VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TIẾN DŨNG
NGHIÊN CỨU THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG
TIẾNG VIỆT
TẢI TÀI LIỆU 0936.885.877
VIẾT THUÊ LUẬN VĂN LUANVANTRIHUC.COM
Chuyên ngành: Ngônngữ học
Mã số 60 22 02 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Đức Tồn
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Tiến Dũng
Lêi C¶m ¬N
Em xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đối với GS .TS Nguyễn Đức Tồn đã nhiệt
tình, tận tâm và chu đáo hướng dẫn em thực hiện luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Phòng Quản lý đào tạo,
Khoa Ngôn ngữ học - Học viện Khoa học Xã hội, Viện Ngôn ngữ học cùng các thầy
cô giáo đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học.
Tác giả luận văn cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những
người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 8 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Tiến Dũng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN....6
1.1. Những vấn đề của thuật ngữ.............................................................................6
1.2. Một số cơ sở lí luận về thuật ngữ......................................................................9
1.3. Thuật ngữ máy xây dựng tiếng việt..................................................................24
Kết luận chương 1 ................................................................................................................26
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG
TIẾNG VIỆT..........................................................................................................................28
2.1. Dẫn nhập.................................................................................................................28
2.2. Đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ....................................30
2.3. Đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ...........................34
2.4. Nhận xét chung về đặc điểm mô hình cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng
tiếng Việt.........................................................................................................................46
Kết luận chương 2 ................................................................................................................48
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG
TIẾNG VIỆT..........................................................................................................................50
3.1. Con đườnghình thành thuật ngữ máyxây dựng tiếngViệt ..................................50
3.2. Đặc điểm định danh thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt.............................59
Kết luận chương 3 ................................................................................................................70
KẾT LUẬN.............................................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................76
DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
ĐHQG Đại học Quốc gia
H Hà Nội
KHXH Khoa học xã hội
LSHTT Luật sở hữu trí tuệ
Nxb Nhà xuất bản
THCN Trung học chuyên nghiệp
TN Thuật ngữ
MXD Máy xây dựng
N Ngữ tố
KS Kỹ sư
BK Bách khoa
Tr Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo cấu tạo 29
Bảng 2.2.
Bảng 2.3.
Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo từ loại
Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo
nguồn gốc
29
30
Bảng 2.4. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo
từ loại 31
Bảng 2.5. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đa tiết xét theo
cấu tạo 31
Bảng 2.6. Bảng nguồn gốc ngữ tố của thuật ngữ máy xây dựng là từ đa
tiết. 32
Sơ đồ 3.1. Con đường hình thành TN máy xây dựng tiếng Việt 58
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Máy móc dùng trong xây dựng đóng vai trò rất quan trọng đối với việc nâng
cao chất lượng công trình, đẩy nhanh tiến độ thi công, nâng cao năng suất, đem lại
hiệu quả kinh tế và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Không thể hiện
đại hóa nền công nghiệp xây dựng nếu không quan tâm đầu tư về máy móc.
Trong những năm gần đây, nước ta đã nhập khẩu và lắp ráp nhiều máy xây
dựng, thiết bị chỉ để phục vụ cho các công trình xây dựng mà còn góp phần vào
công cuộc hội nhập khoa học và kinh tế thế giới. Đồng thời với sự phát triển đó là
việc xuất hiện những từ ngữ biểu thị những khái niệm, đối tượng trong ngành máy
xây dựng, nhờ đó đã hình thành hệ thống thuật ngữ ngành máy xây dựng. Vì vậy,
việc nghiên cứu, tìm hiểu các đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng là vô cùng cần
thiết: Trước tiên là phục vụ thiết thực cho quá trình dạy, học ở các trường kỹ thuật
và giúp cho cán bộ, kỹ sư, công nhân Việt Nam dễ dàng tiếp cận, sử dụng các thiết
bị, máy xây dựng nhập ngoại, sau đó dựa vào hệ thống thuật ngữ này giúp các nhà
sáng chế mở ra hướng nghiên cứu mới , chế tạo ra các máy xây dựng hiện đại, phục
vụ cho nhu cầu sử dụng trong nước và tiến tới xuất ra thị trường nước ngoài.
Tuy nhiên, việc quan tâm nghiên cứu, đánh giá, chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ
máy xây dựng tiếng Việt trong giới Việt ngữ học cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ, chưa
được quan tâm nghiên cứu, hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào
đặt vấn đề tìm hiểu thuật ngữ máy xây dựng. Đây cũng chính là lý do khiến chúng
tôi lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt” cho luận
văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, vấn đề thuật ngữ khoa học
tiếng Việt hầu như còn chưa được chú ý. Cho đến đầu thế kỷ XX, mới có thể thấy
xuất hiện lẻ tẻ một số ít thuật ngữ tiếng Việt. Đặc biệt là trong hơn nửa thế kỉ qua,
việc nghiên cứu thuật ngữ học đã phát triển mạnh mẽ. Sau một loạt hội thảo toàn
2
quốc về thuật ngữ được tổ chức vào những năm 70 của thế kỉ XX, một loạt công
trình khoa học và luận án tiến sĩ đã và đang tiếp tục được thực hiện, đặc biệt từ
những năm đầu thế kỉ XXI đến nay. Có thể nêu một số công trình lí luận thuật ngữ
học:[22], [41], [58], [62], [82], [94], [95]… bàn về vấn đề xây dựng và chuẩn hóa
thuật ngữ tiếng Việt. Ngoài ra còn có một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề
xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ trong một số lĩnh vực chuyên ngành [19], [25],
[31], [56], 76], …
Khi nghiên cứu về thuật ngữ ở Việt Nam, các nhà Việt ngữ học đã tập trung vào
một số vấn đề chủ yếu sau đây:
a) Xác định khái niệm thuật ngữ là gì;
b) Các tiêu chuẩn cần thiết của thuật ngữ;
c) Các phương thức đặt thuật ngữ;
d) Việc vay mượn thuật ngữ nước ngoài nên như thế nào - phiên âm, chuyển tự
hay giữ nguyên dạng…;
e) Có nên chấp nhận hay không một số chữ cái ngoại lai: W, J, F, Z ; hay các
tổ hợp phụ âm đầu: br, cr, fr, v.v...,; một số vần ngược như ab, ad, af, v.v... khi
phiên thuật ngữ để cho thuật ngữ phiên gần với diện mạo quốc tế mà không quá xa
lạ với tiếng Việt.
Ở nước ngoài thuật ngữ cũng được quan tâm đặc biệt [35], [46], [47], [57], [59],
[60], [71], [73]…Ngoài các công trình lí thuyết , còn có nhiều cuốn từ điển thuật
ngữ đã được xuất bản, chẳng hạn: Từ điển xây dựng Nga -Việt (1989), Từ điển thuật
ngữ xây dựng (1994), Từ điển bách khoa xây dựng (2010), Từ điển thuật ngữ…Tuy
nhiên trong lĩnh vực máy xây dựng chưa có cuốn từ điển chuyên ngành nào, mà chỉ
có một số tài liệu, giáo trình chuyên ngành máy xây dựng [115], [121], [122], [123],
[124].
Từ đó có thể thấy được rằng thuật ngữ đã được nghiên cứu, trải rộng trên
các lĩnh vực, đa dạng về quan điểm nghiên cứu, tuy nhiên vẫn chưa có công trình
nào nghiên cứu chuyên biệt về hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Đó
là lý do khiến chúng tôi chọn đề tài này. Và hướng nghiên cứu của chúng tôi là
3
chỉ ra đặc điểm về cấu tạo cũng như đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây
dựng tiếng Việt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Thông qua việc khảo sát hệ thuật ngữ máy xây dựng, luận văn làm sáng tỏ đặc
điểm về mặt cấu tạo, định danh của hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, từ
đó đề xuất một số phương hướng mang tính kiến nghị với các cơ quan hữu quan để
xây dựng và chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ chuyên ngành máy xây dựng tiếng Việt,
giúp cho việc sử dụng, nghiên cứu, giảng dạy và học tập các tài liệu thuộc chuyên
ngành máy xây dựng.
Để đạt được mục đích trên, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể:
- Hệ thống hóa các quan điểm lí luận về thuật ngữ khoa học trên thế giới và ở
Việt Nam để xác lập cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu;
- Miêu tả, phân tích các đặc điểm cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng thông qua
các tham tố về số lượng, nguồn gốc, phương thức cấu tạo và từ loại của của yếu tố
cấu tạo và của thuật ngữ máy xây dựng;
- Tìm hiểu đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng;
- Luận văn cũng so sánh với một số hệ thống thuật ngữ khác về đặc điểm
cấu tạo, đặc điểm định danh nhằm làm nổi bật các đặc điểm của thuật ngữ máy
xây dựng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng
Việt, tức là các thuật ngữ biểu đạt các khái niệm và các đối tượng chuyên môn được
sử dụng ngành máy xây dựng.
- Phạm vi nghiên cứu bao gồm các phương diện về cấu tạo và định danh của hệ
thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt và vấn đề chuẩn hóa chúng.
Phạm vi thu thập tư liệu gồm các cuốn từ điển về thuật ngữ kỹ thuật, bách khoa
xây dựng đã xuất bản; các thuật ngữ trong các tài liệu, chương trình, giáo trình
chuyên ngành máy xây dựng đang được sử dụng giảng dạy trong các trường đại
học, cao đẳng kỹ thuật.
4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp miêu tả : Được sử dụng để miêu tả đặc điểm cấu tạo của từng
thuật ngữ: mỗi thuật ngữ gồm có những thành tố nào tạo nên? Đặc điểm nguồn gốc
và từ loại của các đơn vị cơ sở cấu tạo nên thuật ngữ? Các mô hình kết hợp cụ thể
các thành tố để tạo nên thuật ngữ? Nhờ sử dụng phương pháp này có thể chỉ ra một
cách cụ thể và đầy đủ đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng trong tiếng Việt về
cấu tạo, định danh, những vấn đề còn tồn tại và cách chỉnh lý cũng như định hướng
cấu tạo thuật ngữ mới.
- Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp : Được sử dụng để phân tích đặc
điểm cấu tạo của một thuật ngữ máy xây dựng xét theo thành tố trực tiếp. Áp dụng
phương pháp này, mỗi thuật ngữ được phân tích ra hai thành tố trực tiếp, sau đó nếu
còn có thể thì mỗi thành tố trực tiếp này lại được phân đôi ra thành hai thành tố trực
tiếp nhỏ hơn tạo nên... Nhờ vậy, có thể chỉ ra được thuật ngữ này được cấu tạo theo
mô hình mấy bậc, mối quan hệ giữa các thành tố trực tiếp thuộc mỗi bậc cũng như
mối quan hệ giữa các đại thành tố trực tiếp tạo nên thuật ngữ.
- Thủ pháp thống kê, phân loại: Thủ pháp này được sử dụng để thu thập tư liệu
từ các nguồn khác nhau, trên cơ sở đó, luận văn tiến hành hệ thống hóa, phân loại tư
liệu và tính tỉ lệ các chỉ số về đặc điểm cấu tạo, đặc trưng và mô hình định danh
thuật ngữ máy xây dựng.
- Thủ pháp mô hình hoá: Thủ pháp này được sử dụng trong chương 2,
chương 3 của luận văn. Nhờ sử dụng thủ pháp này, luận văn sẽ tạo được các mô
hình cụ thể, rõ nét, đầy đủ đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng về cấu tạo, định
danh, và những định hướng tạo thuật ngữ này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lí luận: Với việc làm rõ đặc điểm cấu tạo và đặc trưng định danh của
thuật ngữ máy xây dựng, luận văn cung cấp cơ sở khoa học khách quan cho việc
xây dựng mới và chuẩn hóa hệ thuật ngữ máy xây dựng. Đồng thời luận văn góp
phần làm phong phú thêm hệ thống lí luận về Thuật ngữ học tiếng Việt.
5
- Về thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu sẽ giúp ích rất nhiều cho sự xây dựng và
phát triển thuật ngữ máy xây dựng chưa có trong tiếng Việt, đồng thời là cơ sở biên
soạn từ điển thuật kỹ thuật nói chung và thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, phục vụ
hữu ích cho việc viết chương trình khung, giáo trình giảng dạy và tài liệu học tập
của sinh viên các trường nghề trong ngành xây dựng. Xa hơn nữa, kết quả nghiên
cứu còn hữu ích cho các nhà sáng chế Việt Nam trong lĩnh vực chế tạo ra những
máy xây dựng hiện đại hơn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2. Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
Chương 3. Đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
Chương này, tập trung vào trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu một số
vấn đề liên quan, bao gồm: tình hình nghiên cứu thuật ngữ nói chung, thuật ngữ
máy xây dựng nói riêng; nêu một số vấn đề lí thuyết quan trọng về thuật ngữ và một
số vấn đề liên quan đến thuật ngữ máy xây dựng để làm tiền đề lí luận cho việc
nghiên cứu của luận văn.
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA THUẬT NGỮ
Hiện nay, không chỉ trên thế giới mà còn ở Việt Nam, vấn đề thuật ngữ luôn
được các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa
có một định nghĩa về thuật ngữ được tất cả mọi người đều thống nhất thừa nhận. Sở
dĩ có nhiều định nghĩa thuật ngữ khác nhau là do cách nhìn của các nhà nghiên cứu
có những sự khác nhau. Có tác giả cho rằng thuật ngữ xác định khái niệm, nhưng có
tác giả lại cho rằng thuật ngữ không chỉ xác định khái niệm và còn biểu hiện khái
niệm. D.S. Lotte cho rằng, về bản chất thuật ngữ là những từ đặc biệt [57]. Còn
G.O.Vinokur thì lại phủ nhận điều đó. Ông khẳng định rằng, thuật ngữ không phải
là từ đặc biệt, mà chỉ là từ có chức năng đặc biệt, bất cứ từ nào cũng có cấu tạo để
có vai trò là một thuật ngữ [103].
