
thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký
kinh doanh.
3. Tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này,
trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
20
4. Tổ chức, cá nhân sau đây không được mua cổ phần của công ty cổ phần,
góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định
của Luật này:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng
tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn
vị mình;
b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức.
5. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình theo điểm a khoản 2 và điểm a
khoản 4 Điều này là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ
hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào ít nhất một trong các mục
đích sau đây:
a) Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả cán bộ, nhân viên của cơ
quan, đơn vị;
b) Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của
pháp luật về ngân sách nhà nước;
c) Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị”
(Điều 18).
Các qui định hạn chế này làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh tại Việt
Nam hiện nay bao gồm bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; chống tham nhũng,
chụp giật; và chống làm suy yếu hiệu lực của quản lý nhà nước.
1.1.3. Các hình thức góp vốn
Góp vốn thành lập công ty có nhiều hình thức khác nhau. Việc phân
loại các hình thức này chủ yếu dựa vào đối tượng của hành vi góp vốn – đó
chính là tài sản, công sức, và tri thức. Điều đáng lưu ý nhất là mỗi hình thức
góp vốn dường như phụ thuộc vào một qui chế pháp lý khác nhau xuất phát từ
đối tượng của hành vi góp vốn.
Khác với Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam, các Bộ luật Dân sự của
các nước trên thế giới không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản.
21
Song theo quan niệm chung, người ta có thể hiểu được rằng tài sản bao gồm
hai loại là vật và quyền. Tài sản là một khái niệm trừu tượng khó xác định về
mặt phạm vi. Hiện rất hiếm thấy các định nghĩa về tài sản trong pháp luật của
các quốc gia. Thế nhưng tài sản là đối tượng quan trọng nhất của hành vi góp
vốn. Vì vậy có thể thấy việc liệt kê các tài sản góp vốn như Luật Doanh nghiệp
2005 của Việt Nam có ý nghĩa thực tế và nhưng không thể không có các thiếu
sót. Có lẽ các qui định này không dám đi quá xa ra khỏi khuôn khổ của các qui
định về tài sản trong Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam nơi đã đặt ra tiền đề
cho những thiếu sót như vậy. Chẳng hạn: theo pháp luật Việt Nam “vật chất
liệu” đó là cơ sở quan trọng của quan niệm về tài sản. Tuy có nhắc tới quyền tài
sản, nhưng nó không được xem là vật quyền. Do đó việc góp vốn bằng các vật
quyền khó có được các qui định đầy đủ, trừ quyền sử dụng đất.
Góp vốn bằng tài sản là hình thức góp vốn quan trọng nhất bởi không
có tài sản thì công ty không thể hoạt động được. Về nguyên tắc, mọi tài sản
đều có thể đem góp làm vốn của công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào từng sự
thỏa thuận cụ thể trong các hợp đồng thành lập công ty. Tài sản góp vốn có
thể thuộc bất kể dạng nào: vật chất liệu hay các quyền vô hình, với điều kiện
các tài sản này phải là các tài sản có thể được chuyển giao trong giao lưu dân
sự một cách hợp pháp, bởi bản thân góp vốn đó là một hành vi chuyển giao tài
sản, do đó phải tuân thủ những qui tắc chung có liên quan tới việc chuyển
giao tài sản. Căn cứ vào việc chuyển giao, người ta chia các hình thức góp
vốn bằng tài sản thành một số loại để nghiên cứu và qui định như góp vốn
bằng tiền, góp vốn bằng hiện vật (vật chất liệu) và góp vốn bằng quyền. Góp
vốn bằng quyền tài sản lại được phân chia thành: góp vốn bằng quyền hưởng
dụng, sản nghiệp thương mại và quyền sở hữu trí tuệ.
Ngoài việc góp vốn bằng tài sản, người ta còn góp vốn bằng công sức
và bằng tri thức. Đây là hai hai khái niệm không hẳn nằm ngoài khái niệm tài
sản. Các khái niệm này có sự giao thoa. Một người có thể không đưa tài sản
cụ thể nào vào công ty với tính cách là góp vốn, mà người đó có thể thực hiện
22
một công việc nào đó mà công ty cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình hoặc đóng góp những hiểu biết mà công ty không thể không
cần đến trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc cung cấp một
công việc và việc cung cấp một tri thức có qui chế pháp lý riêng biệt với việc
cung cấp một tài sản cụ thể trong việc thành lập một công ty. Sau đây lần lượt
nghiên cứu các hình thức góp vốn cụ thể.
1.1.3.1. Góp vốn bằng tiền
Góp vốn bằng tiền là việc cá nhân hay tổ chức chuyển một khoán
tiền (Việt Nam đồng hay ngoại tệ hay những giấy tờ có giá trị như ngân
phiếu, trái phiếu của mình) để hình thành vốn của công ty, và đổi lại phần
vốn góp hay cổ phần từ công ty. Hành vi chuyển dịch chỉ được thực hiện
xong khi nào thành viên góp vốn hoàn thành nghĩa vụ góp vốn mà có hình
thức như: chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng hoặc một tài
khoản trung gian...
Góp vốn bằng tiền có tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi
trong công ty. Do tính chất thanh khoản của tiền như vật ngang giá chung của
cả nền kinh tế. Khi cam kết góp mà không góp hoặc góp không đúng hạn
khoản tiền cam kết góp được coi là người cam kết nợ khoản cam kết đó với
công ty. Việc góp vốn hay trả nợ vốn có thể thực hiện bằng các phương thức
thanh toán theo qui định của pháp luật hay sự thỏa thuận của các bên.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp danh phương
thức góp vốn bằng tiền mặt đòi hỏi phải đóng đủ rồi mới được thành lập công
ty bởi các hình thức công ty này không được phát hành cổ phiếu. Với công ty
cổ phần, phương thức góp vốn bằng tiền mặt không đòi hỏi những người tham
gia đăng ký góp vốn phải đóng đủ ngay phần của mình trước khi công ty phải
đăng ký kinh doanh mà chỉ cần đóng góp trước một phần bởi hình thức công
ty này có phát hành cổ phần. Số cổ phần còn lại sẽ được mua nốt trong một
khoảng thời gian nhất định sau khi công ty chính thức đi vào hoạt động. Về
phương cách kiểm soát, pháp luật của nhiều nước, sau khi tiến hành góp vốn
23
theo phương thức này, các sáng lập viên phải có trách nhiệm gửi toàn bộ số
tiền đó thu được vào một tài khoản ngân hàng phong tỏa hoặc gửi tại nơi ký
thác. Luật Công ty 1990 cũng đã từng có quy định góp vốn phải gửi vào tài
khoản phong tỏa. Hiện tại, việc chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa chỉ áp
dụng đối với công ty cổ phần khi phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ
chứ không áp dụng cho trường hợp góp vốn thành lập công ty, vấn đề này phụ
thuộc vào thỏa thuận của các cổ đông khi sáng lập công ty cổ phần.
1.1.3.2. Góp vốn bằng hiện vật
Góp vốn bằng hiện vật là việc góp vốn bằng quyền sở hữu đối với vật
mà có thể là bất động sản do bản chất hay do mục đích, hoặc động sản do bản
chất. Về nguyên tắc, mọi tài sản là vật đều có thể đem góp vốn thành lập công
ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể về việc góp vốn thành lập
công ty. Vật đưa vào góp vốn phải là vật được đưa vào giao lưu dân sự đáp
ứng đầy đủ ba yêu cầu: (i) vật có thực phải là một bộ phận của thế giới vật
chất; (ii) vật có thực phải đem lại lợi ích cho con người; (iii) vật có thực là
những vật con người có thể chiếm giữ được [17, tr. 31].
Như vậy việc góp vốn bằng hiện vật gần giống với việc bán hay đổi vật
đó để lấy quyền lợi trong công ty. Người góp vốn thu được quyền lợi. Còn
công ty có được quyền sở hữu đồ vật. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự Pháp quy
định: “việc góp vốn bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền
đối với vật và giao vật cho công ty sử dụng. Nếu góp vốn bằng quyền sở hữu,
người góp vốn phải đảm bảo đối với công ty như người bán đảm bảo đối với
người mua” (Điều 1843 - 3).
Vật được đem góp vốn phải là tài sản được phép giao dịch. Vật phải
được xác định rõ. Chất lượng của vật do các bên thỏa thuận. Trong trường
hợp chất lượng của vật đó được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định chất lượng của vật được xác định theo tiêu chuẩn đó công bố
hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi các bên không
có thỏa thuận và pháp luật không có quy định về chất lượng thì chất lượng của
24
vật mua bán được xác định theo mục đích sử dụng và chất lượng trung bình của
vật cùng loại. Với nghĩa vụ như người bán đối với người mua thì thành viên
góp vốn có nghĩa vụ giao vật đúng số lượng, đồng bộ và đúng chủng loại, cung
cấp thông tin cần thiết về vật và hướng dẫn cách sử dụng vật đó, đảm bảo
quyền sở hữu đối với vật đó góp vốn không bị bên thứ ba tranh chấp.
Việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản từ thành viên
sang công ty có ý nghĩa pháp lý quan trọng, phải cam kết thực hiện nghĩa vụ
dân sự, vì theo quan điểm pháp lý dân sự thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản
thường gắn liền với thời điểm chuyển quyền sở hữu. Về nguyên tắc, chủ sở
hữu phải chịu rủi ro xảy ra đối với tài sản của mình. Từ thời điểm thành viên
cam kết góp vốn mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của thành viên
với công ty. Trong đó, nếu công ty chưa đăng ký kinh doanh thì quyền yêu
cầu là quyền của các thành viên khác đối với thành viên cam kết góp vốn thực
hiện nghĩa vụ của họ. Thời điểm này chưa làm phát sinh quyền sở hữu tài sản
của công ty vì công ty chưa ra đời. Việc chuyển dịch quyển sở hữu tài sản từ
thành viên sang công ty chỉ có thể tính từ thời điểm công ty được chính thức
thừa nhận về mặt pháp lý tức là thời điểm cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Tức là, việc công ty trở thành chủ sở hữu của vật góp vốn buộc công
ty phải có tư cách pháp nhân, nghĩa là công ty phải có khả năng hưởng quyền
và gánh vác nghĩa vụ. Điều này cho thấy việc góp vốn bằng hiện vật không
thể thực hiện được với công ty không có tư cách pháp nhân.
Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng loại tài sản và ghi nhận của pháp
luật, của hợp đồng hoặc điều lệ công ty mà việc chuyển quyền sở hữu tài sản
hiện vật từ thành viên sang công ty được thực hiện theo những thủ tục khác
nhau. Vật được giao theo phương thức thỏa thuận về việc góp vốn; nếu không
có thỏa thuận về phương thức giao vật thì vật do thành viên góp vốn giao một
lần, giao trực tiếp công ty. Thành viên góp vốn phải chịu chi phí vận chuyển
đến địa điểm giao vật và chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu đối
với vật.
25
1.1.3.3. Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất
Hiến pháp 2013 tại Điều 53 qui định:
“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý”.
Qua đây có thể hiểu đất đai là một tài sản đặc biệt, có qui chế pháp lý
rất khác so với các loại tài sản khác. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Do đó người ta chỉ có thể
góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nhà nước ta đã tạo ra cho người sử dụng đất
những quyền năng nhất định, trong đó có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng
đất để thành lập công ty. Đất đai là bất động sản do bản chất. Thông thường
có thể xếp việc góp vốn bằng đất đai vào góp vốn bằng hiện vật. Nhưng Nhà
nước chỉ trao cho các tổ chức, cá nhân quyền sử dụng đất với từng mảnh đất
cụ thể. Quyền sử dụng đất lại được quy định bởi nhiều chế độ pháp lý khác
nhau tùy theo từng loại đất. Do vậy phải xếp việc góp vốn bằng quyền sử
dụng đất thành một hình thức góp vốn riêng so với góp vốn bằng vật. Việc
góp vốn thành lập công ty bằng quyền sử dụng đất phải thỏa mãn các điều
kiện sau: (i) có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (ii) không có tranh chấp;
(iii) quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; (iv) trong
thời hạn sử dụng đất.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài
đầu tư tại Việt Nam được nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Nếu thuê đất thu
tiền thuê đất hàng năm có quyền góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất thuê tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt
Nam. Nếu cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê có
quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất thuê và tài sản thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất để hợp tác kinh doanh, sản xuất trong thời hạn thuê đất [26]
Việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất đòi hỏi quyền sử dụng đất phải
thuộc trường hợp pháp luật cho phép được dùng vốn góp như một tài sản.
26
Quyền sử dụng đất mà các bên đem góp vốn phải được định giá, các bên có
thể thỏa thuận định giá và cùng chịu trách nhiệm về thỏa thuận định giá đó
hoặc thuê tổ chức định giá chuyên nghiệp.
Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất là tài sản phải đăng ký do vậy sau khi
thỏa thuận góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì đến thời điểm góp vốn bên
góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải chuyển quyền sử dụng đất cho công ty
và công ty là chủ thể đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Kể từ thời điểm công ty hoàn thành việc đăng ký quyền sử dụng đất thì
việc chuyển quyền sử dụng đất cho công ty được hoàn thành. [26].
Từ những phân tích trên cho thấy ở nước ta, với việc chỉ có một hình thức sở
hữu về đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý và không công nhận sở
hữu tư nhân về đất đai, thì quyền sử dụng đất được đưa ra như một tài sản đặc
thù và việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất với tư cách là một bất động sản
vô hình cũng có những đặc thù riêng.
1.1.3.4. Góp vốn bằng quyền hưởng dụng
Góp vốn bằng quyền hưởng dụng là một hình thức góp vốn bằng
quyền. Góp vốn bằng quyền có phần phức tạp hơn so với góp vốn bằng tiền
và góp vốn bằng hiện vật, không chỉ vì sự tính toán giá trị của nó, mà còn vì
sự phân loại nó. Trước hết, việc phân loại tài sản thành tài sản hữu hình và tài
sản vô hình dẫn đến phân chia việc góp vốn bằng tài sản thành góp vốn bằng
hiện vật và góp vốn bằng quyền, hay nói cách khác, góp vốn bằng tài sản hữu
hình và góp vốn bằng tài sản vô hình, ngoài việc góp vốn bằng tiền. Việc
phân chia cách góp vốn như vậy làm nảy sinh ra vấn đề cần lưu ý. Như trên
đã khẳng định, góp vốn bằng vật có thực là việc chuyển quyền sở hữu vật cho
công ty mà trong khi quyền sở hữu được xem như một vật quyền. Do đó,
phân biệt thế nào giữa góp vốn bằng quyền sở hữu và góp vốn bằng các quyền
khác mà trong đó có cả các vật quyền ngoài quyền sở hữu? [22, tr. 119].
Quyền sở hữu là quyền thống trị đối với vật nên để công ty có quyền
thống trị hoàn toàn với vật đó thì việc chuyển nhượng quyển sở hữu đó là
điều kiện bắt buộc. Do tính chất thống trị của quyển sở hữu đối với vật, nên
27
người ta tách góp vốn bằng việc chuyển nhượng quyền sở hữu (một vật
quyền) ra khỏi việc góp vốn bằng các quyền khác, kể cả quyển sở hữu trí tuệ
để có thể thiết lập được các quy chế pháp lý thích hợp với từng loại.
Góp vốn bằng quyền lại có thể được phân chia thành góp vốn bằng quyền
hưởng dụng, quyền sở hữu trí tuệ và góp vốn bằng sản nghiệp thương mại.
Nếu phân biệt quyền sở hữu đối với vật thành ba quyền gồm: quyền sử
dụng (usus), quyền thu lợi (fructus) và quyền định đoạt (abusus), thì quyền
hưởng dụng ở đây chỉ bao gồm hai thành tố là: quyền sử dụng và quyền thu
lợi để được gọi là usufruct. Vì vậy người ta thường tách góp vốn bằng quyền
hưởng dụng đối với vật ra khỏi việc góp vốn bằng vật, bởi người góp vốn vào
công ty chỉ cho công ty được sử dụng vật và thu lợi từ đó. Công ty không có
quyền quyết định số phận của vật.
Để đổi lại việc cho công ty hưởng dụng vật, người góp vốn nhận được
các quyền lợi tương ứng trong công ty. Từ đó có thể thấy việc góp vốn bằng
quyền hưởng dụng có những đặc điểm giống với việc cho thuê tài sản. Chẳng
hạn, Bộ luật Dân sự Pháp quy định:
“Nếu góp vốn bằng quyền hưởng dụng, người góp vốn phải đảm bảo
với công ty như người cho thuê đối với người thuê. Tuy nhiên, nếu vật để
hưởng dụng là vật cùng loại hoặc vật được thay thế trong thời gian hoạt động
của công ty, thì người góp vốn chuyển cho công ty quyền sở hữu vật với điều
kiện được trả lại đúng số lượng, chất lượng và giá trị tương đương. Trong
trường hợp này, người góp vốn phải đảm bảo những điều kiện quy định tại
đoạn trước” [Điều 1843 – 3, đoạn 4].
Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931, Bộ luật chịu ảnh hưởng từ Bộ luật dân sự
Pháp quy định người góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải thực hiện những
nghĩa vụ của người cho thuê tài sản (Điều thứ 1207, đoạn 2). Với tinh thần
này, Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật tại Điều thứ 1439, đoạn hai cũng có quy
định tương tự. Điều 127, Bộ luật Dân sự 1972 của chính quyền Sài Gòn (cũ)
cũng quy định như vậy. Điều đó có nghĩa là người góp vốn bằng quyền hưởng
28
dụng phải bảo đảm cho công ty được hưởng dụng yên ổn. Trừ khi có thoả
thuận khác, người góp vốn phải bảo dưỡng, sửa chữa tài sản để tài sản luôn
luôn ở trong tình trạng có thể sử dụng được như mục đích đề ra khi cam kết
góp vốn. Cần xác định rằng, người góp vốn vẫn giữ quyền sở hữu đối với vật
và gánh chịu rủi ro. Khác với việc góp vốn bằng hiện vật, việc góp vốn bằng
quyền hưởng dụng có hệ quả là khi công ty giải thể, thì người góp vốn được
nhận lại vật đó trước khi phân chia tài sản của công ty, bởi người này không
chuyển giao quyền định đoạt đối với vật cho công ty.
Bản chất của quyền hưởng dụng là tài sản vô hình. Tuy nhiên việc xem
nó là động sản vô hình hay bất động sản vô hình phụ thuộc vào tài sản là đối
tượng của nó là động sản hay bất động sản.
Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam tại Điều 175 gọi hai loại hoa lợi
trên là “hoa lợi” và “lợi tức”. Cách gọi như vậy gây khó khăn cho trường hợp
gọi chung cho cả hai loại này và không cho thấy bản chất thật hay gốc gác
pháp lý của hai loại này. Người góp vốn bằng quyền hưởng dụng chuyển giao
quyền hưởng dụng đối với vật cho công ty và giữ lại quyền định đoạt đối với
vật. Để đổi lại việc cho công ty hưởng dụng vật, người góp vốn nhận được
các quyền lợi tương ứng trong công ty [18, tr. 31].
Tài sản góp vốn là quyền hưởng dụng thì phần vốn góp chính là giá trị
được tính bằng quyền hưởng dụng đối với tài sản. Thành viên góp vốn bằng
quyền hưởng dụng phải giao tài sản cho công ty đúng số lượng, chất lượng,
chủng loại, tình trạng và đúng thời điểm, địa điểm thỏa thuận và cung cấp
những thông tin cần thiết về việc sử dụng tài sản đó. Thành viên góp vốn bằng
quyền hưởng dụng phải bảo đảm tài sản trong tình trạng như đã thỏa thuận,
phù hợp với mục đích sử dụng trong suốt thời gian góp vốn. Thành viên góp
vốn bằng quyền hưởng dụng phải bảo đảm quyền sử dụng tài sản ổn định cho
bên thuê. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản mà
công ty không được sử dụng tài sản ổn định thì công ty có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
29
Trong trường hợp thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng chậm
giao tài sản thì công ty có thể gia hạn giao tài sản và yêu cầu bối thường thiệt
hại nếu có. Nếu tài sản thuê không đúng chất lượng như thỏa thuận thì công ty
có quyền yêu cầu bên cho thuê sửa chữa và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có.
Như vậy, góp vốn bằng quyền hưởng dụng là việc cá nhân hay tổ chức
chuyển quyền hưởng dụng tài sản của mình cho công ty để được hưởng các
quyền lợi đối với công ty, trong đó thành viên đem góp vốn vẫn là người chủ
sở hữu tài sản và công ty có quyền thu hoa lợi từ tài sản đó [18, tr. 32].
1.1.3.5. Góp vốn bằng sản nghiệp thương mại
Sản nghiệp có thể được xem xét dưới các giác độ khác nhau. Nếu xem
xét dưới khía cạnh giá trị, sản nghiệp được hiểu là một tổng thể các quan hệ
pháp luật về tài sản, là tập hợp các tài sản có và tài sản nợ của một chủ thể chứ
không đơn thuần là một bộ sưu tập đồ vật. Bất kỳ yếu tố nào của tài sản nợ
cũng được đảm bảo bằng toàn bộ tài sản có và ngược lại bất kỳ yếu tố nào của
tài sản có cũng có thể được dùng để thanh toán toàn bộ tài sản nợ [24, tr. 191].
Tài sản thuộc sản nghiệp là tập hợp tất cả những tài sản thuộc về chủ sở
hữu, hay đúng hơn đó là tập hợp tất cả những quyền tài sản có cùng một chủ
thể. Tuy nhiên, các quyền tài sản chỉ được xem là các yếu tố của một sản
nghiệp khi các quyền đó có thể được định giá bằng tiền. Do đó, các quyền
không định giá được bằng tiền được gọi là các quyền không có tính chất tài
sản hay là quyền nhân thân (ví dụ như quyền đối với tên họ; quyền được tôn
trọng danh dự, nhân phẩm; quyền bầu cử; quyền khiếu nại, tố cáo…).
Các quyền tài sản tạo thành một tập hợp sản nghiệp và tập hợp này tồn
tại độc lập với các quyền tài sản đó. Tài sản có thể được mua bán, sử dụng,
hao mòn, thậm chí biến mất nhưng sản nghiệp vẫn được duy trì. Do đó, một
chủ nợ không có bảo đảm chỉ có quyền yêu cầu kê biên và bán đấu giá bất kỳ
một tài sản nào của người mắc nợ ở thời điểm kê biên mà sẽ không có quyền
này đối với những tài sản đã chuyển nhượng trước khi nợ đến hạn đòi. Mặt
30
khác, cần chú ý rằng sản nghiệp không chỉ là tài sản hiện có mà còn bao gồm
cả những tài sản sẽ có của chủ sở hữu.
Tài sản nợ thuộc về sản nghiệp là tất cả những nghĩa vụ tài sản của một
người, hay nói một cách đơn giản hơn đó là những gì còn lại của khối tài sản
sau khi đã trừ đi các giá trị của các nghĩa vụ tài sản. Trong kinh tế học, có
khái niệm tài sản có ròng (actif net) của sản nghiệp. Khi các tài sản có ròng có
giá trị dương, ta nói sản nghiệp có khả năng thanh toán; và ngược lại, nếu đó
là một giá trị âm, đồng nghĩa với việc sản nghiệp không có khả năng thanh
toán những nghĩa vụ có liên quan. Mặc dù vậy, dù có khả năng thanh toán hay
không, sản nghiệp luôn luôn tồn tại.
Xét trên các hình thức biểu hiện, người ta sử dụng nhiều thuật ngữ khác
nhau để chỉ sản nghiệp thương mại như “cửa hàng thương mại”, “cơ sở kinh
doanh”. Sản nghiệp thương mại không phải là bản thân doanh nghiệp mà chỉ
là một trong các nhân tố của doanh nghiệp. Sản nghiệp thương mại bao gồm
cả những yếu tố hữu hình (như hàng hóa, máy móc, xe cộ, các vật dụng khác)
và cả những yếu tố vô hình (như mạng lưới khách hàng, mạng lưới cung cấp
ứng dụng dịch vụ, quyền thuê mượn tài sản, tên thương mại, thương danh,
biển hiệu, bằng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, mẫu mã …). Các yếu tố vô
hình của sản nghiệp thương mại bao gồm:
Mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ là kết quả của những
nỗ lực phát huy tài năng và sự khéo léo của thương nhân nhằm thu hút khách
hàng để tiêu thụ hàng hóa mà mình sản xuất. Sự phát triển của mạng lưới tiêu
thụ hàng hóa hay cung cấp dịch vụ lệ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan
(tình hình kinh tế xã hội của quốc gia và khu vực; thị hiếu và nhu cầu của
người tiêu dùng, thời điểm kinh doanh, tốc độ đô thị hóa, điều kiện tự nhiên,
môi trường ...) cũng như yếu tố chủ quan (sự nhạy bén và linh hoạt của chính
sách tiếp thị, uy tín của thương hiệu, ý chí của bạn hàng …).
Tên thương mại – là danh hiệu dùng trong giao dịch của thương nhân.
Tên thương mại là một yếu tổ của sản nghiệp thương mại và có thể chuyển
31
nhượng. Ở các nước có nền kinh tế thương mại phát triển, có một số tên
thương mại được định giá cao. Ví dụ như Cocacola, Toyota, Google…
Biển hiệu là dấu hiệu gắn liền với cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm giúp
phân biệt cơ sở này với cơ sở khác. Cũng như tên thương mại, biển hiệu chỉ
có thể là đối tượng của quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ khi thương nhân
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Pháp luật Việt Nam hiện hành
chỉ mới dự liệu các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu biển hiệu trong tập quán
và trong các quy phạm địa phương trong khi nhu cầu này trên thực tế của dân
sự là rất lớn, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cũng như chính
sách chống cạnh tranh không lành mạnh đã được ghi nhận trong pháp luật
Việt Nam thời gian gần đây [22, tr. 219].
Như vậy, sản nghiệp thương mại không đơn thuần chỉ bao gồm các tài
sản là vật có thực mà nó còn là những tài sản vô hình của doanh nghiệp. Vì
vậy, người ta không thể coi việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại như là
góp vốn bằng vật. Đồng thời, sản nghiệp thương mại mặc dù các yếu tố của
quyền sử hữu trí tuệ nhưng nó lại bao gồm cả các tài vật. Chình vì vậy, người
ta thường tách việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại thành một mục riêng
khác với việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại gần giống với việc bán sản
nghiệp thương mại và phải được các bên thỏa thuận bằng văn bản liệt kê rõ
từng mục. Điều đó có nghĩa là việc bán sản nghiệp thương mại là việc chuyển
nhượng tổng thể các yếu tố của sản nghiệp thương mại cho người khác mà
trong đó nhất thiết phải có yếu tố khách hàng, bởi khách hàng là thành tố
chính của một sản nghiệp thương mại. Tuy nhiên, bởi nhiều yếu tố khác nhau
cả vô hình và hữu hình mà có thể tách ra một cách độc lập, nên việc không
liệt kê yếu tố nào vào văn bản hợp đồng, thì yếu tố ấy coi như không bị bán.
Ngoài ra việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại còn lệ thuộc vào các quy
tắc bán sản nghiệp thương mại được quy định trong luật thương mại.
1.1.3.6. Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ
32
Luật Doanh nghiệp 2014 có qui định rành mạch về góp vốn bằng quyền
sở hữu trí tuệ rằng:
“Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả,
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở
hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói
trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn” (Điều 35, khoản 2).
Theo Luật sở hữu trí tuệ thì quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả
và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối
với giống cây trồng. Những hình thức sở hữu trí tuệ chủ yếu là bằng sáng chế,
quyền tác giả (bản quyền), nhãn hiệu và bí mật thương mại.
Quyền tác giả hay bản quyền là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác
phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn
và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Bản quyền
chủ yếu nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, kiến trúc, các tác phẩm văn học,
nghệ thuật có giá trị. Các chương trình máy tính và bản ghi âm, ghi hình cũng
được bảo hộ bằng quyền tác giả. Chỉ tác giả hay những người được tác giả
trao quyền – chẳng hạn như nhà xuất bản – mới có toàn quyền khiếu nại về
bản quyền. Tuy nhiên cho dù là ai đang sở hữu bản quyền đi chăng nữa thì
quyền đó cũng có giới hạn. Ví dụ như người ta có thể sao chép một tác phẩm
với mục đích học tập, phê bình, đưa tin hay giảng dạy.
Sáng chế là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, người có sáng chế hay
người đã tạo ra một phát minh được cấp bằng sáng chế. Bằng sáng chế có thể
coi là một hợp đồng giữa một bên là toàn thể xã hội và một bên là cá nhân nhà
phát minh. Theo các điều khoản của hợp đồng này, nhà phát minh được toàn
quyền ngăn chặn người khác không được áp dụng, sử dụng và bán một phát
minh đã được cấp bằng sáng chế trong một khoảng thời gian nhất định – hầu
hết các nước quy định là 20 năm – để đổi lại việc nhà phát minh phải công bố
chi tiết phát minh của mình cho công chúng.
33
Bí mật thương mại bao gồm bất cứ thông tin nào có thể được sử dụng
trong việc điều hành doanh nghiệp và có giá trị lớn trong việc tạo ra lợi ích
kinh tế trong tương lai hay trong thực tại đều được coi là bí mật thương mại.
Ví dụ về bí mật thương mại có thể là công thức sản xuất ra các sản phẩm,
chẳng hạn như công thức sản xuất Coca-Cola; việc thu thập thông tin nhằm
tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một doanh nghiệp, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu
về danh sách khách hàng; bí mật thương mại thậm chí gồm cả chiến lược
quảng cáo và quy trình phân phối. Khác với bằng sáng chế, bí mật thương mại
về lý thuyết được bảo vệ vô thời hạn và không cần thủ tục đăng ký gì. Tuy
nhiên, bí mật thương mại thường dễ bị lộ và việc bảo vệ bí mật thương mại
đòi hỏi chính bản thân chủ thể phải có các biện pháp bảo vệ bí mật.
Nhãn hiệu hàng hóa là chỉ số chỉ dẫn thương mại, là dấu hiệu phân biệt
để xác định một loại hàng hóa hay dịch vụ do một cá nhân hay công ty cụ thể
sản xuất hoặc cung cấp. Nhãn hiệu đặc biệt quan trọng khi người sản xuất và
tiêu dùng ở cách xa nhau. Ở hầu hết các nước trên thế giới, nhãn hiệu cần phải
được đăng ký thì mới có thể bảo hộ được và việc đăng ký cần phải được gia
hạn. Thế nhưng trong khi bản quyền và bằng sáng chế tự hết hạn thì tên của
công ty phục vụ khách hàng tốt sẽ ngày càng trở nên có giá, nghĩa là việc bảo
hộ nhãn hiệu là không thời hạn [29, 42].
Ngoài ra còn có các hình thức sở hữu trí tuệ đa dạng khác như chỉ dẫn
địa lý, kiểu dáng mỹ thuật hay kiểu trang trí của các vật dụng cũng được bảo
hộ theo nhiều cách khác nhau. Nhiều kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ như
đối với sáng chế về kiểu dáng. Và quyền sở hữu trí tuệ còn có những loại hình
đặc biệt là các giống cây trồng mới, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, tên
miền trên internet ...
Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là một tài sản vô hình tuyệt đối bao gồm:
quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền tác giả, bằng sáng chế, bí mật thương
mại, nhãn hiệu hàng hóa và các loại sở hữu trí tuệ khác như: chỉ dẫn địa lý,
kiểu dáng công nghiệp, tên miền internet, phần góp vốn trong công ty có tư
cách pháp nhân và một số yếu tố của sản nghiệp thương mại không thể nhận
34
biết được bằng giác quan mà phải thông qua những ý niệm về những mối
quan hệ pháp luật gữia người có quyền khai thác lợi ích của tài sản và người
thứ ba. Thông qua việc khai thác những loại tài sản vô hình này, người ta có
thể thu về những lợi ích vật chất nhất định khi sử dụng chúng.
Do sở hữu trí tuệ cũng có nhiều đặc tính của sở hữu cá nhân và sở hữu
tài sản thực sự nên những quyền lợi gắn liền với sở hữu trí tuệ cho phép
chúng ta có thể mua, bán, cấp phép hay thậm chí là cho không sở hữu trí tuệ
của chúng ta như tài sản thông thường và việc góp vốn thành lập công ty
bằng quyền sở hữu trí tuệ cũng giống như việc góp vốn bằng những tài sản
khác. Luật về sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu, người phát minh và tác giả
bảo vệ tài sản của mình trước việc sử dụng trái phép. Việc góp vốn bằng các
tài sản này buộc người góp vốn phải bảo đảm cho công ty khai thác tái sản để
đem lại các lợi ích phát sinh từ đó. Ngược lại người góp vốn có quyền lợi
tương ứng trong công ty. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, do tài sản trí tuệ có
yếu tố rất động và vô hình, nên việc góp vốn phụ thuộc rất nhiều vào sự thỏa
thuận của các thành viên và bị điều tiết bởi pháp luật về sở hữu trí tuệ [22, tr.