O.S. Akhmanova lại định nghĩa : “ Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ của ngôn
ngữ chuyên môn ( ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ kỹ thuật, v.v.) được sáng tạo ra (
được tiếp nhận, được vay mượn, v.v.) để biểu hiện chính xác các khái niệm chuyên
môn và biểu thị các đối tượng chuyên môn” [ dẫn theo 94, tr.3]. A.S. Gerd thì định
nghĩa: “ Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng – ngữ nghĩa có chức năng định nghĩa và
được khu biệt một cách nghiêm ngặt bởi các đặc trưng như tính hệ thống, tính đơn
nghĩa; ở thuật ngữ không có hiện tượng đồng nghĩa hay đồng âm trong phạm vi của
một khoa học hoặc một lĩnh vực tri thức cụ thể ”[ dẫn theo 76, tr.19].
Các nhà ngôn ngữ Việt Nam đồng tình với định nghĩa thuật ngữ gắn với khái
niệm như: Nguyễn Văn Tu [97, tr. 176], [98, tr. 114 ]; Lưu Vân Lăng; Nguyễn Như
7
Ý[52, tr. 44]; Đỗ Hữu Châu [8, tr. 241]; Hoàng Văn Hành [23, tr. 26]; Đái Xuân
Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn [68, tr. 64]; Nguyễn Thiện
Giáp[17, tr. 270]… Theo các nhà nghiên cứu này, “Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc
biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác của
các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người.
Ví dụ các thuật ngữ: đạo hàm, tích phân, vi phân… trong toán học; tư bản, tích lũy,
giá trị thặng dư… trong kinh tế học; bộ tộc, bộ lạc, huyết thống… trong sử học; âm
vị, âm tiết, hình vị… trong ngôn ngữ học…”[17, tr. 270].
Cụ thể hơn, thì “Thuật ngữ không chỉ biểu thị khái niệm khoa học mà còn
chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học nhất định, thuật ngữ là những từ
chuyên môn được sử dụng trong phạm vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp
hoặc một ngành kĩ thuật nào đấy… Đặc tính của những từ này là phải cố gắng chỉ
có một nghĩa, biểu thị một khái niệm hay chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa
học, kĩ thuật nhất định” [8, tr. 167].
Bên cạnh đó, nhiều tác giả nổi tiếng trên thế giới như G.O. Vinokur, V. K.
Nikiforov, V.V.Vinôgrađốp, L.A.Kapatnadze, X.M.Burđin, A.G Acnexôp, N.A.
Baxkacôp, V.Zơvêginxep[dẫn theo26,tr.12]thìđịnh nghĩa thuật ngữ gắn với chức năng.
Tiêu biểu là G.O. Vinokur cho rằng: “Thuật ngữ - đó không phải là một từ
đặc biệt mà chỉ là từ có chức năng đặc biệt”. “Chức năng đặc biệt mà từ với tư cách
là thuật ngữ đảm nhiệm đó là chức năng gọi tên” [103]. Đa số các tác giả tán đồng
quan điểm này. V. K. Nikiforov còn nhấn mạnh rằng: “Chức năng định danh ở thuật
ngữ được thừa nhận là chức năng cơ bản và duy nhất” [67].
Quan niệm của viện sĩ V.V.Vinôgrađốp về thuật ngữ vốn được giới thuật
ngữ học Xô viết coi là một trong những tư tưởng khá cơ bản và tin cậy. Ông viết
“Mọi người đều biết trước hết từ thực hiện chức năng định danh, nghĩa là hoặc nó là
phương tiện biểu thị, lúc đó nó chỉ là một kí hiệu giản đơn, hoặc nó là phương tiện
của định nghĩa logic, lúc đó nó là thuật ngữ khoa học” [dẫn theo 31, tr.8].
Dựa vào quan điểm này, L.A.Kapatnadze đã phát triển tư tưởng về vai trò
đặc biệt của thuật ngữ: “Thuật ngữ không gọi tên khái niệm như từ thông thường
8
mà là khái niệm được gán cho nó, dường như là gắn kèm theo nó cùng với định
nghĩa”. “Ý nghĩa của thuật ngữ … đó là định nghĩa khái niệm, là cái định nghĩa
được gán cho thuật ngữ” [35].
Các tác giả A.G Acnexôp, N.A. Baxkacôp, V.A.Zơvêginxep và một số người
khác nêu bật chức năng biểu hiện của thuật ngữ với tư cách là đặc điểm nổi bật của
nó [dẫn theo 26, tr.12-tr.18].
Trong công trình “Nghiên cứu, khảo sát thuật ngữ tiếng Việt phục vụ cho
việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam” [95], tác giả Nguyễn Đức Tồn cho rằng:
khi định nghĩa thuật ngữ thì phải và chỉ cần chỉ ra được những đặc trưng bản chất
nhất thuộc bản thể của nó, làm nó khác biệt với các từ ngữ không phải là thuật ngữ
(như từ thông thường, từ nghề nghiệp, tiếng lóng…). Những phẩm chất thứ yếu
không đủ để khu biệt thuật ngữ với các đơn vị phi thuật ngữ hoặc những phẩm chất
không thuộc về bản thể của thuật ngữ mà do sự nhận thức chủ quan, do người sử
dụng áp đặt cho thuật ngữ thì nhất định không được đưa vào nội dung định nghĩa
của thuật ngữ. Và tác giả của công trình này đã đưa ra định nghĩa:
Thuật ngữ là từ ngữ biểu hiện khái niệm hoặc biểu thị đối tượng trong phạm
vi một lĩnh vực khoa học, công nghệ hoặc chuyên môn.
Định nghĩa trên đã chỉ ra những đặc trưng bản chất nhất của thuật ngữ: 1) Về
hình thức: Thuật ngữ là từ hoặc ngữ cố định. Hình thức lí tưởng nhất của thuật ngữ
là có dạng từ (từ đơn hoặc từ ghép chính phụ) bởi thuật ngữ sẽ rất ngắn gọn, cấu
trúc chặt chẽ và cố định. 2) Về nội dung: Thuật ngữ biểu thị khái niệm khoa
học/chuyên môn. Đó là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa học hoặc hoạt
động chuyên môn, phản ánh những đặc trưng bản chất và mối liên hệ có tính quy
luật của sự vật, hiện tượng vốn là ngoại diên của những khái niệm ấy.
Giữa lĩnh vực chuyên môn và lĩnh vực phi chuyên môn có sự khác nhau:
trong lĩnh vực chuyên môn người ta sử dụng thuật ngữ, còn lĩnh vực phi chuyên
môn sử dụng từ ngữ phi thuật ngữ. Hai lĩnh vực này còn có sự khác nhau cơ bản ở
tính quốc tế và tính dân tộc. Khái niệm được sử dụng trong lĩnh vực chuyên môn dù
có hình thức thuật ngữ biểu hiện có thể khác nhau nhưng phải có tính quốc tế nghĩa
9
là các nhà hoạt động trong cùng một lĩnh vực chuyên môn này ở các dân tộc khác
nhau đều hiểu giống nhau. Còn ở lĩnh vực phi chuyên môn thì các khái niệm có thể
được hiểu khác nhau tùy mỗi ngôn ngữ, mỗi dân tộc, thậm chí có những từ / khái
niệm chỉ có trong ngôn ngữ/dân tộc này mà không có trong ngôn ngữ / dân tộc kia
[95, tr.371-tr.373].
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận thuật ngữ, nhưng dù từ hướng tiếp cận nào
các tác giả trên đều đề cập tới hai vấn đề:
- Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ
- Biểu thị khái niệm, thuộc tính, đối tượng, sự vật, hiện tượng… thuộc lĩnh
vực khoa học, công nghệ hoặc chuyên môn.
Đó cũng chính là cách hiểu của chúng tôi về khái niệm thuật ngữ và lấy đó
làm cơ sở để nghiên cứu trong luận văn này.
1.2. MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ THUẬT NGỮ
1.2.1. Vị trí thuật ngữ trong hệ thống ngôn ngữ
1.2.1.1. Thuật ngữ - bộ phận lớn nhất của từ vựng ngôn ngữ và vốn từ văn hóa
Thuật ngữ là những từ ngữ đặc biệt chủ yếu do con người tạo ra một cách có
ý thức, là sản phẩm của lao động trí tuệ bởi vì thuật ngữ ra đời cùng với với sự lao
động sáng tạo của đội ngũ trí thức. “Thuật ngữ không chỉ hiểu đơn giản là từ và ngữ
chuyên môn dùng trong khoa học kĩ thuật, công nghệ, dịch vụ mà đó là hệ thống
khái niệm, phạm trù khoa học, là tri thức khoa học công nghệ, là trí tuệ dân tộc và
nhân loại được chung đúc qua hình thức ngôn ngữ” [82, tr. 8].
Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ và đội ngũ trí thức, thuật
ngữ ngày càng phát triển. Thuật ngữ hiện nay được nhìn nhận không phải chỉ là một
lớp từ giống lớp từ địa phương, từ nghề nghiệp…như quan niệm trước kia, bởi vì so
với các lớp từ này, thuật ngữ là bộ phận từ vựng rất lớn trong hệ thống ngôn ngữ.
Theo tổng kết của một số nhà nghiên cứu, hầu hết các từ ngữ mới xuất hiện trong từ
điển đều là thuật ngữ. Chẳng hạn, theo thống kê của nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc
Sokhora.X. có đến 90% từ mới thuộc hệ thống thuật ngữ khoa học và kĩ thuật. [Dẫn
theo 35, tr.1]. Tương tự, Budagov R.A. (1976) nhận định “Số lượng thuật ngữ trong
10
mỗi ngành khoa học đang phát triển quả thật không phải từng ngày mà là từng giờ”
[2, tr. 44].
Như vậy, khi khoa học càng phát triển thì thuật ngữ cũng càng được phát
triển không ngừng, đồng thời khi hệ thống thuật ngữ càng phát triển và được hoàn
thiện, chuẩn hóa đến lượt nó sẽ tác động và thúc đẩy sự phát triển của chính ngành
khoa học đó.
1.2.1.2. Thuật ngữ - đối tượng nghiên cứu của thuật ngữ học
Thuật ngữ hiện nay rất phát triển và đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
thuật ngữ học. Mặc dù hiện nay còn có những tranh luận, nhưng nhiều nhà nghiên
cứu nước ngoài khẳng định “Thuật ngữ học là chuyên ngành độc lập, ra đời và phát
triển từ ngôn ngữ học trong thế kỷ XX, gồm 2 lĩnh vực chính: thuật ngữ học lí
thuyết và thuật ngữ học ứng dụng. Trong đó, đối tượng của thuật ngữ học là thuật
ngữ với các lớp, loại khác nhau và hệ thống thuật ngữ hiểu theo nghĩa rộng” [Dẫn
theo 58, tr. 23). Theo Leichik (1986), trong thực tế thuật ngữ có thể được hình thành
theo tự phát, tự nhiên hoặc được tạo ra một cách có ý thức. Thuật ngữ được hình
thành theo con đường tự phát thường phản ánh không hoàn toàn đầy đủ, chi tiết và
hệ thống các khái niệm chuyên ngành. [Dẫn theo 58, tr.23].
1.2.1.3. Thuật ngữ - thành phần chủ yếu của ngôn ngữ khoa học
Thuật ngữ được xem là bộ phận quan trọng nhất của ngôn ngữ khoa học. Đó
là ngôn ngữ chuyên dùng trong phạm vi của các ngành khoa khoa học và trong các
lĩnh vực chuyên môn. Chức năng cơ bản của ngôn ngữ khoa học không chỉ là thông
báo các sự kiện mà điều quan trọng là phải giải thích, chứng minh tính chân thực
của thông báo nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa của chúng với tư cách là cơ sở cho một
luận điểm hay một quan niệm lí thuyết nhất định [Dẫn theo 31, tr. 22]. Như vậy,
thông báo-chứng minh là chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ khoa học, trong
đó “chứng minh được coi là đặc trưng khu biệt của phong cách khoa học, làm cho
nó không giống với các phong cách khác” [Dẫn theo 49, tr. 83]. Ngôn ngữ khoa học
có vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống của con người, chúng phục vụ cho quá
11
trình nghiên cứu và truyền bá tri thức khoa học, kĩ thuật, công nghệ của con người
để duy trì cuộc sống và phát triển xã hội [Dẫn theo 31, tr. 22].
Ngôn ngữ khoa học có những đặc điểm nổi bật đã được thừa nhận như là tính
trừu tượng- khái quát cao, tính logic nghiêm ngặt, tính chính xác-khách quan. Bên
cạnh những đặc trưng nổi bật này, ngôn ngữ khoa học còn có một số đặc điểm đáng
chú ý về mặt phong cách, cú pháp, từ ngữ… Cụ thể, ngôn ngữ khoa học thuộc về
phong cách viết và đó là phong cách gọt rũa. Về mặt cú pháp, ngôn ngữ khoa học
chủ yếu sử dụng các câu tường thuật, giải thích và câu hỏi chính danh. Đặc biệt
ngôn ngữ khoa học sử dụng nhiều các loại câu ghép, câu mở rộng thành phần phụ
như bổ ngữ, trạng ngữ…Về mặt từ ngữ, trong ba thành phần của từ ngữ ngôn ngữ
khoa học: thuật ngữ, từ ngữ khoa học chung và lớp từ ngữ đa phong cách, thì thuật
ngữ được coi là thành phần quan trọng nhất và chủ yếu của ngôn ngữ khoa học, đó
là những từ, ngữ dùng để biểu đạt các khái niệm khoa học.
1.2.2. Quan niệm về thuật ngữ
Cho đến nay, hầu như mỗi nhà nghiên cứu tiếp cận thuật ngữ từ góc nhìn
riêng khác nhau. Vì vậy, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ. Chẳng
hạn, trong bài báo năm 1970, Golovin B.N. đã đưa ra 7 định nghĩa khác nhau; năm
1977 trong cuốn sách của mình, Danilenko V.P. đưa ra 19 định nghĩa và nói rằng
chưa hết, còn có thể kể thêm nữa [13]. Thậm chí Reformatxki A.A. khẳng định có
thể viết hẳn một cuốn sách về vấn đề thế nào là thuật ngữ [71]. Lí do của điều này
Superanskaja (2007) cho rằng, vì khi đó bộ môn thuật ngữ học chưa hình thành và
vì thuật ngữ là đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau nên mỗi ngành khoa
học thường nhấn mạnh một đặc điểm, hoặc có những cách tiếp cận khác nhau với
thuật ngữ[73].
1.2.2.1. Thuật ngữ theo quan niệm truyền thống (từ góc độ ngôn ngữ học)
Toàn bộ các quan niệm về thuật ngữ của các nhà nghiên cứu theo quan niệm
truyền thống có thể tổng kết thành ba xu hướng chính sau:
a. Thuật ngữ được định nghĩa trong sự phân biệt với từ thông thường
12
Một số nhà ngôn ngữ định nghĩa thuật ngữ chỉ ra sự khác biệt giữa thuật ngữ
với từ thông thường. Theo Kuz'kin N.P. (1962) "Nếu như từ thông thường, từ phi
chuyên môn tương ứng với đối tượng thông dụng, thì từ của vốn thuật ngữ lại tương
ứng với đối tượng chuyên môn mà chỉ có một số lượng hạn hẹp các chuyên gia biết
đến" [Dẫn theo 19, tr.10]. Tương tự, Moiseev A.I. (1970) khẳng định :"Chính biên
giới giữa thuật ngữ và phi thuật ngữ không nằm giữa các loại từ và cụm từ khác
nhau mà nằm trong nội bộ mỗi từ và cụm từ định danh" [Dẫn theo 19, tr. 10].
Kapanadze L.A. cũng nhấn mạnh:"Thuật ngữ không gọi tên khái niệm như từ thông
thường mà là khái niệm được gán cho nó dường như là gắn kèm theo nó cùng với
định nghĩa" [35].
b. Thuật ngữ được định nghĩa gắn với chức năng
Bên cạnh đó, số đông các nhà nghiên cứu khi định nghĩa thuật ngữ gắn chức
năng mà thuật ngữ đảm nhiệm. Tiêu biểu là G.O. Vinokur (1939): "Thuật ngữ - đấy
không phải là những từ đặc biệt, mà chỉ là những từ có chức năng đặc biệt” và đó
là “chức năng gọi tên” [Dẫn theo 35, tr.4]. Đồng thời ông cho rằng bất cứ từ nào
cũng được cấu tạo để có vai trò là một thuật ngữ. Quan niệm của G.O. Vinokur cho
thấy nền tảng của thuật ngữ chính là ngôn ngữ, cụ thể là các đơn vị từ vựng. Bên
cạnh đó, V.V.Vinôgrađốp (1947) còn chỉ rõ thuật ngữ không chỉ có chức năng gọi
tên mà còn có chức năng định nghĩa: “Trước hết từ thực hiện chức năng định
danh, nghĩa là hoặc nó là phương tiện biểu thị, lúc đó nó chỉ là một kí hiệu đơn
giản, hoặc nó là phương tiện của định nghĩa logich, lúc đó nó là thuật ngữ khoa
học” [Dẫn theo 19, tr.14]. Tương tự, Gerd A.X. (1968) trong định nghĩa của mình
cũng nhấn mạnh chức năng định nghĩa của thuật ngữ:"Thuật ngữ là một đơn vị từ
vựng ngữ nghĩa có chức năng định nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt
bởi các đặc trưng như tính hệ thống, tính đơn nghĩa" [Dẫn theo 76, tr.19].
c. Thuật ngữ được định nghĩa gắn với khái niệm
Phần lớn các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khi định nghĩa thuật ngữ
đã tập trung vào việc xác định thuật ngữ trong mối quan hệ với khái niệm. Ở Việt
Nam, Nguyễn Văn Tu (1960), Đỗ Hữu Châu (1962) là những nhà ngôn ngữ học đầu
13
tiên đưa ra định nghĩa về thuật ngữ, trong đó các tác giả chỉ rõ thuật ngữ không chỉ
biểu thị khái niệm khoa học mà thuật ngữ còn chỉ tên cả sự vật, hiện tượng khoa
học. Sau này, nhiều nhà nghiên cứu khác ([17], [22], [39], [52], …) cũng đưa ra các
định nghĩa về thuật ngữ. Nhìn chung các định nghĩa đều nhấn mạnh đến tính chính
xác của khái niệm và đối tượng chuyên môn mà thuật ngữ biểu thị: "Thuật ngữ là
bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là
tên gọi chính xác của các khái niệm và các đối tượng thuộc lĩnh vực chuyên môn
của con người" [17, tr.270].
1.2.2.2. Thuật ngữ theo quan niệm mới (từ góc độ của thuật ngữ học)
Hiện nay, thuật ngữ đã trở thành đối tượng nghiên cứu của thuật ngữ học.
Các nhà nghiên cứu theo quan điểm thuật ngữ học xác định, đối tượng của thuật
ngữ học không chỉ là thuật ngữ như là đơn vị từ vựng có mục đích chuyên biệt, mà
là hệ thống thuật ngữ, vốn nghĩa không hoàn toàn là một phạm trù ngôn ngữ học. Vì
vậy, khái niệm thuật ngữ được xác định theo quan điểm của thuật ngữ học rất được
chú ý. Trong số này, định nghĩa thuật ngữ do Leitchik mang tính toàn diện nhất:
Thuật ngữ là một sản phẩm kết hợp đa tầng, gồm tầng nền là ngôn ngữ tự nhiên và
tầng thượng thuộc về logic. Trong đó, tầng thượng (superstratum) ở trên và tầng
nền (substratum) ở dưới, bao bọc hạt nhân thuật ngữ, gồm cấu trúc hình thức, cấu
trúc chức năng, cấu trúc khái niệm chuyên ngành. Ba cấu trúc này tác động qua lại
với tầng nền ngôn ngữ và tầng thượng logic [Dẫn theo 58, tr.23].
Nói về tầng nền ngôn ngữ tự nhiên, Leichik chỉ rõ, xét về mặt ngôn ngữ học,
thuật ngữ là từ hay tổ hợp từ của một ngôn ngữ tự nhiên nào đó [Dẫn theo 58, tr.
25]. Tương tự, nói về vai trò của tầng nền ngôn ngữ tự nhiên, Superanskaja cho
rằng, vì thuật ngữ là ở dạng đơn vị từ vựng, đơn vị ngôn ngữ, cho nên có thể khẳng
định đơn vị từ vựng của ngôn ngữ tự nhiên là tầng nền ngôn ngữ tự nhiên của thuật
ngữ. Thuật ngữ trưởng thành lên từ đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ tự nhiên nhất
định. Từ đó, Superanskaja cũng đi đến kết luận rằng, thuật ngữ là một đơn vị từ
vựng tam cấp phức tạp của một ngôn ngữ dùng cho những mục đích chuyên biệt
nhất định. Tác giả khẳng định, với quan niệm như trên về các phương diện ngôn
14
ngữ của thuật ngữ chúng ta mới giải quyết được nhiều vấn đề về phương pháp luận
của thuật ngữ, trước hết là vấn đề truyền thống về bản chất ngôn ngữ của thuật ngữ,
hay vấn đề đặc thù của thuật ngữ… Bởi vì nếu chỉ đứng trong khuôn khổ thuần túy
của ngôn ngữ học thì không thể phát lộ ra các nét đặc trưng, cơ bản của thuật ngữ
phân biệt với các đơn vị từ vựng khác, vốn thường tập hợp dưới tên gọi phi thuật
ngữ [73].
Như vậy, định nghĩa thuật ngữ theo quan niệm của thuật ngữ học giúp chúng
ta có một cái nhìn bao quát, toàn diện về bản chất của thuật ngữ. Thuật ngữ không
chỉ là phạm trù của ngôn ngữ học mà nó còn là phạm trù của logic học và khoa học
liên ngành. Còn định nghĩa thuật ngữ theo quan niệm truyền thống lại giúp chúng ta
có một cái nhìn cụ thể về thuật ngữ: về hình thức, thuật ngữ là những từ và cụm từ;
về nội dung, thuật ngữ biểu thị các khái niệm hoặc đối tượng chuyên môn.
Luận văn này là công trình nghiên cứu theo hướng tiếp cận từ đặc điểm cấu
tạo và định danh của thuật ngữ máy xây dựng, nghĩa là chủ yếu xem xét thuật ngữ
máy xây dựng trên phương diện ngôn ngữ học, cho nên luận văn vẫn hiểu thuật ngữ
theo quan niệm truyền thống (từ góc độ của ngôn ngữ học) là chính: “Thuật ngữ là
từ ngữ biểu hiện một khái niệm hoặc một đối tượng trong phạm vi một lĩnh vực
khoa học hoặc chuyên môn”. Đây là định nghĩa do Nguyễn Đức Tồn nêu ra và
được phân tích khá kĩ [88]. Vì vậy, chúng tôi sẽ lấy định nghĩa thuật ngữ trên làm
cơ sở nghiên cứu của luận văn, đồng thời coi đây như là tiêu chí để xác định thuật
ngữ trong sự phân biệt với các đơn vị liên quan.
1.2.3. Phân biệt thuật ngữ và một số đơn vị liên quan
Khi đã nhận diện được thuật ngữ cả về bản chất khái niệm, chức năng, nội
dung… chúng ta cần phân biệt thuật ngữ với các loại đơn vị có quan hệ gần gũi
trong hệ thống từ vựng như danh pháp, từ nghề nghiệp…
1.2.3.1. Phân biệt thuật ngữ với danh pháp khoa học
G.O. Vinokur là người đầu tiên đặt ra vấn đề phân biệt thuật ngữ với danh
pháp. Ông cho rằng “không nên lẫn lộn thuật ngữ là tên gọi đối tượng của tư duy
với tên riêng và tín hiệu danh pháp” [103].
15
Thuật ngữ gắn với hệ thống khái niệm của một ngành khoa học nhất định,
gồm những từ, cụm từ biểu thị chính xác các loại khái niệm và các đối tượng thuộc
các lĩnh vực chuyên môn của con người.
Danh pháp là toàn bộ tên gọi được dùng trong một ngành chuyên môn nào
đó. Danh pháp không gắn với hệ thống khái niệm của ngành chuyên môn này mà
chỉ dùng để gọi tên các sự vật trong ngành mà thôi. Ví dụ: trong các loại máy xây
dựng, các từ: máy xúc, cần trục… là thuật ngữ, còn các từ chỉ tên các loại máy xúc,
cần trục… cụ thể như cần trục Krup, máy xúc Solar, máy xúc Komasu… là danh
pháp. G.O. Vinokur đã định nghĩa danh pháp: “là một hệ thống các phù hiệu hoàn
toàn trừu tượng và ước lệ, mà mục đích duy nhất là ở chỗ cấp cho ta cái phương tiện
thuận lợi nhất về mặt thực tiễn để gọi tên các đồ vật, các đối tượng không quan hệ
trực tiếp với những đòi hỏi của tư duy lí luận hoạt động với những sự vật này”
[103].
Danh pháp là hệ thống tên gọi được đặt có hệ thống. Có nhiều quan điểm
trong việc đặt tên. Có khi tên gọi chỉ được coi là cái nhãn để phân biệt, chẳng
cần đòi hỏi gì hơn, có khi lại cần đặt tên một cách có ý nghĩa và thích hợp với
đối tượng. Trong các lĩnh vực như toán, vật lí, kí hiệu thường được dùng để thay
thế lời nói hay chữ viết. Có lĩnh vực lại sử dụng con số, dùng từ… Không phải
lĩnh vực khoa học nào cũng có tiêu chuẩn đặt danh pháp giống nhau, mỗi ngành
có nhu cầu riêng. Ngành khoa học thực nghiệm sẽ có nhu cầu khác với các ngành
khoa học lí thuyết.
Tính khái niệm là đặc trưng quan trọng nhất của thuật ngữ. Danh pháp, mặc
dù có gắn với khái niệm nhưng nó hướng đến sự vật nhiều hơn. Cái quan trọng đối
với danh pháp là tính đối tượng của nó, tùy thuộc vào đặc trưng của đối tượng được
gọi tên.
Như vậy, thuật ngữ được nhấn mạnh về chức năng định nghĩa còn danh pháp
thì chủ yếu mang chức năng gọi tên. Nội dung của thuật ngữ tương ứng với các từ
tạo nên chúng còn danh pháp có thể được quan niệm là một chuỗi kế tiếp nhau của
16
các chữ cái, là một chuỗi các con số hay bất kì cách gọi tên võ đoán nào [17,
tr.270].
Số lượng của danh pháp là vô kể. Thuật ngữ của mỗi ngành khoa học lại là
một số lượng hữu hạn và nhất thiết phải liên hệ với các khái niệm của khoa học ấy
vì phản ánh hệ khái niệm của khoa học ấy bằng phương tiện từ ngữ.
Tuy nhiên cũng phải nói đến hiện tượng: trong quá trình phát triển của nhiều
ngành khoa học, các danh pháp riêng lẻ có thể trở thành thuật ngữ, từ chỗ chỉ đơn
thuần là đơn vị định danh chúng đã trở thành các yếu tố của giao tiếp logic, tức là
trở thành thuật ngữ.
1.2.3.2. Phân biệt thuật ngữ với từ nghề nghiệp
Từ nghề nghiệp là lớp từ ngữ được dùng hạn chế về mặt xã hội. Trong hệ
thống từ vựng, nó nằm ở một vị trí rất khiêm tốn cả về số lượng và phạm vi sử
dụng. Các nhà nghiên cứu cũng chưa có sự thống nhất trong việc xác định khái
niệm này.
Chẳng hạn, trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, từ nghề nghiệp
được định nghĩa là “các từ ngữ đặc trưng cho ngôn ngữ của các nhóm người thuộc
cùng một nghề nghiệp hoặc cùng một lĩnh vực hoạt động nào đó”[107].
Hoặc theo Nguyễn Văn Khang thì “Từ nghề nghiệp có thể coi đây là một “hệ
mã” ghi nhận thành quả tri thức và thành quả thực tế của con người trong một lĩnh
vực nhất định” [43].