182 - 183].
1.1.3.7. Góp vốn bằng tri thức
Trong nền kinh tế tri thức, người ta thường nhắc đến các yếu tố lớn
nhất đang làm biến đổi các nước trên thế giới. Đó là chủ nghĩa tư bản tài
chính (finance capitalism), chủ nghĩa tư bản tri thức (knowlege capitalism) và
chủ nghĩa tư bản xã hội (social capitalism) mà tại đó chủ nghĩa tư bản được
hiểu là một cuộc vận động làm phát sinh ra các ý tưởng mới và đưa chúng vào
các sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực thương mại. Vậy góp vốn bằng tri
thức là một vấn đề trọng yếu của nền kinh tế công nghiệp, hậu công nghiệp
hay kinh tế tri thức.
Ngày nay người ta thường nhấn mạnh tài sản trí tuệ hay sở hữu trí tuệ.
Chúng được xem là một bộ phận quan trọng của tri thức. Điều đó có nghĩa là
khái niệm tài sản và khái niệm tri thức có sự giao thoa, nhưng không trùng
35
khít với nhau. Nếu định nghĩa tri thức trên phương diện hành vi có thể quan
sát được, thì tri thức là khả năng của một cá nhân hay của một nhóm thực
hiện, hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy trình nhằm
tạo ra các sự chuyển hóa có thể dự báo được của các vật liệu. Tri thức có thể
được điển chế hóa và có thể sao chép hoặc có thể ở dạng ẩn không thể sao
chép khi ở trong đầu của các cá nhân hoặc các chu trình hoạt động của các
doanh nghiệp. Những tri thức ẩn không thể điển chế hóa được, nên khó có thể
mua và bán. Chúng khác với bốn loại tài sản trí tuệ là nhãn hiệu thương mại,
giấy chứng nhận sáng chế, bản quyền và kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký
mà được xem là tài sản vì có thể trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao lưu dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Tri thức ẩn được biểu hiện ở vốn nhân lực và tổ chức, nên mang đến
cách thức góp vốn khác với cách thức góp vốn bằng tài sản. Khi nghiên cứu
về kinh tế tri thức, người ta nhận định: khả năng tri thức “ngầm” quan trọng
nhất có lẽ là khả năng học hỏi liên tục và đạt tới những kỹ năng mới. Do đó,
góp vốn bằng tri thức, cụ thể như tri thức ẩn, là góp vốn bằng chính khả năng
như nghiên cứu thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh, các phản ứng nhạy
bén với thị trường... [22, tr. 184 - 186].
Có thể lấy một ví dụ thực tế cho việc góp vốn bằng tri thức là một Thầy
giáo giỏi có uy tín tham gia thành lập trường tư cùng với các thành viên khác.
Thầy giáo hoàn toàn có quyền cam kết sẽ làm việc cho trường trong một thời
gian. Trong thời gian đó, danh tiếng và tri thức của thầy này sẽ làm lợi cho
trường rất nhiều, có thể nói là có ý nghĩa quyết định với việc trường tư này có
thể tồn tại được hay không. Do đó, việc thầy giáo này được nhận lại một phần
quyền trong trường dưới dạng vốn góp là hoàn toàn hợp lý. Hơn nữa, khi đã
gắn danh tiếng của mình với trường đó, thầy này cũng có nhu cầu tham gia
quản lý nhà trường đó để có thể đảm bảo trường sẽ hoạt động một cách quy củ
và danh tiếng của mình gắn với trường đó sẽ không bị tổn hại. Tóm lại, việc
36
góp vốn bằng tri thức và danh tiếng chính là giải pháp hợp lý nhất để ràng buộc
quyền và nghĩa vụ của các bên, ở đây là giữa thầy giáo và nhà trường.
Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra với hình thức góp vốn này là người
góp vốn bằng tri thức phải đảm bảo việc mang tri thức của mình ra phục vụ
một cách mẫn cán và trung thực cho lợi ích công ty, có nghĩa là người đó phải
thực hiện một nghĩa vụ mẫn cán và trung thực cho trái chủ là công ty do chính
người đó cam kết lập ra.
Tuy nhiên, việc góp vốn bằng tri thức – một khả năng trừu tượng, sẽ
mang lại khó khăn trên nhiều phương diện như: tính giá trị phần vốn góp để
chia sẻ quyền lợi trong công ty; chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ của người
góp vốn. Những khó khăn này lệ thuộc hoàn toàn vào sự đánh giá và thỏa
thuận các các thành viên công ty. Tại đây cần nhấn mạnh, tri thức khi được
góp vốn hoàn toàn không biến khỏi các thành viên góp nó, có nghĩa là nó chỉ
tồn tại nơi các thành viên và càng được sử dụng thì càng được củng cố và
phát triển. Vậy việc bảo đảm cho sự độc quyền sử dụng tri thức đó của công
ty là một vấn đề lớn cần tới sự trung thực của người góp vốn. Sự tin tưởng lẫn
nhau, hợp tác với nhau là một yêu cầu có tính thiết yếu trong nền kinh tế hậu
công nghiệp và kinh tế tri thức hiện nay. Vì vậy, mặc dù chưa nhận thức một
cách đầy đủ, đúng đắn, nhưng ý tưởng người có chuyên môn và người có tài
sản cùng nhau góp vốn làm ăn dưới hình thức công ty hợp danh theo pháp
luật Việt Nam là đã hướng tới một phần nào quan niệm này.
1.1.3.8. Góp vốn bằng công sức
Như trên đã nghiên cứu, thỏa thuận trong các hợp đồng góp vốn thành
lập công ty là một căn cứ làm phát sinh ra nghĩa vụ của các thành viên công
ty. Và đối tượng của nghĩa vụ bao gồm: chuyển giao quyền sở hữu, làm hoặc
không làm một công việc nào đó. Vì vậy, cam kết thực hiện những hành vi cụ
thể có thể trị giá được bằng tiền theo quan niệm của luật nghĩa vụ cũng được
xem là góp vốn. Vì vậy cam kết thực hiện những hành vi cụ thể có có thể có
giá trị được bằng tiền theo quan niệm của luật nghĩa vụ cũng được xem là góp
37
vốn. Có quan niệm cho rằng, góp vốn bằng công lao hay việc làm phải là góp
vốn bằng một công việc điều khiển, chỉ huy mà không phải công việc của
người thừa hành, vì công ty có nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên. Tuy
nhiên, có thể nhận thấy là công sức lao động không có gì đặc biệt sẽ khó có
thể được đóng góp vào công ty để người góp vốn trở thành một trong những
ông chủ của nó, vì công ty dễ dàng mua được công sức lao động như vậy với
giá hợp lý mà không phải trả thêm lãi và chia sẻ quyền lực quản lý của thành
viên khác trong công ty. Nhưng tại đây có hai trường hợp cần lưu ý: một là,
công sức được bỏ ra có thành tố tri thức hoặc kinh nghiệm; hai là, người góp
vốn bằng công sức được tin tưởng hơn những người khác khi công ty dự định
thành lập là một công ty đối nhân. Trường hợp thứ nhất có thể nhầm lẫn với
góp vốn bằng tri thức. Tuy nhiên, nếu thành tố tri thức ít hơn so với lao công,
thì có thể nói, việc góp vốn đó là góp vốn bằng công việc. Đối với trường hợp
này, công ty đối vốn có thể cũng cần, chẳng hạn người lái xe giỏi, thông thạo
được ở nhiều thành phố góp vốn bằng khả năng này của mình. Trường hợp
thứ hai tùy thuộc hoàn toàn vào sự lựa chọn của các thành viên [24, tr. 71].
Thừa nhận việc góp vốn bằng công sức là hướng tới yếu tố hiệu quả
của việc góp vốn, đảm bảo nguyên tắc tự do ý chí, và bảo đảm cho công sức
lao động xã hội. Cũng giống với góp vốn bằng tri thức, việc góp vốn bằng lao
công khiến cho người góp vốn bị ràng buộc nghĩa vụ mẫn cán và trung thực.
Do đó, nó cũng có hậu quả tương tự với góp vốn bằng tri thức.
Bộ luật Dân sự Pháp qui định: Phần góp vốn bằng công sức lao động
không được tính vào vốn của công ty (không trị giá được bằng tiền), nhưng
người góp vốn bằng công lao động được nhận cổ phần của công ty, có quyền
chia lãi và tài sản có, đồng thời cũng phải chịu lỗ.
Như vậy, phần vốn góp bằng công sức nếu có được định giá thì cũng
không được tính vào vốn điều lệ của công ty. Tuy nhiên, người góp vốn bằng
công sức vẫn được hưởng quyền lợi tương ứng với giá trị được định giá của
công sức.
38
1.1.4. Định giá tài sản góp vốn
Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí
quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp.
Vì vậy Luật Doanh nghiệp 2014 qui định:
“1. Tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá
chuyên nghiệp định giá và được thể hiện thành Đồng tiền Việt Nam.
2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ
đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc do một tổ chức định giá
chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá
thì giá trị tài sản góp vốn phải được đa số các thành viên, cổ đông sáng lập
chấp thuận.
Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế
tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp
thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản
góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm
đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế.
3. Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do chủ sở hữu, hội đồng thành
viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, hội đồng quản
trị đối với công ty cổ phần và người góp vốn thoả thuận định giá hoặc do một
tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức định giá chuyên
nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn và doanh
nghiệp chấp thuận.
Trường hợp nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế
tại thời điểm góp vốn thì người góp vốn, chủ sở hữu, thành viên hội đồng
thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, thành
viên hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần cùng liên đới góp thêm bằng số
chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời
39
điểm kết thúc định giá; đồng thời, liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại
do việc cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế” (Điều 37).
Các quy định này cho thấy đối tượng là tài sản của hành vi góp vốn vào
công ty phải được định giá, nếu các tài sản đó không phải là tiền. Trên cơ sở
đinh giá như vậy, vốn điều lệ của công ty mới được xác định rõ ràng, quyền
lợi của các bên được bảo đảm đúng mức.
Định giá tài sản vào thời điểm góp vốn thành lập công ty. Theo đó, khi
xuất hiện đối tượng tài sản cần phải được định giá, tất cả thành viên sáng lập
cùng nhau bàn bạc, thống nhất để quyết định giá trị tài sản.
Trong thực tế hoạt động định giá tài sản góp vốn, để tìm được sự nhất
trí cho việc xác định giá trị tài sản không hề đơn giản. Do đó, việc định giá tài
sản cần có sự hợp tác cao giữa những người có thẩm quyền định giá để đi đến
một mức giá cụ thể, phản ánh xác thực về hiện trạng tài sản mà nhà đầu tư
thấy rõ là hợp lý, đảm bảo không gây ra tranh chấp.
Nguyên tắc định giá tài sản góp vốn mà Luật doanh nghiệp đề ra suy
cho cùng cũng là trên cơ sở bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư, cho công ty
tiếp nhận vốn và cả bên thứ ba. Tất cả thành viên là người định giá tài sản là
vốn góp. Một tổ chức định giá chuyên nghiệp có thể có thẩm quyền định giá
theo yêu cầu của các viên.
Quy định trên đã xác định việc định giá tài sản góp vốn ở hai thời điểm
thành lập công ty và khi công ty đang hoạt động chỉ khác nhau ở thẩm quyền
định giá còn trách nhiệm và chu trình định giá là hoàn toàn giống nhau.
Những người có thẩm quyền có thể sẽ trực tiếp tiến hành hoặc thuê những
công ty kiểm toán hay các tổ chức kinh tế có chức năng định giá tài sản. Nếu
những người có thẩm quyền trực tiếp định giá tài sản góp vốn thì họ phải
thành lập Hội đồng định giá. Và tùy thuộc vào thời điểm tài sản được đem
góp vào công ty, thành phần Hội đồng định giá sẽ khác nhau.
40
Trong quá trình hoạt động, Hội đồng định giá được áp dụng cho ba loại
hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm, công ty hợp danh lần lượt là Hội
đồng quản trị, Hội đồng thành viên và tất cả các thành viên hợp danh.
Quyết định giá trị tài sản góp vốn sẽ được Hội đồng quản trị công ty cổ
phần, Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, tất cả các thành viên
hợp danh công ty hợp danh bàn bạc trong cuộc họp. Và việc định giá tài sản
để tiếp nhận thành viên đồng nghĩa với sửa đổi Điều lệ chỉ được thông qua
khi đáp ứng được tỉ lệ luật định. Luật cũng quy định công ty có thể thuê tổ
chức định giá chuyên nghiệp để định giá tài sản góp vốn. Quy định của Luật
doanh nghiệp về thẩm quyền định giá đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty
định giá tài sản góp vốn.
Đối với trường hợp công ty tự tiến hành định giá tài sản góp vốn, tất cả
thành viên liên đới chịu trách nhiệm về giá trị tài sản. Họ phải cùng thỏa
thuận để định đoạt giá trị của tài sản góp vốn. Khi xảy ra việc tài sản góp vốn
được định giá cao hơn so với giá trị thực tế của nó tại thời điểm góp vốn, theo
quy định của luật doanh nghiệp, cả người góp vốn và người định giá phải góp
đủ số vốn như đã được định giá. Đây là một quy định cần được xem xét trên
cả hai phương diện: một là các bên đã không ý thức được giá trị thực của tài
sản, hai là các bên đã cố tình định giá cao hơn giá trị thực tế. Tuy nhiên, dù ở
trường hợp nào, khi gây thiệt hại cho người khác thì vẫn phải đặt ra trách
nhiệm bồi thường. Song luật doanh nghiệp chưa xác định rõ tỉ lệ trách nhiệm
giữa bên góp vốn và người định giá trong vấn đề này, vì điều đó mà tranh
chấp có thể xảy ra.
Trường hợp công ty thuê tổ chức kinh tế có chức năng định giá tài sản
thì trách nhiệm được nói đến ở đây thuộc về bên được thuê định giá tài sản.
Quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được xác định trong hợp đồng. Tổ chức
được thuê định giá tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định tài
sản trước khách hàng của mình.
41
Quyền lợi của nhà đầu tư gắn liền với giá trị phần góp vốn, do đó định
giá tài sản chính xác, sát với giá trị thực tế sẽ bảo vệ tối đa quyền lợi của nhà
đầu tư, tạo tâm lý an tâm khi đầu tư kinh doanh.
1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn
Như đã phân tích, một trong những nghĩa vụ căn bản của thành viên
công ty là nghĩa vụ góp vốn. Điều đó có nghĩa là khi đã cam kết góp vốn
thành lập công ty, thành viên đã tự ràng buộc mình trở thành thụ trái hay con
nợ của công ty. Cần nhấn mạnh rằng các phần vốn góp của các thành viên đều
trở thành sản nghiệp của công ty do chính họ tạo dựng nên. Vì vậy, công ty –
một pháp nhân riêng biệt – là trái chủ của chính những người chủ của mình.
Việc góp vốn bằng tiền, nếu thành viên góp vốn không góp đúng hạn thì sẽ
trở thành con nợ đối với công ty. Công ty có quyền đòi nợ với thành viên đã
vi phạm nghĩa vụ góp vốn và yêu cầu trả lãi số tiền đó kể từ ngày phải đóng
góp và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có.
Việc góp vốn bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền
đối với vật và giao cho công ty sử dụng. Người góp vốn phải đảm bảo đối với
công ty như người bán bảo đảm đối với người mua. Nghĩa là việc góp vốn
bằng hiện vật giống như việc bán tài sản cho công ty để đổi lấy quyền lợi từ
công ty. Vậy nếu người bán vi phạm nghĩa vụ góp vốn thì sẽ bị xử lý giống
như người bán vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán vật. Cụ thể: Trường
hợp người góp vốn giao vật ít hơn số lượng đã thỏa thuận thì công ty có
quyền nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có) đối với
phần chưa giao đúng số lượng hoặc định thời gian để người góp vốn giao tiếp
phần còn thiếu, nếu người góp vốn không giao được tiếp số lượng vật còn
thiếu thì công ty có quyền xác định lại giá trị vốn góp của người đó và yêu
cầu bồi thường thiệt hại nếu có [22, tr. 189].
Trong trường hợp góp vốn giao vật không đồng bộ làm cho mục đích
sử dụng của vật không đạt được hiệu quả thì công ty có quyền nhận vật và
42
yêu cầu người góp vốn giao tiếp phần hoặc bộ phận còn thiếu, yêu cầu bồi
thường thiệt hại nếu có.
Trong trường hợp người góp vốn giao vật không đúng chủng loại thì
công ty có quyền yêu cầu người góp vốn giao đúng chủng loại và bồi thường
thiệt hại nếu có.
Nếu góp vốn bằng quyền hưởng dụng, người góp vốn phải bảo đảm với
công ty như người cho thuê đối với người thuê. Người góp vốn phải giao vật
cho công ty đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, tình trạng và đúng thời
điểm, địa điểm đã thỏa thuận và cung cấp những thông tin cần thiết về việc sử
dụng vật đó. Nếu người góp vốn vi phạm nghĩa vụ góp vốn thì có thể bị xử lý
như đối với trường hợp vi phạm hợp đồng thuê tài sản. Cụ thể: Trong trường
hợp người góp vốn chậm giao vật, công ty có thể gia hạn giao vật và yêu cầu
bồi thường thiệt hại. Nếu người góp vốn giao vật không đúng chất lượng như
thỏa thuận thì công ty có quyền yêu cầu người góp vốn giao vật đúng chất
lượng hoặc sửa chữa vật và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có.
Mặc dù mỗi hình thức của vốn góp thì nghĩa vụ phát sinh và việc xử lý
vi phạm nghĩa vụ góp vốn có khác nhau, nhưng tựu chung lại nếu thành viên,
cổ đông không góp vốn hoặc góp vốn chậm thì công ty có quyền đòi. Với việc
góp vốn chậm, thành viên phải chịu trả lãi và có thể phải bồi thường thiệt hại.
Trên cơ sở nghĩa vụ đó, việc xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn có thể được
thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa công ty và thành viên, nếu không thỏa
thuận được công ty có quyền kiện thành viên ra tòa [22. tr. 186]. Luật Doanh
nghiệp 2014 có quy định nghĩa vụ góp vốn và việc xử lý vi phạm nghĩa vụ
góp vốn. Tuy nhiên, vì Luật Doanh nghiệp 2014 quy định hình thức của vốn
góp là tài sản và liệt kê các dạng tài sản vốn góp nên không có sự phân biệt
việc xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn theo từng hình thức của vốn góp mà
Luật Doanh nghiệp 2014 quy định việc xử lý vi phạm nghĩa vụ vốn góp theo
từng loại hình công ty cụ thể. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều
thành viên trở lên pháp luật đã có quy định trách nhiệm pháp lý và xử lý do
43
chậm góp vốn, nếu có thành viên không góp đủ số vốn đã cam kết nhưng vẫn
trong thời hạn cam kết thì số cổ tức và lợi nhuận tương ứng với phần vốn đã
góp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Trong trường hợp đã hết thời hạn
mà vẫn chưa đủ thì thành viên chưa góp đủ vốn theo cam kết sẽ phải chịu
trách nhiệm tương đương với số vốn chưa góp về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài chính khác của công ty phát sinh trước khi đăng ký thay đổi thành viên.
Điều 18, Nghị định 102/2010/NĐ-CP đã quy định cách thức xử lý vi phạm
cam kết góp vốn của các thành viên góp vốn như sau:
“1. Thành viên phải góp vốn đầy đủ, đúng tiến độ đã cam kết trong Danh sách
thành viên. Nếu việc góp vốn được thực hiện nhiều hơn một lần, thời hạn góp
vốn lần cuối của mỗi thành viên không vượt quá 36 tháng, kể từ ngày công ty
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng
ký bổ sung, thay đổi thành viên và mỗi lần góp vốn thành viên được cấp một
giấy xác nhận số vốn đã góp của lần góp vốn đó.
3. Trong thời hạn chưa góp đủ số vốn theo cam kết, thành viên có số phiếu
biểu quyết và được chia lợi tức tương ứng với tỷ lệ số vốn thực góp, trừ
trường hợp Điều lệ công ty quy định khác.
4. Sau thời hạn cam kết góp lần cuối mà vẫn có thành viên chưa góp vốn đã
cam kết góp, thành viên chưa góp vốn vào công ty theo cam kết đương nhiên
không còn là thành viên của công ty và không có quyền chuyển nhượng
quyền góp vốn đó cho người khác; số vốn chưa góp được xử lý theo quy định
tại khoản 5 Điều này.
5. Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày cam kết góp vốn lần cuối, số vốn chưa
góp đủ được xử lý theo thứ tự ưu tiên như sau:
a) Các thành viên còn lại nhận góp một phần hoặc toàn bộ số vốn chưa góp
theo tỷ lệ số vốn đã góp vào công ty;
b) Một hoặc một số thành viên nhận góp đủ số vốn chưa góp;
44
c) Huy động thêm người khác góp đủ số vốn chưa góp”.
Đối với công ty cổ phần chỉ quy định việc xử lý đối với phần vốn chưa góp đủ
và quy định trách nhiệm chung của các cổ đông sáng lập khi số cổ phần đăng
ký góp của các cổ đông sáng lập chưa góp đủ thì các cổ đông sáng lập cùng
liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công
ty trong phạm vi giá trị cổ phần chưa góp đủ đó, mà chưa quy định việc xử lý
vi phạm nghĩa vụ góp vốn với cổ đông vi phạm.
Điều 23, Nghị định 102/2010/NĐ-CP đã quy định rõ về cách thức xử lý vi
phạm cam kết góp vốn của các cổ đông công ty cổ phần:
“a) Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ
phần phổ thông được quyền phát hành tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp.
Cổ đông sáng lập và cổ đông phổ thông tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp
phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ
ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
b) Trường hợp có cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua trong
thời hạn 90 ngày, kể từ khi công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp thì thực hiện theo quy định sau đây:
- Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên
không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua
cổ phần đó cho người khác;
- Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có
quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần
đã thanh toán; không được quyền chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa
thanh toán cho người khác;
- Trường hợp cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua,
số cổ phần còn lại được xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 84 của Luật
Doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày cuối cùng cổ đông phải
thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua; đồng thời, công ty phải đăng ký thay
đổi cổ đông sáng lập.
45
c) Cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền kiểm tra kết quả góp vốn cổ phần
theo yêu cầu của một hoặc nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 10% vốn điều lệ của
công ty. Kết quả kiểm tra việc góp vốn cổ phần được sử dụng để lập sổ đăng
ký cổ đông, lập danh sách cổ đông sáng lập, cấp cổ phiếu cho cổ đông và các
hồ sơ giấy tờ cần thiết khác của công ty”.
1.2. Hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty
Như đã phân tích ở trên, vấn đề cơ bản trong việc góp vốn thành lập
công ty là chuyển quyền sở hữu tài sản giữa công ty và các thành viên sáng
lập, theo đó, các tài sản góp vốn được chuyển từ thành viên sáng lập sang
công ty và quyền lợi của công ty cũng được chuyển sang cho các thành viên
đó tương ứng.
Để công ty có vốn để hoạt động, đương nhiên các thành viên sáng lập
phải thực hiện góp vốn vào công ty. Nhưng hành vi góp vốn không phải là
một hành vi kinh tế thông thường mà còn có tính chất pháp lý rất phức tạp.
Việc chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty cũng phải chịu áp lực của các
quy chế pháp lý khác nhau diều tiết việc chuyển dịch từng loại tài sản. Do đó,
pháp luật cần xây dựng một cơ chế pháp lý phù hợp để giải quyết quan hệ
pháp lý này, đảm bảo cho quá trình chuyển quyền sở hũu tài sản góp vốn từ
người góp vốn vào công ty được thuận lợi, tức là đảm bảo quyền lợi của các
bên góp vốn cũng như hạn chế những vi phạm, đồng thời giải quyết những vi
phạm và tranh chấp về góp vốn [30, tr. 32].
Để bảo vệ tốt lợi ích của công ty cũng như lợi ích của người thứ ba có
liên quan với công ty, cần công nhận sự tồn tại độc lập của công ty với các
thành viên. Được nhân cách hóa, công ty có khả năng tự mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm
cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Như một con người trừu tượng,
công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua những con người cụ thể
được bố trí vào các cơ quan của công ty, gọi là các cơ quan quản trị, điều
hành và kiểm soát hoạt động của công ty.
46
Sau khi được thành lập, công ty có khối tài sản riêng, bao gồm các tài
sản có riêng và các tài sản nợ riêng. Trong quan hệ giữa công ty và thành viên
công ty, các tài sản của công ty không phải thuộc sở hữu chung của các thành
viên công ty, công ty có tài sản riêng của mình, còn các thành viên khi góp
vốn vào công ty thì được hưởng các quyền và được thụ trái từ việc góp vốn
đó. Công ty được thành lập trên cơ sở góp vốn của các thành viên. Công ty
được coi là một thực thể được pháp luật thừa nhận kể từ khi nó được đăng ký
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chấp nhận [22, tr. 185].
Sau khi được thành lập, công ty trở thành một thực thể độc lập về mặt pháp
lý và tài sản. Có thể khái quát tính độc lập của công ty trên một số điểm sau:
- Công ty đuợc tiến hành hoạt động với tư cách là một chủ thể độc lập
kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tức là kể từ
thời điểm thành lập, công ty có năng lực pháp luật.
- Công ty có năng lực hành vi thực. Năng lực hành vi của công ty được
thực hiện thông qua hành động của những cơ quan quản lý công ty (gồm có
Đại hội đồng cổ đông và các cổ đông, Hội đồng quản trị và các thành viên
Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát và các thành viên Ban kiểm soát, Giám đốc
và các chức vụ khác) và những người đại diện của công ty.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi trên được quy định chi tiết
thành các quyền của công ty, gồm có: quyền tự chủ kinh doanh; quyền huy
động vốn; quyền ký kết hợp đồng; quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu; quyền
tuyển dụng lao động; quyền quản lý nội bộ, quản lý tài sản của mình; quyền
từ chối cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định; quyền khiếu
nại tố cáo và các nghiã vụ khác do pháp luật quy định [30, tr. 36].
Cùng với quyền lợi, pháp luật cũng quy định những nghĩa vụ sau đây
cho công ty: hoạt động kinh doanh theo đúng nội dung đăng ký; thực hiện kế
toán, kiểm toán; đăng ký mã số thuế và nộp thuế; đảm bảo quyền lợi cho
47
nguời lao động; bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp;
thực hiện chế độ thống kê và các nghĩa vụ khác do pháp luật quy định.
Ngoài ra, tính độc lập và tư cách pháp nhân của công ty được thể hiện
thông qua các yếu tố có tính “nhân thân” đặc trưng cho công ty như quốc tịch,
tên gọi, trụ sở, uy tín thương hiệu.
Khi đó cam kết góp vốn thành lập công ty là các thành viên đó tự ràng
buộc mình vào các nghĩa vụ và quyền lợi nhất định từ việc góp vốn đó. Hệ
quả pháp lý của việc góp vốn thành lập công ty đối với những người góp vốn
có thể được xem xét dưới hai khía cạnh quyền lợi và nghĩa vụ.
Bộ luật Dân sự Pháp tại Điều 1843 - 3 quy định người hội viên phải
góp một số tiền vào công ty mà không đóng góp thì đương nhiên trở thành
người mắc nợ đối với khoản lãi của số tiền đó kể từ ngày phải góp tiền và bồi
thường thiệt hại, nếu có. Như vậy, khi đó thỏa thuận góp vốn thành lập công
ty thì người góp vốn đó tự ràng buộc mình vào một nghĩa vụ đối với công ty.
Nếu đến hạn mà người đó không thực hiện nghĩa vụ (đóng góp) thì đương
nhiên trở thành người mắc nợ đối với công ty và phải chịu khoản lãi đối với
khoản đóng góp kể từ ngày phải đóng góp, đồng thời phải bồi thường thiệt hại
nếu có.
Nếu xét ở khía cạnh là một nghĩa vụ, thì trước khi có hành vi góp vốn
các thành viên đã phải đạt được sự thống nhất trong hợp đồng thành lập công
ty, vì hợp đồng là nguồn gốc hay căn cứ phát sinh nghĩa vụ, do đó góp vốn
cũng là nghĩa vụ căn bản của thành viên khi thành lập công ty. Khi cam kết
hay thỏa thuận góp vốn thành lập công ty, thành viên đó tự ràng buộc mình
trở thành người thụ trái hay con nợ của công ty. Khi người ta góp tài sản vào
công ty thì tài sản đó trở thành đối tượng sở hữu của công ty – một thực thể
pháp lý độc lập. Nếu thành viên không góp vốn hoặc góp vốn chậm thì công
ty có quyền đòi. Với việc không thực hiện đúng nghĩa vụ góp vốn thành viên
sẽ phải chịu những trách nhiệm pháp lý nhất định như phải trả lãi, phải bồi
thường thiệt hại [17, tr. 61].
48
Nếu xét ở khía cạnh quyền lợi, khi góp vốn vào công ty thì thành viên
góp vốn được sở hữu và được hưởng những quyền lợi từ hành vi góp vốn đó
ở công ty. Khi người ta góp tài sản vào công ty, thì tài sản đó trở thành đối
tượng sở hữu của công ty bởi hợp đồng thành lập công ty đó tạo ra một thực
thể tách biệt hay một pháp nhân có sản nghiệp riêng. Mỗi thành viên của công
ty có được từ hành vi góp vốn này một quyền lợi đối với công ty tương ứng
với phần vốn góp của mình xét theo lẽ thông thường. Tuy nhiên, các quyền
lợi và nghĩa vụ của thành viên còn phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn và số cổ phần
mà mỗi thành viên đó nắm giữ trong công ty.
Thành viên được hưởng các quyền từ việc góp vốn vào công ty như:
quyền hưởng lợi tức từ hoạt động của công ty, quyền biểu quyết tương ứng
với phần vốn góp, quyền tham gia quản lý công ty và thành viên chỉ chịu
trách nhiệm đối với khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào
công ty, đồng thời thành viên chỉ được rút vốn trong điều kiện nhất định như
mua bán, chuyển nhượng …
Thành viên góp vốn vào công ty có các quyền chủ yếu bao gồm:
- Được chia lợi nhuận tương ứng với phần vốn góp;
- Biểu quyết tương ứng với phần vốn góp;
- Tham gia quản lý công ty;
- Định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách chuyển nhượng, tặng cho…
- Được chia giá trị tài sản còn lại của công ty tương ứng với phần vốn
góp khi công ty giải thể hoặc phá sản.
Các quyền lợi nêu trên là động sản cho dù vốn góp có thể là bất động
sản, bởi hành vi góp vốn đó làm cho tài sản trở thành đối tượng thuộc quyền
sở hữu riêng của công ty.
Quyền lợi chủ yếu của thành viên trong công ty đối nhân là những phần
lợi được thể hiện bằng việc được chia lợi nhuận theo quy định tại hợp đồng
thành lập công ty. Các quyền lợi trong công ty đối vốn cũng là các phần lợi
49
được thể hiện bằng việc được chia lợi nhuận và biểu quyết tương ứng với
phần vốn góp. Việc chuyển nhượng các phần lợi này phải tuân thủ các quy
định của pháp luật [17, tr. 52].
50
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ
PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
2.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu
quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty
2.1.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành
lập công ty
Hiến pháp 1992 rằng công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy
định của pháp luật, có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong
các tổ chức kinh tế khác; và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
được liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước,
được bình đẳng với nhau trước pháp luật, có quyền hợp tác và cạnh tranh với
nhau một cách lành mạnh. Kế thừa các nguyên tắc đó, Hiến pháp 2014 khẳng
định hơn nữa về quyền tự do kinh doanh - được xem như một quyền con
người, quyền cơ bản của công dân mà chỉ có thể bị hàn chế bởi luật nhằm
mục đích bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức và sức khỏe của cộng đồng. Như vậy pháp luật về góp vốn thành lập công
ty có điều kiện để hoàn thiện hơn nữa.
Pháp luật về góp vốn thành lập công ty bao gồm tổng thể những quy
định về hợp đồng thành lập công ty, thỏa thuận góp vốn, các phương thức góp
vốn, nghĩa vụ góp vốn, quyền lợi từ việc góp vốn… Những quy định này liên
quan tới nhiều ngành luật. Các đạo luật như: Bộ luật Dân sự, Luật Doanh
nghiệp, Luật Thương mại và nhiều đạo luật khác là cơ sở pháp lý cho hoạt
động góp vốn thành lập công ty. Tuy nhiên Luật Doanh nghiệp có nhiệm vụ
qui định trực tiếp.
Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 3, khoản 4) định nghĩa:
51
“Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc
các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam,
ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở
hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ
công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”.
Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 4, khoản 4), cũng đưa ra định nghĩa
tương tự. Xét về mặt biểu hiện bên ngoài, các định nghĩa này cho thấy góp
vốn là việc người đầu tư đổi tài sản thuộc sở hữu của mình để trở thành chủ
sở hữu của công ty.
Luật Doanh nghiệp 2014 đã xem xét và định nghĩa lại như sau:
“Góp vốn là việc đưa tài sản vào tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn
bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp mới hoặc góp thêm vốn điều lệ
của doanh nghiệp đã được thành lập” (Điều 4, khoản 13).
Vốn góp là khái niệm nhằm xác định một cách cụ thể tổng giá trị của
những tài sản mà nhà đầu tư nào đó đóng góp vào công ty. Như vậy, vốn góp
được định lượng bằng tiền. Luật Doanh nghiệp coi góp vốn là việc dịch
chuyển tài sản từ người góp vốn sang cho công ty để trở thành chủ sở hữu của
công ty. Đồng thời, Luật Doanh nghiệp cũng quy định cụ thể tài sản góp vốn
bao gồm những loại nào. Tuy nhiên dùng phương pháp liệt kê có thể dẫn tới
sự không đầy đủ. Do vậy, Luật Doanh nghiệp có quy định mở là ngoài các tài
sản đã liệt kê thì các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty cũng được coi là
tài sản góp vốn. Luật Doanh nghiệp chỉ đề cập đến việc góp vốn thành lập
công ty bằng tài sản và liệt kê các loại tài sản. Còn tài sản là gì, các loại tài
sản như thế nào và việc thực hiện góp vốn bằng tài sản, chuyển giao vốn góp
như thế nào thì đòi hỏi phải có sự quy định về tài sản và quyền sở hữu trong
Bộ luật Dân sự.
Tuy nhiên có thể thấy các định nghĩa về góp vốn nói trên trong các đạo
luật về doanh nghiệp được ban hành trong các thời kỳ khác nhau gần đây,
khái niệm góp vốn có sự khác biệt. Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh
52
nghiệp 2005 xuất phát từ góc độ pháp lý để định nghĩa. Còn Luật Doanh
nghiệp 2014 lại xuất phát từ giác độ kinh tế để định nghĩa. Việc định nghĩa
khái niệm góp vốn dưới giác độ kinh tế không thuận tiện cho việc nhận biết
các dấu hiệu pháp lý của việc góp vốn và cũng không cho thấy rõ quyền và
nghĩa vụ cơ bản của người góp vốn cũng như người nhận vốn. Luật Doanh
nghiệp 2014 chỉ ra tài sản có thể đem vào góp vốn bao gồm:
“1. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí
quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng tiền Việt Nam.
2. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả,
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở
hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói
trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn” (Điều 35).
2.1.2. Những hạn chế của pháp luật hiện hành về góp vốn thành lập công ty
Từ các nghiên cứu ở trên có thể thấy việc liệt kê các tài sản góp vốn tại
Luật Doanh nghiệp 2014 là không thực tế và còn nhiều thiếu sót.
Thứ nhất, định nghĩa về góp vốn không xuất phát từ nền tảng pháp lý
mà xuêts phát từ nền tảng kinh tế. Do đó có thể dẫn đến việc không có giải
pháp giải quyết thỏa đáng các tranh chấp pháp lý liên quan tới góp vốn.
Thứ hai, định nghĩa tài sản góp vốn tại Điều 35 đi theo cách thức liệt kê
nhưng quá thiếu thốn xét từ quan niệm về tài sản nói chung của các hệ thống
pháp luật, không thấy sự liệt kê các hình thức góp vốn bằng vật, vật quyền
hưởng dụng ngoài quyền sử dụng đất trong các qui định này.
Thứ ba, đặc biệt các qui định về góp vốn không đề cập tới hình thức
góp vốn bằng công sức và bằng tri thức.
Đây là những khiếm khuyết lớn mà dự thảo trước khi trở thành Luật
Doanh nghiệp 2014 dù đã được góp ý rất nhiều nhưng không tiếp thu. Các
53
khiếm khuyết này có thể có nguyên nhân từ Bộ luật Dân sự 2005 của Việt
Nam không xây dựng được nền tảng của các qui định về luật tư.
Khác với pháp luật Việt Nam, Bộ luật Dân sự Pháp – công trình pháp
điển hóa hiện đại đầu tiên trên thế giới – và các bộ luật dân sự khác của các
quốc gia đã không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản. Song theo
những đặc tính căn bản của Họ luật La Mã - Đức về giải thích các quy tắc pháp
lý hay khái niệm pháp lý, người ta có thể hiểu được rằng, tài sản bao gồm các
vật, các vật quyền, các quyền tài sản khác và các tố quyền nhằm đòi lại tài sản.
Nó được chia thành hai loại là bất động sản bao gồm bất động sản do bản chất,
bất động sản do mục đích sử dụng, và bất động sản do có đối tượng gắn liền
với nó; và động sản bao gồm động sản do bản chất và động sản do luật định;
ngoài ra còn phải kể đến bất động sản do luật định [17, tr. 21 - 23].
Dựa vào hình mẫu của Bộ luật Dân sự Pháp, Bộ luật Dân sự Quebec
(Canada) xác định: “Tài sản, hoặc hữu hình hoặc vô hình, được chia thành bất
động sản và động sản” (Điều 899). Căn cứ vào các quy định này, tài sản bao
gồm bốn phần chính là: bất động sản hữu hình; động sản hữu hình; và bất
động sản vô hình; động sản vô hình. Tài sản hữu hình là các vật có thực, còn
tài sản vô hình liên quan đến các vật quyền.
Những nhận thức trên của Họ luật La Mã – Đức không khác với nhận
thức của Họ luật Anh – Mỹ. Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng, tài sản là các quyền
giữa mọi người liên quan đến vật, hay nói cách khác bao gồm một hệ thống các
quyền được thừa nhận về mặt pháp lý do ai đó thủ đắc trong mối liên hệ với
những người khác mà liên quan tới vật. Để ngắn gọn hơn họ dùng hình ảnh
“một tập hợp quyền” (a bundle of rights) cho tài sản, có nghĩa là tài sản gồm
một tập hợp các quyền trên vật có hiệu lực chống lại những người khác.
Tài sản là khái niệm động. Hiện nay có nhiều tranh luận về các dạng
mới của động sản như giọng hát của ca sĩ, tế bào được tách ra từ các bộ phận
cơ thể, thông tin di truyền, tính cách cá nhân, các sản phẩm trí tuệ … Nhìn từ
góc độ khác, có thể thấy tài sản là công cụ của đời sống xã hội. Vậy khái niệm
54
tài sản không phải là một khái niệm thuần túy có tính chất học thuật mà là
một khái niệm có tính mục đích rất cao. Khái niệm này phải đáp ứng các nhu
cầu cần thiết của xã hội. Tài sản không thể được xem xét tách rời các giá trị
xã hội. Khái niệm tài sản được thay đổi theo các giai đoạn lịch sử. Chẳng hạn,
nô lệ được coi là tài sản trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, nhưng ngày nay các
sản phầm của tư tưởng, của trí tuệ cũng được xem là tài sản. Đặc biệt, sở hữu
trí tuệ hay tài sản trí tuệ đang là đặc trưng nổi trội của thời đại kinh tế hậu
công nghiệp hay kinh tế tri thức [19, tr. 32 - 33].
Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, dường như chỉ có
quyền sở hữu (mà theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 đã bao hàm cả
quyền chiếm hữu) và quyền địa dịch được xem là các vật quyền tại đây. Tuy
nhiên còn có thể thấy, mặc dù không công khai công nhận các vật quyền, một
số vật quyền không thể thiếu được của đời sống xã hội như quyền thuê mướn
dài hạn, quyền cầm cố, quyển thế chấp, quyền lưu cư vẫn được đề cập đến
trong Bộ luật Dân sự. Các quy định tại các điều luật trên làm xáo trộn giữa
các quyền trên bất động sản và động sản vô hình. Các vật quyền trên bất động
sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền thuê mướn dài hạn,
quyền địa dịch, quyền thế chấp … trong khi đó các động sản vô hình gồm có
hợp đồng, chứng khoán, phần mềm máy tính, lao động, dịch vụ sử dụng (điện
thoại, điện …), quyền tác giả, nhãn hiệu thương phẩm …
Vì vậy, các quy định này ảnh hưởng lớn tới các quy định về góp vốn và
điều khoản góp vốn trong hợp đồng thành lập công ty. Nhưng vấn đề đáng
quan tâm hơn là việc không quy định các đặc tính và hậu quả của các hình
thức góp vốn. Việc này sẽ dẫn tới việc không có quy tắc áp dụng cho tranh
chấp, trong khi Việt Nam không chấp nhận các nguồn luật khác. Các quy định
về góp vốn trong pháp luật Việt Nam còn chưa đề cập đến vấn đề góp vốn
bằng tri thức, nhất là trong thời điểm nước ta đang bước sang giai đoạn hiện
đại hóa, công nghiệp hóa như hiện nay.
55
Tóm lại , các hạn chế của việc góp vốn vào công ty có một phần quan
trọng nằm ở các quy định về tài sản của pháp luật Việt Nam hiện nay. Việc
không quy định cụ thể một số vật quyền gây hạn chế cho việc góp vốn bằng
vật quyền, nhất là góp vốn bằng quyền hưởng dụng như đã phân tích ở
Chương 1 của luận văn này. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam chưa đề cập đến
góp vốn bằng tri thức và công sức là những hạn chế đáng kể trong bối cảnh
nền kinh tế của nước ta hiện nay. Từ đó, nếu xét từ giá trị kinh tế, có thể nói
tất cả các vật chất liệu tồn tại trong đời sống xã hội và các quyền mà có thể
khai thác mang lại giá trị kinh tế hay có thể trị giá được bằng tiền đều có thể
được coi là tài sản dùng để góp vốn [21, tr. 23]. Tuy nhiên, nếu không nghiên
cứu các quy định về thực hiện việc góp vốn thì chúng ta không thể lột tả được
thực trạng pháp luật về góp vốn thành lập công ty.
2.1.3. Quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất
Mặc dù buộc phải thừa nhận sở hữu toàn dân về quyền sử dụng đất, thế
nhưng quyền sử dụng đất là tài sản, là đối tượng góp vốn. Khi góp vốn bằng
quyền sử dụng đất để thành lập công ty, thì người sử dụng đất chấm dứt
quyền sử dụng của mình, đồng thời công ty được xác lập quyền sử dụng đất
theo giao dịch góp vốn. Thế nhưng, một trong những mâu thuẫn mang tính
triệt tiêu giữa Luật đất đai và Luật doanh nghiệp đã tạo rào cản rất lớn đến
môi trường kinh doanh, quyền tự do kinh doanh. Cụ thể:
Điều 131 khoản 2 Luật đất đai quy định việc góp vốn bằng quyền sử
dụng đất chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
a) Hết thời hạn góp vốn bằng quyền sử dụng đất;
b) Một bên hoặc các bên đề nghị theo thoả thuận trong hợp đồng góp vốn;
trường hợp liên doanh với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá
nhân nước ngoài thì phải được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương chấp thuận;
c) Bị thu hồi đất theo quy định tại Điều 38 của Luật này;
56
d) Bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong hợp đồng hợp tác kinh doanh
hoặc doanh nghiệp liên doanh bị tuyên bố phá sản, giải thể;
đ) Cá nhân tham gia hợp đồng góp vốn chết; bị tuyên bố mất tích; bị mất hoặc
hạn chế năng lực hành vi dân sự; bị cấm hoạt động trong lĩnh vực hợp tác
kinh doanh mà hợp đồng góp vốn phải do cá nhân đó thực hiện;
e) Pháp nhân tham gia hợp đồng góp vốn bị chấm dứt hoạt động mà hợp đồng
góp vốn phải do pháp nhân đó thực hiện.
3. Việc xóa đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất được quy định như sau:
a) Người sử dụng đất chấm dứt góp vốn bằng quyền sử dụng đất quy định tại
khoản 2 Điều này gửi đơn xin xoá đăng ký góp vốn đến nơi đã đăng ký góp vốn;
b) Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn
xin xoá đăng ký góp vốn, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thực hiện
việc xoá đăng ký góp vốn trong hồ sơ địa chính và giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; trường hợp cần thu hồi hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất khi chấm dứt góp vốn thì văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi hồ sơ
đến cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục thu hồi hoặc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
Với quy định này, Luật đất đai chỉ cho phép góp vốn bằng quyền sử
dụng đất trong một thời hạn. Về bản chất pháp lý chỉ là quan hệ thuê đất và
tiền thuê trong thời hạn đó là tài sản góp vốn – một mâu thuẫn triệt tiêu, thể
hiện trình độ lập pháp hết sức yếu kém. Đây không chỉ là cách nhận định trên
giấy của tác giả mà thực tiễn áp dụng pháp luật đã diễn ra, có thể chỉ ra vụ
việc điển hình do Sơ tài nguyên, môi trường và nhà đất Hà Nội thực hiện đối
với Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển Thương mại Đại An. Khi công ty này
thực hiện việc đăng ký sang tên tài sản góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thì
ngày 25/3/2014, sở tài nguyên ban hành văn bản số 358/VPĐKNĐ-ĐKBĐ về
việc hoàn thiện hồ sơ đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất.... Theo đó, yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ. Cụ thể, yêu cầu áp
57
dụng Điều 728 Bộ luật Dân sự và luật đất đai để sửa đổi hợp đồng, bổ sung
điều khoản: "thời hạn góp vốn"; thay thế cụm từ "...đăng ký sang tên quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở" bằng cụm từ "...đăng ký góp vốn..". Đây là
một trong những sai lầm rất lớn, bởi lẽ, Doanh nghiệp thực hiện việc góp vốn
theo Luật Doanh nghiệp. Trình tự thủ tục góp vốn được thực hiện đúng quy
định của Luật Doanh nghiệp. Cụ thể: Điều 29 Luật Doanh nghiệp quy định:
"... cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho
công ty theo quy định sau đây: a) Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị
quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu
tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền". Như vậy, nội dung hợp đồng sử dụng cụm từ "đăng ký sang tên
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở" là hoàn toàn hợp pháp và thực hiện
thủ tục đăng ký sang tên tài sản góp vốn vào Công ty là đúng quy định của
pháp luật.
2.2. Thực trạng các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi
góp vốn thành lập công ty
2.2.1. Các qui định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty
Như trong Chương 1 đã nêu hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành
lập công ty. Các đạo luật về doanh nghiệp có một số qui định liên quan. Bộ
luật Dân sự với vai trò nền tảng có các qui định mà có thể rút ra giải pháp giải
quyết tranh chấp. Điều 36, Luật Doanh nghiệp 2014 qui định:
“1. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ
đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty
theo quy định sau đây:
a) Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì
người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền
sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
58
Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí
trước bạ;
b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực
hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.
Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty; họ, tên,
địa chỉ thường trú, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ
chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc
đăng ký của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn; tổng giá
trị tài sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của
công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn hoặc đại diện theo ủy
quyền của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty;
c) Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là tiền Việt Nam,
ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở
hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty.
2. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư
nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.
3. Thanh toán mọi hoạt động mua, bán, chuyển nhượng cổ phần và phần vốn
góp và nhận cổ tức của nhà đầu tư nước ngoài đều phải được thực hiện thông
qua tài khoản vốn của nhà đầu tư đó mở tại ngân hàng ở Việt Nam, trừ trường
hợp thanh toán bằng tài sản”.
Bên cạnh các qui định này Luật Doanh nghiệp 2014 có các qui định về
nghĩa vụ góp vốn khi thành viên công ty đã cam kết, quyền lợi mà thành viên
góp vốn được hưởng từ việc góp vốn thành lập công ty, và trách nhiệm của
thành viên khi công ty bị phá sản. Các hậu quả pháp lý này có sự khác nhau ít
nhiều liên quan tới mỗi hình thức công ty mà người góp vốn thành lập. Khi đã
cam kết góp vốn thành viên phải thi hành nghĩa vụ đã cam kết bởi cam kết
góp vốn là một hành vi pháp lý. Việc vi phạm nghĩa vụ góp vốn đã cam kết
phải chịu trách nhiệm theo các qui định của luật nghĩa vụ. Việc góp vốn đem
đến cho người góp vốn các quyền lợi nhất định như: được chia lợi nhuận từ
công ty, được tham gia quản trị công ty theo thỏa thuận hay luật định, được
59
mua cổ phần mới chào bán theo tỷ lệ cổ phần nắm giữ (nếu là công ty cổ
phần), được chia phần tài sản còn lại khi công ty bị phá sản hay giải thể, và có
các quyền khởi kiện liên quan. Việc góp vốn khiến cho thành viên công ty
phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty theo chế độ trách
nhiệm được định ra đối với từng loại hình công ty.
Với các hậu quả pháp lý này, pháp luật Việt Nam có dự liệu ở các văn
bản pháp luật khác nhau.
2.2.2. Những hạn chế của các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của
góp vốn thành lập công ty
Trước hết, về tổng quát, có thể nhận thấy có các hạn chế sau liên
quan tới các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của việc góp vốn thành
lập công ty:
Thứ nhất, pháp luật Việt Nam chưa dự liệu được hình thức góp vốn
bằng công sức và bằng tri thức, do đó chưa dự liệu được các hậu quả pháp lý
liên quan. Thực tế có sự góp vốn như vậy Ví dụ góp vốn bằng dịch vụ thị
trường thực chất là góp vốn bằng công sức; góp vốn bằng nhận biết các đặc
tính của vật thực chất là góp vốn bằng tri thức.
Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 1999, 2005 và 2014 dường như được xây
dựng tách bạch khỏi Bộ luật Dân sự 1995, 2005 và 2015 (sắp tới), do đó
không có đường kết nối giữa các đạo luật nay. Vì vậy không thấy yêu cầu tìm
kiếm giải pháp giải quyết các tranh chấp liên quan tới nghĩa vụ góp vốn.
Thứ ba, quyền tự do khởi kiện của người góp vốn không được dẫn
chiếu sang Bộ luật Tố tụng Dân sự khiến cho người góp vốn khó khăn trong
việc bảo vệ quyền lợi liên quan tới việc góp vốn của mình.
Việc xây dựng pháp luật thiếu một tư duy hệ thống, đặc biệt trong xây
dựng pháp luật về công ty còn giằng co giữa các vấn đề “mở” hoặc
“đóng” trong chính sách đối với công ty nói chung và sự phát triển kinh tế tư
nhân nói riêng nên nhiều khi tạo ra sự mâu thuẫn trong các quy định của pháp
luật. Hiện nay, chúng ta có quá nhiều luật chuyên ngành và các Luật này
60
thường chồng chéo lên nhau. Để đồng bộ thì bản thân Luật Doanh nghiệp
không thể sửa đổi một mình được mà các luật chuyên ngành khác cũng phải
sửa đổi cho phù hợp với những tiêu chí cơ bản của luật doanh nghiệp, có như
vậy khi Luật Doanh nghiệp đi vào thực tế mới phát huy được hiệu quả của nó
[14, tr. 55].
Công ty từ khi thành lập đã không có sự thỏa thuận rõ ràng về mức góp
vốn và cách thức phân chia lợi nhuận, vì vậy hậu quả là khi xảy ra tranh chấp
các thành viên góp vốn rất khó có đủ chứng cứ, cơ sở pháp lý để bảo vệ mình
trước nội bộ doanh nghiệp hoặc khi tranh chấp tại các cơ quan tố tụng.
Một trong các nhóm nguyên nhân là thành viên, cổ đông lập trong các
Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần đến từ quan hệ gia đình, họ
hàng, bạn bè thân thiết. Một nguyên nhân khác do tập quán văn hóa Á Đông,
nên các loại hình doanh nghiệp này ngay từ khi thành lập đã không có sự thỏa
thuận rõ ràng về: cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ của các thành viên, mức
góp vốn và cách thức phân chia lợi nhuận, cơ chế kiểm soát hoạt động sản
xuất- kinh doanh. Vì vậy mà luôn tiềm ẩn những nguy cơ tranh chấp là rất lớn
và các cơ quan tài phán cũng không có đủ cơ sở pháp lý để xem xét nhằm bảo
đảm quyền lợi của các bên, làm cho tranh chấp xung đột kéo dài cản trở sự
phát triển của doanh nghiệp [14, tr. 56].
Bộ luật Dân sự 2005 cũng đã có quy định chi tiết trong trường hợp góp
vốn bằng tài sản để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công
ty. Trong đó, đối với trường hợp góp vốn không phải bằng tiền, vàng hoặc
ngoại tệ tự do chuyển đổi thì phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc
tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tài sản góp vốn được
định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên,
cổ đông sáng lập liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của công ty bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị
thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá.
61
Tuy nhiên, với quy định như trên, nếu tài sản góp vốn được định giá
bởi các cổ đông thì sẽ dẫn đến khả năng các cổ đông cùng nhau định giá tài
sản không sát với giá trị thị trường và cùng nhau chấp thuận giá trị tài sản
không sát giá trị thị trường đó. Hậu quả gây ra là thiệt hại cho những cổ đông
không biết, cổ đông đến sau và thất thu thuế Nhà nước. Vì vậy, việc định giá
tài sản cần thiết phải được xác định giá trị bởi tổ chức thẩm định giá độc lập
đối với tài sản góp vốn, qua đó tránh việc thất thu thuế cho Nhà nước cũng
như giúp bảo vệ cổ đông nhỏ lẻ trên thị trường [14, tr. 51].
Theo Điều 6, Nghị định 102/2010/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Doanh
nghiệp quy định thời hạn góp vốn của cổ đông sáng lập và các cổ đông phổ
thông khác đã đăng ký mua trong công ty cổ phần là 90 ngày kể từ ngày được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trong khi thời hạn góp vốn đối
với thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn lại là trong vòng 36 tháng kể
từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Việc quy định thời hạn góp vốn quá dài như trên dẫn đến việc nhiều
công ty trách nhiệm hữu hạn không trung thực trong việc góp vốn bằng cách
"khai khống", "khai ảo" vốn điều lệ, hoặc lợi dụng kẽ hở này của pháp luật để
tham gia các dự án, giao dịch có giá trị lớn, gây hậu quả nghiêm trọng, làm
tổn thương nền kinh tế trên bước đường hội nhập. Hậu quả của việc khai
không vốn đăng ký, không góp đủ, đúng hạn, là các doanh nghiệp này đã tạo
ra một nguồn lực vốn “ảo” cho xã hội, cũng như tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các
đối tác, bạn hàng, ngân hàng… Vì vốn góp (vốn điều lệ thể hiện trên Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh) là giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp
với những thiệt hại phát sinh trong suốt quá trình kinh doanh. Giả sử có tranh
chấp xảy ra thì với những quy định hiện hành, doanh nghiệp cũng không biết
sợ, trong khi cơ quan quản lý lại thiếu chế tài xử phạt vi phạm hành chính do
chưa được ban hành [33].
62
Vì vậy, cần hạn chế và rút ngắn thời hạn góp vốn của các công ty, đồng
thời có cơ chế kiểm soát việc thực hiện các cam kết góp vốn một các chặt chẽ
sẽ là tiền đề tốt hạn chế những rủi ro trong sự vận hành chung của nền kinh tế.
63
Chƣơng 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ
PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
3.1. Các định hƣớng hoàn thiện
Khiếm khuyết của pháp luật về góp vốn và hậu quả pháp lý của hàn vi
góp vốn thành lập công ty là một trong những yếu tố có thể ảnh hưởng đến
hiệu quả của quản lý nhà nước và phát triển xã hội. Bởi lẽ, nhà nước thực thi
các chính sách thông qua việc ban hành và thực thi pháp luật. Thực tế cho
thấy, mọi chủ trương chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ được thực
hiện khi nó được chuyển hóa thành luật. Pháp luật là công cụ để nhà nước
quản lý xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển. Để xác định các định hướng
hoàn thiện pháp luật một cách đúng đắn đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách,
những người quyết định chính sách cần phân tích một cách cẩn trọng chính xác
các điều kiện kinh tế xã hội, truyền thống lịch sử văn hóa, vấn đề hội nhập kinh
tế quốc tế, chủ trương chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam, cần xác định
đúng mục tiêu phát triển trên cơ sở một chủ thuyết phát triển đúng đắn đảm bảo
tính lý luận chặt chẽ, cần hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của người dân. Việc xác
định các định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện nay về việc chuyển
đổi hình thức công ty cũng cần phải đáp ứng các yêu cầu này.
Về cơ sở kinh tế - xã hội
Việt Nam, nguồn gốc là một nước nông nghiệp. Nghề nông có vị trị đặc
biệt quan trọng vì lúa gạo là thực phẩm chính nuôi sống những người dân. Vì
vậy nghề nông được trọng hơn nghề thương. Các sử gia mô tả toàn cảnh xã
hội Việt Nam thật vắn tắt như sau:
Việt Nam là một xứ nông nghiệp, hàng nghìn năm bưng bít với thế giới
bên ngoài. Từ lưỡi cày bằng đá nay chuyển thành bằng gang, những người
dân quê “dĩ nông vi bản” trong một thời gian dài đã không thay đổi đáng kể
phương thức canh tác của tổ tiên. Vì lấy nông nghiệp làm nghề gốc, thủ công
64
nghiệp và thương mại kém chỉ xuất hiện như nghề nghiệp bổ sung, những
làng nghề về cơ bản vấn được tổ chức là làng nông nghiệp. Thương mại ở
Việt Nam chủ yếu vẫn diễn ra trên các chợ, người buôn vốn liếng eo xèo
“buôn thúng bán mẹt”, tổ chức sơ sài, nếu có hùn vốn cũng mang tính nhất
thời [31, tr. 200].
Tuy nhiên, gần ba thập niên trở lại đây Việt Nam đã có những bước
phát triển đáng khích lệ. Ngày 18 tháng 12 năm 1986, Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng đường lối
đổi mới với ba trụ cột: i) chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang vận hành theo cơ chế thị trường; ii) phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan trọng; iii) chủ
động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp với
điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Kể từ đó Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nền kinh tế
Việt Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, liên tục trong nhiều
năm. Ngày 01 tháng 01 năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ
chứ c Thương ma ̣i Thế giới. Sự kiện này thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hội
nhập sâu, rộng hơn vào kinh tế thế giới. Cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang mở ra.
Cùng với việc xây dựng môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình
thành. Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của
nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh
doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách
hành chính giai đoạn 2001-2010 là một quyết tâm của Chính phủ Việt Nam,
trong đó nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế
quản lý kinh tế… để tạo ra một thể chế năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển
của đất nước trong giai đoạn mới.
65
Trong việc xây dựng môi trường pháp lý cho kinh doanh, việc ban hành
Luật Doanh nghiệp 2005 là một sự nỗ lực đáng ghi nhận. Đạo luật này đã tạo
điều kiện cho sự phát triển của các doanh nghiệp dân doanh, và mở rộng
quyền tự do kinh doanh.
Như vậy từ các nghiên cứu tóm tắt về cơ sở kinh tế- xã hội nêu trên, có
thể thấy: (1) Nếu xét trên bình diện thương mại, thì nền tảng kinh tế- xã hội
Việt Nam ở mức độ rất thấp để phát triển thương mại; (2) Đảng và nhà nước
rất quyết tâm phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
(3) thương mại đang dần chiếm vị trí quan trọng trong xã hội; (4) quyền tự do
kinh doanh và môi trường cạnh tranh đang dần phát triển và cần sự kiểm soát
của Nhà nước.
Về truyền thống lịch sử, văn hóa
Các bậc tiền nhân người Việt đã nhận thức không sai rằng, không kinh
doanh thì không thể trở nên giàu có. Nhưng thực tế cho thấy, họ không quan
tâm nhiều đến phương thức tổ chức kinh doanh, quy mô kinh doanh, nên khi
nói đến nhận thức của người Việt về công ty, có một số tác giả đưa ra dẫn
chứng rằng, sau thế chiến thế giới thứ hai việc thành lập công ty thương mại ở
Việt Nam là tự do, đồng thời đưa ra nhận định: Người Việt Nam lúc đó, chưa
nhận thấy rằng công ty vô danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, là những lợi
khí vô song phải sử dụng nếu muốn nắm được thế thượng phong trong trường
kinh tế [32, tr. 3].
Thực tế cho thấy, pháp luật về công ty được du nhập vào Việt Nam từ
khi người Pháp và người Tây Ban Nha được phép kinh doanh tại Việt Nam
trên cơ sở Hòa ước năm Nhâm Tuất gồm 12 khoản do nhà Nguyễn, Pháp và
Tây Ban Nha ký ngày 9 tháng 5 năm 1862 tại Sài Gòn. Có nhận định rằng:
Theo chân thực dân, các mô hình công ty cùng dần du nhập vào Việt
Nam. Bộ luật thương mại (1807), Luật công ty trách nhiệm hữu hạn (1925)
được các Tòa án Nam kỳ và Tòa án Pháp ở các thành phố thuộc địa áp dụng
trực tiếp. Dân luật Bắc kỳ 1931 và Dân luật Trung Kỳ 1936, 1938 cũng lần lượt
dịch các mô hình công ty theo luật của Mẫu quốc ra tiếng Việt [33, tr 242].
66
Với bản sắc văn hóa đang được gìn giữ, người Việt có cái lề thói riêng
trong làm ăn, trong giao dịch. Hơn nữa, ảnh hưởng lớn bởi Nho giáo, nên có
thể pháp luật có những quy định cụ thể cho một quan hệ nào đó, nhưng việc
áp dụng những quy định đó vẫn còn bị ảnh hưởng bởi các quan niệm về đạo
đức. Phép vua thua lệ làng vẫn không phải là điều hiếm thấy ở Việt Nam ngày
nay. Ngoài ra sự ảnh hưởng của tổ chức xã hội trên nền tảng đại gia đình, gia
trưởng vẫn chưa bị xóa bỏ hoàn toàn. Do vậy quan hệ thân thiện trong công ty
vẫn được đề cao.
Về hội nhập kinh tế quốc tế
Thực hiện đường lối đổi mới mới kinh tế - xã hội của Đảng cộng sản
Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã thi hành đường lối đối ngoại rộng mở, đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế. Cùng với việc nhận thức đúng
đắn về xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang phát triển mạnh mẽ với sự tùy
thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế, Việt Nam đã nhanh
chóng triển khai chính sách chủ động và tích cực hội nhập kinh tế của mình
với kinh tế khu vực và toàn thế giới. Theo đó, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); trở thành thành viên sáng lập của Diễn
đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh
tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại quốc tế WTO vào tháng 01 năm 2007. Bằng việc gia
nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) chúng ta đã chính thức hội nhập nền
kinh tế toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, thúc đẩy hợp
tác giữa các quốc gia, làm cho quan hệ song phương, đa phương giữa các
quốc gia ngày càng sâu rộng đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế; toàn cầu hóa
kinh tế cũng làm tăng sức ép cạnh tranh giữa các quốc gia trong mọi lĩnh vực.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho các nước nước đang phát triển đấu
tranh bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống
lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế.
67
Hiện tại, với tiến trình hội nhập, chúng ta đang phải thực hiện các cam
kết quốc tế, trong đó có cam kết về việc thay đổi các quy định của luật thực
định. Luật doanh nghiệp 2005 cũng là vấn đề được quan tâm khi gia nhập.
Về việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng
Cộng sản Việt Nam
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt
Nam đã thông qua dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), thông qua dự thảo Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020… tán thành những nội dung cơ bản
về đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X (2006 - 2010) và
phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015 nêu trong Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X trình Đại hội XI. Về mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển đất nước 5 năm 2011-2015, Nghị quyết có đặt ra là:
Phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân …Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành
chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của
nhân dân.
Các cơ sở nêu trên cho phép xác định các định hướng xây dựng và hoàn
thiện pháp luật Việt Nam hiện nay về góp vốn và hậu quả pháp lý của hàn vi
góp vốn thành lập công ty như sau:
Định hướng thứ nhất: xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi hình
thức công ty gắn với vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền
Hiểu một cách đơn giản, nhà nước pháp quyền có hạt nhân lý luận căn
bản là nhà nước bị ràng buộc bởi pháp luật hay quốc gia thượng pháp (có
nghĩa là nhà nước thượng tôn pháp luật). Chủ trương xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đã được cụ thể hoá trong Hiến pháp “Nhà nước cộng
hoà XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức”. Tuy nhiên cần
68
hiểu rằng muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thì trước hết phải xây dựng
được nền tảng dân chủ và chế độ quản lý bằng pháp luật, ở đó được thực thi
nguyên tắc công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền có thể làm hạn chế hay xóa tan đi sự coi trọng
đức trị trong đời sống xã hội. Có như thế pháp luật mới trở thành một công cụ
hữu hiệu cho việc thúc đẩy phát triển thương mại.