Với tác giả Đỗ Hữu Châu thì “Từ vựng nghề nghiệp bao gồm những đơn vị
từ vựng được sử dụng để phục vụ các hoạt động sản xuất và hành nghề của các
ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và các ngành lao động trí óc
(nghề thuốc, văn thư…)[8, tr.253].
Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp: “Từ nghề nghiệp là những từ ngữ biểu thị
những công cụ, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất của một nghề nào đó trong
xã hội. Những từ này thường được những người trong ngành nghề đó biết và sử
dụng. Những người không làm nghề ấy tuy ít nhiều cũng có thể biết nhiều từ ngữ
17
nghề nghiệp nhưng ít hoặc hầu như không sử dụng chúng. Do đó, từ ngữ nghề
nghiệp cũng là một lớp từ vựng được dùng hạn chế về mặt xã hội”[17, tr.265].
Tác giả Phạm Tất Thắng đưa ra các đặc trưng cơ bản của từ nghề nghiệp:
- Đó là lớp từ ngữ dùng để gọi tên những phương tiện, công cụ sản xuất,
nguyên vật liệu, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất… của nghề thủ công
truyền thống.
- Chúng mang phong cách địa phương và ít nhiều có sắc thái biểu cảm
- Chúng được những người làm trong một nghề hiểu và sử dụng chủ yếu
trong giao tiếp hội thoại [78, tr.143].
Trong bài viết “Nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp tiếng Hải Phòng", tác giả
Phạm Văn Hảo nhận định: Từ nghề nghiệp là những từ và ngữ được sử dụng:
- Trong phạm vi của một ngành nghề cụ thể và phổ biến trong những người
cùng làm ngành nghề cụ thể ấy (cộng đồng liên thông - đơn)
- Ở một địa phương cụ thể (không có tính liên khu vực) và chịu sự chi phối
của tiếng địa phương tại khu vực ấy
- Trong trạng thái phi chuẩn mực hóa, tức là mang tính khẩu ngữ cao, tính
định danh “vô tư” và tính cố định yếu, nhất là do yếu tố tác động có tính chất “ngoại
sinh” như ngày nay[27, tr.59].
Điểm qua quan niệm của một số tác giả như trên, chúng tôi nhận thấy, hầu
như tất cả đều có chung nhận định: từ nghề nghiệp là những từ ngữ được sử dụng
trong phạm vi một ngành nghề nào đó. Và mỗi người, đứng từ các góc độ khác
nhau, lại đưa ra những đặc điểm khác nhau của từ nghề nghiệp. Phải nói rằng, nếu
chỉ dừng lại ở nhận định “từ nghề nghiệp là những từ ngữ được sử dụng trong phạm
vi một ngành nghề nào đó” (như một số quan niệm) thì sẽ rất khó phân biệt từ nghề
nghiệp với các lớp từ khác. Chẳng hạn, muốn phân biệt từ nghề nghiệp của những
người làm nghiên cứu khoa học của ngành vật lý với thuật ngữ khoa học vật lý thì
dùng tiêu chí gì, chẳng lẽ từ ngữ sử dụng trong giao tiếp hàng ngày (khẩu ngữ) là từ
nghề nghiệp còn từ ngữ sử dụng trong nghiên cứu (phong cách viết) là thuật ngữ
khoa học sao?
18
Theo chúng tôi, từ nghề nghiệp là lớp từ mang các đặc trưng sau:
- Sử dụng trong phạm vi một ngành nghề thủ công truyền thống
- Ở một địa phương cụ thể, mang đặc trưng địa phương
- Ít nhiều có sắc thái biểu cảm
- Từ ngữ có tính chất lịch sử, chủ yếu có nguồn gốc là tiếng Việt
- Mang phong cách khẩu ngữ
- Số lượng không nhiều
Sở dĩ ở đây, nói về khái niệm “thuật ngữ khoa học”, chúng tôi lại đề cập đến
khái niệm “từ nghề nghiệp” bởi cần phải xác định giới hạn của hai lớp từ này cũng
như mối quan hệ của chúng một cách rõ ràng trong khi khá nhiều tác giả cho rằng
chúng có quan hệ gần gũi một cách chung chung .
Trở lại từ nghề nghiệp với các đặc trưng trên, một lần nữa chúng tôi khẳng
định từ nghề nghiệp không phải là từ ngữ phục vụ cho công việc hàng ngày giữa
những người cùng ngành nghề chuyên môn. Chẳng hạn, ngôn ngữ giao tiếp hàng
ngày của những người nghiên cứu toán học, xã hội học hay ngôn ngữ học… không
phải là từ nghề nghiệp bởi không thể nói rằng cùng một lớp từ, khi ở phong cách
nói là từ nghề nghiệp, còn ở phong cách viết là thuật ngữ khoa học. Từ nghề nghiệp
là khái niệm chỉ dùng để gọi tên những từ ngữ được sử dụng trong phạm vi một
ngành nghề thủ công truyền thống ở một địa phương cụ thể, mang đặc trưng của địa
phương đó.
Vậy từ nghề nghiệp khác thuật ngữ ở chỗ: Từ nghề nghiệp có đặc điểm như
đã nêu trên, còn thuật ngữ biểu thị các khái niệm khoa học, mang tính hệ thống,
chuẩn mực của cả quốc gia, quốc tế và được tất cả các nhà khoa học trên thế giới
hiểu giống nhau.
1.2.4. Các tiêu chuẩn để xây dựng thuật ngữ
Việc xây dựng, thống nhất thuật ngữ khoa học liên quan chặt chẽ tới việc xác
định các tiêu chuẩn của thuật ngữ. Vì vậy, đây là một trong những vấn đề được các
nhà nghiên cứu rất quan tâm.
19
Có thể thấy, các nhà nghiên cứu đưa ra khá nhiều tiêu chuẩn cho thuật ngữ.
Nhưng có thể khái quát chúng lại thành các tiêu chuẩn: tính khoa học, tính quốc tế,
tính dân tộc, tính đại chúng. Trong đó, tính khoa học được tất cả các nhà nghiên
cứu từ trước đến nay coi đó là tiêu chuẩn quan trọng bậc nhất. Còn các tiêu chuẩn
tính quốc tế, tính dân tộc, tính đại chúng không được các nhà nghiên cứu chú trọng
như nhau. Nhìn chung, quan niệm của các nhà nghiên thời kì đầu (những năm 60-
70), ngoài tính khoa học họ rất quan tâm đến tính dân tộc và tính đại chúng, còn
tính quốc tế thì chưa được chú ý và ít được đề cập đến. Trong giai đoạn hiện nay,
hầu như tất cả các nhà nghiên cứu đều khẳng định, tính quốc tế là một trong những
phẩm chất bắt buộc của thuật ngữ, bên cạnh tính khoa học. Tuy nhiên, tính dân tộc
và tính đại chúng thì lại không được chú ý nhiều.
Chúng tôi đồng ý với quan điểm của một số tác giả như Đỗ Hữu Châu
(1981), Nguyễn Thiện Giáp (1985), Nguyễn Đức Tồn (2010)… cho rằng, ở đây cần
phân biệt những tính chất với tư cách là những đặc trưng phân biệt thuật ngữ với
những lớp từ vựng khác và những yêu cầu khi xây dựng thuật ngữ. Cụ thể, tính
khoa học và tính quốc tế là những đặc trưng riêng mà thuật ngữ ở bất kì ngôn ngữ
nào cũng có. Nhưng khi xây dựng thuật ngữ tiếng Việt, đặc biệt là thuật ngữ báo chí
tiếng Việt, không những phải bảo đảm được tính chất riêng của thuật ngữ mà cần
phải chú ý cả tính chất chung của thuật ngữ với những lớp từ vựng khác, đó là tính
dân tộc và tính đại chúng.
1.2.4.1. Tính khoa học
Thuật ngữ có tính khoa học nghĩa là thuật ngữ phải mang tính chính xác, tính
hệ thống và tính ngắn gọn.
a. Tính chính xác
Tính chính xác được tất cả các nhà khoa học trong và ngoài nước từ trước
đến nay thừa nhận là một yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với thuật ngữ. Tính
chính xác đòi hỏi phải biểu hiện đúng khái niệm một cách rõ ràng, không gây hiểu
lầm sai lệch. Lotte quan niệm, một thuật ngữ chính xác nếu thuật ngữ đó chứa đựng
những đặc trưng bản chất của khái niệm do nó biểu đạt [Dẫn theo 51, tr.3]. Tương
20
tự, Lê Khả Kế cũng chỉ rõ “lí tưởng nhất là thuật ngữ phản ánh được đặc trưng cơ
bản, nội dung bản chất của khái niệm” [39, tr.33].
Tính chính xác đòi hỏi thuật ngữ phải có tính một nghĩa, tức là trong cùng
một ngành khoa học hoặc một lĩnh vực chuyên môn mỗi khái niệm chỉ có một thuật
ngữ. Nói cách khác, mỗi thuật ngữ chỉ biểu đạt một khái niệm. Về vấn đề này, Đỗ
Hữu Châu nhấn mạnh, trong thực tế, “có những thuật ngữ gọi tên khái niệm đúng,
có những thuật ngữ gọi tên khái niệm sai lầm. Điều quan trọng là ở chỗ các thuật
ngữ phải biểu thị cho đúng các khái niệm (đúng hoặc sai) mà chúng gọi tên. Một
thuật ngữ chính xác là một thuật ngữ khi nói ra, viết ra, người nghe, người đọc hiểu
một và chỉ một khái niệm khoa học (đúng hoặc sai) ứng với nó mà thôi [8, tr.243].
Như vậy, để đảm bảo tính một nghĩa của thuật ngữ đòi hỏi phải loại bỏ hiện
tượng đồng âm, đồng nghĩa trong hệ thống thuật ngữ của cùng một ngành khoa học.
Trong thuật ngữ máy xây dựng, hầu hết các thuật ngữ đều đảm bảo tính
chính xác: mỗi khái niệm chỉ có một thuật ngữ. Tuy nhiên, theo thống kê của chúng
tôi vẫn còn khoảng 10 % thuật ngữ đồng nghĩa. Các thuật ngữ này rất cần được
chuẩn hóa để đảm bảo tính chính xác của thuật ngữ.
b. Tính hệ thống
Đây cũng là một tiêu chuẩn cần thiết đối với thuật ngữ. Mỗi ngành khoa học
đều có một hệ thống các khái niệm được thể hiện bằng hệ thống các thuật ngữ,
trong đó mỗi thuật ngữ bao giờ cũng là yếu tố của hệ thống thuật ngữ và chiếm một
vị trí trong hệ thống thuật ngữ nhất định nào đó [17, tr.312]. Trong khoa học, hệ
thống khái niệm được thể hiện ở chỗ “các khái niệm được tổ chức thành hệ thống,
có tầng, có lớp, có bậc hẳn hoi, có khái niệm hạt nhân làm trung tâm tập hợp nhiều
khái niệm khác thành từng trường khái niệm, thành từng nhóm, từng cụm. Mỗi
trường khái niệm có thể là một hệ thống con. Mỗi hệ thống nhỏ có một khái niệm
hạt nhân” [51, từ tr.5-tr.6].
Hầu hết các tác giả đều cho rằng tính hệ thống của thuật ngữ cần phải được
chú ý trên cả hai mặt, đó là hệ thống khái niệm (mặt nội dung) và hệ thống kí hiệu
(mặt hình thức). Lưu Vân Lăng [51, từ tr.5-tr.6] là người phân tích khá kĩ tính hệ
21
thống của thuật ngữ. Theo ông, khi xây dựng hệ thống thuật ngữ, cần phải xác định
được hệ thống khái niệm trước khi đặt hệ thống kí hiệu cho chúng. Thậm chí nhiều
khi nội dung khái niệm phải đặt lên hàng đầu. Vì vậy, khi đặt thuật ngữ không thể
tách rời từng khái niệm mà phải xác định vị trí của thuật ngữ đó trong toàn bộ hệ
thống khái niệm.
Tính hệ thống kí hiệu thường được thể hiện ở mối quan hệ liên tưởng (nghĩa
là thay thế theo trục dọc) và mối quan hệ ngữ đoạn (nghĩa là nối tiếp theo trục
ngang) của các tín hiệu ngôn ngữ. Để đảm bảo được hệ thống về mặt kí hiệu, cần
phải dựa vào thế đối lập giữa các tín hiệu trong hệ thống. Bởi vì mỗi thuật ngữ có
một giá trị nhất định về nội dung chính là do sự đối lập tín hiệu này với tín hiệu
khác trong cùng một hệ thống [51, tr.6]. Như vậy, nhờ vào tính hệ thống chúng ta
thấy được khả năng phái sinh của thuật ngữ là rất lớn.
c. Tính ngắn gọn
Tính chính xác về mặt ngữ nghĩa của thuật ngữ còn đòi hỏi về mặt hình thức
của thuật ngữ phải ngắn gọn, chặt chẽ. Nghĩa là, các yếu tố hợp thành phải phù
hợp tối đa với khái niệm được biểu thị, không có yếu tố dư thừa dễ gây hiểu lầm dù
sự hiện diện của các yếu tố này làm cho thuật ngữ có vẻ phù hợp với các quy luật
cấu tạo của ngôn ngữ hơn [8, tr.244]. Quan điểm của các nhà Việt ngữ học trên
hoàn toàn phù hợp với quan điểm của các nhà nghiên cứu Nga: “Tính ngắn gọn của
thuật ngữ cần được hiểu là, trong thành phần cấu tạo thuật ngữ, chỉ cần chứa một số
lượng đặc trưng tối thiểu cần thiết, nhưng vẫn đủ để đồng nhất hóa và khu biệt hóa
các khái niệm được phản ánh bằng thuật ngữ đó” [1, từ tr.331- tr.224]. Đây cũng là
điều hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc định danh thuật ngữ, đó là chỉ lựa chọn
những đặc trưng đủ để khu biệt sự vật, khái niệm này với các sự vật, khái niệm
khác, chứ không thể đưa tất cả đặc trưng của đối tượng cần định danh vào bên trong
tên gọi của nó. Xét ở khía cạnh này tính ngắn gọn không mâu thuẫn với tính chính
xác của thuật ngữ. Mặt khác tính ngắn gọn của thuật ngữ cũng rất phù hợp với quy
luật tiết kiệm trong ngôn ngữ.