Định hướng thứ hai: Xác định và giới hạn một cách đúng đắn các quyền lợi tư
Cho đến nay, chúng ta vẫn quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu các
biện pháp can thiệp phức tạp của Nhà nước đến quan hệ hợp đồng mà không
hề chú ý một cách tương xứng đến những bất cập hoặc hiệu quả của các biện
pháp can thiệp đó. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nếu không tạo ra được
khuôn khổ cơ bản của một nền kinh tế thị trường mà trong đó hệ thống pháp
luật bảo vệ và thi hành tốt các quyền về tài sản và hợp đồng, thì có lẽ sự tụt
hậu và nghèo đói vẫn luôn luôn đeo đuổi, bởi lẽ việc thực thi các quyền tài
sản và hợp đồng chính là những phương tiện điều phối và tối ưu hóa hoạt
động kinh tế. Mỗi người, trong quá trình sống, luôn luôn có khuynh hướng
tìm kiếm lợi ích vật chất một cách tối đa. Công ty là một trong những phương
tiện để họ tối đa hóa lợi ích.
Định hướng thứ ba: Đảm bảo quyền tự do ý chí
Tự do ý chí vốn là nền tảng hay nguyên tắc căn bản của hợp đồng. Đây
là một học thuyết có hạt nhân lý luận là con người chỉ bị ràng buộc bởi ý chí
của mình và có quyền định đoạt những gì thuộc về mình một cách phù hợp.
Tuy nhiên, trong xã hội có pháp luật, khi thực hiện quyền tự do, chủ thể
không được xâm phạm đến quyền tự do, lợi ích của người khác, không được
xâm phạm đến lợi ích công cộng. BLDS 2005 đã hiện thực hóa quan điểm
này như sau:
Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ
dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; Trong quan hệ dân sự,
69
các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng
ép, đe doạ, ngăn cản bên nào; Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt
buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác tôn trọng.
Tuy nhiên các quy định này cần phải đảm bảo tính minh bạch. Cách
đây hơn hai nghìn năm Hàn Phi, một đại diện tiêu biểu nhất theo chủ thuyết
Pháp trị, có quan niệm “pháp luật minh bạch mới giúp ích cho sự thực hiện
một nền thịnh trị” [34, tr. 73]. Thực tế cho thấy, không có đảm bảo nào cho
rằng mọi sự can thiệp của Nhà nước đến quan hệ hợp đồng sẽ mang lại lợi ích
cho xã hội và cho các chủ thể, do đó, cần phải chuẩn hoá sự can thiệp một
cách minh bạch để đảm bảo tối đa quyền tự do ý chí của chủ thể nhưng vẫn
bảo đảm được mục tiêu điều chỉnh.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật Việt Nam về góp vốn và
hậu quả của hành vi góp vốn thành lập công ty
Kiến nghị thứ nhất: Đồng bộ hóa hệ thống văn bản pháp luật.
Một thực tế, hoạt động của công ty chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành
luật khác nhau. Do đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của công ty
không chỉ là hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp mà còn bao gồm cả pháp
luật dân sự, pháp luật hành chính, pháp luật thương mại, pháp luật đầu tư,
pháp luật lao động ... Tức là việc hoàn thiện phải mang tính hệ thống và tính
thống nhất trong cả hệ thống pháp luật. Một số yêu cầu cơ bản của việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật là:
Thứ nhất, hoàn thiện mang tính hệ thống và tính thống nhất trong cả hệ
thống pháp luật; tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, khắc phục
những mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật. Thực tiễn cho thấy, nhiều
quy định đã không phản ánh được thực tế, không phù hợp, dẫn đến việc hoặc
không áp dụng được trên thực tế, các văn bản luật còn chồng chéo, nhiều quy
định có sức sống quá ngắn, nhanh chóng trở nên lạc hậu với đòi hỏi của cuộc
sống, gây cản trở tới sự phát triển của doanh nghiệp.
70
Thứ hai, loại bỏ quan niệm về ngành luật kinh tế độc lập và xem công
ty là một chế định quan trọng của Luật thương mại. Thực tiễn ở Việt Nam
hiện nay, khó có thể làm rõ được ranh giới giữa ngành luật kinh tế và ngành
luật thương mại. Loại bỏ quan niệm một ngành luật kinh tế độc lập và xem
công ty là một chế định thuộc luật Thương mại là điều hết sức cần thiết.
Thứ ba, hiện nay hệ thống văn bản còn thiếu nhiều quy định điều chỉnh
các vấn đề phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp, gây lúng túng cho cả
doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Vì vậy tiếp tục nghiên cứu những hạn chế
của luật doanh nghiệp. Đảm bảo sự đầy đủ mang tính hệ thống và tính đồng
bộ của các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp là một đòi hỏi cấp
thiết trong điều kiện hiện nay.
Kiến nghị thứ hai: Cần đƣa ra khái niệm về tài sản theo một hƣớng mới
trong quy định của các văn bản pháp luật.
Việc định nghĩa tài sản như Điều 163 của Bộ luật Dân sự 2005 tạo nên
sự cứng nhắc trong khái niệm về tài sản. Trong khi tài sản là một khái niệm
động và không đơn thuần có ý nghĩa pháp lý mà còn có cả ý nghĩa lớn về kinh
tế. Nó luôn động bởi giá trị kinh tế của nó. Do đó, việc ấn định cho tài sản một
định nghĩa cứng nhắc là một thiếu sót và không đầy đủ. Tuy nhiên, về mặt lý
thuyết cần phải chỉ ra rằng tài sản bao gồm vật và quyền có giá trị kinh tế và
khả năng đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Còn những
gì là tài sản phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của xã hội. Cách tiếp cận
này thực chất giúp cho có một sự linh động đáng kể trong việc giải quyết các
tranh chấp về góp vốn nói riêng và các tranh chấp về tài sản nói chung.
Kiến nghị thứ ba: Cần đƣa ra một khái niệm đầy đủ về tiền.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, thì tiền cũng là một loại tài sản. Tuy
nhiên, trong Bộ luật dân sự lại không có quy định cụ thể thế nào là tiền. Việc
thiếu vắng quy định này dẫn tới cách hiểu không thống nhất về bản chất pháp
lý của tiền, có sự lẫn lộn giữa góc độ kinh tế và góc độ pháp lý của tiền.
71
Trong việc góp vốn thành lập công ty với hình thức vốn góp là tiền nếu
không có sự quy định cụ thể thì có thể dẫn đến việc hiểu khác nhau. Vì bản
thân tiền cũng là vật, nhưng được tách ra khỏi vật đứng độc lập như một tài
sản riêng biệt, có đặc điểm pháp lý khác với vật. Có thể liệt kê một số khác
biệt giữa tiền và vật như sau:
Thứ nhất, đối với vật, mục đích của con người là khai thác công dụng
hữu ích từ chính vật. Tuy nhiên, đối với tiền, mục đích của chúng ta không
phải khai thác công dụng hữu ích từ bản chất tự nhiên của nó (tiền giấy có thể
viết chữ vào tuy nhiên đây không phải là mục đích sử dụng). Chúng ta sử
dụng tiền với ba chức năng chính: công cụ thanh toán, công cụ tích lũy, công
cụ định giá tài sản khác.
Thứ hai, các vật thông thường có thể do rất nhiều chủ thể khác nhau tạo
ra, còn tiền do Nhà nước độc quyền phát hành. Việc phát hành tiền được coi
là một trong những biểu hiện của chủ quyền quốc gia.
Thứ ba, vật được xác định số lượng bằng những đơn vị đo lường thông
dụng, còn tiền lại được xác định số lượng thông qua mệnh giá của nó.
Như vậy, Bộ luật Dân sự cần có quy định cụ thể về khái niệm tiền. Việc
đưa ra khái niệm về tiền nhằm thống nhất về bản chất pháp lý của tiền từ đó
giúp cho việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền trong đó có hoạt động
góp vốn thành lập công ty với hình thức vốn góp là tiền được thực hiện thuận
lợi hơn.
Kiến nghị thứ tư: Hoàn thiện quy định về tài sản góp vốn là quyền sở hữu
trí tuệ.
Quyền sở hữu trí tuệ là tài sản vô hình, đã và đang khẳng định vai trò
thiết yếu của nó trong thời kỳ con người đang bước vào nền kinh tế tri thức và
văn minh tri thức. Đối với công ty với tư cách là một tổ chức kinh doanh thì
tài sản là quyền sở hữu trí tuệ ngày càng quan trọng, có khi chiếm phần đáng
kể giá trị doanh nghiệp. Ngày nay, nhiều công ty phải đầu tư để nghiên cứu
72
hoặc mua quyền sở hữu trí tuệ. Do vậy, trong góp vốn thành lập công ty
quyền sở hữu trí tuệ đang ngày càng trở thành hình thức vốn góp quan trọng.
Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ phải
mang tính hệ thống và tính thống nhất; cần phải quy định thêm những vấn đề
chưa được pháp luật điều chỉnh; các quy định phải rõ ràng, cụ thể; các quy
định phải tương thích với các công ước quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ mà chúng ta đã và sẽ là thành viên [25, tr. 71].
Những giải pháp chủ yếu để hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu trí
tuệ của Việt Nam hiện nay gồm:
Thứ nhất, Rà soát các văn bản pháp luật hiện hành về sở hữu trí tuệ. Trên
cơ sở đó, xem xét để loại bỏ, sửa đổi, bổ sung quy định nào, văn bản nào.
Thứ hai, cần có một văn bản hướng dẫn quy định về phần tài sản góp
vốn, và quy định chi tiết những loại tài sản nào được gọi là tài sản góp vốn
đồng thời tránh sự đối lập chồng chéo đối với cách quy định tài sản tại Bộ luật
dân sự năm 2005 và Luật sở hữu trí tuệ.
Thứ ba, về phần định giá vốn góp quyền sở hữu trí tuệ, trong điều luật
chưa quy định về vấn đề là khi công ty phá sản, nếu tài sản định giá sai thì lúc
này quyền lợi của các chủ nợ sẽ giải quyết như thế nào và đồng nghĩa với việc
này thì ai sẽ là người đứng ra chịu về phần định giá sai này? Vì vậy, luật
doanh nghiệp cần phải dự liệu thêm trường hợp này để cho các cổ đông, thành
viên, tổ chức định giá và cả chủ nợ biết được quyền và lợi ích của mình sẽ
được thực hiện như thế nào. Ngoài ra về phần định giá tài sản đối với những
tài sản vô hình này cũng cần được pháp luật cần quy định cụ thể những đối
tượng nào có thể định giá được đối với những loại tài sản này. Vì những loại
tài sản này nó đòi hỏi trình độ chuyên môn cao để có thể định giá một cách
chính xác tránh tình trạng làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các bên.
Kiến nghị thứ năm: Quan niệm lại về sản nghiệp thƣơng mại và bổ sung
các quy định về chuyển nhƣợng sản nghiệp thƣơng mại.
73
Góp vốn bằng sản nghiệp thương mại là một hình thức góp vốn quan
trọng. Do sản nghiệp thương mại là một động sản vô hình mà trong đó bao
gồm rất nhiều yếu tố, nên cần có một định nghĩa tương đối đầy đủ để phân
biệt nó với bản thân doanh nghiệp sử dụng nó. Việc định giá sản nghiệp
thương mại khá phức tạp, nên cần sử dụng cả cách thưc định nghĩa mô tả các
đặc trưng chủ yếu và cả cách thức liệt kê. Luật Thương mại 1997 định nghĩa:
“Sản nghiệp thương mại là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng
hợp pháp của thương nhân, phục vụ cho hoạt động thương mại như trụ sở, cửa
hàng, kho tàng, trang thiết bị, hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu, nhãn hiệu
hàng hóa, mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ” (Điều 5).
Mặc dù định nghĩa về sản nghiệp thương mại là đã từng có, nhưng các
quy tắc về chuyển nhượng, cho thuê hay cầm cố, thế chấp sản nghiệp thương
mại chưa bao giờ được pháp luật Việt Nam thiết lập. Tuy nhiên, định nghĩa
trên chưa làm rõ được các yếu tố quan trọng nhất của sản nghiệp thương mại.
Các yếu tố đó không phải là các yếu tố hữu hình mà là các yếu tố vô hình
trong sản nghiệp thương mại. Chỉ khi xác định được rõ sản nghiệp thương
mại, người ta mới có thể thiết lập các quy tắc cụ thể về thuê hay chuyển
nhượng sản nghiệp thương mại. Là một tài sản hết sức nhiều đặc thù, do đó
việc cho thuê hay bán sản nghiệp thương mại cần có một hệ thống các quy tắc
riêng khác với hệ thống quy tắc áp dụng đối với thuê mướn hay các tài sản
khác. Việc không quy định hay quy định không đầy đủ các hành vi này gây
ảnh hưởng rất lớn tới chuyển nhượng sản nghiệp thương mại nói chung và
hình thức góp vốn bằng sản nghiệp thương mại nói riêng.
Kiến nghị thứ sáu: Mở rộng hình thức góp vốn.
Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2014 chỉ quy định góp vốn bằng tài sản
và liệt kê các loại tài sản góp vốn. Và sự liệt kê không thể tránh khỏi không
đầy đủ nên quy định này còn mở ra một khoảng rộng cho các bên thỏa thuận
những loại tài sản khác được góp vốn và ghi trong Điều lệ công ty. Tuy nhiên
74
quy định trên của Luật Doanh nghiệp đã bó hẹp hình thức của vốn góp, nó đã
bỏ qua góp vốn bằng tri thức và góp vốn bằng công sức.
Góp vốn bằng tri thức trên thực tế đã diễn ra, không hiếm trường hợp
một người có tiền hợp tác với một người có tri thức để thành lập công ty cùng
kinh doanh. Vì phần vốn góp bằng tri thức rất khó định giá nên giá trị phần
vốn góp sẽ do hai bên thỏa thuận. Trong nhiều trường hợp tri thức đem góp
vốn rất được coi trọng, nhưng vì chưa có cơ sở pháp lý nên nếu xảy ra tranh
chấp thì quyền của người góp vốn bằng tri thức khó được đảm bảo. Đồng
thời, như đã phân tích ở trên, góp vốn bằng tri thức thì tri thức không thể tách
ra khỏi cơ thể người góp vốn nên nó đòi hỏi sự mẫn cán, trung thực của người
góp vốn đối với công ty. Do vậy, đòi hỏi pháp luật phải có quy định cụ thể về
góp vốn bằng tri thức.
Cũng như vậy, góp vốn bằng công sức đã diễn ra trên thực tế và đòi hỏi
phải có sự quy định của pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động góp vốn
với hình thức đó. Việc mở rộng hình thức góp vốn sẽ tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho các chủ thể góp vốn thành lập công ty và đảm bảo quyền lợi của các
bên trong quan hệ góp vốn này.
Kiến nghị thứ bảy: Bảo đảm quyền tự do khởi kiện và bảo đảm các giải
pháp giải quyết tranh chấp liên quan tới nghĩa vụ góp vón thành lập công ty.
Như trên đã phân tích sự hạn chế trong vấn đề này gây khó khăn không nhỏ
cho người đầu tư kinh doanh. Vì vậy, trong Luật Doanh nghiệp cần có sự dẫn
chiếu đến Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự để bảo đảm quyền tự do
khởi kiện và bảo đảm các giải pháp giải quyết tranh chấp liên quan tới nghĩa
vụ góp vón thành lập công ty.
75
KẾT LUẬN
Trong quá trình mở cửa và hội nhập như hiện nay, việc tận dụng mọi
nguồn lực kinh tế trong xã hội đang trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết
của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hành vi góp vốn
có vai trò rất quan trọng. Góp vốn thành lập công ty là hành vi có ý nghĩa cả
về mặt kinh tế và pháp lý. Hệ quả pháp lý của góp vốn thành lập công ty là
tạo ra một thực thể pháp lý độc lập, tạo ra khả năng chuyển quyền sở hữu tài
sản của thành viên góp vốn, cổ đông sang cho công ty, đồng thời ràng buộc
nghĩa vụ và mang đến quyền lợi cho các thành viên, cổ đông sáng lập. Việc
góp vốn thành lập chính là bước đầu tiên để tạo dựng ra công ty, trong đó có
sự đảm bảo cho quá trình hoạt động của công ty được thuận lợi và hạn chế
tranh chấp có thể phát sinh giữa các thành viên, cổ đông về vấn đề góp vốn.
Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật về góp vốn thành lập công ty trở
thành một đề tài rất rộng và phức tạp, không chỉ liên quan đến pháp luật về
doanh nghiệp mà còn liên quan đến pháp luật về dân sự, pháp luật về đất đai,
pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về thương mại ...
Với cách tiếp cận như vậy, luận văn đã nghiên cứu giải quyết được các
vấn đề sau:
1. Hình thành cơ sở lý luận của hành vi góp vốn thành lập công ty. Đặc tính
quan trọng nhất của góp vốn trong việc thành lập công ty là tạo ra thực thể
kinh doanh độc lập có tư cách pháp nhân. Sau đó, việc góp vốn thành lập
công ty tạo ra các hệ quả pháp lý đối với các thành viên góp vốn, sau khi công
ty được thành lập, các thành viên có quyền lợi và nghĩa vụ đối với công ty.
2. Các hình thức góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam hiện tại
còn có nhiều khiếm khuyết. Ngoài hình thức góp vốn truyền thống là bằng tài
sản, các loại vốn góp khác như tri thức và công sức cũng là các nhu cầu kinh
tế khách quan đòi hỏi có luật điều chỉnh. Bản thân khái niệm tài sản theo pháp
76
luật Việt Nam cũng cần hoàn thiện thêm để ghi nhận chế định vật quyền và
các tài sản quan trọng như quyền hưởng dụng, sản nghiệp thương mại.
3. Từ việc đánh giá các khiếm khuyết nêu trên, luận văn đã đưa ra định hướng
và kiến nghị cụ thể nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật góp vốn, tạo hành
lang pháp lý an toàn và tạo điều kiện cho các thương nhân có môi trường
thuận lợi phát triển, góp phần thực hiện thành công công cuộc công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước.
77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật:
Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.
Quốc hội (2005), Luật thương mại, Hà Nội.
Quốc hội (2005), Luật đất đai, Hà Nội.
Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.
Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Hà Nội
Quốc hội (2009), Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
Quốc hội (1997), Luật thương mại, Hà Nội.
Chính phủ (2010), Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01tháng 10 năm 2010
hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
Chính phủ (2010), Nghị định số 122/2010/NĐ-CP ngày 31tháng 12 năm
2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP
ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, Hà Nội.
Chính phủ (2010), Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010
về đăng ký doanh nghiệp, Hà Nội
Bộ Tài chính (2010), Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện góp vốn và nhận
góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu, Hà Nội
Các công trình khoa học tiếng Việt
13. Phạm Tuấn Anh ( 2009 ), Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt
Nam , Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế , Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội
14. Vũ Tuấn Anh (2012), Định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công
ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ , Khoa
Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội
78
15. Nguyễn Mạnh Bách (2006), Những điều bất cập trong Luật Doanh nghiệp
năm 2005 , Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng 05/2006
16. Lê Thị Châu (2001), Xác lập, thực nghiệm và chấm dứt quyền sở hữu tài
sản của công ty đối vốn ở nước ta, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường đại học
luật Hà Nội, Hà Nội.
17. Ngô Huy Cương (2004), Hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Luật học, Trường Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Ngô Huy Cương, Ý tưởng về chế định quyền hưởng dụng trong bộ luật
dân sự tương lai của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử, Hà Nội.
19. Ngô Huy Cương (2009), Những bất cập về khái niệm tài sản, phân loại
tài sản của Bộ luật dân sự và định hướng cải cách, Tạp chí nghiên cứu lập
pháp điện tử, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Dung (2010), “Hoàn thiện quy định về vốn góp và xác
định tư cách thành viên công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005”.
21. Nguyễn Ngọc Điện (2010), ”Sự cần thiết của việc xây dựng các
chế định vật quyền và trái quyền trong luật dân sự”, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp, (23), Tr56-tr61
22. Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình luật thương mại (Phần chung
và Thương nhân) PGS.TS Ngô Huy Cương, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.
23. Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình luật Hợp đồng (Phần chung
– dùng cho đào tạo sau Đại học) PGS.TS Ngô Huy Cương, Nxb ĐHQG Hà
Nội, Hà Nội.
24. Đại học Luật Hà Nội( 2007 ), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội.
25. Phạm Đức Quảng ( 2011 ) , Áp dụng pháp luật về góp vốn bằng giá trị
quyền sở hữu trí tuê ̣ở Viê ̣t Nam , Luâ ̣n văn Thạc Sĩ ngành: Luâ ̣t Kinh tế ,
Khoa Luâ ̣t - Đại học Quốc Gia Hà Nội
79
26. Trịnh Văn Quyết (2013 ) , Luật Doanh nghiệp và những bất cập cần sửa
đổi (trang web : http://www.baomoi.com/Luat-Doanh-nghiep-va-nhung-bat-
cap-can-sua-doi/127/11085766.epi )
27. Thư viện trực tuyến Violet , Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Hà Nội,
(Nguồn : http://giaoan.violet.vn).
28. Tạ Thị Thanh Thủy ( 2012 ) , Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ
theo pháp luật Việt Nam , Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế , Khoa Luật - Đại
học Quốc Gia Hà Nội .
29. Thomas G. Field Jr. (2006), Chuyên đề về quyền sở hữu trí tuệ , ấn phẩm
của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
(http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_intelprp.html).
30. Hồng Vân ( 2009 ) , Góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại Việt Nam ,
Luận văn thạc sỹ Luật Kinh tế, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
31. Viện sử học, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Nông thôn Việt Nam
trong lịch sử, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, 1977.
32. Lê Tài Triển, Luật thương mại việt nam dẫn giải, Quyển 1, Kim lai ấn
quán, 1972.
33. Phạm Duy Nghĩa, Chuyên Khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2004.
34. Hàn Phi Tử, người dịch Phan Ngọc, Nxb Văn Học, 2005.
Trang web
35. Phần Vốn Góp trong công ty có tư cách pháp nhân – Cách tiếp cận từ góc
độ pháp luật tài sản, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử
(http://luatminhkhue.vn/thanh-lap/phan-von-gop-trong-cong-ty-co-tu-cach-phap-
nhan-%E2%80%93-tiep-can-tu-goc-do-phap-luat-tai-san.aspx, truy cập 3/2014 ).
36. Hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp
(http://luatminhkhue.vn/chuyen-doi/hieu-luc-cua-hop-dong-chuyen-
nhuong-phan-von-gop.aspx, truy cập 3/2014)
80
37.http://idoc.vn/tai-lieu/phap-luat-hien-hanh-ve-gop-von-thanh-lap-cong-
ty-co-phan-va-mot-so-kien-nghi-nham-hoan-thien-phap-luat-ve-gop-von-
thanh-lap-cong-ty-co-phan.html (truy cập 3/2014).

More Related Content

PDF
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAY
DOCX
Khóa luận tốt nghiệp nguyễn thị hải yến
PDF
Luận văn: Bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý, HOT
DOC
Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển thị trường kinh doanh bất động sản của Công ty
PDF
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
PDF
Luận văn: Quy định về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng, HOT
PDF
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
PPTX
Diabetes Mellitus
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAY
Khóa luận tốt nghiệp nguyễn thị hải yến
Luận văn: Bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý, HOT
Khóa luận tốt nghiệp: Phát triển thị trường kinh doanh bất động sản của Công ty
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Quy định về giới hạn đầu tư vốn của Ngân hàng, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
Diabetes Mellitus

What's hot (20)

PDF
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
PDF
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
PDF
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
PDF
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
PDF
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
PDF
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
PDF
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
DOCX
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
DOCX
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
PDF
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việc
PDF
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
PDF
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
PDF
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
PDF
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
PDF
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
PDF
Luận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT
PDF
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
PDF
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
PDF
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
DOCX
200 đề tài luận văn ngành luật dân sự, CHỌN LỌC
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
Luận văn: Hợp đồng mua bán tài sản hình thành trong tương lai, 9đ
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việc
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
200 đề tài luận văn ngành luật dân sự, CHỌN LỌC
Ad

Similar to Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY (20)

PDF
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
PDF
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
PDF
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
PDF
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
DOCX
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
PDF
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
PDF
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
DOC
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PDF
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
PDF
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với quản lý công ty
PDF
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với người quản lí, 9đ
DOCX
Khóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
PDF
Pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ
DOC
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, 9 ĐIỂM
PDF
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
DOC
Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.doc
PDF
Đề tài: Pháp luật quản lý vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp
PDF
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
PDF
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
PDF
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với quản lý công ty
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với người quản lí, 9đ
Khóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
Pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, 9 ĐIỂM
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.doc
Đề tài: Pháp luật quản lý vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Ad

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

DOCX
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
DOCX
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
DOCX
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
DOCX
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
DOCX
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
DOCX
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
DOCX
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu

Recently uploaded (20)

PDF
10 phương pháp rèn luyên tâm trí vững vàng • Sống Vững Vàng #1
DOCX
bao cao thuc tap nhan thuc_marketing_pary2
PPTX
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
PDF
BÀI GIẢNG POWERPOINT CHÍNH KHÓA THEO LESSON TIẾNG ANH 11 - HK1 - NĂM 2026 - G...
PPTX
Báo cáo Brucella sữa - trọng nghĩa..pptx
PPT
QH. PHÂN TíhjjjjjjjjjjjjCH CHíNH Sá CH.ppt
PPTX
Nhận thức chung về vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
PDF
Tiếp cận Tiêu chảy cấp ở đối tượng trẻ em
DOCX
123 ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ I TOÁN 6 (1).docx
PDF
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
PDF
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Tổng quan về Giao tiếp
PPTX
ĐỊNH VỊ BẢN THÂNnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnn.pptx
PDF
712387774-Slide-Lịch-Sử-Đảng-Vnfsdfsf.pdf
PDF
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 5 năm 2025 - 2026 theo 10 chủ điểm
PDF
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Phong Cách Giao Tiếp
PPTX
Vấn đề cơ bản của pháp luật_Pháp Luật Đại Cương.pptx
PPTX
Bài 01. cấu trúc da và sang thương cơ bản.pptx
PDF
VIOLYMPIC TOÁN LỚP 5 NĂM 2025 - 2026 TỪ VÒNG 1 ĐẾN VÒNG 10
PDF
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 2 năm 2025 - 2026 có đáp án
PPTX
S2.1 - LEC11 - Tự chăm sóc bản thân.pptx
10 phương pháp rèn luyên tâm trí vững vàng • Sống Vững Vàng #1
bao cao thuc tap nhan thuc_marketing_pary2
bai thuyet trinh Presentation-PPNCKH.pptx
BÀI GIẢNG POWERPOINT CHÍNH KHÓA THEO LESSON TIẾNG ANH 11 - HK1 - NĂM 2026 - G...
Báo cáo Brucella sữa - trọng nghĩa..pptx
QH. PHÂN TíhjjjjjjjjjjjjCH CHíNH Sá CH.ppt
Nhận thức chung về vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
Tiếp cận Tiêu chảy cấp ở đối tượng trẻ em
123 ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ I TOÁN 6 (1).docx
GIÁO ÁN KẾ HOẠCH BÀI DẠY THỂ DỤC 10 BÓNG CHUYỀN - KẾT NỐI TRI THỨC CẢ NĂM THE...
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Tổng quan về Giao tiếp
ĐỊNH VỊ BẢN THÂNnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnnn.pptx
712387774-Slide-Lịch-Sử-Đảng-Vnfsdfsf.pdf
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 5 năm 2025 - 2026 theo 10 chủ điểm
Slide bài giảng môn Tâm lý Học Giao tiếp - Chủ đề Phong Cách Giao Tiếp
Vấn đề cơ bản của pháp luật_Pháp Luật Đại Cương.pptx
Bài 01. cấu trúc da và sang thương cơ bản.pptx
VIOLYMPIC TOÁN LỚP 5 NĂM 2025 - 2026 TỪ VÒNG 1 ĐẾN VÒNG 10
Trạng nguyên Tiếng Việt lớp 2 năm 2025 - 2026 có đáp án
S2.1 - LEC11 - Tự chăm sóc bản thân.pptx

Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THU HÀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THU HÀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 0107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Ngô Huy Cƣơng HÀ NỘI – 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tác giả Lƣu Thu Hà
  • 4. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................6 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.......................................................6 2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................7 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn............................8 4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................9 5. Bố cục của Luận văn....................................................................................10 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓPVỐN THÀNH LẬP CÔNG TY......11 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty................................................................................11 1.1.1. Khái quát chung về công ty....................................................................11 1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn ..........14 1.1.3. Các hình thức góp vốn ...........................................................................20 1.1.4. Định giá tài sản góp vốn........................................................................38 1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn.............................................................41 1.2. Hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty..........................45 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY50 2.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty................................................50 2.1.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty ..............................................................................................................50 2.1.2. Những hạn chế của pháp luật hiện hành về góp vốn thành lập công ty....52 2.1.3. Quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất............................................55 2.2. Thực trạng các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty ..............................................................................................57 2.2.1. Các qui định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
  • 5. thành lập công ty..............................................................................................57 2.2.2. Những hạn chế của các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của góp vốn thành lập công ty .......................................................................................59 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY ........................................63 3.1. Các định hướng hoàn thiện .......................................................................63 3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn thành lập công ty......................................................69 KẾT LUẬN.....................................................................................................75 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................77
  • 6. 6 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt sau sự kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta có sự phát triển đáng kể. Khu vực kinh tế nhà nước đang được cải tổ mạnh mẽ để vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, linh động và làm quen dần với cạnh tranh quốc tế. Số lượng các công ty được thành lập ngày càng nhiều đáp ứng các nhu cầu của xã hội, tạo ra nhiều việc làm và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Đứng trước tình hình đó, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đang được đặt ra, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Doanh nghiệp 2005. Trong việc thành lập công ty, vốn góp là một vấn đề pháp lý then chốt. Thực tế cho thấy kinh doanh bao giờ cũng gắn với vốn. Vốn là yếu tố đầu tiên, có vai trò quyết định, có nghĩa là không có vốn thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Một công ty chỉ có thể được thành lập và đi vào hoạt động khi có sự đóng góp tài sản của thành viên hoặc các thành viên của nó để tạo thành vốn của công ty. Việc góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp, các mô hình khác nhau tạo nên qui chế pháp lý khác nhau đối với người góp vốn. Trong một chừng mực nào đó, Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những thành công nhất định trong việc tạo sự đa dạng các hình thức kinh doanh nhằm huy động các nguồn vốn. Tuy nhiên, đứng trước các cơ hội và thách thức mới, Luật Doanh nghiệp 2005 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, thiếu sót cần chỉnh sửa để một mặt tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc góp vốn thành lập công ty, mặt khác tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về các hình thức góp vốn vào doanh nghiệp.
  • 7. 7 Góp vốn còn là một vấn đề pháp lý cơ bản để xác định quyền lợi của các thành viên công ty. Nó không những đáp ứng các quyền lợi tương ứng của họ, mà còn tạo ra sự tin tưởng và an toàn liên quan tới đầu tư và kinh doanh. Xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của góp vốn và các hậu quả của nó trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các vấn đề pháp lý, tác giả lựa chọn “Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tình hình nghiên cứu ngoài nước Góp vốn là một vấn đề kinh tế và pháp lý gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó nó không phải là một vấn đề mới đối với khoa học pháp lý, cũng như khoa học kinh tế. Thế nhưng trong những hoàn cảnh cụ thể, góp vốn vẫn cần phải được nghiên cứu trong nhiều phương diện. Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về vấn đề này, nhất là trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên hiếm khi thấy có những nghiên cứu cụ thể cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là trong một hệ thống pháp luật đang cần hoàn thiện bởi sự bất cập và mâu thuẫn, chồng chéo một cách đáng ngại. Có một số công trình tiêu biểu trên thế giới liên quan tới đề tài Luận văn như sau: (1) Peter Fearns, Business Studies, Hodder & Stoughton, London- Sydney- Auckland, 1992; (2) Robert W. Hamilton, The Law of Corporations, West Publishing Co., 1991; (3) Harry G. Henn & John R. Alexander, Laws of Corporations and Other Business Enterprises, Third Edition, St. Paul, Minn. West Publishing Co., 1983; (4) Friedrich Kuebler, Juergen Simon, Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hoà Liên bang Đức, Nxb Pháp lý, 1992; (5) Francis Lemeunier, Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1993. Tình hình nghiên cứu trong nước Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan tới đề tài Luận văn. Đó là các công trình hết sức có giá trị lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên
  • 8. 8 việc gắn chặt góp vốn với vấn đề pháp lý trong giai đoạn hiện nay vẫn còn những vấn đề pháp lý nhỏ để Luận văn có thể khai thác. Một số công trình nghiên cứu trong nước tiêu biểu phải kể đến (nhưng không thể kể hết), bao gồm: (1) Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại – Phần chung và Thương nhân, Nxb. Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2013; (2) Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân, Luật thương mại Việt Nam dẫn giải, Quyển I vàg Quyển II, Sài Gòn, 1972; (3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại- Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; (4) Viện quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Công ti Vision & Associates, và Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Tìm hiểu về Luật Doanh nghiệp 2005; (5) Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; (6) Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình luật kinh tế- Tập 1: Luật doanh nghiệp, Tình huống- Phân tích- Bình luận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006; (7) Dự án VIE/94/003, Báo cáo chuyên đề về các lĩnh vực khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam; (8) Bùi Ngọc Cường, Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; (9) Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung, Công ty- vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005, Nxb Tri Thức, TP. Hồ Chí Minh, 2009: (10) Nguyễn Mạnh Bách, Các công ty thương mại, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Biên Hòa, 2006. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu này, tác giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề pháp lý phát sinh liên quan tới hành vi góp vốn. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn Luận văn có mục tiêu chủ yếu là làm rõ về mặt lý luận những vấn đề pháp lý phát sinh từ hành vi góp vốn thành lập công ty và kiến nghị hoàn thiện chế định pháp luật này. Luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
  • 9. 9 + Nghiên cứu lý luận về góp vốn và các hậu quả pháp lý phát sinh từ hành vi góp vốn; + Đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp lý của nó; + Kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan. Vì góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn là một lĩnh vực pháp lý rộng. Do đó Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật về góp vốn thành lập công ty, tức là các giao dịch về góp vốn thành lập công ty mà không nghiên cứu góp vốn vào các lĩnh vực khác, và cũng không phân tích việc góp vốn thành lập công ty dưới giác độ kinh tế, văn hóa, xã hội. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu việc thi hành pháp luật trong lĩnh vực này mà chỉ phân tích các qui phạm hiện hành thông qua lý luận. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phương pháp mà luận án sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật. Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định của pháp luật hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
  • 10. 10 Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp. Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu… 5. Bố cục của Luận văn Ngoài phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chủ yếu của Luận văn được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về góp vốn và hệ quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty. Chương 2: Thực trạng pháp luật việt nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty. Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công
  • 11. 11 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty 1.1.1. Khái quát chung về công ty 1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của công ty Công ty là loại một loại thương nhân xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Theo quan niệm truyền thống, công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại nhất định theo mục tiêu chung đã được lựa chọn. Như vậy công ty là một loại thương nhân chuyên tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại nhất định và coi các hành vi đó là nghề nghiệp của mình. Lưu ý rằng hành vi hoặc các hành vi này được xác định trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà pháp luật Việt Nam hiện nay gọi là ngành nghề kinh doanh. Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, thương nhân là chủ thể thông thường của luật thương mại và được chia thành thương nhân thể nhân (cá nhân kinh doanh – ví dụ như doanh nghiệp tư nhân) và thương nhân pháp nhân (có nghĩa là các công ty) [22, tr. 69]. Vậy trước hết công ty là thương nhân pháp nhân. Thương nhân, theo PGS. TS. Ngô Huy Cương có hai yếu tố xác định: Thứ nhất, chuyên tiến hành các hành vi thương mại; và thứ hai, lấy hành vi thương mại làm nghề nghiệp thường xuyên của mình, mà trong đó yếu tố thứ nhất được xem là điều kiện cần, và yếu tố thứ hai được xem là điều kiện đủ. Từ các phân tích ở trên ta có thể hiểu: Công ty là thương nhân pháp nhân và công ty có các đặc điểm như sau: Đặc điểm thứ nhất: Công ty là pháp nhân.
  • 12. 12 Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy công ty là một thực thể tách biệt với thành viên của nó, có nghĩa người thành lập công ty có mục đích tạo ra một thực thể tách biệt với mình, và thực thể này có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ riêng biệt so với quyền và nghĩa vụ của người thành lập nên nó. Vì vậy công ty mang đầy đủ các dấu hiệu của một pháp nhân. Trong các dấu hiệu này, có một dấu hiệu quan trọng liên hệ trực tiếp với đề tài Luận văn là công ty có tài sản riêng, khác với tài sản của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu của nó. Tài sản này trước hết được tạo lập bởi hành vi góp vốn của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu của công ty. Như vậy công ty là chủ thể của pháp luật. Các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của công ty được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn pháp luật qui định công ty có quyền sở hữu và sử dụng vốn đúng mục đích; phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng tài sản của mình; và tự danh mình tham gia các quan hệ pháp luật… Luật Doanh nghiệp 2014 định nghĩa về doanh nghiệp mà trong đó có công ty rằng: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” (Điều 4, khoản 7). Định nghĩa này cho thấy doanh nghiệp (hay công ty) mang dáng dấp của pháp nhân - một chủ thể quan trọng của pháp luật. Đặc điểm thứ hai: Công ty là thương nhân. Công ty là chủ thể thông thường của luật thương mại bởi như trên đã phân tích công ty chuyên tiến hành các hành vi thương mại và lấy hành vi thương mại là nghề nghiệp thường xuyên của mình. Công ty có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh, có nghĩa là đăng ký việc làm nghề thương mại của mình. Ở đây cần lưu ý hành vi thương mại có điểm khác với hành vi dân sự. Hành vi thương mại nói đơn giản là hành vi do thương nhân thực hiện nhằm mục đích sinh lời. Còn hành vi dân sự là hành vi do các chủ thể của pháp luật thực hiện nhằm mục đích tiêu dùng. Tuy nhiên sự phân biệt này là một vấn đề khoa học phức tạp mà khó có thể lý giải trong phạm vi của Luận văn này.
  • 13. 13 Đặc điểm thứ ba: Việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bị giới hạn bởi pháp luật. Các hình thức góp vốn thành lập công ty và việc sở hữu vốn của công ty luôn luôn được pháp luật quan tâm và điều tiết. Vốn ban đầu hình thành từ sự đóng góp của thành viên hoặc các thành viên. Thông qua việc góp vốn, thành viên đổi lại quyền lợi trong công ty và quyền chi phối công ty. Hơn nữa công ty luôn có sự tác động lớn tới cộng đồng bởi khả năng cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ, và khả năng huy động vốn từ bên ngoài. Pháp luật xen vào điều tiết việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bởi các lý do như vậy. 1.1.1.2. Phân loại công ty Ở các nước theo truyền thống Civil Law, người ta thường chia công ty thành hai loại: công ty dân sự và công ty thương mại. Nguồn gốc của sự phân chia này là việc có sự phân loại giữa luật dân sự và luật thương mại. Cách thức phân loại này không được thể hiện rõ ở Việt Nam hiện nay. Luận văn không đề cập tới công ty dân sự do đó không xuất phát nghiên cứu từ cách phân loại này. Căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ chịu trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà làm luật, mà dưới góc độ pháp lý người ta chia công ty thành hai loại hình chính là công ty đối nhân và công ty đối vốn. Trong mỗi loại này lại được phân chia thành các hình thức công ty cụ thể. Tuy nhiên phải nói rằng cách phân loại này cũng không mấy rõ ràng, gây ra nhiều tranh luận. Mặc dù vậy nó vẫn có những điểm đáng lưu ý về mặt khoa học. Công ty đối nhân là hình thức công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia. Đặc điểm cơ bản của công ty đối nhân là các thành viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty hoặc ít nhất cũng phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn đều có tư cách thương nhân và phải chịu thuế thu nhập cá
  • 14. 14 nhân. Có hai loại hình công ty đối nhân cơ bản là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Công ty hợp danh là công ty mà tất cả các thành viên đều phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợi của công ty. Còn công ty hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên: một loại chịu trách nhiệm vô hạn; và loại khác chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty. Công ty đối vốn ra đời muộn hơn so với công ty đối nhân. Công ty đối vốn không quan tâm tới nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm tới phần vốn góp. Có một điểm đặc biệt khác so với công ty đối nhân là ở công ty đối vốn tất cả các thành viên của công ty đều có chế độ trách nhiệm hữu hạn. Do cơ cấu thành lập công ty chỉ quan tâm tới vốn góp mà thành viên của công ty đối vốn thường có số lượng lớn. Cũng do thành viên của công ty đối vốn có số lượng lớn nên nó thường được pháp luật qui định chặt chẽ hơn về quản trị và vận hành. Có hai loại công ty đối vốn là: công ty cổ phần; và công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm loại có một thành viên và loại có hai thành viên trở lên). Công ty đối nhân và công ty đối vốn khác nhau tương đối nhiều về chế độ pháp lý đối với vốn của công ty, nhất là hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn. Trong mỗi phân loại lớn đó lại có những phân loại nhỏ hơn (hình thức công ty) có sự khác biệt ít nhiều về chế độ góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn. Tuy nhiên tựu trung lại vấn đề góp vốn và hậu quả pháp lý của nó có những điểm chung nhất định. 1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn 1.1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty Góp vốn thường được người Việt Nam hiểu là việc một người đưa hay hùn tiền bạc hay tài sản vào một công cuộc kinh doanh nhất định và mong nhận được lợi ích từ đó. Xét về mặt pháp lý, người góp vốn chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người kinh doanh (thương nhân) để đổi lại những lợi ích từ việc góp vốn đó. Góp vốn thành lập công ty là việc một người chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình vào công ty do tự mình
  • 15. 15 hoặc cùng với người khác thành lập nhằm mục tiêu kiếm lời. Tài sản góp vốn về nguyên tắc là tất cả các loại tài sản mà theo quan niệm của pháp luật Việt Nam hiện nay bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản (Điều 163, Bộ luật Dân sự 2005). Tuy nhiên pháp luật có thể qui định cụ thể về tài sản góp vốn đối với từng trường hợp cụ thể. Theo khoản 4, Điều 4 Luật Doanh nghiệp, tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty. Việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản cụ thể lấy quyền lợi trong công ty thường được qui đổi theo tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là tỉ lệ vốn góp mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ. Lợi ích mà người góp vốn nhận được là phần vốn góp hoặc cổ phần. Các phần vốn góp và cổ phần này không phải được hình thành từ thế giới vật chất như các tài sản hữu hình (vật), cũng không phải là sản phẩm được hình thành từ hoạt động sáng tạo của trí tuệ (đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ). Phần vốn góp hiểu là kết quả của sự chuyển một phần giá trị tài sản cụ thể của người góp vốn vào công ty để đổi lấy một phần giá trị khác trừu tượng hơn. Tài sản góp vốn vào công ty và phần vốn góp là hai tài sản độc lập và thuộc về hai sản nghiệp của hai chủ thể khác nhau. Phần vốn góp là tài sản thuộc sản nghiệp của nguời góp vốn. Tài sản đem góp vốn là tài sản thuộc sản nghiệp của công ty nhận tài sản góp vốn . Về mặt pháp lý, vốn của công ty là do các thành viên, các cổ đông đóng góp. Đối với chủ nợ của công ty, số tiền mà các thành viên, cổ đông bỏ vào công ty chính là sự cam kết lâu dài cho việc đầu tư. Trong trường hợp công ty bị phá sản, các chủ nợ cóa thể lấy nợ trên số tài sản hình thành từ vốn góp cùng với các tài sản khác của công ty. Việc góp vốn vào công ty bằng cách chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với tài sản của mình cho công ty để đổi lại tư cách sở hữu chủ hoặc đồng sở hữu chủ của công ty đó.
  • 16. 16 1.1.2.2. Bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty Từ khái niệm trên ta có thể nhận thấy bản chất pháp lý của góp vốn là hành vi pháp lý làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn, làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty và tạo lập ra công ty (một thực thể kinh doanh) thuộc sở hữu của người góp vốn hoặc thuộc sở hữu chung của những người góp vốn. Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý. Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay một thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là hành vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó phần vốn góp cũng được hiểu theo nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm phần vốn góp từ phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý [14, tr. 21]. Nếu xét trên phương diện kinh tế, góp vốn là việc tạo ra tài sản cho công ty nhằm đảm bảo thực hiện các hoạt động kinh doanh theo mục đích đã đăng ký của công ty và đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ trong trường hợp công ty bị phá sản. Khi tài sản được một thành viên, một cổ đông góp vào công ty, tài sản đó được chuyển dịch quyền sở hữu từ thành viên đó, cổ đông đó sang công ty. Việc dịch chuyển quyền sở hữu này có thể được thực hiện thông qua giao kết hợp đồng thành lập công ty của các cổ đông, thành viên góp vốn. Bằng hành vi góp vốn các thành viên, các cổ đông sáng lập đã tạo ra sản nghiệp ban đầu cho công ty để đổi lại quyền lợi của mình trong công ty. Quyền lợi này được xác định theo các quy định của pháp luật và điều lệ của công ty. Ở khía cạnh kinh tế, việc góp vốn hay hùn vốn cũng là việc nhiều người cùng góp nguồn lực của mình để tạo nên một nguồn lực chung lớn hơn nhằm thực hiện ý tưởng kinh doanh. Đó chính là ý nghĩa kinh tế quan trọng xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển của công ty trong lịch sử. Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, việc góp vốn thành lập công ty có khi chỉ đơn giản là để nhà đầu tư kiếm lời từ vốn góp của mình chứ không
  • 17. 17 thực sự chú trọng vào mục đích thực hiện một hoạt động kinh doanh nào cụ thể. Góp vốn vào công ty cũng dễ dàng chuyển nhượng lại phần vốn góp đó cho người khác để hưởng chênh lệch hoặc thu lại một phần vốn. Số lượng người góp vốn được mở rộng, khả năng bán lại phần vốn dễ dàng, người góp vốn có thể thay đổi nhanh chóng song công ty vẫn tồn tại, đó là sự khác biệt lớn của công ty đối vốn so với công ty đối nhân. Một vấn đề kinh tế khác khi các thành viên, các cổ đông góp vốn vào công ty là việc thực hiện quyền quản lý công ty để đảm bảo việc sử dụng đồng vốn của mình sẽ đem đến hiệu quả kinh tế cao nhất. Do là công ty đối vốn điển hình nên quyền quản lý trong công ty tương ứng với tỷ lệ số vốn góp vào công ty thông qua tỷ lệ vốn góp của từng thành viên và số lượng cổ phần nắm giữ của từng cổ đông. [14, tr. 25 - 27]. Nếu xét trên phương diện pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản để đổi lấy quyền lợi đối với công ty. Nói tóm lại góp vốn về bản chất pháp lý là một hành vi pháp lý. Hành vi này là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn đối với tài sản góp vốn cụ thể, đồng thời làm phát sinh quyền sở hữu của công ty đối với tài sản góp vốn đó, và làm phát sinh quyền sở hữu của người góp vốn đối với phần vốn góp vào công ty theo tỷ lệ với các phần vốn góp khác hoặc quyền sở hữu của người góp vốn (người mua cổ phần) đối với một hoặc một số cổ phần của công ty. Có thể lý giải cụ thể rằng: thông qua hành vi góp vốn, mối quan hệ pháp lý được tạo lập. Nghĩa vụ đối ứng giữa người góp vốn thành lập công ty và công ty khác với nghĩa vụ đối ứng giữa các bên trong quan hệ mua bán hay cho thuê. Hành vi góp vốn đổi lấy quyền lợi cũng khác với hành vi mua bán hay hành vi cho thuê tài sản ở chỗ khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay quyền hưởng dụng tài sản cho công ty, thì người góp vốn không nhận được bất kể khoản tiền nào từ việc chuyển giao đó mà chỉ nhận lại được là một thứ quyền đặc biệt đó là quyền sở hữu, quyền lợi công ty. Quyền lợi này có thể chuyển đổi thành tiền, tuy nhiên còn phụ thuộc vào từng hình thức công ty và quy chế riêng có thể có. Quyền sở hữu công ty này là quyền sở hũu một phần
  • 18. 18 tài sản của công ty tương ứng với tỷ lệ góp vốn và số cổ phần mà người đó nắm giữ. Như vậy, việc góp vốn thành lập công ty có nét giống với sự trao đổi tài sản giữa hai chủ thể, trong đó người góp vốn bỏ ra tài sản và nhận lại quyền lợi từ công ty. Đặc biệt trong công ty cổ phần thì các cổ phần không phải là một vật xác định hay quyền lợi gắn với vật đó mà người sở hữu được thừa hưởng. Cổ phần thực chất chỉ là một tờ giấy nhưng nó ghi nhận quyền tài sản quan trọng ràng buộc giữa cổ đông và công ty, đó là quyền quản lý và quyền thu lợi từ lợi tức của công ty. Như vậy, cổ phần luôn luôn gắn với công ty, có giá trị thay đổi theo tình hình tài chính của công ty và khi công ty không còn tồn tại thì quyền tài sản này cũng sẽ mất đi [14, tr. 27 – 28]. 1.1.2.3. Quyền góp vốn thành lập công ty Hiến pháp 2013 tuyên bố: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Với nguyên tắc hiến định này, có thể hiểu mọi người đều có quyền góp vốn thành lập công ty. Vì vậy việc hạn chế góp vốn thành lập công ty chỉ có thể được thực hiện theo những điều kiện nhất định. Hiến pháp 2013 qui định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo qui định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14, khoản 2). Quyền tự do kinh doanh được xếp vào các quyền con người và quyền cơ bản của công dân. Do vậy việc hạn chế nó phải tuân thủ các điều kiện hiến định. Luật Doanh nghiệp 2014 khẳng định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này” (Điều 18, khoản 1). Điều này đã cụ thể hóa nguyên tắc hiến định về tự do kinh doanh. Tuy nhiên để bảo vệ cộng đồng trước những tác động tiêu cực của hành vi góp vốn thành lập công ty và bảo vệ chính các công ty trước sự lạm dụng, Luật Doanh nghiệp 2014 có những qui định hạn chế góp vốn thành lập công ty như sau:
  • 19. 19 “2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức; c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng. Trong trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh. 3. Tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
  • 20. 20 4. Tổ chức, cá nhân sau đây không được mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. 5. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình theo điểm a khoản 2 và điểm a khoản 4 Điều này là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào ít nhất một trong các mục đích sau đây: a) Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả cán bộ, nhân viên của cơ quan, đơn vị; b) Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; c) Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị” (Điều 18). Các qui định hạn chế này làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh tại Việt Nam hiện nay bao gồm bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; chống tham nhũng, chụp giật; và chống làm suy yếu hiệu lực của quản lý nhà nước. 1.1.3. Các hình thức góp vốn Góp vốn thành lập công ty có nhiều hình thức khác nhau. Việc phân loại các hình thức này chủ yếu dựa vào đối tượng của hành vi góp vốn – đó chính là tài sản, công sức, và tri thức. Điều đáng lưu ý nhất là mỗi hình thức góp vốn dường như phụ thuộc vào một qui chế pháp lý khác nhau xuất phát từ đối tượng của hành vi góp vốn. Khác với Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam, các Bộ luật Dân sự của các nước trên thế giới không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản.
  • 21. 21 Song theo quan niệm chung, người ta có thể hiểu được rằng tài sản bao gồm hai loại là vật và quyền. Tài sản là một khái niệm trừu tượng khó xác định về mặt phạm vi. Hiện rất hiếm thấy các định nghĩa về tài sản trong pháp luật của các quốc gia. Thế nhưng tài sản là đối tượng quan trọng nhất của hành vi góp vốn. Vì vậy có thể thấy việc liệt kê các tài sản góp vốn như Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam có ý nghĩa thực tế và nhưng không thể không có các thiếu sót. Có lẽ các qui định này không dám đi quá xa ra khỏi khuôn khổ của các qui định về tài sản trong Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam nơi đã đặt ra tiền đề cho những thiếu sót như vậy. Chẳng hạn: theo pháp luật Việt Nam “vật chất liệu” đó là cơ sở quan trọng của quan niệm về tài sản. Tuy có nhắc tới quyền tài sản, nhưng nó không được xem là vật quyền. Do đó việc góp vốn bằng các vật quyền khó có được các qui định đầy đủ, trừ quyền sử dụng đất. Góp vốn bằng tài sản là hình thức góp vốn quan trọng nhất bởi không có tài sản thì công ty không thể hoạt động được. Về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể đem góp làm vốn của công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào từng sự thỏa thuận cụ thể trong các hợp đồng thành lập công ty. Tài sản góp vốn có thể thuộc bất kể dạng nào: vật chất liệu hay các quyền vô hình, với điều kiện các tài sản này phải là các tài sản có thể được chuyển giao trong giao lưu dân sự một cách hợp pháp, bởi bản thân góp vốn đó là một hành vi chuyển giao tài sản, do đó phải tuân thủ những qui tắc chung có liên quan tới việc chuyển giao tài sản. Căn cứ vào việc chuyển giao, người ta chia các hình thức góp vốn bằng tài sản thành một số loại để nghiên cứu và qui định như góp vốn bằng tiền, góp vốn bằng hiện vật (vật chất liệu) và góp vốn bằng quyền. Góp vốn bằng quyền tài sản lại được phân chia thành: góp vốn bằng quyền hưởng dụng, sản nghiệp thương mại và quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài việc góp vốn bằng tài sản, người ta còn góp vốn bằng công sức và bằng tri thức. Đây là hai hai khái niệm không hẳn nằm ngoài khái niệm tài sản. Các khái niệm này có sự giao thoa. Một người có thể không đưa tài sản cụ thể nào vào công ty với tính cách là góp vốn, mà người đó có thể thực hiện
  • 22. 22 một công việc nào đó mà công ty cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình hoặc đóng góp những hiểu biết mà công ty không thể không cần đến trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc cung cấp một công việc và việc cung cấp một tri thức có qui chế pháp lý riêng biệt với việc cung cấp một tài sản cụ thể trong việc thành lập một công ty. Sau đây lần lượt nghiên cứu các hình thức góp vốn cụ thể. 1.1.3.1. Góp vốn bằng tiền Góp vốn bằng tiền là việc cá nhân hay tổ chức chuyển một khoán tiền (Việt Nam đồng hay ngoại tệ hay những giấy tờ có giá trị như ngân phiếu, trái phiếu của mình) để hình thành vốn của công ty, và đổi lại phần vốn góp hay cổ phần từ công ty. Hành vi chuyển dịch chỉ được thực hiện xong khi nào thành viên góp vốn hoàn thành nghĩa vụ góp vốn mà có hình thức như: chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng hoặc một tài khoản trung gian... Góp vốn bằng tiền có tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi trong công ty. Do tính chất thanh khoản của tiền như vật ngang giá chung của cả nền kinh tế. Khi cam kết góp mà không góp hoặc góp không đúng hạn khoản tiền cam kết góp được coi là người cam kết nợ khoản cam kết đó với công ty. Việc góp vốn hay trả nợ vốn có thể thực hiện bằng các phương thức thanh toán theo qui định của pháp luật hay sự thỏa thuận của các bên. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp danh phương thức góp vốn bằng tiền mặt đòi hỏi phải đóng đủ rồi mới được thành lập công ty bởi các hình thức công ty này không được phát hành cổ phiếu. Với công ty cổ phần, phương thức góp vốn bằng tiền mặt không đòi hỏi những người tham gia đăng ký góp vốn phải đóng đủ ngay phần của mình trước khi công ty phải đăng ký kinh doanh mà chỉ cần đóng góp trước một phần bởi hình thức công ty này có phát hành cổ phần. Số cổ phần còn lại sẽ được mua nốt trong một khoảng thời gian nhất định sau khi công ty chính thức đi vào hoạt động. Về phương cách kiểm soát, pháp luật của nhiều nước, sau khi tiến hành góp vốn
  • 23. 23 theo phương thức này, các sáng lập viên phải có trách nhiệm gửi toàn bộ số tiền đó thu được vào một tài khoản ngân hàng phong tỏa hoặc gửi tại nơi ký thác. Luật Công ty 1990 cũng đã từng có quy định góp vốn phải gửi vào tài khoản phong tỏa. Hiện tại, việc chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa chỉ áp dụng đối với công ty cổ phần khi phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ chứ không áp dụng cho trường hợp góp vốn thành lập công ty, vấn đề này phụ thuộc vào thỏa thuận của các cổ đông khi sáng lập công ty cổ phần. 1.1.3.2. Góp vốn bằng hiện vật Góp vốn bằng hiện vật là việc góp vốn bằng quyền sở hữu đối với vật mà có thể là bất động sản do bản chất hay do mục đích, hoặc động sản do bản chất. Về nguyên tắc, mọi tài sản là vật đều có thể đem góp vốn thành lập công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể về việc góp vốn thành lập công ty. Vật đưa vào góp vốn phải là vật được đưa vào giao lưu dân sự đáp ứng đầy đủ ba yêu cầu: (i) vật có thực phải là một bộ phận của thế giới vật chất; (ii) vật có thực phải đem lại lợi ích cho con người; (iii) vật có thực là những vật con người có thể chiếm giữ được [17, tr. 31]. Như vậy việc góp vốn bằng hiện vật gần giống với việc bán hay đổi vật đó để lấy quyền lợi trong công ty. Người góp vốn thu được quyền lợi. Còn công ty có được quyền sở hữu đồ vật. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “việc góp vốn bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền đối với vật và giao vật cho công ty sử dụng. Nếu góp vốn bằng quyền sở hữu, người góp vốn phải đảm bảo đối với công ty như người bán đảm bảo đối với người mua” (Điều 1843 - 3). Vật được đem góp vốn phải là tài sản được phép giao dịch. Vật phải được xác định rõ. Chất lượng của vật do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp chất lượng của vật đó được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chất lượng của vật được xác định theo tiêu chuẩn đó công bố hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định về chất lượng thì chất lượng của
  • 24. 24 vật mua bán được xác định theo mục đích sử dụng và chất lượng trung bình của vật cùng loại. Với nghĩa vụ như người bán đối với người mua thì thành viên góp vốn có nghĩa vụ giao vật đúng số lượng, đồng bộ và đúng chủng loại, cung cấp thông tin cần thiết về vật và hướng dẫn cách sử dụng vật đó, đảm bảo quyền sở hữu đối với vật đó góp vốn không bị bên thứ ba tranh chấp. Việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản từ thành viên sang công ty có ý nghĩa pháp lý quan trọng, phải cam kết thực hiện nghĩa vụ dân sự, vì theo quan điểm pháp lý dân sự thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản thường gắn liền với thời điểm chuyển quyền sở hữu. Về nguyên tắc, chủ sở hữu phải chịu rủi ro xảy ra đối với tài sản của mình. Từ thời điểm thành viên cam kết góp vốn mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của thành viên với công ty. Trong đó, nếu công ty chưa đăng ký kinh doanh thì quyền yêu cầu là quyền của các thành viên khác đối với thành viên cam kết góp vốn thực hiện nghĩa vụ của họ. Thời điểm này chưa làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty vì công ty chưa ra đời. Việc chuyển dịch quyển sở hữu tài sản từ thành viên sang công ty chỉ có thể tính từ thời điểm công ty được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý tức là thời điểm cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tức là, việc công ty trở thành chủ sở hữu của vật góp vốn buộc công ty phải có tư cách pháp nhân, nghĩa là công ty phải có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ. Điều này cho thấy việc góp vốn bằng hiện vật không thể thực hiện được với công ty không có tư cách pháp nhân. Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng loại tài sản và ghi nhận của pháp luật, của hợp đồng hoặc điều lệ công ty mà việc chuyển quyền sở hữu tài sản hiện vật từ thành viên sang công ty được thực hiện theo những thủ tục khác nhau. Vật được giao theo phương thức thỏa thuận về việc góp vốn; nếu không có thỏa thuận về phương thức giao vật thì vật do thành viên góp vốn giao một lần, giao trực tiếp công ty. Thành viên góp vốn phải chịu chi phí vận chuyển đến địa điểm giao vật và chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu đối với vật.
  • 25. 25 1.1.3.3. Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất Hiến pháp 2013 tại Điều 53 qui định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Qua đây có thể hiểu đất đai là một tài sản đặc biệt, có qui chế pháp lý rất khác so với các loại tài sản khác. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Do đó người ta chỉ có thể góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nhà nước ta đã tạo ra cho người sử dụng đất những quyền năng nhất định, trong đó có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thành lập công ty. Đất đai là bất động sản do bản chất. Thông thường có thể xếp việc góp vốn bằng đất đai vào góp vốn bằng hiện vật. Nhưng Nhà nước chỉ trao cho các tổ chức, cá nhân quyền sử dụng đất với từng mảnh đất cụ thể. Quyền sử dụng đất lại được quy định bởi nhiều chế độ pháp lý khác nhau tùy theo từng loại đất. Do vậy phải xếp việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất thành một hình thức góp vốn riêng so với góp vốn bằng vật. Việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền sử dụng đất phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (ii) không có tranh chấp; (iii) quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; (iv) trong thời hạn sử dụng đất. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam được nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Nếu thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm có quyền góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam. Nếu cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất thuê và tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất để hợp tác kinh doanh, sản xuất trong thời hạn thuê đất [26] Việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất đòi hỏi quyền sử dụng đất phải thuộc trường hợp pháp luật cho phép được dùng vốn góp như một tài sản.