22
Liên quan đến tính ngắn gọn của thuật ngữ, một số nhà nghiên cứu còn đưa
ra tiêu chuẩn cụ thể về số lượng yếu tố cấu tạo thuật ngữ. Chẳng hạn, A.A.
Reformatxki cho rằng đối với thuật ngữ là từ ghép hay cụm từ chỉ có thể gồm hai,
ba hoặc tối đa là bốn yếu tố bởi vì nếu thuật ngữ quá dài sẽ không được chấp nhận
trong thực tế [71, từ tr.253 - tr.271)].
Tuy nhiên, gần đây một số nhà nghiên cứu Nga đưa ra tiêu chuẩn về độ dài
tối ưu của thuật ngữ [Dẫn theo 76, tr.17]. Điểu cốt lõi của khái niệm này là sự phù
hợp giữa cấu trúc hình thức với các đặc trưng của khái niệm mà không giới hạn
thuật ngữ chỉ gồm bao nhiêu yếu tố. Theo chúng tôi đây là khái niệm khá phù hợp
với thời đại ngày nay, bởi vì do tính chất chuyên sâu trong khoa học ngày càng cao,
nên thuật ngữ có thể bao gồm một tập hợp các đặc trưng của khái niệm. Vì vậy,
phải cần đến khá nhiều yếu tố để thể hiện các đặc trưng của khái niệm đó. Cho nên,
sẽ có những thuật ngữ gồm nhiều yếu tố nhưng vẫn được coi là chuẩn.
1.2.4.2. Tính quốc tế
Tính quốc tế là một yêu cầu tất yếu bởi vì thuật ngữ là những từ, ngữ biểu thị
các khái niệm mà khái niệm khoa học được coi là thành tựu chung của trí tuệ, tri
thức nhân loại. Nhưng khi biểu thị những khái niệm khoa học chung đó, mỗi dân
tộc sử dụng các yếu tố và phương thức cấu tạo từ vốn có trong mỗi ngôn ngữ khác
nhau. Vì vậy, thuật ngữ vừa mang tính quốc tế vừa mang tính dân tộc. Tính quốc tế
thực ra không mâu thuẫn với tính dân tộc bởi vì khi nói đến tính quốc tế là người ta
nhấn mạnh đến mặt nội dung của thuật ngữ, còn nói đến tính dân tộc là người ta chú
ý đến mặt hình thức của thuật ngữ.
Đi vào cụ thể, tính quốc tế về mặt nội dung của thuật ngữ thường được nhấn
mạnh ở hai khía cạnh. Thứ nhất, các khái niệm của thuật ngữ mặc dù được thể hiện
bằng các ngôn ngữ khác nhau nhưng những người hoạt động trong cùng một lĩnh
vực chuyên môn ở các nước, các dân tộc khác nhau đều hiểu nội hàm các khái niệm
chuyên môn đó giống nhau [88 tr.207]. Thứ hai, cùng một sự vật hiện tượng hay
khái niệm khoa học nhưng các ngôn ngữ khác nhau cùng chọn một đặc trưng nào đó
để làm cơ sở định danh cho việc đặt thuật ngữ [19]. Như vậy, xét về nội dung của
23
thuật ngữ thì rõ ràng tính quốc tế là một đặc trưng quan trọng, là một tính chất cơ
bản của thuật ngữ vì chúng biểu hiện những khái niệm chung cho toàn nhân loại,
trong khi các lớp từ ngữ khác chỉ mạng đặc trưng của dân tộc.
1.2.4.3. Tính dân tộc
Khi nói đến tính dân tộc của thuật ngữ là nói đến mặt hình thức của thuật
ngữ. Thuật ngữ ở bất kì nước nào trước hết vẫn phải là một bộ phận ngôn ngữ của
dân tộc, vì vậy thuật ngữ phải mang những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ dân tộc.
Theo Lê Khả Kế [39 tr.103], tính dân tộc, được thể hiện ở nhiều mặt: từ vựng (yếu
tố cấu tạo thuật ngữ thường là những yếu tố thuần Việt hoặc đã được Việt hóa), ngữ
pháp (trật tự ghép các yếu tố tạo nên thuật ngữ theo cú pháp tiếng Việt), ngữ âm và
chữ viết: phù hợp với đặc điểm tiếng nói, chữ viết của dân tộc như dễ hiểu, dễ viết,
dễ đọc.
Tuy nhiên, cũng theo Lê Khả Kế, thực tế cho thấy tính dân tộc của thuật ngữ
có thể đạt được đối với bộ phận thuật ngữ được tạo ra trên cơ sở chất liệu tiếng Việt
và đó thường là các thuật ngữ khoa học xã hội. Nhưng còn một bộ phận không nhỏ
các thuật ngữ của một số ngành khoa học tự nhiên phải phiên âm từ các ngôn ngữ
Ấn Âu hầu như không thể đòi hỏi được tính dân tộc. Vì vậy, đòi hỏi thuật ngữ phải
có hình thức dân tộc là không thể thực hiện được một cách đầy đủ đối với toàn bộ
hệ thống thuật ngữ [39 tr.103].
Theo chúng tôi, thực ra phiên âm ở chừng mực nào đó vẫn thể hiện được tính
dân tộc. Khi phiên âm các thuật ngữ nước ngoài sang tiếng Việt, chúng ta chỉ vay
mượn một phần hình thức ngôn ngữ bởi vì thực chất chúng ta vẫn dùng hệ thống
chữ viết của chính tiếng Việt và sau đó biến đổi một phần hình thức ngữ âm nhằm
phù hợp với ngôn ngữ tiếng Việt để ghi lại cách phát âm của thuật ngữ nước ngoài.
Cho nên, trừ con đường giữ nguyên dạng, còn dịch nghĩa, phiên âm thuật ngữ nước
ngoài vào tiếng Việt đều ít nhiều thể hiện được tính dân tộc thông qua việc thể hiện
bằng tiếng Việt và tuân theo quy luật ngữ âm, chữ viết của tiếng Việt.
24
1.2.4.4. Tính đại chúng
Tính đại chúng của thuật ngữ cũng được thể hiện ở mặt hình thức, nghĩa là
đòi hỏi thuật ngữ phải dễ hiểu, dễ nhớ đối với những người làm công tác chuyên
môn và dễ nói, dễ đọc, dễ viết đối với quần chúng.
Mặc dù đây không phải là tiêu chuẩn bắt buộc của thuật ngữ nhưng rõ ràng
nếu thuật ngữ vừa bảo đảm được độ chính xác mà vừa dễ hiểu, dễ nhớ thì vẫn tốt
hơn. Ngay cả đối với những người làm công tác chuyên môn và đang học môn khoa
học chắc chắn cũng rất cần điều đó. Chẳng hạn các thuật ngữ như calxi, màu xanh
da trời...chắc chắn sẽ dễ hiểu, dễ nhớ hơn thuật ngữ đề nguyên dạng tiếng Pháp
calxium, hoặc tiếng Hán màu thanh thiên... Như vậy, trong một số trường hợp
chúng ta vẫn nên lựa chọn các thuật ngữ dễ hiểu, dễ nhớ nếu như chúng không vi
phạm đến tính khoa học của thuật ngữ.
1.3. THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT
1.3.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
Lĩnh vực máy xây dựng ở Việt Nam là một ngành khoa học kĩ thuật còn rất
non trẻ. Hệ thống thuật ngữ về máy xây dựng hầu như chưa được nghiên cứu. Thuật
ngữ máy xây dựng chỉ xuất hiện đan xen trong các cuốn từ điển thuật ngữ khoa học
kỹ thuật nói chung.
Đầu tiên có lẽ phải kể đến những cuốn từ điển thuật ngữ khoa học kỹ thuật:
Từ điển kỹ thuật tổng hợp Nga Việt, Từ điển kỹ thuật tổng hợp Anh – Việt, Từ điển
khoa học tự nhiên và kỹ thuật, Từ điển xây dựng Việt – Anh, Từ điển bách khoa xây
dựng, kiến trúc, Từ điển bách khoa xây dựng …
Chi tiết hơn nữa và gần đây nhất là các cuốn từ điển song ngữ về từng
chuyên ngành của xây dựng: Từ điển Việt – Anh – Pháp về xây dựng nhà và công
trình công cộng, Từ điển giải thích thuật ngữ hoàn thiện các hạng mục công trình
trong xây dựng Anh - Anh - Việt, Từ điển giải thích thuật ngữ vật liệu nội thất, hệ
thống kết cấu và vận chuyển trong xây dựng Anh - Anh - Việt, Từ điển giải thích
thuật ngữ cấu trúc bê tông kim loại và kết cấu trong xây dựng Anh - Anh - Việt , Từ
điển giải thích thuật ngữ vật liệu nội thất, hệ thống kết cấu và vận chuyển trong xây
25
dựng Anh - Anh - Việt, Từ điển giải thích các thuật ngữ thông dụng về hợp đồng xây
dựng và thi công công trình Anh - Việt …
Chúng tôi đã hệ thống hóa và thấy rằng hiện chưa có công trình lí luận nào
nghiên cứu sâu về đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt.
1.3.2. Về hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
Máy xây dựng là tên gọi chung chỉ tất cả các loại máy và thiết bị phục vụ
cho công tác xây dựng cơ bản: dân dụng, công nghiệp, giao thông vận tải, cảng,
thuỷ lợi…Do vậy, máy xây dựng có rất nhiều chủng loại và cũng rất đa dạng.
Để hiểu về hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, cần dựa vào sự phân
loại của các nhà chuyên môn đối với máy xây dựng theo tính chất công việc hay
công dụng thành các nhóm sau:
+ Tổ máy phát lực: Để cung cấp động lực cho các máy khác làm việc,
thường là những tổ máy Diesel, Điện, Nén khí…Các tổ máy này lại do động cơ đốt
trong hoặc động cơ điện cung cấp năng lượng.
+ Máy vận chuyển: Để vận chuyển vật liệu và hàng hoá, lại dược phân ra
- Máy vận chuyển ngang: hướng vận chuyển song song với mặt đất, di
chuyển trên đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, đường không.
- Máy vận chuyển theo phương đứng hay lên cao gọi là máy nâng chuyển:
kích, tời, palăng, thang tải, cần trục, cổng trục…
- Máy vận chuyển liên tục: hướng vận chuyển có thể ngang, nghiêng, thẳng
đứng, nhưng có đặc điểm là được vận chuyển thành một dòng liên tục: băng tải, gầu
tải, vít tải…
+ Máy làm đất: gồm các loại máy phục vụ trong công việc thi công, khai thác
đất, đá, than, quặng như: máy đào đất, máy đào- chuyển, máy đầm đất…
+ Máy gia công đá: phục vụ cho việc nghiền, sàng phân loại và rửa đá, sỏi,
quặng, cát…
+ Máy phục vụ cho công tác bêtông và bê tông cốt thép: phục vụ việc trộn,
vận chuyển bê tông và đầm bê tông
+ Máy gia công sắt thép: phục vụ cho việc cắt, uốn, kéo, hàn cốt thép
26
+ Máy gia công nền móng: gồm các loại máy đóng cọc, ép cọc, khoan cọc
nhồi, cắm bấc thấm…
+ Các máy và thiết bị chuyên dùng cho công tác thi công đường bộ, đường
sắt, và công trình cầu: như máy đặt ray, máy rải thảm, máy thi công lao lắp cầu…
+ Máy và thiết bị chuyên dùng cho từng ngành: như máy hoàn thiện, máy cắt
mối bê tông, máy sản xuất gạch, ngói, máy cán tôn…
Dựa trên cơ sở lý thuyết về thuật ngữ và nội dung khái quát của ngành khoa
học kĩ thuật máy xây dựng, chúng tôi xác định: Thuật ngữ máy xây dựng là những
từ ngữ gọi tên khái niệm, sự vật, hiện tượng, quá trình hoạt động, trạng thái, chi
tiết, quan hệ… dựa trên các hệ thống cơ bản của máy xây dựng: Thiết bị động lực,
hệ thống truyền động, cơ cấu công tác, hệ thống di chuyển, cơ cấu quay, hệ thống
điều khiển, khung và vỏ máy, các thiết bị phụ.
Kết luận chương 1
Trong chương 1, chúng tôi đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận sau:
1. Về các vấn đề chung của thuật ngữ: luận văn hệ thống hóa, phân tích các
quan điểm về thuật ngữ, tiêu chuẩn của thuật ngữ, phân biệt thuật ngữ với các loại
đơn vị từ vựng liên quan: danh pháp, từ nghề nghiệp. Trên cơ sở đó, chúng tôi hiểu
rằng: thuật ngữ là từ hoặc cụm từ biểu đạt khái niệm, thuộc tính, đối tượng, sự vật,
hiện tượng… thuộc một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn. Thuật ngữ có các tiêu
chuẩn thuộc về bản thể, đó là: tính khoa học (bao gồm tính chính xác, tính hệ thống,
tính ngắn gọn), tính quốc tế; thuật ngữ cũng có những tiêu chuẩn không thuộc về
bản thể, đó là: tính dân tộc, tính dễ sử dụng. Từ khái niệm cùng với những tiêu
chuẩn này, thuật ngữ được phân biệt với danh pháp, từ nghề nghiệp.
2. Hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
Các nội dung cơ bản của ngành máy xây dựng được trình bày khái quát từ
qua việc phân chia theo lĩnh vực làm việc và đặc biệt là tính chất công việc. Trên cơ
sở đó, cùng với cơ sở lý luận về thuật ngữ, chúng tôi đã xác định khái niệm thuật
ngữ máy xây dựng làm cơ sở nghiên cứu trong luận văn này: Thuật ngữ máy xây
27
dựng là những từ ngữ gọi tên khái niệm, sự vật, hiện tượng, quá trình hoạt động,
trạng thái, chi tiết, quan hệ… dựa trên các hệ thống cơ bản của máy xây dựng:
Thiết bị động lực, hệ thống truyền động, cơ cấu công tác, hệ thống di chuyển, cơ
cấu quay, hệ thống điều khiển, khung và vỏ máy, các thiết bị phụ.