  • 26. 26 Quyền sử dụng đất mà các bên đem góp vốn phải được định giá, các bên có thể thỏa thuận định giá và cùng chịu trách nhiệm về thỏa thuận định giá đó hoặc thuê tổ chức định giá chuyên nghiệp. Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất là tài sản phải đăng ký do vậy sau khi thỏa thuận góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì đến thời điểm góp vốn bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải chuyển quyền sử dụng đất cho công ty và công ty là chủ thể đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Kể từ thời điểm công ty hoàn thành việc đăng ký quyền sử dụng đất thì việc chuyển quyền sử dụng đất cho công ty được hoàn thành. [26]. Từ những phân tích trên cho thấy ở nước ta, với việc chỉ có một hình thức sở hữu về đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý và không công nhận sở hữu tư nhân về đất đai, thì quyền sử dụng đất được đưa ra như một tài sản đặc thù và việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất với tư cách là một bất động sản vô hình cũng có những đặc thù riêng. 1.1.3.4. Góp vốn bằng quyền hưởng dụng Góp vốn bằng quyền hưởng dụng là một hình thức góp vốn bằng quyền. Góp vốn bằng quyền có phần phức tạp hơn so với góp vốn bằng tiền và góp vốn bằng hiện vật, không chỉ vì sự tính toán giá trị của nó, mà còn vì sự phân loại nó. Trước hết, việc phân loại tài sản thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình dẫn đến phân chia việc góp vốn bằng tài sản thành góp vốn bằng hiện vật và góp vốn bằng quyền, hay nói cách khác, góp vốn bằng tài sản hữu hình và góp vốn bằng tài sản vô hình, ngoài việc góp vốn bằng tiền. Việc phân chia cách góp vốn như vậy làm nảy sinh ra vấn đề cần lưu ý. Như trên đã khẳng định, góp vốn bằng vật có thực là việc chuyển quyền sở hữu vật cho công ty mà trong khi quyền sở hữu được xem như một vật quyền. Do đó, phân biệt thế nào giữa góp vốn bằng quyền sở hữu và góp vốn bằng các quyền khác mà trong đó có cả các vật quyền ngoài quyền sở hữu? [22, tr. 119]. Quyền sở hữu là quyền thống trị đối với vật nên để công ty có quyền thống trị hoàn toàn với vật đó thì việc chuyển nhượng quyển sở hữu đó là điều kiện bắt buộc. Do tính chất thống trị của quyển sở hữu đối với vật, nên
  • 27. 27 người ta tách góp vốn bằng việc chuyển nhượng quyền sở hữu (một vật quyền) ra khỏi việc góp vốn bằng các quyền khác, kể cả quyển sở hữu trí tuệ để có thể thiết lập được các quy chế pháp lý thích hợp với từng loại. Góp vốn bằng quyền lại có thể được phân chia thành góp vốn bằng quyền hưởng dụng, quyền sở hữu trí tuệ và góp vốn bằng sản nghiệp thương mại. Nếu phân biệt quyền sở hữu đối với vật thành ba quyền gồm: quyền sử dụng (usus), quyền thu lợi (fructus) và quyền định đoạt (abusus), thì quyền hưởng dụng ở đây chỉ bao gồm hai thành tố là: quyền sử dụng và quyền thu lợi để được gọi là usufruct. Vì vậy người ta thường tách góp vốn bằng quyền hưởng dụng đối với vật ra khỏi việc góp vốn bằng vật, bởi người góp vốn vào công ty chỉ cho công ty được sử dụng vật và thu lợi từ đó. Công ty không có quyền quyết định số phận của vật. Để đổi lại việc cho công ty hưởng dụng vật, người góp vốn nhận được các quyền lợi tương ứng trong công ty. Từ đó có thể thấy việc góp vốn bằng quyền hưởng dụng có những đặc điểm giống với việc cho thuê tài sản. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Nếu góp vốn bằng quyền hưởng dụng, người góp vốn phải đảm bảo với công ty như người cho thuê đối với người thuê. Tuy nhiên, nếu vật để hưởng dụng là vật cùng loại hoặc vật được thay thế trong thời gian hoạt động của công ty, thì người góp vốn chuyển cho công ty quyền sở hữu vật với điều kiện được trả lại đúng số lượng, chất lượng và giá trị tương đương. Trong trường hợp này, người góp vốn phải đảm bảo những điều kiện quy định tại đoạn trước” [Điều 1843 – 3, đoạn 4]. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931, Bộ luật chịu ảnh hưởng từ Bộ luật dân sự Pháp quy định người góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải thực hiện những nghĩa vụ của người cho thuê tài sản (Điều thứ 1207, đoạn 2). Với tinh thần này, Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật tại Điều thứ 1439, đoạn hai cũng có quy định tương tự. Điều 127, Bộ luật Dân sự 1972 của chính quyền Sài Gòn (cũ) cũng quy định như vậy. Điều đó có nghĩa là người góp vốn bằng quyền hưởng
  • 28. 28 dụng phải bảo đảm cho công ty được hưởng dụng yên ổn. Trừ khi có thoả thuận khác, người góp vốn phải bảo dưỡng, sửa chữa tài sản để tài sản luôn luôn ở trong tình trạng có thể sử dụng được như mục đích đề ra khi cam kết góp vốn. Cần xác định rằng, người góp vốn vẫn giữ quyền sở hữu đối với vật và gánh chịu rủi ro. Khác với việc góp vốn bằng hiện vật, việc góp vốn bằng quyền hưởng dụng có hệ quả là khi công ty giải thể, thì người góp vốn được nhận lại vật đó trước khi phân chia tài sản của công ty, bởi người này không chuyển giao quyền định đoạt đối với vật cho công ty. Bản chất của quyền hưởng dụng là tài sản vô hình. Tuy nhiên việc xem nó là động sản vô hình hay bất động sản vô hình phụ thuộc vào tài sản là đối tượng của nó là động sản hay bất động sản. Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam tại Điều 175 gọi hai loại hoa lợi trên là “hoa lợi” và “lợi tức”. Cách gọi như vậy gây khó khăn cho trường hợp gọi chung cho cả hai loại này và không cho thấy bản chất thật hay gốc gác pháp lý của hai loại này. Người góp vốn bằng quyền hưởng dụng chuyển giao quyền hưởng dụng đối với vật cho công ty và giữ lại quyền định đoạt đối với vật. Để đổi lại việc cho công ty hưởng dụng vật, người góp vốn nhận được các quyền lợi tương ứng trong công ty [18, tr. 31]. Tài sản góp vốn là quyền hưởng dụng thì phần vốn góp chính là giá trị được tính bằng quyền hưởng dụng đối với tài sản. Thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải giao tài sản cho công ty đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, tình trạng và đúng thời điểm, địa điểm thỏa thuận và cung cấp những thông tin cần thiết về việc sử dụng tài sản đó. Thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải bảo đảm tài sản trong tình trạng như đã thỏa thuận, phù hợp với mục đích sử dụng trong suốt thời gian góp vốn. Thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải bảo đảm quyền sử dụng tài sản ổn định cho bên thuê. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản mà công ty không được sử dụng tài sản ổn định thì công ty có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
  • 29. 29 Trong trường hợp thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng chậm giao tài sản thì công ty có thể gia hạn giao tài sản và yêu cầu bối thường thiệt hại nếu có. Nếu tài sản thuê không đúng chất lượng như thỏa thuận thì công ty có quyền yêu cầu bên cho thuê sửa chữa và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có. Như vậy, góp vốn bằng quyền hưởng dụng là việc cá nhân hay tổ chức chuyển quyền hưởng dụng tài sản của mình cho công ty để được hưởng các quyền lợi đối với công ty, trong đó thành viên đem góp vốn vẫn là người chủ sở hữu tài sản và công ty có quyền thu hoa lợi từ tài sản đó [18, tr. 32]. 1.1.3.5. Góp vốn bằng sản nghiệp thương mại Sản nghiệp có thể được xem xét dưới các giác độ khác nhau. Nếu xem xét dưới khía cạnh giá trị, sản nghiệp được hiểu là một tổng thể các quan hệ pháp luật về tài sản, là tập hợp các tài sản có và tài sản nợ của một chủ thể chứ không đơn thuần là một bộ sưu tập đồ vật. Bất kỳ yếu tố nào của tài sản nợ cũng được đảm bảo bằng toàn bộ tài sản có và ngược lại bất kỳ yếu tố nào của tài sản có cũng có thể được dùng để thanh toán toàn bộ tài sản nợ [24, tr. 191]. Tài sản thuộc sản nghiệp là tập hợp tất cả những tài sản thuộc về chủ sở hữu, hay đúng hơn đó là tập hợp tất cả những quyền tài sản có cùng một chủ thể. Tuy nhiên, các quyền tài sản chỉ được xem là các yếu tố của một sản nghiệp khi các quyền đó có thể được định giá bằng tiền. Do đó, các quyền không định giá được bằng tiền được gọi là các quyền không có tính chất tài sản hay là quyền nhân thân (ví dụ như quyền đối với tên họ; quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm; quyền bầu cử; quyền khiếu nại, tố cáo…). Các quyền tài sản tạo thành một tập hợp sản nghiệp và tập hợp này tồn tại độc lập với các quyền tài sản đó. Tài sản có thể được mua bán, sử dụng, hao mòn, thậm chí biến mất nhưng sản nghiệp vẫn được duy trì. Do đó, một chủ nợ không có bảo đảm chỉ có quyền yêu cầu kê biên và bán đấu giá bất kỳ một tài sản nào của người mắc nợ ở thời điểm kê biên mà sẽ không có quyền này đối với những tài sản đã chuyển nhượng trước khi nợ đến hạn đòi. Mặt
  • 30. 30 khác, cần chú ý rằng sản nghiệp không chỉ là tài sản hiện có mà còn bao gồm cả những tài sản sẽ có của chủ sở hữu. Tài sản nợ thuộc về sản nghiệp là tất cả những nghĩa vụ tài sản của một người, hay nói một cách đơn giản hơn đó là những gì còn lại của khối tài sản sau khi đã trừ đi các giá trị của các nghĩa vụ tài sản. Trong kinh tế học, có khái niệm tài sản có ròng (actif net) của sản nghiệp. Khi các tài sản có ròng có giá trị dương, ta nói sản nghiệp có khả năng thanh toán; và ngược lại, nếu đó là một giá trị âm, đồng nghĩa với việc sản nghiệp không có khả năng thanh toán những nghĩa vụ có liên quan. Mặc dù vậy, dù có khả năng thanh toán hay không, sản nghiệp luôn luôn tồn tại. Xét trên các hình thức biểu hiện, người ta sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ sản nghiệp thương mại như “cửa hàng thương mại”, “cơ sở kinh doanh”. Sản nghiệp thương mại không phải là bản thân doanh nghiệp mà chỉ là một trong các nhân tố của doanh nghiệp. Sản nghiệp thương mại bao gồm cả những yếu tố hữu hình (như hàng hóa, máy móc, xe cộ, các vật dụng khác) và cả những yếu tố vô hình (như mạng lưới khách hàng, mạng lưới cung cấp ứng dụng dịch vụ, quyền thuê mượn tài sản, tên thương mại, thương danh, biển hiệu, bằng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, mẫu mã …). Các yếu tố vô hình của sản nghiệp thương mại bao gồm: Mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ là kết quả của những nỗ lực phát huy tài năng và sự khéo léo của thương nhân nhằm thu hút khách hàng để tiêu thụ hàng hóa mà mình sản xuất. Sự phát triển của mạng lưới tiêu thụ hàng hóa hay cung cấp dịch vụ lệ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan (tình hình kinh tế xã hội của quốc gia và khu vực; thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng, thời điểm kinh doanh, tốc độ đô thị hóa, điều kiện tự nhiên, môi trường ...) cũng như yếu tố chủ quan (sự nhạy bén và linh hoạt của chính sách tiếp thị, uy tín của thương hiệu, ý chí của bạn hàng …). Tên thương mại – là danh hiệu dùng trong giao dịch của thương nhân. Tên thương mại là một yếu tổ của sản nghiệp thương mại và có thể chuyển
  • 31. 31 nhượng. Ở các nước có nền kinh tế thương mại phát triển, có một số tên thương mại được định giá cao. Ví dụ như Cocacola, Toyota, Google… Biển hiệu là dấu hiệu gắn liền với cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm giúp phân biệt cơ sở này với cơ sở khác. Cũng như tên thương mại, biển hiệu chỉ có thể là đối tượng của quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ khi thương nhân được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ mới dự liệu các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu biển hiệu trong tập quán và trong các quy phạm địa phương trong khi nhu cầu này trên thực tế của dân sự là rất lớn, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cũng như chính sách chống cạnh tranh không lành mạnh đã được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam thời gian gần đây [22, tr. 219]. Như vậy, sản nghiệp thương mại không đơn thuần chỉ bao gồm các tài sản là vật có thực mà nó còn là những tài sản vô hình của doanh nghiệp. Vì vậy, người ta không thể coi việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại như là góp vốn bằng vật. Đồng thời, sản nghiệp thương mại mặc dù các yếu tố của quyền sử hữu trí tuệ nhưng nó lại bao gồm cả các tài vật. Chình vì vậy, người ta thường tách việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại thành một mục riêng khác với việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ. Việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại gần giống với việc bán sản nghiệp thương mại và phải được các bên thỏa thuận bằng văn bản liệt kê rõ từng mục. Điều đó có nghĩa là việc bán sản nghiệp thương mại là việc chuyển nhượng tổng thể các yếu tố của sản nghiệp thương mại cho người khác mà trong đó nhất thiết phải có yếu tố khách hàng, bởi khách hàng là thành tố chính của một sản nghiệp thương mại. Tuy nhiên, bởi nhiều yếu tố khác nhau cả vô hình và hữu hình mà có thể tách ra một cách độc lập, nên việc không liệt kê yếu tố nào vào văn bản hợp đồng, thì yếu tố ấy coi như không bị bán. Ngoài ra việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại còn lệ thuộc vào các quy tắc bán sản nghiệp thương mại được quy định trong luật thương mại. 1.1.3.6. Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ
  • 32. 32 Luật Doanh nghiệp 2014 có qui định rành mạch về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ rằng: “Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn” (Điều 35, khoản 2). Theo Luật sở hữu trí tuệ thì quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng. Những hình thức sở hữu trí tuệ chủ yếu là bằng sáng chế, quyền tác giả (bản quyền), nhãn hiệu và bí mật thương mại. Quyền tác giả hay bản quyền là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Bản quyền chủ yếu nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, kiến trúc, các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị. Các chương trình máy tính và bản ghi âm, ghi hình cũng được bảo hộ bằng quyền tác giả. Chỉ tác giả hay những người được tác giả trao quyền – chẳng hạn như nhà xuất bản – mới có toàn quyền khiếu nại về bản quyền. Tuy nhiên cho dù là ai đang sở hữu bản quyền đi chăng nữa thì quyền đó cũng có giới hạn. Ví dụ như người ta có thể sao chép một tác phẩm với mục đích học tập, phê bình, đưa tin hay giảng dạy. Sáng chế là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, người có sáng chế hay người đã tạo ra một phát minh được cấp bằng sáng chế. Bằng sáng chế có thể coi là một hợp đồng giữa một bên là toàn thể xã hội và một bên là cá nhân nhà phát minh. Theo các điều khoản của hợp đồng này, nhà phát minh được toàn quyền ngăn chặn người khác không được áp dụng, sử dụng và bán một phát minh đã được cấp bằng sáng chế trong một khoảng thời gian nhất định – hầu hết các nước quy định là 20 năm – để đổi lại việc nhà phát minh phải công bố chi tiết phát minh của mình cho công chúng.
  • 33. 33 Bí mật thương mại bao gồm bất cứ thông tin nào có thể được sử dụng trong việc điều hành doanh nghiệp và có giá trị lớn trong việc tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai hay trong thực tại đều được coi là bí mật thương mại. Ví dụ về bí mật thương mại có thể là công thức sản xuất ra các sản phẩm, chẳng hạn như công thức sản xuất Coca-Cola; việc thu thập thông tin nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một doanh nghiệp, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu về danh sách khách hàng; bí mật thương mại thậm chí gồm cả chiến lược quảng cáo và quy trình phân phối. Khác với bằng sáng chế, bí mật thương mại về lý thuyết được bảo vệ vô thời hạn và không cần thủ tục đăng ký gì. Tuy nhiên, bí mật thương mại thường dễ bị lộ và việc bảo vệ bí mật thương mại đòi hỏi chính bản thân chủ thể phải có các biện pháp bảo vệ bí mật. Nhãn hiệu hàng hóa là chỉ số chỉ dẫn thương mại, là dấu hiệu phân biệt để xác định một loại hàng hóa hay dịch vụ do một cá nhân hay công ty cụ thể sản xuất hoặc cung cấp. Nhãn hiệu đặc biệt quan trọng khi người sản xuất và tiêu dùng ở cách xa nhau. Ở hầu hết các nước trên thế giới, nhãn hiệu cần phải được đăng ký thì mới có thể bảo hộ được và việc đăng ký cần phải được gia hạn. Thế nhưng trong khi bản quyền và bằng sáng chế tự hết hạn thì tên của công ty phục vụ khách hàng tốt sẽ ngày càng trở nên có giá, nghĩa là việc bảo hộ nhãn hiệu là không thời hạn [29, 42]. Ngoài ra còn có các hình thức sở hữu trí tuệ đa dạng khác như chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng mỹ thuật hay kiểu trang trí của các vật dụng cũng được bảo hộ theo nhiều cách khác nhau. Nhiều kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ như đối với sáng chế về kiểu dáng. Và quyền sở hữu trí tuệ còn có những loại hình đặc biệt là các giống cây trồng mới, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, tên miền trên internet ... Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là một tài sản vô hình tuyệt đối bao gồm: quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền tác giả, bằng sáng chế, bí mật thương mại, nhãn hiệu hàng hóa và các loại sở hữu trí tuệ khác như: chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, tên miền internet, phần góp vốn trong công ty có tư cách pháp nhân và một số yếu tố của sản nghiệp thương mại không thể nhận
  • 34. 34 biết được bằng giác quan mà phải thông qua những ý niệm về những mối quan hệ pháp luật gữia người có quyền khai thác lợi ích của tài sản và người thứ ba. Thông qua việc khai thác những loại tài sản vô hình này, người ta có thể thu về những lợi ích vật chất nhất định khi sử dụng chúng. Do sở hữu trí tuệ cũng có nhiều đặc tính của sở hữu cá nhân và sở hữu tài sản thực sự nên những quyền lợi gắn liền với sở hữu trí tuệ cho phép chúng ta có thể mua, bán, cấp phép hay thậm chí là cho không sở hữu trí tuệ của chúng ta như tài sản thông thường và việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ cũng giống như việc góp vốn bằng những tài sản khác. Luật về sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu, người phát minh và tác giả bảo vệ tài sản của mình trước việc sử dụng trái phép. Việc góp vốn bằng các tài sản này buộc người góp vốn phải bảo đảm cho công ty khai thác tái sản để đem lại các lợi ích phát sinh từ đó. Ngược lại người góp vốn có quyền lợi tương ứng trong công ty. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, do tài sản trí tuệ có yếu tố rất động và vô hình, nên việc góp vốn phụ thuộc rất nhiều vào sự thỏa thuận của các thành viên và bị điều tiết bởi pháp luật về sở hữu trí tuệ [22, tr. 182 - 183]. 1.1.3.7. Góp vốn bằng tri thức Trong nền kinh tế tri thức, người ta thường nhắc đến các yếu tố lớn nhất đang làm biến đổi các nước trên thế giới. Đó là chủ nghĩa tư bản tài chính (finance capitalism), chủ nghĩa tư bản tri thức (knowlege capitalism) và chủ nghĩa tư bản xã hội (social capitalism) mà tại đó chủ nghĩa tư bản được hiểu là một cuộc vận động làm phát sinh ra các ý tưởng mới và đưa chúng vào các sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực thương mại. Vậy góp vốn bằng tri thức là một vấn đề trọng yếu của nền kinh tế công nghiệp, hậu công nghiệp hay kinh tế tri thức. Ngày nay người ta thường nhấn mạnh tài sản trí tuệ hay sở hữu trí tuệ. Chúng được xem là một bộ phận quan trọng của tri thức. Điều đó có nghĩa là khái niệm tài sản và khái niệm tri thức có sự giao thoa, nhưng không trùng
  • 35. 35 khít với nhau. Nếu định nghĩa tri thức trên phương diện hành vi có thể quan sát được, thì tri thức là khả năng của một cá nhân hay của một nhóm thực hiện, hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy trình nhằm tạo ra các sự chuyển hóa có thể dự báo được của các vật liệu. Tri thức có thể được điển chế hóa và có thể sao chép hoặc có thể ở dạng ẩn không thể sao chép khi ở trong đầu của các cá nhân hoặc các chu trình hoạt động của các doanh nghiệp. Những tri thức ẩn không thể điển chế hóa được, nên khó có thể mua và bán. Chúng khác với bốn loại tài sản trí tuệ là nhãn hiệu thương mại, giấy chứng nhận sáng chế, bản quyền và kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký mà được xem là tài sản vì có thể trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Tri thức ẩn được biểu hiện ở vốn nhân lực và tổ chức, nên mang đến cách thức góp vốn khác với cách thức góp vốn bằng tài sản. Khi nghiên cứu về kinh tế tri thức, người ta nhận định: khả năng tri thức “ngầm” quan trọng nhất có lẽ là khả năng học hỏi liên tục và đạt tới những kỹ năng mới. Do đó, góp vốn bằng tri thức, cụ thể như tri thức ẩn, là góp vốn bằng chính khả năng như nghiên cứu thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh, các phản ứng nhạy bén với thị trường... [22, tr. 184 - 186]. Có thể lấy một ví dụ thực tế cho việc góp vốn bằng tri thức là một Thầy giáo giỏi có uy tín tham gia thành lập trường tư cùng với các thành viên khác. Thầy giáo hoàn toàn có quyền cam kết sẽ làm việc cho trường trong một thời gian. Trong thời gian đó, danh tiếng và tri thức của thầy này sẽ làm lợi cho trường rất nhiều, có thể nói là có ý nghĩa quyết định với việc trường tư này có thể tồn tại được hay không. Do đó, việc thầy giáo này được nhận lại một phần quyền trong trường dưới dạng vốn góp là hoàn toàn hợp lý. Hơn nữa, khi đã gắn danh tiếng của mình với trường đó, thầy này cũng có nhu cầu tham gia quản lý nhà trường đó để có thể đảm bảo trường sẽ hoạt động một cách quy củ và danh tiếng của mình gắn với trường đó sẽ không bị tổn hại. Tóm lại, việc
  • 36. 36 góp vốn bằng tri thức và danh tiếng chính là giải pháp hợp lý nhất để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên, ở đây là giữa thầy giáo và nhà trường. Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra với hình thức góp vốn này là người góp vốn bằng tri thức phải đảm bảo việc mang tri thức của mình ra phục vụ một cách mẫn cán và trung thực cho lợi ích công ty, có nghĩa là người đó phải thực hiện một nghĩa vụ mẫn cán và trung thực cho trái chủ là công ty do chính người đó cam kết lập ra. Tuy nhiên, việc góp vốn bằng tri thức – một khả năng trừu tượng, sẽ mang lại khó khăn trên nhiều phương diện như: tính giá trị phần vốn góp để chia sẻ quyền lợi trong công ty; chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ của người góp vốn. Những khó khăn này lệ thuộc hoàn toàn vào sự đánh giá và thỏa thuận các các thành viên công ty. Tại đây cần nhấn mạnh, tri thức khi được góp vốn hoàn toàn không biến khỏi các thành viên góp nó, có nghĩa là nó chỉ tồn tại nơi các thành viên và càng được sử dụng thì càng được củng cố và phát triển. Vậy việc bảo đảm cho sự độc quyền sử dụng tri thức đó của công ty là một vấn đề lớn cần tới sự trung thực của người góp vốn. Sự tin tưởng lẫn nhau, hợp tác với nhau là một yêu cầu có tính thiết yếu trong nền kinh tế hậu công nghiệp và kinh tế tri thức hiện nay. Vì vậy, mặc dù chưa nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn, nhưng ý tưởng người có chuyên môn và người có tài sản cùng nhau góp vốn làm ăn dưới hình thức công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam là đã hướng tới một phần nào quan niệm này. 1.1.3.8. Góp vốn bằng công sức Như trên đã nghiên cứu, thỏa thuận trong các hợp đồng góp vốn thành lập công ty là một căn cứ làm phát sinh ra nghĩa vụ của các thành viên công ty. Và đối tượng của nghĩa vụ bao gồm: chuyển giao quyền sở hữu, làm hoặc không làm một công việc nào đó. Vì vậy, cam kết thực hiện những hành vi cụ thể có thể trị giá được bằng tiền theo quan niệm của luật nghĩa vụ cũng được xem là góp vốn. Vì vậy cam kết thực hiện những hành vi cụ thể có có thể có giá trị được bằng tiền theo quan niệm của luật nghĩa vụ cũng được xem là góp
  • 37. 37 vốn. Có quan niệm cho rằng, góp vốn bằng công lao hay việc làm phải là góp vốn bằng một công việc điều khiển, chỉ huy mà không phải công việc của người thừa hành, vì công ty có nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên. Tuy nhiên, có thể nhận thấy là công sức lao động không có gì đặc biệt sẽ khó có thể được đóng góp vào công ty để người góp vốn trở thành một trong những ông chủ của nó, vì công ty dễ dàng mua được công sức lao động như vậy với giá hợp lý mà không phải trả thêm lãi và chia sẻ quyền lực quản lý của thành viên khác trong công ty. Nhưng tại đây có hai trường hợp cần lưu ý: một là, công sức được bỏ ra có thành tố tri thức hoặc kinh nghiệm; hai là, người góp vốn bằng công sức được tin tưởng hơn những người khác khi công ty dự định thành lập là một công ty đối nhân. Trường hợp thứ nhất có thể nhầm lẫn với góp vốn bằng tri thức. Tuy nhiên, nếu thành tố tri thức ít hơn so với lao công, thì có thể nói, việc góp vốn đó là góp vốn bằng công việc. Đối với trường hợp này, công ty đối vốn có thể cũng cần, chẳng hạn người lái xe giỏi, thông thạo được ở nhiều thành phố góp vốn bằng khả năng này của mình. Trường hợp thứ hai tùy thuộc hoàn toàn vào sự lựa chọn của các thành viên [24, tr. 71]. Thừa nhận việc góp vốn bằng công sức là hướng tới yếu tố hiệu quả của việc góp vốn, đảm bảo nguyên tắc tự do ý chí, và bảo đảm cho công sức lao động xã hội. Cũng giống với góp vốn bằng tri thức, việc góp vốn bằng lao công khiến cho người góp vốn bị ràng buộc nghĩa vụ mẫn cán và trung thực. Do đó, nó cũng có hậu quả tương tự với góp vốn bằng tri thức. Bộ luật Dân sự Pháp qui định: Phần góp vốn bằng công sức lao động không được tính vào vốn của công ty (không trị giá được bằng tiền), nhưng người góp vốn bằng công lao động được nhận cổ phần của công ty, có quyền chia lãi và tài sản có, đồng thời cũng phải chịu lỗ. Như vậy, phần vốn góp bằng công sức nếu có được định giá thì cũng không được tính vào vốn điều lệ của công ty. Tuy nhiên, người góp vốn bằng công sức vẫn được hưởng quyền lợi tương ứng với giá trị được định giá của công sức.
  • 38. 38 1.1.4. Định giá tài sản góp vốn Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp. Vì vậy Luật Doanh nghiệp 2014 qui định: “1. Tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá và được thể hiện thành Đồng tiền Việt Nam. 2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc do một tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được đa số các thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận. Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế. 3. Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do chủ sở hữu, hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần và người góp vốn thoả thuận định giá hoặc do một tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn và doanh nghiệp chấp thuận. Trường hợp nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì người góp vốn, chủ sở hữu, thành viên hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, thành viên hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời
  • 39. 39 điểm kết thúc định giá; đồng thời, liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do việc cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế” (Điều 37). Các quy định này cho thấy đối tượng là tài sản của hành vi góp vốn vào công ty phải được định giá, nếu các tài sản đó không phải là tiền. Trên cơ sở đinh giá như vậy, vốn điều lệ của công ty mới được xác định rõ ràng, quyền lợi của các bên được bảo đảm đúng mức. Định giá tài sản vào thời điểm góp vốn thành lập công ty. Theo đó, khi xuất hiện đối tượng tài sản cần phải được định giá, tất cả thành viên sáng lập cùng nhau bàn bạc, thống nhất để quyết định giá trị tài sản. Trong thực tế hoạt động định giá tài sản góp vốn, để tìm được sự nhất trí cho việc xác định giá trị tài sản không hề đơn giản. Do đó, việc định giá tài sản cần có sự hợp tác cao giữa những người có thẩm quyền định giá để đi đến một mức giá cụ thể, phản ánh xác thực về hiện trạng tài sản mà nhà đầu tư thấy rõ là hợp lý, đảm bảo không gây ra tranh chấp. Nguyên tắc định giá tài sản góp vốn mà Luật doanh nghiệp đề ra suy cho cùng cũng là trên cơ sở bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư, cho công ty tiếp nhận vốn và cả bên thứ ba. Tất cả thành viên là người định giá tài sản là vốn góp. Một tổ chức định giá chuyên nghiệp có thể có thẩm quyền định giá theo yêu cầu của các viên. Quy định trên đã xác định việc định giá tài sản góp vốn ở hai thời điểm thành lập công ty và khi công ty đang hoạt động chỉ khác nhau ở thẩm quyền định giá còn trách nhiệm và chu trình định giá là hoàn toàn giống nhau. Những người có thẩm quyền có thể sẽ trực tiếp tiến hành hoặc thuê những công ty kiểm toán hay các tổ chức kinh tế có chức năng định giá tài sản. Nếu những người có thẩm quyền trực tiếp định giá tài sản góp vốn thì họ phải thành lập Hội đồng định giá. Và tùy thuộc vào thời điểm tài sản được đem góp vào công ty, thành phần Hội đồng định giá sẽ khác nhau.
  • 40. 40 Trong quá trình hoạt động, Hội đồng định giá được áp dụng cho ba loại hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm, công ty hợp danh lần lượt là Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên và tất cả các thành viên hợp danh. Quyết định giá trị tài sản góp vốn sẽ được Hội đồng quản trị công ty cổ phần, Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, tất cả các thành viên hợp danh công ty hợp danh bàn bạc trong cuộc họp. Và việc định giá tài sản để tiếp nhận thành viên đồng nghĩa với sửa đổi Điều lệ chỉ được thông qua khi đáp ứng được tỉ lệ luật định. Luật cũng quy định công ty có thể thuê tổ chức định giá chuyên nghiệp để định giá tài sản góp vốn. Quy định của Luật doanh nghiệp về thẩm quyền định giá đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty định giá tài sản góp vốn. Đối với trường hợp công ty tự tiến hành định giá tài sản góp vốn, tất cả thành viên liên đới chịu trách nhiệm về giá trị tài sản. Họ phải cùng thỏa thuận để định đoạt giá trị của tài sản góp vốn. Khi xảy ra việc tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế của nó tại thời điểm góp vốn, theo quy định của luật doanh nghiệp, cả người góp vốn và người định giá phải góp đủ số vốn như đã được định giá. Đây là một quy định cần được xem xét trên cả hai phương diện: một là các bên đã không ý thức được giá trị thực của tài sản, hai là các bên đã cố tình định giá cao hơn giá trị thực tế. Tuy nhiên, dù ở trường hợp nào, khi gây thiệt hại cho người khác thì vẫn phải đặt ra trách nhiệm bồi thường. Song luật doanh nghiệp chưa xác định rõ tỉ lệ trách nhiệm giữa bên góp vốn và người định giá trong vấn đề này, vì điều đó mà tranh chấp có thể xảy ra. Trường hợp công ty thuê tổ chức kinh tế có chức năng định giá tài sản thì trách nhiệm được nói đến ở đây thuộc về bên được thuê định giá tài sản. Quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được xác định trong hợp đồng. Tổ chức được thuê định giá tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định tài sản trước khách hàng của mình.
  • 41. 41 Quyền lợi của nhà đầu tư gắn liền với giá trị phần góp vốn, do đó định giá tài sản chính xác, sát với giá trị thực tế sẽ bảo vệ tối đa quyền lợi của nhà đầu tư, tạo tâm lý an tâm khi đầu tư kinh doanh. 1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn Như đã phân tích, một trong những nghĩa vụ căn bản của thành viên công ty là nghĩa vụ góp vốn. Điều đó có nghĩa là khi đã cam kết góp vốn thành lập công ty, thành viên đã tự ràng buộc mình trở thành thụ trái hay con nợ của công ty. Cần nhấn mạnh rằng các phần vốn góp của các thành viên đều trở thành sản nghiệp của công ty do chính họ tạo dựng nên. Vì vậy, công ty – một pháp nhân riêng biệt – là trái chủ của chính những người chủ của mình. Việc góp vốn bằng tiền, nếu thành viên góp vốn không góp đúng hạn thì sẽ trở thành con nợ đối với công ty. Công ty có quyền đòi nợ với thành viên đã vi phạm nghĩa vụ góp vốn và yêu cầu trả lãi số tiền đó kể từ ngày phải đóng góp và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có. Việc góp vốn bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền đối với vật và giao cho công ty sử dụng. Người góp vốn phải đảm bảo đối với công ty như người bán bảo đảm đối với người mua. Nghĩa là việc góp vốn bằng hiện vật giống như việc bán tài sản cho công ty để đổi lấy quyền lợi từ công ty. Vậy nếu người bán vi phạm nghĩa vụ góp vốn thì sẽ bị xử lý giống như người bán vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán vật. Cụ thể: Trường hợp người góp vốn giao vật ít hơn số lượng đã thỏa thuận thì công ty có quyền nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có) đối với phần chưa giao đúng số lượng hoặc định thời gian để người góp vốn giao tiếp phần còn thiếu, nếu người góp vốn không giao được tiếp số lượng vật còn thiếu thì công ty có quyền xác định lại giá trị vốn góp của người đó và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có [22, tr. 189]. Trong trường hợp góp vốn giao vật không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được hiệu quả thì công ty có quyền nhận vật và
  • 42. 42 yêu cầu người góp vốn giao tiếp phần hoặc bộ phận còn thiếu, yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có. Trong trường hợp người góp vốn giao vật không đúng chủng loại thì công ty có quyền yêu cầu người góp vốn giao đúng chủng loại và bồi thường thiệt hại nếu có. Nếu góp vốn bằng quyền hưởng dụng, người góp vốn phải bảo đảm với công ty như người cho thuê đối với người thuê. Người góp vốn phải giao vật cho công ty đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, tình trạng và đúng thời điểm, địa điểm đã thỏa thuận và cung cấp những thông tin cần thiết về việc sử dụng vật đó. Nếu người góp vốn vi phạm nghĩa vụ góp vốn thì có thể bị xử lý như đối với trường hợp vi phạm hợp đồng thuê tài sản. Cụ thể: Trong trường hợp người góp vốn chậm giao vật, công ty có thể gia hạn giao vật và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu người góp vốn giao vật không đúng chất lượng như thỏa thuận thì công ty có quyền yêu cầu người góp vốn giao vật đúng chất lượng hoặc sửa chữa vật và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có. Mặc dù mỗi hình thức của vốn góp thì nghĩa vụ phát sinh và việc xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn có khác nhau, nhưng tựu chung lại nếu thành viên, cổ đông không góp vốn hoặc góp vốn chậm thì công ty có quyền đòi. Với việc góp vốn chậm, thành viên phải chịu trả lãi và có thể phải bồi thường thiệt hại. Trên cơ sở nghĩa vụ đó, việc xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn có thể được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa công ty và thành viên, nếu không thỏa thuận được công ty có quyền kiện thành viên ra tòa [22. tr. 186]. Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định nghĩa vụ góp vốn và việc xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn. Tuy nhiên, vì Luật Doanh nghiệp 2014 quy định hình thức của vốn góp là tài sản và liệt kê các dạng tài sản vốn góp nên không có sự phân biệt việc xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn theo từng hình thức của vốn góp mà Luật Doanh nghiệp 2014 quy định việc xử lý vi phạm nghĩa vụ vốn góp theo từng loại hình công ty cụ thể. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên trở lên pháp luật đã có quy định trách nhiệm pháp lý và xử lý do
  • 43. 43 chậm góp vốn, nếu có thành viên không góp đủ số vốn đã cam kết nhưng vẫn trong thời hạn cam kết thì số cổ tức và lợi nhuận tương ứng với phần vốn đã góp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Trong trường hợp đã hết thời hạn mà vẫn chưa đủ thì thành viên chưa góp đủ vốn theo cam kết sẽ phải chịu trách nhiệm tương đương với số vốn chưa góp về các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác của công ty phát sinh trước khi đăng ký thay đổi thành viên. Điều 18, Nghị định 102/2010/NĐ-CP đã quy định cách thức xử lý vi phạm cam kết góp vốn của các thành viên góp vốn như sau: “1. Thành viên phải góp vốn đầy đủ, đúng tiến độ đã cam kết trong Danh sách thành viên. Nếu việc góp vốn được thực hiện nhiều hơn một lần, thời hạn góp vốn lần cuối của mỗi thành viên không vượt quá 36 tháng, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký bổ sung, thay đổi thành viên và mỗi lần góp vốn thành viên được cấp một giấy xác nhận số vốn đã góp của lần góp vốn đó. 3. Trong thời hạn chưa góp đủ số vốn theo cam kết, thành viên có số phiếu biểu quyết và được chia lợi tức tương ứng với tỷ lệ số vốn thực góp, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định khác. 4. Sau thời hạn cam kết góp lần cuối mà vẫn có thành viên chưa góp vốn đã cam kết góp, thành viên chưa góp vốn vào công ty theo cam kết đương nhiên không còn là thành viên của công ty và không có quyền chuyển nhượng quyền góp vốn đó cho người khác; số vốn chưa góp được xử lý theo quy định tại khoản 5 Điều này. 5. Trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày cam kết góp vốn lần cuối, số vốn chưa góp đủ được xử lý theo thứ tự ưu tiên như sau: a) Các thành viên còn lại nhận góp một phần hoặc toàn bộ số vốn chưa góp theo tỷ lệ số vốn đã góp vào công ty; b) Một hoặc một số thành viên nhận góp đủ số vốn chưa góp;
  • 44. 44 c) Huy động thêm người khác góp đủ số vốn chưa góp”. Đối với công ty cổ phần chỉ quy định việc xử lý đối với phần vốn chưa góp đủ và quy định trách nhiệm chung của các cổ đông sáng lập khi số cổ phần đăng ký góp của các cổ đông sáng lập chưa góp đủ thì các cổ đông sáng lập cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi giá trị cổ phần chưa góp đủ đó, mà chưa quy định việc xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn với cổ đông vi phạm. Điều 23, Nghị định 102/2010/NĐ-CP đã quy định rõ về cách thức xử lý vi phạm cam kết góp vốn của các cổ đông công ty cổ phần: “a) Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền phát hành tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp. Cổ đông sáng lập và cổ đông phổ thông tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. b) Trường hợp có cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ khi công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì thực hiện theo quy định sau đây: - Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổ đông của công ty và không được chuyển nhượng quyền mua cổ phần đó cho người khác; - Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết, nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số cổ phần đã thanh toán; không được quyền chuyển nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán cho người khác; - Trường hợp cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua, số cổ phần còn lại được xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 84 của Luật Doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày cuối cùng cổ đông phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua; đồng thời, công ty phải đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập.