28
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT
2.1. DẪN NHẬP
Như chúng ta đã biết, thuật ngữ nói chung có thể có cấu tạo là một từ hoặc
một cụm từ. Thuật ngữ là một từ thì nó mang tính chất định danh thực sự và có cấu
tạo ngắn gọn, chặt chẽ. Còn thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ thì chúng thường dài
dòng và nhiều khi có tính chất miêu tả đối tượng được định danh hơn là có tính chất
định danh đối tượng.
Trong chương này chúng tôi sẽ nghiên cứu và chỉ ra đặc điểm mô hình cấu
tạo thuật ngữ máy xây dựng. Để phân tích thành phần cấu tạo của các thuật ngữ
máy xây dựng, chúng tôi sử dụng khái niệm ngữ tố [94], được hiểu là "yếu tố cơ sở
để cấu tạo thuật ngữ". Đây là thành tố cấu tạo trực tiếp của một thuật ngữ. Ngữ tố có
hình thức cấu tạo là hình vị (thường trùng với âm tiết, còn được gọi là tiếng) nếu
thuật ngữ là từ. Chẳng hạn, các hình vị hay tiếng trong các thuật ngữ ngôn ngữ học
sau: ngữ / vị, âm / tiết, nguyên / âm,v.v… “Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa”, còn
về hình thức thì “Hình vị là đơn vị nhỏ nhất, đơn giản nhất về mặt tổ chức mà lại có
giá trị về mặt ngữ pháp” [5, tr.9]. Ví dụ: từ xe đạp được cấu tạo từ hai hình vị xe và
đạp, từ nhà cửa được cấu tạo từ hai hình vị nhà và cửa. Tuy nhiên, trong tiếng Việt,
hình thức ngữ âm của hình vị đại bộ phận trùng với âm tiết, chỉ một số rất ít hình vị
vay mượn có cấu tạo hơn một âm tiết. Vì vậy, xét một cách khái quát thì ranh giới
hình vị trùng với ranh giới âm tiết. Hay nói cách khác, đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt
là tiếng.
Ngữ tố có thể có hình thức cấu tạo là từ nếu thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ.
Về nội dung ý nghĩa, ngữ tố có thể biểu hiện khái niệm loại, khái niệm bộ phận hay
đặc trưng của khái niệm được thuật ngữ định danh.
Chẳng hạn, thuật ngữ bảo dưỡng kỹ thuật sẽ có 2 đơn vị cơ sở - 2 ngữ tố là:
bảo dưỡng, kỹ thuật. Khi phân tích cấu tạo thuật ngữ, tác giả Nguyễn Đức Tồn dừng
sự phân tích chỉ ở đơn vị ngữ tố có cấu tạo là từ.
29
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 798 thuật ngữ máy xây dựng trong tiếng
Việt. Trong đó, có 302 thuật ngữ có cấu tạo là từ (gồm từ đơn hoặc từ ghép, chiếm
37,8 %. Có thể coi đó là các thuật ngữ nguyên cấp, hay là thuật ngữ gốc. Còn lại,
496 thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ (62,2 %). Có thể coi chúng là các
thuật ngữ thứ cấp, được tạo ra từ các thuật ngữ nguyên cấp bằng cách ghép với các
thuật ngữ nguyên cấp khác hoặc ghép với từ toàn dân biểu thị đặc trưng khu biệt để
loại biệt hoá ý nghĩa của một thuật ngữ nguyên cấp.
Về mặt từ loại, số lượng thuật ngữ là danh từ và cụm danh từ chiếm số lượng
áp đảo. Thuật ngữ là động từ và cụm động từ chiếm số lượng ít. Về mặt nguồn gốc,
chúng được cấu tạo từ các đơn vị có nguồn gốc khác nhau: thuần Việt, vay mượn
nước ngoài (Hán Việt, Ấn Âu) với nhiều cách kết hợp khác nhau.
Bảng 2.1: Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo cấu tạo
Thuật ngữ Số lượng Tỷ lệ %
Thuật ngữ là từ 302 37,8
Thuật ngữ là cụm từ 496 62,2
Tổng số 798 100
Bảng 2.2: Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo từ loại
Thuật ngữ Từ loại Số lượng Tỷ lệ %
Từ Danh từ 233 29,2
Động từ 69 8,6
Cụm từ Cụm danh từ 431 54,1
Cụm động từ 65 8,1
Tổng số 798 100
Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt phân tích đặc điểm cụ thể của các thuật ngữ có
cấu tạo là từ và thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ về các phương diện từ loại, nguồn
gốc và mô hình cấu tạo thuật ngữ.
30
2.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG CÓ CẤU TẠO
LÀ TỪ
Lấy đơn vị cơ sở là tiếng để phân tích thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là
từ [8], chúng tôi nhận thấy: có những thuật ngữ chỉ được cấu tạo bởi một tiếng
nhưng cũng có thuật ngữ được cấu tạo bởi nhiều tiếng. Chúng tôi đã dựa trên sơ sở
số lượng tiếng tham gia cấu tạo thuật ngữ để phân loại: thuật ngữ đơn tiết và thuật
ngữ đa tiết. Với mỗi loại, chúng tôi sẽ phân tích mô hình cấu tạo, số lượng và tỉ lệ
các tiếng tham gia cấu tạo thuật ngữ xét theo nguồn gốc. Sau đó, chúng tôi sẽ thống
kê về mặt từ loại của các thuật ngữ này.
2.2.1. Thuật ngữ máy xây dựng là từ đơn tiết
Trong số 302 thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ thì có 73/302 thuật
ngữ là từ đơn tiết. Ví dụ: lu, ủi, tang, gầm, còi, đèn, … chiếm tỉ lệ : 24,2 %.
Xét về nguồn gốc, có 41 thuật ngữ là từ thuần Việt. Có 19 từ có nguồn gốc
ngoại lai. Đó là các từ: cáp, cam, côn, ga, tang, tời… (mượn Ấn Âu) và có 16 nguồn
gốc Hán Việt: san, xúc, cẩu … Như vậy, các thuật ngữ này đa số có nguồn gốc
thuần Việt (58,9 %). Số lượng thống kê này được hệ thống trong bảng sau:
Bảng 2.3: Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo nguồn gốc
Thuật ngữ - từ đơn tiết Số lượng Tỷ lệ %
Thuần Việt 43 58,9
Hán Việt 16 21,9
Mượn Ấn Âu 14 19,2
Tổng số 73 100
Về mặt từ loại, có 24 thuật ngữ đơn tiết là danh từ, có 52 thuật ngữ là động
từ (cẩu, đầm, đục, xúc, ủi, nâng, ...).
31
Bảng 2.4: Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo từ loại
Thuật ngữ - từ đơn tiết Số lượng Tỷ lệ %
Danh từ 21 28,8
Động từ 52 71.2
Tổng số 73 100
Như vậy, thuật ngữ đơn tiết là động từ chiếm đasố (71,2 %), thuật ngữ đơn tiết là
danh từ chiếm 28,8 % . Không có thuật ngữ đơn tiết làtính từ hay các từ loại khác.
Kết quả này cho ta thấy các thuật ngữ máy xây dựng chủ yếu chỉ các chi tiết,
kết cấu của máy xây dựng và các hoạt động tiến hành thi công, do đó các thuật ngữ
máy xây dựng cũng chủ yếu là động từ và danh từ.
2.2.2. Thuật ngữ máy xây dựng là từ đa tiết
Thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ đa tiết có số lượng lớn: 229/302
đơn vị (chiếm 75,8 %). Ví dụ: sửa chữa, bảo dưỡng, tốc độ, tổng thành, vi sai, công
suất, … Và đại đa số thuật ngữ kiểu này chỉ có hai tiếng hay còn gọi là song tiết,
trừ một số ít thuật ngữ có cấu tạo ba tiếng trở lên.
Thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ đa tiết có 3 tiểu loại : từ ghép đẳng
lập, từ ghép chính phụ và từ ghép ngẫu hợp [5]. Trong đó, thuật ngữ là từ ghép
chính phụ chiếm tỉ lệ lớn nhất 172 đơn vị. Đứng ở vị trí thứ 2 là thuật ngữ - từ ghép
ngẫu hợp: 32 thuật ngữ . Thuật ngữ là từ ghép đẳng lập là 25 đơn vị. Có thể nhìn
tổng quát các tiểu loại thuật ngữ là từ đa tiết ở bảng 2.5 dưới đây.
Bảng 2.5: Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đa tiết xét theo cấu tạo
Thuật ngữ là từ đa tiết Số lượng Tỉ lệ %
Ghép chính phụ 172 75
Ghép đẳng lập 25 10,9
Ghép ngẫu hợp 32 14,1
Tổng số 229 100
Xem xét nguồn gốc các tiếng tham gia cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng là từ
đa tiết, chúng tôi nhận thấy: tỉ lệ số tiếng có nguồn gốc Ấn Âu tham gia cấu tạo
32
thuật ngữ là: 27; số tiếng có nguồn gốc Hán Việt là 15. Còn lại 187 tiếng thuần Việt
tham gia cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ đa tiết .
Bảng 2.6: Nguồn gốc ngữ tố của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ
đa tiết
Tiếng Số lượng Tỷ lệ %
Thuần Việt 187 81,6
Hán Việt 15 6,5
Ấn Âu 27 11,9
Tổng số 229 100
Các đơn vị cấutạo có nguồn gốc khác nhau có sự kết hợp với nhau rất đa dạng.
Sau đây là đặc điểm cụ thể của từng tiểu loại thuật ngữ máy xây dựng có cấu
tạo là từ đa tiết.
2.2.2.1. Thuật ngữ là từ ghép chính phụ
Thuật ngữ là từ ghép chính phụ có số lượng là: 172 đơn vị.Thuật ngữ có trật
tự kết hợp các tiếng cấu tạo ngược cú pháp tiếng Việt: phụ trước - chính sau: áp
suất, công suất, hiệu suất … Các thuật ngữ loại này đều là danh từ Hán Việt
Mô hình của các thuật ngữ xây dựng có cấu tạo là từ ghép chính phụ theo trật
tự ngược cú pháp tiếng Việt như sau, trong đó N là ngữ tố tức là tiếng.
N1 N2
Ví dụ: Công suất
Thuật ngữ có trật tự kết hợp các tiếng cấu tạo thuận cú pháp tiếng Việt: chính
trước - phụ sau chiếm đa số. Các thuật ngữ này đều là các từ thuần Việt. Chúng
được cấu tạo theo mô hình:
33
N1 N2
Ví dụ: Băng phẳng
Máy xúc
Bàn ủi
Xem xét nguồn gốc của tiếng tham gia cấu tạo thuật ngữ là từ ghép chính
phụ, chúng tôi nhận thấy có cả tiếng có nguồn gốc thuần Việt và tiếng có nguồn gốc
ngoại lai (Hán Việt, Ấn Âu).
Thuật ngữ là từ ghép chính phụ được cấu tạo từ 2 tiếng có nguồn gốc thuần
Việt chiếm số lượng nhiều nhất: 187 đơn vị. Đó là các thuật ngữ kiểu: Bánh răng,
máy ủi , máy đào,…
Thuật ngữ là từ ghép chính phụ được cấu tạo từ 2 tiếng có nguồn gốc Hán
Việt có số lượng ít: 15 đơn vị. Đó là các thuật ngữ: bảo dưỡng, trọng lực, tốc độ,
mã lực… Ngoài ra còn rất nhiều thuật ngữ là từ ghép chính phụ được cấu tạo từ 2
tiếng có nguồn gốc khác nhau.
Có một vài thuật ngữ có cấu tạo gồm một tiếng có nguồn gốc thuần Việt và
một tiếng có nguồn gốc Ấn Âu. Chẳng hạn: đèn xinhan, dầm côngxôn, dây xích,
dải xích… gồm yếu tố thuần Việt + Ấn Âu (in đậm).
Có 27 thuật ngữ có cấu tạo có nguồn gốc Ấn Âu: Tắc te, Taluy, Tăngđơ, Vô
lăng, Xéc măng, Xupáp …
Xét về từ loại, có 7 thuật ngữ - từ ghép chính phụ là động từ ( ép cọc, sang
số, tăng ga, về số, gài số…), 172 thuật ngữ là danh từ chiếm đa số ( răng gầu, quai
búa, phanh chân, máy nâng, … )
2.2.2.2. Thuật ngữ là từ ghép đẳng lập
Có 8 thuật ngữ là từ ghép đẳng lập là động từ : Bảo dưỡng, chà xát, lắp ráp,
sửa chữa...
Có 17 thuật ngữ là danh từ là từ ghép đẳng lập: cấu kiện, cơ cấu, ly hợp…
34
2.2.2.3. Thuật ngữ là từ ghép ngẫu hợp
Có 32 thuật ngữ là từ ghép ngẫu hợp . Đó là các thuật ngữ có nguồn gốc Ấn
Âu, được mượn vào tiếng Việt dưới hình thức phiên âm hoặc để nguyên dạng như:
rơ le, mô tơ, diesel , piston, xu páp, công tơ mét, xéc măng, ta luy… Tất cả các thuật
ngữ này đều thuộc từ loại danh từ.
2.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG CÓ CẤU TẠO LÀ
CỤM TỪ
Như chúng ta đã biết, các thuật ngữ nguyên cấp hay thuật ngữ gốc, là những
thuật ngữ có cấu tạo là từ. Còn thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ gồm
có 496/798 đơn vị (62,2 %), kiểu như sửa chữa thường xuyên, bảo dưỡng kỹ
thuật… Đây là các thuật ngữ thứ cấp, được tạo ra từ các thuật ngữ nguyên cấp bằng
cách ghép với các thuật ngữ nguyên cấp khác hoặc ghép với từ toàn dân biểu thị đặc
trưng khu biệt để loại biệt hoá ý nghĩa của một thuật ngữ nguyên cấp.
Kết quả phân tích cho thấy rằng trong số 496 thuật ngữ máy xây dựng nói
trên thì tuyệt đại đa số đều là những cụm từ chính phụ có từ hai ngữ tố trở lên: một
ngữ tố trung tâm đứng làm nòng cốt, các ngữ tố khác được ghép vào với vai trò thứ
yếu, bổ sung cho trung tâm. Thuật ngữ máy xây dựng là cụm từ có thể có từ 2 đến 8
ngữ tố. Tuy nhiên, thực tế phân tích cho thấy chỉ các thuật ngữ có cấu tạo từ 2 đến 5
ngữ tố thì mới được cấu tạo theo những mô hình nhất định, nghĩa là chúng ta mới
xác định được những mô hình cấu tạo phổ biến của chúng. Các thuật ngữ có cấu tạo
từ 6 ngữ tố trở lên thường mang tính chất cụm từ kết hợp tự do nên rất đa dạng, khó
quy chúng vào mô hình cấu tạo nhất định. Do vậy, chúng tôi sẽ chỉ trình bày các mô
hình cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng là cụm từ có từ 2 đến 5 ngữ tố.
2.3.1. Cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 2 ngữ tố
Có 240 thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ gồm 2 ngữ tố.
a. Xét về từ loại, số lượng thuạt ngữ có cấu tạo cụm danh từ gồm 210 đơn vị,
chiếm đa số (87,5 %), sau đó là thuật ngữ có cấu tạo cụm động từ gồm 30 đơn vị
(12,5 %) . Như vậy, những thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ gồm 2 ngữ tố chủ yếu gọi
tên sự vật, hiện tượng.
35
b. Xét về nguồn gốc, các thuật ngữ là cụm từ gồm hai ngữ tố được cấu tạo từ
các từ có nguồn gốc khác nhau: thuần Việt, ngoại lai (Hán Việt, Ấn Âu).
Có 63 thuật ngữ có ngữ tố cấu tạo thuộc nguồn gốc thuần Việt: con lăn đỡ,
khớp nối bù, máy đầm bàn, máy đầm dùi, máy đào móng…
Thuật ngữ là cụm từ được ghép từ các ngữ tố có nguồn gốc ngoại lai: 177
đơn vị, trong đó gồm thuật ngữ ghép các đơn vị mượn Ấn Âu: Pa lăng cáp, tang
căng băng, tang cuốn cáp …; thuật ngữ ghép các ngữ tố Hán Việt: kỹ thuật thi
công, bảo dưỡng kỹ thuật, điều khiển nguyên liệu, chi phí bảo dưỡng…
Thuật ngữ ghép ngữ tố thuần Việt và ngữ tố Hán Việt: khoang động cơ, bánh
chủ động…
Thuật ngữ ghép ngữ tố Hán Việt và ngữ tố Ấn Âu: dung tích xylanh, thể tích
xylanh, …
Thuật ngữ ghép ngữ tố Ấn Âu và ngữ tố Hán Việt: kích thủy lực, mô tơ điện,
model động cơ, pa lăng đơn, pa lăng kép…
Thuật ngữ ghép ngữ tố thuần Việt và ngữ tố Ấn Âu: truyền động cáp, xe tải
ben, máy nén piston, máy đóng cọc diesel …
Thuật ngữ ghép ngữ tố Ấn Âu và ngữ tố thuần Việt: băng tải hình máng,
kích thanh răng, mô đun ăn khớp, …
c. Mô hình cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng – cụm từ 2 ngữ tố
Các thuật ngữ máy xây dựng – cụm từ 2 ngữ tố đều là các tổ hợp chính phụ
với trật tự chính trước – phụ sau.
N1 N2
(N: ngữ tố)
Ví dụ: Máy xúc lật
Bảo dưỡng ca
Pa lăng cáp
Chẳng hạn, phân tích thuật ngữ Máy xúc lật: Máy xúc là danh từ giữ vai trò chính,
lật là động từ phụ cho danh từ máy xúc.
36
2.3.2. Cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 3 ngữ tố
Có 151 thuật ngữ là cụm từ có cấu tạo gồm ba ngữ tố. Ví dụ: Cu roa bơm
chịu lực, động cơ năm xilanh, chi phí bảo dưỡng kỹ thuật …
a. Xét về từ loại, những thuật ngữ loại này chủ yếu là cụm danh từ: 132 đơn
vị, chiếm 87,5 %. Thuật ngữ là cụm động từ ít hơn, chỉ có 19 đơn vị (12,5 %).
b. Xét về nguồn gốc, có thể phân loại các thuật ngữ này như sau:
Có 41 thuật ngữ có cấu tạo gồm các ngữ tố thuần Việt:, máy khoan hai cần,
máy đào gầu ngược, …
Có 30 thuật ngữ có cấu tạo gồm các ngữ tố Hán Việt: lực điều khiển tốc độ,
hệ thống điều khiển thủy lực, bộ cảm biến tốc độ, các thông số kỹ thuật… Không có
thuật ngữ sử dụng hoàn toàn các ngữ tố mượn Ấn Âu.
Còn 80 thuật ngữ gồm các ngữ tố có nguồn gốc thuần Việt kết hợp với ngữ
tố mượn Ấn Âu: (cần cẩu bánh xích, tời nhiều tang, …) hoặc thuật ngữ được tạo bởi
sự kết hợp ngữ tố Hán Việt và ngữ tố mượn Ấn Âu, hay hỗn hợp ngữ tố thuần Việt,
Hán Việt và mượn Ấn Âu: (Tời điện đảo chiều, tời xích điện, momen xoắn lớn
nhất…). Ngoài ra còn có sự kết hợp giữa ngữ tố thuần Việt và ngữ tố Hán Việt (
truyền động bằng ăn khớp, hệ số thời gian sửa chữa…
c. Mô hình cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 3 ngữ tố
Thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 3 ngữ tố được cấu tạo theo các mô hình
khác nhau.
* Mô hình 3.1: Đây là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: N2 và N3 phụ cho N1.
Bậc 2: N3 phụ cho N2. Theo mô hình này cósố lượng thuật ngữ chiếm trên 80 %.
N 1 N 2 N 3
Ví dụ: Kết cấu dạng giàn
Máy xúc đào thủy lực
Máy đào gầu ngoạm
Phễu xả bê tông
37
Chẳng hạn, trong thuật ngữ Kết cấu dạng giàn, ở bậc 1, ngữ tố dạng giàn phụ
nghĩa cho ngữ tố kết cấu. Ở bậc 2 , trong ngữ tố dạng giàn thì ngữ tố giàn phụ
nghĩa cho ngữ tố dạng.
* Mô hình 3.2. Đây là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: N2 và N3 phụ cho
N1. Bậc 2: N2 phụ cho N3.
N 1 N 2 N 3
Ví dụ: Lốp không gờ
Lốp không xăm
Có một số thuật ngữ cấu tạo theo mô hình này. Chẳng hạn, thuật ngữ lốp không xăm
được tạo bởi 3 ngữ tố: lốp, không, xăm với hai bậc quan hệ. Bậc 1: trong ngữ tố
không xăm phụ nghĩa cho ngữ tố lốp. Bậc 2: trong ngữ tố không xăm thì ngữ tố
không phụ cho ngữ tố xăm.
* Mô hình 3.3: Đây là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: N3 phụ cho N1 và
N2. Bậc 2: N2 phụ cho N1.
N 1 N 2 N 3
Ví dụ: Bánh răng vi sai nhánh
Bảo dưỡng kỹ thuật định kỳ
Có tương đối nhiều thuật ngữ có cấu tạo theo mô hình này. Ví dụ: Trong
thuật ngữ bánh răng vi sai nhánh, 3 ngữ tố: bánh răng, vi sai, nhánh có 2 bậc quan
hệ. Bậc 1: ngữ tố nhánh phụ cho ngữ tố bánh răng vi sai. Bậc 2: ngữ tố bánh răng
vi sai trong đó ngữ tố vi sai phụ cho ngữ tố bánh răng.
38
* Mô hình 3.4: Là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: cả N2 và N3 phụ cho
N1. Bậc 2: N2 và N3 có quan hệ đẳng lập
N 1 N 2 N 3
Ví dụ: Máy rải bê tông át phan
Mô tơ bơm nước hút cát
Có một số ít thuật ngữ cấu tạo theo mô hình hai bậc kiểu này. Ví dụ: thuật ngữ Mô
tơ bơm nước hút cát . Ở bậc 1, ngữ tố bơm nước, hút cát phụ cho ngữ tố mô tơ. Mô
tơ là ngữ tố giữ vai trò nòng cốt. Ở bậc 2, ngữ tố bơm nước và ngữ tố hút cát là
quan hệ đẳng lập.
Nhìn chung, thuật ngữ là cụm từ gồm 3 ngữ tố chủ yếu được cấu tạo theo mô hình
3.1, và các mô hình còn lại có số lượng ít thuật ngữ.
2.3.3. Cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 4 ngữ tố
Có 88 thuật ngữ có cấu tạo bốn ngữ tố. Đó là các thuật ngữ kiểu: Tỉ lệ tiêu
hao dầu động cơ, Hệ thống phân phối nhiên liệu linh hoạt, Cơ cấu khoá vi sai tự
động, Phanh má điện thủy lực…
a. Xét về từ loại, các thuật ngữ này không có cấu tạo là cụm tính từ, có 12
thuật ngữ có cấu tạo là cụm động từ (Kiểm tra mực dầu động cơ, bảo dưỡng kỹ
thuật trong vận chuyển…), còn lại là 76 thuật ngữ có cấu tạo là cụm danh từ.
b. Xét về nguồn gốc
Có 23 thuật ngữ có cấu tạo là các ngữ tố thuần Việt (Số răng của bàn cuốc,
Máy khoan có gầu xoay tròn…)
Có 6 thuật ngữ được tạo bởi sự kết hợp của cả ngữ tố thuần Việt, Hán Việt
và Ấn Âu (Bơm nhiên liệu bằng diesel, Tời xích vận hành tay, Van an toàn bơm
nạp, Mômen quay của động cơ…).
Có 10 thuật ngữ gồm các ngữ tố cấu tạo có nguồn gốc thuần Việt và Ấn Âu
(Cần cẩu đặt trên ô tô, Xe tải kéo chở moóc… ).
39
Và còn lại 49 thuật ngữ cấu tạo bằng cách kết hợp ngữ tố thuần Việt và ngữ
tố Hán Việt (Bảo dưỡng kỹ thuật trong bảo quản, Máy tạo các mối nối thi công…)
c. Mô hình cấu tạo thuật ngữ xây dựng – cụm từ 4 ngữ tố
Có 88 thuật ngữ - cụm từ 4 ngữ tố được cấu tạo theo các mô hình sau:
* Mô hình 4.1: Đây là mô hình thuật ngữ - cụm từ 4 ngữ tố. Mô hình này có
cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: cả N3 và N4 phụ cho N1 và N2. Bậc 2: N2 phụ cho N1, N4
phụ cho N3.
N 1 N 2 N 3 N 4
Ví dụ: Biểu đồ kế hoạch bảo dưỡng kỹ thuật
Cảm biến nhiệt độ làm mát động cơ
Cụm trợ lực phanh thuỷ lực
Có 20 thuật ngữ có cấu tạo theo mô hình này. Ví dụ: thuật ngữ Cụm trợ lực phanh
thuỷ lực ở bậc 1: ngữ tố phanh thủy lực phụ cho ngữ tố cụm trợ lực tạo thành thuật
ngữ cụm trợ lực phanh thủy lực. Ở bậc 2 bao gồm ngữ tố trợ lực phụ cho ngữ tố
cụm tạo thành ngữ tố cụm trợ lực, ngữ tố thủy lực phụ cho ngữ tố phanh tạo thành
ngữ tố phanh thủy lực.
* Mô hình 4.2: Đây là mô hình có cấu trúc 3 bậc. Có 5 thuật ngữ theo mô
hình này. Bậc 1: cả N2, N3, N4 phụ cho N1. Bậc 2: cả N3 và N4 phụ cho N2. Bậc
3: N4 phụ cho N3
N 1 N 2 N 3 N 4
Ví dụ: Bơm có cánh bên ngoài
Máy khoan có gầu xoay tròn
Tời có tang ma sát
40
Chẳng hạn: Bơm có cánh bên ngoài là thuật ngữ có cấu tạo 3 bậc. Ở bậc 1: ngữ tố
có cánh bên ngoài phụ cho bơm tạo thành thuật ngữ bơm có cánh bên ngoài. Bơm là
ngữ tố giữ vai trò nòng cốt. Ở bậc 2: ngữ tố cánh bên ngoài phụ cho ngữ tố có tạo
thành ngữ tố có cánh bên ngoài. Ở bậc 3: ngữ tố bên ngoài phụ cho ngữ tố cánh tạo
thành ngữ tố cánh bên ngoài
* Mô hình 4.3: Là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: cả N3 và N4 phụ cho
N1 và N2. Bậc 2: N2 phụ cho N1, N3 phụ cho N4.
N 1 N 2 N 3 N 4
Ví dụ: Bơm nhiên liệu bằng điện
Bơm nhiên liệu bằng diesel
Có 22 thuật ngữ được tạo thành theo mô hình này. Ví dụ: cấu tạo của thuật
ngữ Bơm nhiên liệu bằng điện có: Ở bậc 1: Ngữ tố bằng điện phụ cho ngữ tố bơm
nhiên liệu tạo thành thuật ngữ bơm nhiên liệu bằng điện. Ở bậc 2: ngữ tố nhiên liệu
phụ cho ngữ tố bơm tạo thành ngữ tố bơm nhiên liệu, ngữ tố bằng phụ cho ngữ tố
điện tạo thành ngữ tố bằng điện.
* Mô hình 4.4: Đây là mô hình có cấu trúc 3 bậc của 9 thuật ngữ . Bậc 1: N4
phụ cho cả N1, N2 và N3. Bậc 2: cả N2 và N3 phụ cho N1. Bậc 3: N3 phụ cho N2.