  • 45. 45 c) Cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền kiểm tra kết quả góp vốn cổ phần theo yêu cầu của một hoặc nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 10% vốn điều lệ của công ty. Kết quả kiểm tra việc góp vốn cổ phần được sử dụng để lập sổ đăng ký cổ đông, lập danh sách cổ đông sáng lập, cấp cổ phiếu cho cổ đông và các hồ sơ giấy tờ cần thiết khác của công ty”. 1.2. Hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty Như đã phân tích ở trên, vấn đề cơ bản trong việc góp vốn thành lập công ty là chuyển quyền sở hữu tài sản giữa công ty và các thành viên sáng lập, theo đó, các tài sản góp vốn được chuyển từ thành viên sáng lập sang công ty và quyền lợi của công ty cũng được chuyển sang cho các thành viên đó tương ứng. Để công ty có vốn để hoạt động, đương nhiên các thành viên sáng lập phải thực hiện góp vốn vào công ty. Nhưng hành vi góp vốn không phải là một hành vi kinh tế thông thường mà còn có tính chất pháp lý rất phức tạp. Việc chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty cũng phải chịu áp lực của các quy chế pháp lý khác nhau diều tiết việc chuyển dịch từng loại tài sản. Do đó, pháp luật cần xây dựng một cơ chế pháp lý phù hợp để giải quyết quan hệ pháp lý này, đảm bảo cho quá trình chuyển quyền sở hũu tài sản góp vốn từ người góp vốn vào công ty được thuận lợi, tức là đảm bảo quyền lợi của các bên góp vốn cũng như hạn chế những vi phạm, đồng thời giải quyết những vi phạm và tranh chấp về góp vốn [30, tr. 32]. Để bảo vệ tốt lợi ích của công ty cũng như lợi ích của người thứ ba có liên quan với công ty, cần công nhận sự tồn tại độc lập của công ty với các thành viên. Được nhân cách hóa, công ty có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nghĩa là có năng lực hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Như một con người trừu tượng, công ty thực hiện các quyền và nghĩa vụ thông qua những con người cụ thể được bố trí vào các cơ quan của công ty, gọi là các cơ quan quản trị, điều hành và kiểm soát hoạt động của công ty.
  • 46. 46 Sau khi được thành lập, công ty có khối tài sản riêng, bao gồm các tài sản có riêng và các tài sản nợ riêng. Trong quan hệ giữa công ty và thành viên công ty, các tài sản của công ty không phải thuộc sở hữu chung của các thành viên công ty, công ty có tài sản riêng của mình, còn các thành viên khi góp vốn vào công ty thì được hưởng các quyền và được thụ trái từ việc góp vốn đó. Công ty được thành lập trên cơ sở góp vốn của các thành viên. Công ty được coi là một thực thể được pháp luật thừa nhận kể từ khi nó được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận [22, tr. 185]. Sau khi được thành lập, công ty trở thành một thực thể độc lập về mặt pháp lý và tài sản. Có thể khái quát tính độc lập của công ty trên một số điểm sau: - Công ty đuợc tiến hành hoạt động với tư cách là một chủ thể độc lập kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tức là kể từ thời điểm thành lập, công ty có năng lực pháp luật. - Công ty có năng lực hành vi thực. Năng lực hành vi của công ty được thực hiện thông qua hành động của những cơ quan quản lý công ty (gồm có Đại hội đồng cổ đông và các cổ đông, Hội đồng quản trị và các thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát và các thành viên Ban kiểm soát, Giám đốc và các chức vụ khác) và những người đại diện của công ty. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi trên được quy định chi tiết thành các quyền của công ty, gồm có: quyền tự chủ kinh doanh; quyền huy động vốn; quyền ký kết hợp đồng; quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu; quyền tuyển dụng lao động; quyền quản lý nội bộ, quản lý tài sản của mình; quyền từ chối cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định; quyền khiếu nại tố cáo và các nghiã vụ khác do pháp luật quy định [30, tr. 36]. Cùng với quyền lợi, pháp luật cũng quy định những nghĩa vụ sau đây cho công ty: hoạt động kinh doanh theo đúng nội dung đăng ký; thực hiện kế toán, kiểm toán; đăng ký mã số thuế và nộp thuế; đảm bảo quyền lợi cho
  • 47. 47 nguời lao động; bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do mình cung cấp; thực hiện chế độ thống kê và các nghĩa vụ khác do pháp luật quy định. Ngoài ra, tính độc lập và tư cách pháp nhân của công ty được thể hiện thông qua các yếu tố có tính “nhân thân” đặc trưng cho công ty như quốc tịch, tên gọi, trụ sở, uy tín thương hiệu. Khi đó cam kết góp vốn thành lập công ty là các thành viên đó tự ràng buộc mình vào các nghĩa vụ và quyền lợi nhất định từ việc góp vốn đó. Hệ quả pháp lý của việc góp vốn thành lập công ty đối với những người góp vốn có thể được xem xét dưới hai khía cạnh quyền lợi và nghĩa vụ. Bộ luật Dân sự Pháp tại Điều 1843 - 3 quy định người hội viên phải góp một số tiền vào công ty mà không đóng góp thì đương nhiên trở thành người mắc nợ đối với khoản lãi của số tiền đó kể từ ngày phải góp tiền và bồi thường thiệt hại, nếu có. Như vậy, khi đó thỏa thuận góp vốn thành lập công ty thì người góp vốn đó tự ràng buộc mình vào một nghĩa vụ đối với công ty. Nếu đến hạn mà người đó không thực hiện nghĩa vụ (đóng góp) thì đương nhiên trở thành người mắc nợ đối với công ty và phải chịu khoản lãi đối với khoản đóng góp kể từ ngày phải đóng góp, đồng thời phải bồi thường thiệt hại nếu có. Nếu xét ở khía cạnh là một nghĩa vụ, thì trước khi có hành vi góp vốn các thành viên đã phải đạt được sự thống nhất trong hợp đồng thành lập công ty, vì hợp đồng là nguồn gốc hay căn cứ phát sinh nghĩa vụ, do đó góp vốn cũng là nghĩa vụ căn bản của thành viên khi thành lập công ty. Khi cam kết hay thỏa thuận góp vốn thành lập công ty, thành viên đó tự ràng buộc mình trở thành người thụ trái hay con nợ của công ty. Khi người ta góp tài sản vào công ty thì tài sản đó trở thành đối tượng sở hữu của công ty – một thực thể pháp lý độc lập. Nếu thành viên không góp vốn hoặc góp vốn chậm thì công ty có quyền đòi. Với việc không thực hiện đúng nghĩa vụ góp vốn thành viên sẽ phải chịu những trách nhiệm pháp lý nhất định như phải trả lãi, phải bồi thường thiệt hại [17, tr. 61].
  • 48. 48 Nếu xét ở khía cạnh quyền lợi, khi góp vốn vào công ty thì thành viên góp vốn được sở hữu và được hưởng những quyền lợi từ hành vi góp vốn đó ở công ty. Khi người ta góp tài sản vào công ty, thì tài sản đó trở thành đối tượng sở hữu của công ty bởi hợp đồng thành lập công ty đó tạo ra một thực thể tách biệt hay một pháp nhân có sản nghiệp riêng. Mỗi thành viên của công ty có được từ hành vi góp vốn này một quyền lợi đối với công ty tương ứng với phần vốn góp của mình xét theo lẽ thông thường. Tuy nhiên, các quyền lợi và nghĩa vụ của thành viên còn phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn và số cổ phần mà mỗi thành viên đó nắm giữ trong công ty. Thành viên được hưởng các quyền từ việc góp vốn vào công ty như: quyền hưởng lợi tức từ hoạt động của công ty, quyền biểu quyết tương ứng với phần vốn góp, quyền tham gia quản lý công ty và thành viên chỉ chịu trách nhiệm đối với khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty, đồng thời thành viên chỉ được rút vốn trong điều kiện nhất định như mua bán, chuyển nhượng … Thành viên góp vốn vào công ty có các quyền chủ yếu bao gồm: - Được chia lợi nhuận tương ứng với phần vốn góp; - Biểu quyết tương ứng với phần vốn góp; - Tham gia quản lý công ty; - Định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách chuyển nhượng, tặng cho… - Được chia giá trị tài sản còn lại của công ty tương ứng với phần vốn góp khi công ty giải thể hoặc phá sản. Các quyền lợi nêu trên là động sản cho dù vốn góp có thể là bất động sản, bởi hành vi góp vốn đó làm cho tài sản trở thành đối tượng thuộc quyền sở hữu riêng của công ty. Quyền lợi chủ yếu của thành viên trong công ty đối nhân là những phần lợi được thể hiện bằng việc được chia lợi nhuận theo quy định tại hợp đồng thành lập công ty. Các quyền lợi trong công ty đối vốn cũng là các phần lợi
  • 49. 49 được thể hiện bằng việc được chia lợi nhuận và biểu quyết tương ứng với phần vốn góp. Việc chuyển nhượng các phần lợi này phải tuân thủ các quy định của pháp luật [17, tr. 52].
  • 50. 50 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 2.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty 2.1.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty Hiến pháp 1992 rằng công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong nước và ngoài nước, được bình đẳng với nhau trước pháp luật, có quyền hợp tác và cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh. Kế thừa các nguyên tắc đó, Hiến pháp 2014 khẳng định hơn nữa về quyền tự do kinh doanh - được xem như một quyền con người, quyền cơ bản của công dân mà chỉ có thể bị hàn chế bởi luật nhằm mục đích bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đạo đức và sức khỏe của cộng đồng. Như vậy pháp luật về góp vốn thành lập công ty có điều kiện để hoàn thiện hơn nữa. Pháp luật về góp vốn thành lập công ty bao gồm tổng thể những quy định về hợp đồng thành lập công ty, thỏa thuận góp vốn, các phương thức góp vốn, nghĩa vụ góp vốn, quyền lợi từ việc góp vốn… Những quy định này liên quan tới nhiều ngành luật. Các đạo luật như: Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại và nhiều đạo luật khác là cơ sở pháp lý cho hoạt động góp vốn thành lập công ty. Tuy nhiên Luật Doanh nghiệp có nhiệm vụ qui định trực tiếp. Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 3, khoản 4) định nghĩa:
  • 51. 51 “Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”. Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 4, khoản 4), cũng đưa ra định nghĩa tương tự. Xét về mặt biểu hiện bên ngoài, các định nghĩa này cho thấy góp vốn là việc người đầu tư đổi tài sản thuộc sở hữu của mình để trở thành chủ sở hữu của công ty. Luật Doanh nghiệp 2014 đã xem xét và định nghĩa lại như sau: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp mới hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập” (Điều 4, khoản 13). Vốn góp là khái niệm nhằm xác định một cách cụ thể tổng giá trị của những tài sản mà nhà đầu tư nào đó đóng góp vào công ty. Như vậy, vốn góp được định lượng bằng tiền. Luật Doanh nghiệp coi góp vốn là việc dịch chuyển tài sản từ người góp vốn sang cho công ty để trở thành chủ sở hữu của công ty. Đồng thời, Luật Doanh nghiệp cũng quy định cụ thể tài sản góp vốn bao gồm những loại nào. Tuy nhiên dùng phương pháp liệt kê có thể dẫn tới sự không đầy đủ. Do vậy, Luật Doanh nghiệp có quy định mở là ngoài các tài sản đã liệt kê thì các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty cũng được coi là tài sản góp vốn. Luật Doanh nghiệp chỉ đề cập đến việc góp vốn thành lập công ty bằng tài sản và liệt kê các loại tài sản. Còn tài sản là gì, các loại tài sản như thế nào và việc thực hiện góp vốn bằng tài sản, chuyển giao vốn góp như thế nào thì đòi hỏi phải có sự quy định về tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên có thể thấy các định nghĩa về góp vốn nói trên trong các đạo luật về doanh nghiệp được ban hành trong các thời kỳ khác nhau gần đây, khái niệm góp vốn có sự khác biệt. Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh
  • 52. 52 nghiệp 2005 xuất phát từ góc độ pháp lý để định nghĩa. Còn Luật Doanh nghiệp 2014 lại xuất phát từ giác độ kinh tế để định nghĩa. Việc định nghĩa khái niệm góp vốn dưới giác độ kinh tế không thuận tiện cho việc nhận biết các dấu hiệu pháp lý của việc góp vốn và cũng không cho thấy rõ quyền và nghĩa vụ cơ bản của người góp vốn cũng như người nhận vốn. Luật Doanh nghiệp 2014 chỉ ra tài sản có thể đem vào góp vốn bao gồm: “1. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng tiền Việt Nam. 2. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn” (Điều 35). 2.1.2. Những hạn chế của pháp luật hiện hành về góp vốn thành lập công ty Từ các nghiên cứu ở trên có thể thấy việc liệt kê các tài sản góp vốn tại Luật Doanh nghiệp 2014 là không thực tế và còn nhiều thiếu sót. Thứ nhất, định nghĩa về góp vốn không xuất phát từ nền tảng pháp lý mà xuêts phát từ nền tảng kinh tế. Do đó có thể dẫn đến việc không có giải pháp giải quyết thỏa đáng các tranh chấp pháp lý liên quan tới góp vốn. Thứ hai, định nghĩa tài sản góp vốn tại Điều 35 đi theo cách thức liệt kê nhưng quá thiếu thốn xét từ quan niệm về tài sản nói chung của các hệ thống pháp luật, không thấy sự liệt kê các hình thức góp vốn bằng vật, vật quyền hưởng dụng ngoài quyền sử dụng đất trong các qui định này. Thứ ba, đặc biệt các qui định về góp vốn không đề cập tới hình thức góp vốn bằng công sức và bằng tri thức. Đây là những khiếm khuyết lớn mà dự thảo trước khi trở thành Luật Doanh nghiệp 2014 dù đã được góp ý rất nhiều nhưng không tiếp thu. Các
  • 53. 53 khiếm khuyết này có thể có nguyên nhân từ Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam không xây dựng được nền tảng của các qui định về luật tư. Khác với pháp luật Việt Nam, Bộ luật Dân sự Pháp – công trình pháp điển hóa hiện đại đầu tiên trên thế giới – và các bộ luật dân sự khác của các quốc gia đã không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản. Song theo những đặc tính căn bản của Họ luật La Mã - Đức về giải thích các quy tắc pháp lý hay khái niệm pháp lý, người ta có thể hiểu được rằng, tài sản bao gồm các vật, các vật quyền, các quyền tài sản khác và các tố quyền nhằm đòi lại tài sản. Nó được chia thành hai loại là bất động sản bao gồm bất động sản do bản chất, bất động sản do mục đích sử dụng, và bất động sản do có đối tượng gắn liền với nó; và động sản bao gồm động sản do bản chất và động sản do luật định; ngoài ra còn phải kể đến bất động sản do luật định [17, tr. 21 - 23]. Dựa vào hình mẫu của Bộ luật Dân sự Pháp, Bộ luật Dân sự Quebec (Canada) xác định: “Tài sản, hoặc hữu hình hoặc vô hình, được chia thành bất động sản và động sản” (Điều 899). Căn cứ vào các quy định này, tài sản bao gồm bốn phần chính là: bất động sản hữu hình; động sản hữu hình; và bất động sản vô hình; động sản vô hình. Tài sản hữu hình là các vật có thực, còn tài sản vô hình liên quan đến các vật quyền. Những nhận thức trên của Họ luật La Mã – Đức không khác với nhận thức của Họ luật Anh – Mỹ. Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng, tài sản là các quyền giữa mọi người liên quan đến vật, hay nói cách khác bao gồm một hệ thống các quyền được thừa nhận về mặt pháp lý do ai đó thủ đắc trong mối liên hệ với những người khác mà liên quan tới vật. Để ngắn gọn hơn họ dùng hình ảnh “một tập hợp quyền” (a bundle of rights) cho tài sản, có nghĩa là tài sản gồm một tập hợp các quyền trên vật có hiệu lực chống lại những người khác. Tài sản là khái niệm động. Hiện nay có nhiều tranh luận về các dạng mới của động sản như giọng hát của ca sĩ, tế bào được tách ra từ các bộ phận cơ thể, thông tin di truyền, tính cách cá nhân, các sản phẩm trí tuệ … Nhìn từ góc độ khác, có thể thấy tài sản là công cụ của đời sống xã hội. Vậy khái niệm
  • 54. 54 tài sản không phải là một khái niệm thuần túy có tính chất học thuật mà là một khái niệm có tính mục đích rất cao. Khái niệm này phải đáp ứng các nhu cầu cần thiết của xã hội. Tài sản không thể được xem xét tách rời các giá trị xã hội. Khái niệm tài sản được thay đổi theo các giai đoạn lịch sử. Chẳng hạn, nô lệ được coi là tài sản trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, nhưng ngày nay các sản phầm của tư tưởng, của trí tuệ cũng được xem là tài sản. Đặc biệt, sở hữu trí tuệ hay tài sản trí tuệ đang là đặc trưng nổi trội của thời đại kinh tế hậu công nghiệp hay kinh tế tri thức [19, tr. 32 - 33]. Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, dường như chỉ có quyền sở hữu (mà theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 đã bao hàm cả quyền chiếm hữu) và quyền địa dịch được xem là các vật quyền tại đây. Tuy nhiên còn có thể thấy, mặc dù không công khai công nhận các vật quyền, một số vật quyền không thể thiếu được của đời sống xã hội như quyền thuê mướn dài hạn, quyền cầm cố, quyển thế chấp, quyền lưu cư vẫn được đề cập đến trong Bộ luật Dân sự. Các quy định tại các điều luật trên làm xáo trộn giữa các quyền trên bất động sản và động sản vô hình. Các vật quyền trên bất động sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sở hữu, quyền thuê mướn dài hạn, quyền địa dịch, quyền thế chấp … trong khi đó các động sản vô hình gồm có hợp đồng, chứng khoán, phần mềm máy tính, lao động, dịch vụ sử dụng (điện thoại, điện …), quyền tác giả, nhãn hiệu thương phẩm … Vì vậy, các quy định này ảnh hưởng lớn tới các quy định về góp vốn và điều khoản góp vốn trong hợp đồng thành lập công ty. Nhưng vấn đề đáng quan tâm hơn là việc không quy định các đặc tính và hậu quả của các hình thức góp vốn. Việc này sẽ dẫn tới việc không có quy tắc áp dụng cho tranh chấp, trong khi Việt Nam không chấp nhận các nguồn luật khác. Các quy định về góp vốn trong pháp luật Việt Nam còn chưa đề cập đến vấn đề góp vốn bằng tri thức, nhất là trong thời điểm nước ta đang bước sang giai đoạn hiện đại hóa, công nghiệp hóa như hiện nay.
  • 55. 55 Tóm lại , các hạn chế của việc góp vốn vào công ty có một phần quan trọng nằm ở các quy định về tài sản của pháp luật Việt Nam hiện nay. Việc không quy định cụ thể một số vật quyền gây hạn chế cho việc góp vốn bằng vật quyền, nhất là góp vốn bằng quyền hưởng dụng như đã phân tích ở Chương 1 của luận văn này. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam chưa đề cập đến góp vốn bằng tri thức và công sức là những hạn chế đáng kể trong bối cảnh nền kinh tế của nước ta hiện nay. Từ đó, nếu xét từ giá trị kinh tế, có thể nói tất cả các vật chất liệu tồn tại trong đời sống xã hội và các quyền mà có thể khai thác mang lại giá trị kinh tế hay có thể trị giá được bằng tiền đều có thể được coi là tài sản dùng để góp vốn [21, tr. 23]. Tuy nhiên, nếu không nghiên cứu các quy định về thực hiện việc góp vốn thì chúng ta không thể lột tả được thực trạng pháp luật về góp vốn thành lập công ty. 2.1.3. Quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất Mặc dù buộc phải thừa nhận sở hữu toàn dân về quyền sử dụng đất, thế nhưng quyền sử dụng đất là tài sản, là đối tượng góp vốn. Khi góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thành lập công ty, thì người sử dụng đất chấm dứt quyền sử dụng của mình, đồng thời công ty được xác lập quyền sử dụng đất theo giao dịch góp vốn. Thế nhưng, một trong những mâu thuẫn mang tính triệt tiêu giữa Luật đất đai và Luật doanh nghiệp đã tạo rào cản rất lớn đến môi trường kinh doanh, quyền tự do kinh doanh. Cụ thể: Điều 131 khoản 2 Luật đất đai quy định việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất chấm dứt trong các trường hợp sau đây: a) Hết thời hạn góp vốn bằng quyền sử dụng đất; b) Một bên hoặc các bên đề nghị theo thoả thuận trong hợp đồng góp vốn; trường hợp liên doanh với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài thì phải được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chấp thuận; c) Bị thu hồi đất theo quy định tại Điều 38 của Luật này;
  • 56. 56 d) Bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc doanh nghiệp liên doanh bị tuyên bố phá sản, giải thể; đ) Cá nhân tham gia hợp đồng góp vốn chết; bị tuyên bố mất tích; bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự; bị cấm hoạt động trong lĩnh vực hợp tác kinh doanh mà hợp đồng góp vốn phải do cá nhân đó thực hiện; e) Pháp nhân tham gia hợp đồng góp vốn bị chấm dứt hoạt động mà hợp đồng góp vốn phải do pháp nhân đó thực hiện. 3. Việc xóa đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất được quy định như sau: a) Người sử dụng đất chấm dứt góp vốn bằng quyền sử dụng đất quy định tại khoản 2 Điều này gửi đơn xin xoá đăng ký góp vốn đến nơi đã đăng ký góp vốn; b) Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn xin xoá đăng ký góp vốn, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thực hiện việc xoá đăng ký góp vốn trong hồ sơ địa chính và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp cần thu hồi hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi chấm dứt góp vốn thì văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi hồ sơ đến cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục thu hồi hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Với quy định này, Luật đất đai chỉ cho phép góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong một thời hạn. Về bản chất pháp lý chỉ là quan hệ thuê đất và tiền thuê trong thời hạn đó là tài sản góp vốn – một mâu thuẫn triệt tiêu, thể hiện trình độ lập pháp hết sức yếu kém. Đây không chỉ là cách nhận định trên giấy của tác giả mà thực tiễn áp dụng pháp luật đã diễn ra, có thể chỉ ra vụ việc điển hình do Sơ tài nguyên, môi trường và nhà đất Hà Nội thực hiện đối với Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển Thương mại Đại An. Khi công ty này thực hiện việc đăng ký sang tên tài sản góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thì ngày 25/3/2014, sở tài nguyên ban hành văn bản số 358/VPĐKNĐ-ĐKBĐ về việc hoàn thiện hồ sơ đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.... Theo đó, yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ. Cụ thể, yêu cầu áp
  • 57. 57 dụng Điều 728 Bộ luật Dân sự và luật đất đai để sửa đổi hợp đồng, bổ sung điều khoản: "thời hạn góp vốn"; thay thế cụm từ "...đăng ký sang tên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở" bằng cụm từ "...đăng ký góp vốn..". Đây là một trong những sai lầm rất lớn, bởi lẽ, Doanh nghiệp thực hiện việc góp vốn theo Luật Doanh nghiệp. Trình tự thủ tục góp vốn được thực hiện đúng quy định của Luật Doanh nghiệp. Cụ thể: Điều 29 Luật Doanh nghiệp quy định: "... cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định sau đây: a) Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền". Như vậy, nội dung hợp đồng sử dụng cụm từ "đăng ký sang tên quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở" là hoàn toàn hợp pháp và thực hiện thủ tục đăng ký sang tên tài sản góp vốn vào Công ty là đúng quy định của pháp luật. 2.2. Thực trạng các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty 2.2.1. Các qui định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty Như trong Chương 1 đã nêu hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty. Các đạo luật về doanh nghiệp có một số qui định liên quan. Bộ luật Dân sự với vai trò nền tảng có các qui định mà có thể rút ra giải pháp giải quyết tranh chấp. Điều 36, Luật Doanh nghiệp 2014 qui định: “1. Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn cho công ty theo quy định sau đây: a) Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
  • 58. 58 Việc chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ; b) Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản. Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và địa chỉ trụ sở chính của công ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số quyết định thành lập hoặc đăng ký của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỷ lệ của tổng giá trị tài sản đó trong vốn điều lệ của công ty; ngày giao nhận; chữ ký của người góp vốn hoặc đại diện theo ủy quyền của người góp vốn và người đại diện theo pháp luật của công ty; c) Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty. 2. Tài sản được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp. 3. Thanh toán mọi hoạt động mua, bán, chuyển nhượng cổ phần và phần vốn góp và nhận cổ tức của nhà đầu tư nước ngoài đều phải được thực hiện thông qua tài khoản vốn của nhà đầu tư đó mở tại ngân hàng ở Việt Nam, trừ trường hợp thanh toán bằng tài sản”. Bên cạnh các qui định này Luật Doanh nghiệp 2014 có các qui định về nghĩa vụ góp vốn khi thành viên công ty đã cam kết, quyền lợi mà thành viên góp vốn được hưởng từ việc góp vốn thành lập công ty, và trách nhiệm của thành viên khi công ty bị phá sản. Các hậu quả pháp lý này có sự khác nhau ít nhiều liên quan tới mỗi hình thức công ty mà người góp vốn thành lập. Khi đã cam kết góp vốn thành viên phải thi hành nghĩa vụ đã cam kết bởi cam kết góp vốn là một hành vi pháp lý. Việc vi phạm nghĩa vụ góp vốn đã cam kết phải chịu trách nhiệm theo các qui định của luật nghĩa vụ. Việc góp vốn đem đến cho người góp vốn các quyền lợi nhất định như: được chia lợi nhuận từ công ty, được tham gia quản trị công ty theo thỏa thuận hay luật định, được
  • 59. 59 mua cổ phần mới chào bán theo tỷ lệ cổ phần nắm giữ (nếu là công ty cổ phần), được chia phần tài sản còn lại khi công ty bị phá sản hay giải thể, và có các quyền khởi kiện liên quan. Việc góp vốn khiến cho thành viên công ty phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty theo chế độ trách nhiệm được định ra đối với từng loại hình công ty. Với các hậu quả pháp lý này, pháp luật Việt Nam có dự liệu ở các văn bản pháp luật khác nhau. 2.2.2. Những hạn chế của các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của góp vốn thành lập công ty Trước hết, về tổng quát, có thể nhận thấy có các hạn chế sau liên quan tới các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của việc góp vốn thành lập công ty: Thứ nhất, pháp luật Việt Nam chưa dự liệu được hình thức góp vốn bằng công sức và bằng tri thức, do đó chưa dự liệu được các hậu quả pháp lý liên quan. Thực tế có sự góp vốn như vậy Ví dụ góp vốn bằng dịch vụ thị trường thực chất là góp vốn bằng công sức; góp vốn bằng nhận biết các đặc tính của vật thực chất là góp vốn bằng tri thức. Thứ hai, Luật Doanh nghiệp 1999, 2005 và 2014 dường như được xây dựng tách bạch khỏi Bộ luật Dân sự 1995, 2005 và 2015 (sắp tới), do đó không có đường kết nối giữa các đạo luật nay. Vì vậy không thấy yêu cầu tìm kiếm giải pháp giải quyết các tranh chấp liên quan tới nghĩa vụ góp vốn. Thứ ba, quyền tự do khởi kiện của người góp vốn không được dẫn chiếu sang Bộ luật Tố tụng Dân sự khiến cho người góp vốn khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi liên quan tới việc góp vốn của mình. Việc xây dựng pháp luật thiếu một tư duy hệ thống, đặc biệt trong xây dựng pháp luật về công ty còn giằng co giữa các vấn đề “mở” hoặc “đóng” trong chính sách đối với công ty nói chung và sự phát triển kinh tế tư nhân nói riêng nên nhiều khi tạo ra sự mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật. Hiện nay, chúng ta có quá nhiều luật chuyên ngành và các Luật này
  • 60. 60 thường chồng chéo lên nhau. Để đồng bộ thì bản thân Luật Doanh nghiệp không thể sửa đổi một mình được mà các luật chuyên ngành khác cũng phải sửa đổi cho phù hợp với những tiêu chí cơ bản của luật doanh nghiệp, có như vậy khi Luật Doanh nghiệp đi vào thực tế mới phát huy được hiệu quả của nó [14, tr. 55]. Công ty từ khi thành lập đã không có sự thỏa thuận rõ ràng về mức góp vốn và cách thức phân chia lợi nhuận, vì vậy hậu quả là khi xảy ra tranh chấp các thành viên góp vốn rất khó có đủ chứng cứ, cơ sở pháp lý để bảo vệ mình trước nội bộ doanh nghiệp hoặc khi tranh chấp tại các cơ quan tố tụng. Một trong các nhóm nguyên nhân là thành viên, cổ đông lập trong các Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần đến từ quan hệ gia đình, họ hàng, bạn bè thân thiết. Một nguyên nhân khác do tập quán văn hóa Á Đông, nên các loại hình doanh nghiệp này ngay từ khi thành lập đã không có sự thỏa thuận rõ ràng về: cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ của các thành viên, mức góp vốn và cách thức phân chia lợi nhuận, cơ chế kiểm soát hoạt động sản xuất- kinh doanh. Vì vậy mà luôn tiềm ẩn những nguy cơ tranh chấp là rất lớn và các cơ quan tài phán cũng không có đủ cơ sở pháp lý để xem xét nhằm bảo đảm quyền lợi của các bên, làm cho tranh chấp xung đột kéo dài cản trở sự phát triển của doanh nghiệp [14, tr. 56]. Bộ luật Dân sự 2005 cũng đã có quy định chi tiết trong trường hợp góp vốn bằng tài sản để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Trong đó, đối với trường hợp góp vốn không phải bằng tiền, vàng hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi thì phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá.
  • 61. 61 Tuy nhiên, với quy định như trên, nếu tài sản góp vốn được định giá bởi các cổ đông thì sẽ dẫn đến khả năng các cổ đông cùng nhau định giá tài sản không sát với giá trị thị trường và cùng nhau chấp thuận giá trị tài sản không sát giá trị thị trường đó. Hậu quả gây ra là thiệt hại cho những cổ đông không biết, cổ đông đến sau và thất thu thuế Nhà nước. Vì vậy, việc định giá tài sản cần thiết phải được xác định giá trị bởi tổ chức thẩm định giá độc lập đối với tài sản góp vốn, qua đó tránh việc thất thu thuế cho Nhà nước cũng như giúp bảo vệ cổ đông nhỏ lẻ trên thị trường [14, tr. 51]. Theo Điều 6, Nghị định 102/2010/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Doanh nghiệp quy định thời hạn góp vốn của cổ đông sáng lập và các cổ đông phổ thông khác đã đăng ký mua trong công ty cổ phần là 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trong khi thời hạn góp vốn đối với thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn lại là trong vòng 36 tháng kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Việc quy định thời hạn góp vốn quá dài như trên dẫn đến việc nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn không trung thực trong việc góp vốn bằng cách "khai khống", "khai ảo" vốn điều lệ, hoặc lợi dụng kẽ hở này của pháp luật để tham gia các dự án, giao dịch có giá trị lớn, gây hậu quả nghiêm trọng, làm tổn thương nền kinh tế trên bước đường hội nhập. Hậu quả của việc khai không vốn đăng ký, không góp đủ, đúng hạn, là các doanh nghiệp này đã tạo ra một nguồn lực vốn “ảo” cho xã hội, cũng như tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các đối tác, bạn hàng, ngân hàng… Vì vốn góp (vốn điều lệ thể hiện trên Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh) là giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp với những thiệt hại phát sinh trong suốt quá trình kinh doanh. Giả sử có tranh chấp xảy ra thì với những quy định hiện hành, doanh nghiệp cũng không biết sợ, trong khi cơ quan quản lý lại thiếu chế tài xử phạt vi phạm hành chính do chưa được ban hành [33].
  • 62. 62 Vì vậy, cần hạn chế và rút ngắn thời hạn góp vốn của các công ty, đồng thời có cơ chế kiểm soát việc thực hiện các cam kết góp vốn một các chặt chẽ sẽ là tiền đề tốt hạn chế những rủi ro trong sự vận hành chung của nền kinh tế.
  • 63. 63 Chƣơng 3 ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 3.1. Các định hƣớng hoàn thiện Khiếm khuyết của pháp luật về góp vốn và hậu quả pháp lý của hàn vi góp vốn thành lập công ty là một trong những yếu tố có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của quản lý nhà nước và phát triển xã hội. Bởi lẽ, nhà nước thực thi các chính sách thông qua việc ban hành và thực thi pháp luật. Thực tế cho thấy, mọi chủ trương chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ được thực hiện khi nó được chuyển hóa thành luật. Pháp luật là công cụ để nhà nước quản lý xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển. Để xác định các định hướng hoàn thiện pháp luật một cách đúng đắn đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, những người quyết định chính sách cần phân tích một cách cẩn trọng chính xác các điều kiện kinh tế xã hội, truyền thống lịch sử văn hóa, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, chủ trương chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam, cần xác định đúng mục tiêu phát triển trên cơ sở một chủ thuyết phát triển đúng đắn đảm bảo tính lý luận chặt chẽ, cần hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của người dân. Việc xác định các định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện nay về việc chuyển đổi hình thức công ty cũng cần phải đáp ứng các yêu cầu này. Về cơ sở kinh tế - xã hội Việt Nam, nguồn gốc là một nước nông nghiệp. Nghề nông có vị trị đặc biệt quan trọng vì lúa gạo là thực phẩm chính nuôi sống những người dân. Vì vậy nghề nông được trọng hơn nghề thương. Các sử gia mô tả toàn cảnh xã hội Việt Nam thật vắn tắt như sau: Việt Nam là một xứ nông nghiệp, hàng nghìn năm bưng bít với thế giới bên ngoài. Từ lưỡi cày bằng đá nay chuyển thành bằng gang, những người dân quê “dĩ nông vi bản” trong một thời gian dài đã không thay đổi đáng kể phương thức canh tác của tổ tiên. Vì lấy nông nghiệp làm nghề gốc, thủ công
  • 64. 64 nghiệp và thương mại kém chỉ xuất hiện như nghề nghiệp bổ sung, những làng nghề về cơ bản vấn được tổ chức là làng nông nghiệp. Thương mại ở Việt Nam chủ yếu vẫn diễn ra trên các chợ, người buôn vốn liếng eo xèo “buôn thúng bán mẹt”, tổ chức sơ sài, nếu có hùn vốn cũng mang tính nhất thời [31, tr. 200]. Tuy nhiên, gần ba thập niên trở lại đây Việt Nam đã có những bước phát triển đáng khích lệ. Ngày 18 tháng 12 năm 1986, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng đường lối đổi mới với ba trụ cột: i) chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường; ii) phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan trọng; iii) chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Kể từ đó Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nền kinh tế Việt Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, liên tục trong nhiều năm. Ngày 01 tháng 01 năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chứ c Thương ma ̣i Thế giới. Sự kiện này thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, rộng hơn vào kinh tế thế giới. Cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang mở ra. Cùng với việc xây dựng môi trường pháp lý cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình thành. Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 là một quyết tâm của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế… để tạo ra một thể chế năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
  • 65. 65 Trong việc xây dựng môi trường pháp lý cho kinh doanh, việc ban hành Luật Doanh nghiệp 2005 là một sự nỗ lực đáng ghi nhận. Đạo luật này đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các doanh nghiệp dân doanh, và mở rộng quyền tự do kinh doanh. Như vậy từ các nghiên cứu tóm tắt về cơ sở kinh tế- xã hội nêu trên, có thể thấy: (1) Nếu xét trên bình diện thương mại, thì nền tảng kinh tế- xã hội Việt Nam ở mức độ rất thấp để phát triển thương mại; (2) Đảng và nhà nước rất quyết tâm phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; (3) thương mại đang dần chiếm vị trí quan trọng trong xã hội; (4) quyền tự do kinh doanh và môi trường cạnh tranh đang dần phát triển và cần sự kiểm soát của Nhà nước. Về truyền thống lịch sử, văn hóa Các bậc tiền nhân người Việt đã nhận thức không sai rằng, không kinh doanh thì không thể trở nên giàu có. Nhưng thực tế cho thấy, họ không quan tâm nhiều đến phương thức tổ chức kinh doanh, quy mô kinh doanh, nên khi nói đến nhận thức của người Việt về công ty, có một số tác giả đưa ra dẫn chứng rằng, sau thế chiến thế giới thứ hai việc thành lập công ty thương mại ở Việt Nam là tự do, đồng thời đưa ra nhận định: Người Việt Nam lúc đó, chưa nhận thấy rằng công ty vô danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, là những lợi khí vô song phải sử dụng nếu muốn nắm được thế thượng phong trong trường kinh tế [32, tr. 3]. Thực tế cho thấy, pháp luật về công ty được du nhập vào Việt Nam từ khi người Pháp và người Tây Ban Nha được phép kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở Hòa ước năm Nhâm Tuất gồm 12 khoản do nhà Nguyễn, Pháp và Tây Ban Nha ký ngày 9 tháng 5 năm 1862 tại Sài Gòn. Có nhận định rằng: Theo chân thực dân, các mô hình công ty cùng dần du nhập vào Việt Nam. Bộ luật thương mại (1807), Luật công ty trách nhiệm hữu hạn (1925) được các Tòa án Nam kỳ và Tòa án Pháp ở các thành phố thuộc địa áp dụng trực tiếp. Dân luật Bắc kỳ 1931 và Dân luật Trung Kỳ 1936, 1938 cũng lần lượt dịch các mô hình công ty theo luật của Mẫu quốc ra tiếng Việt [33, tr 242].
  • 66. 66 Với bản sắc văn hóa đang được gìn giữ, người Việt có cái lề thói riêng trong làm ăn, trong giao dịch. Hơn nữa, ảnh hưởng lớn bởi Nho giáo, nên có thể pháp luật có những quy định cụ thể cho một quan hệ nào đó, nhưng việc áp dụng những quy định đó vẫn còn bị ảnh hưởng bởi các quan niệm về đạo đức. Phép vua thua lệ làng vẫn không phải là điều hiếm thấy ở Việt Nam ngày nay. Ngoài ra sự ảnh hưởng của tổ chức xã hội trên nền tảng đại gia đình, gia trưởng vẫn chưa bị xóa bỏ hoàn toàn. Do vậy quan hệ thân thiện trong công ty vẫn được đề cao. Về hội nhập kinh tế quốc tế Thực hiện đường lối đổi mới mới kinh tế - xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã thi hành đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế. Cùng với việc nhận thức đúng đắn về xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đang phát triển mạnh mẽ với sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng triển khai chính sách chủ động và tích cực hội nhập kinh tế của mình với kinh tế khu vực và toàn thế giới. Theo đó, Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); trở thành thành viên sáng lập của Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế WTO vào tháng 01 năm 2007. Bằng việc gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO) chúng ta đã chính thức hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia, làm cho quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế; toàn cầu hóa kinh tế cũng làm tăng sức ép cạnh tranh giữa các quốc gia trong mọi lĩnh vực. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội cho các nước nước đang phát triển đấu tranh bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế.
  • 67. 67 Hiện tại, với tiến trình hội nhập, chúng ta đang phải thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó có cam kết về việc thay đổi các quy định của luật thực định. Luật doanh nghiệp 2005 cũng là vấn đề được quan tâm khi gia nhập. Về việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), thông qua dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020… tán thành những nội dung cơ bản về đánh giá tình hình 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X (2006 - 2010) và phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2011 - 2015 nêu trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X trình Đại hội XI. Về mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011-2015, Nghị quyết có đặt ra là: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân …Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân. Các cơ sở nêu trên cho phép xác định các định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện nay về góp vốn và hậu quả pháp lý của hàn vi góp vốn thành lập công ty như sau: Định hướng thứ nhất: xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi hình thức công ty gắn với vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Hiểu một cách đơn giản, nhà nước pháp quyền có hạt nhân lý luận căn bản là nhà nước bị ràng buộc bởi pháp luật hay quốc gia thượng pháp (có nghĩa là nhà nước thượng tôn pháp luật). Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được cụ thể hoá trong Hiến pháp “Nhà nước cộng hoà XHCN Việt Nam là NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức”. Tuy nhiên cần
  • 68. 68 hiểu rằng muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thì trước hết phải xây dựng được nền tảng dân chủ và chế độ quản lý bằng pháp luật, ở đó được thực thi nguyên tắc công dân được làm những gì mà pháp luật không cấm. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền có thể làm hạn chế hay xóa tan đi sự coi trọng đức trị trong đời sống xã hội. Có như thế pháp luật mới trở thành một công cụ hữu hiệu cho việc thúc đẩy phát triển thương mại. Định hướng thứ hai: Xác định và giới hạn một cách đúng đắn các quyền lợi tư Cho đến nay, chúng ta vẫn quan tâm nhiều đến việc nghiên cứu các biện pháp can thiệp phức tạp của Nhà nước đến quan hệ hợp đồng mà không hề chú ý một cách tương xứng đến những bất cập hoặc hiệu quả của các biện pháp can thiệp đó. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nếu không tạo ra được khuôn khổ cơ bản của một nền kinh tế thị trường mà trong đó hệ thống pháp luật bảo vệ và thi hành tốt các quyền về tài sản và hợp đồng, thì có lẽ sự tụt hậu và nghèo đói vẫn luôn luôn đeo đuổi, bởi lẽ việc thực thi các quyền tài sản và hợp đồng chính là những phương tiện điều phối và tối ưu hóa hoạt động kinh tế. Mỗi người, trong quá trình sống, luôn luôn có khuynh hướng tìm kiếm lợi ích vật chất một cách tối đa. Công ty là một trong những phương tiện để họ tối đa hóa lợi ích. Định hướng thứ ba: Đảm bảo quyền tự do ý chí Tự do ý chí vốn là nền tảng hay nguyên tắc căn bản của hợp đồng. Đây là một học thuyết có hạt nhân lý luận là con người chỉ bị ràng buộc bởi ý chí của mình và có quyền định đoạt những gì thuộc về mình một cách phù hợp. Tuy nhiên, trong xã hội có pháp luật, khi thực hiện quyền tự do, chủ thể không được xâm phạm đến quyền tự do, lợi ích của người khác, không được xâm phạm đến lợi ích công cộng. BLDS 2005 đã hiện thực hóa quan điểm này như sau: Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; Trong quan hệ dân sự,
  • 69. 69 các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào; Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng. Tuy nhiên các quy định này cần phải đảm bảo tính minh bạch. Cách đây hơn hai nghìn năm Hàn Phi, một đại diện tiêu biểu nhất theo chủ thuyết Pháp trị, có quan niệm “pháp luật minh bạch mới giúp ích cho sự thực hiện một nền thịnh trị” [34, tr. 73]. Thực tế cho thấy, không có đảm bảo nào cho rằng mọi sự can thiệp của Nhà nước đến quan hệ hợp đồng sẽ mang lại lợi ích cho xã hội và cho các chủ thể, do đó, cần phải chuẩn hoá sự can thiệp một cách minh bạch để đảm bảo tối đa quyền tự do ý chí của chủ thể nhưng vẫn bảo đảm được mục tiêu điều chỉnh. 3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn thành lập công ty Kiến nghị thứ nhất: Đồng bộ hóa hệ thống văn bản pháp luật. Một thực tế, hoạt động của công ty chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Do đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của công ty không chỉ là hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp mà còn bao gồm cả pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, pháp luật thương mại, pháp luật đầu tư, pháp luật lao động ... Tức là việc hoàn thiện phải mang tính hệ thống và tính thống nhất trong cả hệ thống pháp luật. Một số yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là: Thứ nhất, hoàn thiện mang tính hệ thống và tính thống nhất trong cả hệ thống pháp luật; tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, khắc phục những mâu thuẫn trong các quy định của pháp luật. Thực tiễn cho thấy, nhiều quy định đã không phản ánh được thực tế, không phù hợp, dẫn đến việc hoặc không áp dụng được trên thực tế, các văn bản luật còn chồng chéo, nhiều quy định có sức sống quá ngắn, nhanh chóng trở nên lạc hậu với đòi hỏi của cuộc sống, gây cản trở tới sự phát triển của doanh nghiệp.
  • 70. 70 Thứ hai, loại bỏ quan niệm về ngành luật kinh tế độc lập và xem công ty là một chế định quan trọng của Luật thương mại. Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, khó có thể làm rõ được ranh giới giữa ngành luật kinh tế và ngành luật thương mại. Loại bỏ quan niệm một ngành luật kinh tế độc lập và xem công ty là một chế định thuộc luật Thương mại là điều hết sức cần thiết. Thứ ba, hiện nay hệ thống văn bản còn thiếu nhiều quy định điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp, gây lúng túng cho cả doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Vì vậy tiếp tục nghiên cứu những hạn chế của luật doanh nghiệp. Đảm bảo sự đầy đủ mang tính hệ thống và tính đồng bộ của các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp là một đòi hỏi cấp thiết trong điều kiện hiện nay. Kiến nghị thứ hai: Cần đƣa ra khái niệm về tài sản theo một hƣớng mới trong quy định của các văn bản pháp luật. Việc định nghĩa tài sản như Điều 163 của Bộ luật Dân sự 2005 tạo nên sự cứng nhắc trong khái niệm về tài sản. Trong khi tài sản là một khái niệm động và không đơn thuần có ý nghĩa pháp lý mà còn có cả ý nghĩa lớn về kinh tế. Nó luôn động bởi giá trị kinh tế của nó. Do đó, việc ấn định cho tài sản một định nghĩa cứng nhắc là một thiếu sót và không đầy đủ. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết cần phải chỉ ra rằng tài sản bao gồm vật và quyền có giá trị kinh tế và khả năng đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Còn những gì là tài sản phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của xã hội. Cách tiếp cận này thực chất giúp cho có một sự linh động đáng kể trong việc giải quyết các tranh chấp về góp vốn nói riêng và các tranh chấp về tài sản nói chung. Kiến nghị thứ ba: Cần đƣa ra một khái niệm đầy đủ về tiền. Theo quy định của Bộ luật Dân sự, thì tiền cũng là một loại tài sản. Tuy nhiên, trong Bộ luật dân sự lại không có quy định cụ thể thế nào là tiền. Việc thiếu vắng quy định này dẫn tới cách hiểu không thống nhất về bản chất pháp lý của tiền, có sự lẫn lộn giữa góc độ kinh tế và góc độ pháp lý của tiền.
  • 71. 71 Trong việc góp vốn thành lập công ty với hình thức vốn góp là tiền nếu không có sự quy định cụ thể thì có thể dẫn đến việc hiểu khác nhau. Vì bản thân tiền cũng là vật, nhưng được tách ra khỏi vật đứng độc lập như một tài sản riêng biệt, có đặc điểm pháp lý khác với vật. Có thể liệt kê một số khác biệt giữa tiền và vật như sau: Thứ nhất, đối với vật, mục đích của con người là khai thác công dụng hữu ích từ chính vật. Tuy nhiên, đối với tiền, mục đích của chúng ta không phải khai thác công dụng hữu ích từ bản chất tự nhiên của nó (tiền giấy có thể viết chữ vào tuy nhiên đây không phải là mục đích sử dụng). Chúng ta sử dụng tiền với ba chức năng chính: công cụ thanh toán, công cụ tích lũy, công cụ định giá tài sản khác. Thứ hai, các vật thông thường có thể do rất nhiều chủ thể khác nhau tạo ra, còn tiền do Nhà nước độc quyền phát hành. Việc phát hành tiền được coi là một trong những biểu hiện của chủ quyền quốc gia. Thứ ba, vật được xác định số lượng bằng những đơn vị đo lường thông dụng, còn tiền lại được xác định số lượng thông qua mệnh giá của nó. Như vậy, Bộ luật Dân sự cần có quy định cụ thể về khái niệm tiền. Việc đưa ra khái niệm về tiền nhằm thống nhất về bản chất pháp lý của tiền từ đó giúp cho việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền trong đó có hoạt động góp vốn thành lập công ty với hình thức vốn góp là tiền được thực hiện thuận lợi hơn. Kiến nghị thứ tư: Hoàn thiện quy định về tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ là tài sản vô hình, đã và đang khẳng định vai trò thiết yếu của nó trong thời kỳ con người đang bước vào nền kinh tế tri thức và văn minh tri thức. Đối với công ty với tư cách là một tổ chức kinh doanh thì tài sản là quyền sở hữu trí tuệ ngày càng quan trọng, có khi chiếm phần đáng kể giá trị doanh nghiệp. Ngày nay, nhiều công ty phải đầu tư để nghiên cứu
  • 72. 72 hoặc mua quyền sở hữu trí tuệ. Do vậy, trong góp vốn thành lập công ty quyền sở hữu trí tuệ đang ngày càng trở thành hình thức vốn góp quan trọng. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ phải mang tính hệ thống và tính thống nhất; cần phải quy định thêm những vấn đề chưa được pháp luật điều chỉnh; các quy định phải rõ ràng, cụ thể; các quy định phải tương thích với các công ước quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ mà chúng ta đã và sẽ là thành viên [25, tr. 71]. Những giải pháp chủ yếu để hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam hiện nay gồm: Thứ nhất, Rà soát các văn bản pháp luật hiện hành về sở hữu trí tuệ. Trên cơ sở đó, xem xét để loại bỏ, sửa đổi, bổ sung quy định nào, văn bản nào. Thứ hai, cần có một văn bản hướng dẫn quy định về phần tài sản góp vốn, và quy định chi tiết những loại tài sản nào được gọi là tài sản góp vốn đồng thời tránh sự đối lập chồng chéo đối với cách quy định tài sản tại Bộ luật dân sự năm 2005 và Luật sở hữu trí tuệ. Thứ ba, về phần định giá vốn góp quyền sở hữu trí tuệ, trong điều luật chưa quy định về vấn đề là khi công ty phá sản, nếu tài sản định giá sai thì lúc này quyền lợi của các chủ nợ sẽ giải quyết như thế nào và đồng nghĩa với việc này thì ai sẽ là người đứng ra chịu về phần định giá sai này? Vì vậy, luật doanh nghiệp cần phải dự liệu thêm trường hợp này để cho các cổ đông, thành viên, tổ chức định giá và cả chủ nợ biết được quyền và lợi ích của mình sẽ được thực hiện như thế nào. Ngoài ra về phần định giá tài sản đối với những tài sản vô hình này cũng cần được pháp luật cần quy định cụ thể những đối tượng nào có thể định giá được đối với những loại tài sản này. Vì những loại tài sản này nó đòi hỏi trình độ chuyên môn cao để có thể định giá một cách chính xác tránh tình trạng làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các bên. Kiến nghị thứ năm: Quan niệm lại về sản nghiệp thƣơng mại và bổ sung các quy định về chuyển nhƣợng sản nghiệp thƣơng mại.
  • 73. 73 Góp vốn bằng sản nghiệp thương mại là một hình thức góp vốn quan trọng. Do sản nghiệp thương mại là một động sản vô hình mà trong đó bao gồm rất nhiều yếu tố, nên cần có một định nghĩa tương đối đầy đủ để phân biệt nó với bản thân doanh nghiệp sử dụng nó. Việc định giá sản nghiệp thương mại khá phức tạp, nên cần sử dụng cả cách thưc định nghĩa mô tả các đặc trưng chủ yếu và cả cách thức liệt kê. Luật Thương mại 1997 định nghĩa: “Sản nghiệp thương mại là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp của thương nhân, phục vụ cho hoạt động thương mại như trụ sở, cửa hàng, kho tàng, trang thiết bị, hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ” (Điều 5). Mặc dù định nghĩa về sản nghiệp thương mại là đã từng có, nhưng các quy tắc về chuyển nhượng, cho thuê hay cầm cố, thế chấp sản nghiệp thương mại chưa bao giờ được pháp luật Việt Nam thiết lập. Tuy nhiên, định nghĩa trên chưa làm rõ được các yếu tố quan trọng nhất của sản nghiệp thương mại. Các yếu tố đó không phải là các yếu tố hữu hình mà là các yếu tố vô hình trong sản nghiệp thương mại. Chỉ khi xác định được rõ sản nghiệp thương mại, người ta mới có thể thiết lập các quy tắc cụ thể về thuê hay chuyển nhượng sản nghiệp thương mại. Là một tài sản hết sức nhiều đặc thù, do đó việc cho thuê hay bán sản nghiệp thương mại cần có một hệ thống các quy tắc riêng khác với hệ thống quy tắc áp dụng đối với thuê mướn hay các tài sản khác. Việc không quy định hay quy định không đầy đủ các hành vi này gây ảnh hưởng rất lớn tới chuyển nhượng sản nghiệp thương mại nói chung và hình thức góp vốn bằng sản nghiệp thương mại nói riêng. Kiến nghị thứ sáu: Mở rộng hình thức góp vốn. Hiện nay, Luật Doanh nghiệp 2014 chỉ quy định góp vốn bằng tài sản và liệt kê các loại tài sản góp vốn. Và sự liệt kê không thể tránh khỏi không đầy đủ nên quy định này còn mở ra một khoảng rộng cho các bên thỏa thuận những loại tài sản khác được góp vốn và ghi trong Điều lệ công ty. Tuy nhiên
  • 74. 74 quy định trên của Luật Doanh nghiệp đã bó hẹp hình thức của vốn góp, nó đã bỏ qua góp vốn bằng tri thức và góp vốn bằng công sức. Góp vốn bằng tri thức trên thực tế đã diễn ra, không hiếm trường hợp một người có tiền hợp tác với một người có tri thức để thành lập công ty cùng kinh doanh. Vì phần vốn góp bằng tri thức rất khó định giá nên giá trị phần vốn góp sẽ do hai bên thỏa thuận. Trong nhiều trường hợp tri thức đem góp vốn rất được coi trọng, nhưng vì chưa có cơ sở pháp lý nên nếu xảy ra tranh chấp thì quyền của người góp vốn bằng tri thức khó được đảm bảo. Đồng thời, như đã phân tích ở trên, góp vốn bằng tri thức thì tri thức không thể tách ra khỏi cơ thể người góp vốn nên nó đòi hỏi sự mẫn cán, trung thực của người góp vốn đối với công ty. Do vậy, đòi hỏi pháp luật phải có quy định cụ thể về góp vốn bằng tri thức. Cũng như vậy, góp vốn bằng công sức đã diễn ra trên thực tế và đòi hỏi phải có sự quy định của pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động góp vốn với hình thức đó. Việc mở rộng hình thức góp vốn sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các chủ thể góp vốn thành lập công ty và đảm bảo quyền lợi của các bên trong quan hệ góp vốn này. Kiến nghị thứ bảy: Bảo đảm quyền tự do khởi kiện và bảo đảm các giải pháp giải quyết tranh chấp liên quan tới nghĩa vụ góp vón thành lập công ty. Như trên đã phân tích sự hạn chế trong vấn đề này gây khó khăn không nhỏ cho người đầu tư kinh doanh. Vì vậy, trong Luật Doanh nghiệp cần có sự dẫn chiếu đến Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự để bảo đảm quyền tự do khởi kiện và bảo đảm các giải pháp giải quyết tranh chấp liên quan tới nghĩa vụ góp vón thành lập công ty.
  • 75. 75 KẾT LUẬN Trong quá trình mở cửa và hội nhập như hiện nay, việc tận dụng mọi nguồn lực kinh tế trong xã hội đang trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hành vi góp vốn có vai trò rất quan trọng. Góp vốn thành lập công ty là hành vi có ý nghĩa cả về mặt kinh tế và pháp lý. Hệ quả pháp lý của góp vốn thành lập công ty là tạo ra một thực thể pháp lý độc lập, tạo ra khả năng chuyển quyền sở hữu tài sản của thành viên góp vốn, cổ đông sang cho công ty, đồng thời ràng buộc nghĩa vụ và mang đến quyền lợi cho các thành viên, cổ đông sáng lập. Việc góp vốn thành lập chính là bước đầu tiên để tạo dựng ra công ty, trong đó có sự đảm bảo cho quá trình hoạt động của công ty được thuận lợi và hạn chế tranh chấp có thể phát sinh giữa các thành viên, cổ đông về vấn đề góp vốn. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật về góp vốn thành lập công ty trở thành một đề tài rất rộng và phức tạp, không chỉ liên quan đến pháp luật về doanh nghiệp mà còn liên quan đến pháp luật về dân sự, pháp luật về đất đai, pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về thương mại ... Với cách tiếp cận như vậy, luận văn đã nghiên cứu giải quyết được các vấn đề sau: 1. Hình thành cơ sở lý luận của hành vi góp vốn thành lập công ty. Đặc tính quan trọng nhất của góp vốn trong việc thành lập công ty là tạo ra thực thể kinh doanh độc lập có tư cách pháp nhân. Sau đó, việc góp vốn thành lập công ty tạo ra các hệ quả pháp lý đối với các thành viên góp vốn, sau khi công ty được thành lập, các thành viên có quyền lợi và nghĩa vụ đối với công ty. 2. Các hình thức góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam hiện tại còn có nhiều khiếm khuyết. Ngoài hình thức góp vốn truyền thống là bằng tài sản, các loại vốn góp khác như tri thức và công sức cũng là các nhu cầu kinh tế khách quan đòi hỏi có luật điều chỉnh. Bản thân khái niệm tài sản theo pháp
  • 76. 76 luật Việt Nam cũng cần hoàn thiện thêm để ghi nhận chế định vật quyền và các tài sản quan trọng như quyền hưởng dụng, sản nghiệp thương mại. 3. Từ việc đánh giá các khiếm khuyết nêu trên, luận văn đã đưa ra định hướng và kiến nghị cụ thể nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật góp vốn, tạo hành lang pháp lý an toàn và tạo điều kiện cho các thương nhân có môi trường thuận lợi phát triển, góp phần thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
  • 77. 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản pháp luật: Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật thương mại, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật đất đai, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ, Hà Nội. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Hà Nội Quốc hội (2009), Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. Quốc hội (1997), Luật thương mại, Hà Nội. Chính phủ (2010), Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01tháng 10 năm 2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp, Hà Nội. Chính phủ (2010), Nghị định số 122/2010/NĐ-CP ngày 31tháng 12 năm 2010 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, Hà Nội. Chính phủ (2010), Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 về đăng ký doanh nghiệp, Hà Nội Bộ Tài chính (2010), Dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện góp vốn và nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu, Hà Nội Các công trình khoa học tiếng Việt 13. Phạm Tuấn Anh ( 2009 ), Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam , Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế , Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội 14. Vũ Tuấn Anh (2012), Định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ , Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội
  • 78. 78 15. Nguyễn Mạnh Bách (2006), Những điều bất cập trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 , Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng 05/2006 16. Lê Thị Châu (2001), Xác lập, thực nghiệm và chấm dứt quyền sở hữu tài sản của công ty đối vốn ở nước ta, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường đại học luật Hà Nội, Hà Nội. 17. Ngô Huy Cương (2004), Hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 18. Ngô Huy Cương, Ý tưởng về chế định quyền hưởng dụng trong bộ luật dân sự tương lai của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử, Hà Nội. 19. Ngô Huy Cương (2009), Những bất cập về khái niệm tài sản, phân loại tài sản của Bộ luật dân sự và định hướng cải cách, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử, Hà Nội. 20. Nguyễn Thị Dung (2010), “Hoàn thiện quy định về vốn góp và xác định tư cách thành viên công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005”. 21. Nguyễn Ngọc Điện (2010), ”Sự cần thiết của việc xây dựng các chế định vật quyền và trái quyền trong luật dân sự”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (23), Tr56-tr61 22. Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình luật thương mại (Phần chung và Thương nhân) PGS.TS Ngô Huy Cương, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. 23. Đại học Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình luật Hợp đồng (Phần chung – dùng cho đào tạo sau Đại học) PGS.TS Ngô Huy Cương, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. 24. Đại học Luật Hà Nội( 2007 ), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội. 25. Phạm Đức Quảng ( 2011 ) , Áp dụng pháp luật về góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí tuê ̣ở Viê ̣t Nam , Luâ ̣n văn Thạc Sĩ ngành: Luâ ̣t Kinh tế , Khoa Luâ ̣t - Đại học Quốc Gia Hà Nội
  • 79. 79 26. Trịnh Văn Quyết (2013 ) , Luật Doanh nghiệp và những bất cập cần sửa đổi (trang web : http://www.baomoi.com/Luat-Doanh-nghiep-va-nhung-bat- cap-can-sua-doi/127/11085766.epi ) 27. Thư viện trực tuyến Violet , Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Hà Nội, (Nguồn : http://giaoan.violet.vn). 28. Tạ Thị Thanh Thủy ( 2012 ) , Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ theo pháp luật Việt Nam , Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế , Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội . 29. Thomas G. Field Jr. (2006), Chuyên đề về quyền sở hữu trí tuệ , ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_intelprp.html). 30. Hồng Vân ( 2009 ) , Góp vốn bằng quyền sử dụng đất tại Việt Nam , Luận văn thạc sỹ Luật Kinh tế, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội 31. Viện sử học, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, 1977. 32. Lê Tài Triển, Luật thương mại việt nam dẫn giải, Quyển 1, Kim lai ấn quán, 1972. 33. Phạm Duy Nghĩa, Chuyên Khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004. 34. Hàn Phi Tử, người dịch Phan Ngọc, Nxb Văn Học, 2005. Trang web 35. Phần Vốn Góp trong công ty có tư cách pháp nhân – Cách tiếp cận từ góc độ pháp luật tài sản, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử (http://luatminhkhue.vn/thanh-lap/phan-von-gop-trong-cong-ty-co-tu-cach-phap- nhan-%E2%80%93-tiep-can-tu-goc-do-phap-luat-tai-san.aspx, truy cập 3/2014 ). 36. Hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp (http://luatminhkhue.vn/chuyen-doi/hieu-luc-cua-hop-dong-chuyen- nhuong-phan-von-gop.aspx, truy cập 3/2014)