N 1 N 2 N 3 N 4
Ví dụ: Bộ phun xăng điện tử
Cảm biến phân phối nhiên liệu linh hoạt
Chi phí bảo dưỡng kỹ thuật bình quân
Cơ cấu khóa vi sai tự động
Hệ thống phân phối nhiên liệu linh hoạt
41
Chẳng hạn, thuật ngữ hệ thống phân phối nhiên liệu linh hoạt. Ở bậc 1: ngữ tố linh
hoạt phụ cho ngữ tố hệ thống phân phối nhiên liệu tạo thành thuật ngữ hệ thống
phân phối nhiên liệu linh hoạt. Ở bậc 2: ngữ tố phân phối nhiên liệu phụ cho ngữ tố
hệ thống tạo thành ngữ tố hệ thống phân phối nhiên liệu. Ở bậc 3: ngữ tố nhiên liệu
phụ cho ngữ tố phân phối tạo thành ngữ tố phân phối nhiên liệu.
* Mô hình 4.5: Đây là mô hình có cấu trúc 3 bậc, có 8 thuật ngữ theo mô
hình này. Bậc 1: N4 phụ cho cả N1, N2 và N3. Bậc 2: cả N2 và N3 phụ cho N1.
Bậc 3: N2 phụ cho N3.
N 1 N 2 N 3 N 4
Ví dụ:
Môtơ có thể thay đổi lưu lượng
Van một chiều hệ thống
Chẳng hạn, thuật ngữ Van một chiều hệ thống có quan hệ 3 bậc. Ở bậc 1: ngữ tố
hệ thống phụ cho ngữ tố van một chiều tạo thành thuật ngữ van một chiều hệ
thống. Ở bậc 2: ngữ tố một chiều phụ cho ngữ tố van tạo thành ngữ tố van một
chiều. Ở bậc 3: ngữ tố một phụ cho ngữ tố chiều tạo thành ngữ tố một chiều.
* Mô hình 4.6: Cấu tạo theo mô hình này có 5 thuật ngữ . Đây là mô hình
cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: cả N2, N3 và N4 phụ cho N1. Bậc 2 : N2 và N4 có quan hệ
đẳng lập, N3 kết nối N2 và N4.
N1 N2 N3 N4
Ví dụ: Máy khoan nhồi và neo
Máy san phẳng và hoàn thiện
Phanh má điện và thủy lực
Phanh má điện và từ
42
Chẳng hạn, thuật ngữ Máy khoan nhồi và neo có cấu tạo hai bậc theo mô hình này.
Ở bậc 1: ngữ tố nhồi và neo phụ cho ngữ tố máy khoan tạo thành thuật ngữ máy
khoan nhồi và neo. Ở bậc 2: ngữ tố nhồi , ngữ tố neo có quan hệ đẳng lập được kết
nối bằng và tạo thành ngữ tố nhồi và neo.
* Mô hình 4.7: Cấu tạo theo mô hình này có 19 thuật ngữ . Đây là mô hình
cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: cả N2, N3 và N4 phụ cho N1. Bậc 2: N3 và N4 phụ cho N2.
Bậc 3: N3 phụ cho N4
N1 N2 N3 N4
Ví dụ: Cần cẩu đặt trên ô tô
Cần cẩu di chuyển trên ray
Mômen quay của động cơ
Ví dụ: cấu tạo của thuật ngữ Cần cẩu đặt trên ô tô. Ở bậc 1: ngữ tố đặt trên ô tô phụ
cho ngữ tố cần cẩu thành thuật ngữ cần cẩu đặt trên ô tô. Ở bậc 2: ngữ tố trên ô tô
phụ cho ngữ tố đặt tạo thành ngữ tố đặt trên ô tô . Ở bậc 3: ngữ tố trên phụ cho ngữ
tố ôtô tạo thành ngữ tố trên ô tô. Về cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng là cụm từ
gồm bốn ngữ tố, mô hình 4.1, 4.3 và mô hình 4.7 sản sinh ra nhiều thuật ngữ hơn
cả. Các kiểu mô hình còn lại chiếm tỉ lệ ít.
2.3.4. Cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 5 ngữ tố
Có 17 thuật ngữ có cấu tạo từ cụm từ gồm năm ngữ tố.
a. Xét về từ loại, 4 thuật ngữ là cụm động từ (Hao phí lao động một lần sửa
chữa, Điều khiểu lưu lượng bằng tín hiệu điện… còn lại 13 thuật ngữ là cụm danh
từ (Búa rung kết hợp với va đập, Hệ thống bướm ga phun nhiên liệu…)
b. Xét về nguồn gốc
Có 3 thuật ngữ có các ngữ tố cấu tạo thuần Việt ( Máy đào vét đặt trên cầu
phao, Máy xúc một gầu dùng hơi nước).,
43
Có 4 thuật ngữ được tạo từ sự kết hợp của ngữ tố thuần Việt, Hán Việt và Ấn
Âu (Động cơ có xi lanh bố trí thẳng hàng, Động cơ có hành trình piston dài…)
Và 10 thuật ngữ được tạo bởi sự kết hợp của ngữ tố thuần Việt và ngữ tố Hán
Việt (Chi phí cho một lần sửa chữa, Điều khiển lưu lượng bằng tín hiệu điện…).
c. Mô hình cấu tạo thuật ngữ xây dựng – cụm từ 5 ngữ tố
Có 17 thuật ngữ là cụm từ có 5 ngữ tố được cấu tạo theo các mô hình sau:
* Mô hình 5.1: Đây là mô hình phổ biến nhất trong số các mô hình cấu tạo
của các thuật ngữ có 5 ngữ tố, nhưng cũng chỉ sản sinh được 3 thuật ngữ. Các ngữ
tố trong mô hình này có quan hệ 3 bậc: Bậc 1: cả N3, N4 và N5 phụ cho N1 và N2 .
Bậc 2: N3 phụ cho cả N4 và N5. Bậc 3: N2 phụ cho N1, N5 phụ cho N4.
N 1 N 2 N 3 N 4 N 5
Ví dụ:
Điều khiển nguyên liệu bằng tín hiệu điện
Điều khiển nguyên liệu bằng hệ thống thủy lực
Hao phí lao động một lần sửa chữa
Thuật ngữ điều khiển nguyên liệu bằng hệ thống thủy lực là một thuật ngữ có cấu
tạo theo mô hình 3 bậc này. Ở bậc 1: ngữ tố bằng hệ thống thủy lực phụ cho ngữ tố
điều khiển nguyên liệu tạo thành thuật ngữ điều khiển nguyên liệu bằng hệ thống
thủy lực. Ở bậc 2: ngữ tố bằng phụ cho ngữ tố hệ thống thủy lực tạo thành ngữ tố
bằng hệ thống thủy lực. Bậc 3: ngữ tố nguyên liệu phụ cho ngữ tố điều khiển tạo
thành ngữ tố điều khiển nguyên liệu, ngữ tố thủy lực phụ cho ngữ tố hệ thống tạo
thành ngữ tố hệ thống thủy lực.
* Mô hình 5.2: Là mô hình có cấu trúc 4 bậc. Bậc 1: cả N2, N3, N4 và N5
phụ cho N1. Bậc 2: cả N3, N4 và N5 phụ cho N 2. Bậc 3: N4 và N5 phụ cho N3.
Bậc 4: N5 phụ cho N4.
44
N 1 N 2 N 3 N 4 N 5
Ví dụ:
Động cơ có hành trình piston dài
Động cơ có xi lanh bố trí thẳng hàng
Động cơ kiểu xi lanh xếp nằm ngang
Có 3 thuật ngữ được cấu tạo theo kiểu mô hình này. Ví dụ: thuật ngữ động cơ có
hành trình piston dài, trong đó ở bậc 1: ngữ tố có hành trình piston dài phụ cho ngữ
tố động cơ tạo thành thuật ngữ động cơ có hành trình piston dài. Ở bậc 2 : ngữ tố
hành trình piston dài phụ cho ngữ tố có tạo thành ngữ tố có hành trình piston dài. Ở
bậc 3: ngữ tố piston dài phụ cho ngữ tố hành trình tạo thành ngữ tố hành trình
piston dài. Ở bậc 4: ngữ tố dài phụ cho ngữ tố piston tạo thành ngữ tố piston dài.
* Mô hình 5.3: Là mô hình có cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: cả N3, N4 và N5 phụ cho
N1 và N2. Bậc 2: cảN4 và N5 phụ cho N3. Bậc 3: N2 phụ cho N1, N4 phụ cho N5
N 1 N 2 N3 N 4 N 5
Ví dụ:
Máy đào thuỷ lực gắn trên giàn
Máy đào vét đặt trên cầu phao
Hộp giảm tốc bánh răng ba cấp
Búa rung kết hợp với va đập
Có 4 thuật ngữ theo kiểu mô hình này . Ví dụ: thuật ngữ máy đào thủy lực gắn trên
giàn là thuật ngữ điển hình cho kiểu cấu tạo này. Ở bậc 1: ngữ tố gắn trên giàn phụ
45
cho ngữ tố máy đào thủy lực tạo thành thuật ngữ máy đào thủy lực gắn trên giàn. Ở
bậc 2: ngữ tố trên giàn phụ cho ngữ tố gắn tạo thành ngữ tố gắn trên giàn . Ở bậc 3:
ngữ tố trên phụ cho ngữ tố trên giàn tạo thành ngữ tố trên giàn, ngữ tố thủy lực phụ
cho ngữ tố máy đào tạo thành ngữ tố máy đào thủy lực.
* Mô hình 5.4: Là mô hình có cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: cảN4 vàN5 phụcho N1, N2
và N3. Bậc 2: cảN2 và N3 phụ cho N1. Bậc 3: N3 phụ cho N2, N5 phụ cho N4.
N 1 N 2 N 3 N 4 N 5
Ví dụ:
Máy trộn bê tông kiểu trọng lực
Tổng hao phí lao động bảo dưỡng kỹ thuật
Có 4 thuật ngữ được cấu tạo theo mô hình này. Chẳng hạn, các ngữ tố tạo thành
thuật ngữ Máy trộn bê tông kiểu trọng lực có 3 bậc quan hệ. Trong đó, ở bậc 1:
ngữ tố kiểu trọng lực phụ cho ngữ tố máy trộn bê tông tạo thành thuật ngữ máy
trộn bê tông kiểu trọng lực; Ở bậc 2: Ngữ tố trộn bê tông phụ cho ngữ tố máy tạo
thành ngữ tố máy trộn bê tông; Ở bậc 3: ngữ tố bê tông phụ cho ngữ tố trộn tạo
thành ngữ tố trộn bê tông;
* Mô hình 5.5: Là mô hình có cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: cảN4 vàN5 phụcho N1, N2
và N3. Bậc 2: cả N2 và N3 phụ cho N1. Bậc 3: N5 phụ cho N4, N2 phụ cho N3.
N 1 N 2 N 3 N 4 N 5
Ví dụ:
Máy xúc một gàu dùng hơi nước
Cũng chỉ có 1 thuật ngữ cấu tạo theo mô hình này: máy xúc một gàu dùng hơi
nước. Có thể phân tích mô hình cấu tạo của thuật ngữ máy xúc một gàu dùng hơi
46
nước: Ở bậc 1: ngữ tố dùng hơi nước phụ cho ngữ tố máy xúc một gàu tạo thành
thuật ngữ máy xúc một gàu dùng hơi nước. bậc 2: ngữ tố một gầu phụ cho ngữ tố
máy xúc tạo thành ngữ tố máy xúc một gàu; Ở bậc 3: ngữ tố một phụ cho ngữ tố
gầu tạo thành ngữ tố một gầu, ngữ tố hơi nước phụ cho ngữ tố dùng tạo thành ngữ
tố dùng hơi nước;
* Mô hình 5.6: Là mô hình có cấu trúc 4 bậc. Bậc 1: tất cả N2, N3, N4 và
N5 phụ cho N1. Bậc 2: N2 phụ cho cả N3, N4 và N5. Bậc 3: N3 phụ cho N4 và N5.
Bậc 4: N5 phụ cho N4.
N 1 N 2 N 3 N 4 N 5
Ví dụ:
Chi phí cho một lần sửa chữa
Tuổi thọ giữa hai lần sửa chữa
Có 2 thuật ngữ được cấu tạo theo quan hệ 4 bậc này: Trong thuật ngữ Tuổi thọ giữa
hai lần sửa chữa: Ở bậc 1: ngữ tố giữa hai lần sửa chữa phụ cho ngữ tố tuổi thọ tạo
thành thuật ngữ Tuổi thọ giữa hai lần sửa chữa; Tuổi thọ là đơn vị nòng cốt. Ở bậc
2: Ngữ tố giữa phụ cho ngữ tố hai lần sửa chữa tạo thành ngữ tố giữa hai lần sửa
chữa; Ở bậc 3: Ngữ tố hai phụ cho ngữ tố lần sửa chữa tạo thành ngữ tố hai lần sửa
chữa; Ở bậc 4: Ngữ tố sửa chữa phụ cho ngữ tố lần tạo thành ngữ tố lần sửa chữa;
Tóm lại, sự chênh lệch giữa các mô hình là không lớn lắm, chỉ có mô hình
5.5 chiếm tỉ lệ ít nhất, chỉ có 1 thuật ngữ theo mô hình này.
2.4. NHẬN XÉT CHUNG VỀ ĐẶC ĐIỂM MÔ HÌNH CẤU TẠO
THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT
Kết quả phân tích 798 thuật ngữ máy xây dựng trong tiếng Việt cho phép rút
ra một số nhận xét chung về đặc điểm mô hình cấu tạo của chúng như sau:
47
Có 302 / 798 thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ (chiếm 37,8%), trong
đó có 73/302 thuật ngữ là từ đơn tiết (chiếm 24,2 %). Thuật ngữ máy xây dựng có
cấu tạo là từ đa tiết chiếm số lượng lớn: 229/302 đơn vị (chiếm 75,8 %). Trong đó
thuật ngữ là từ ghép chính phụ có số lượng lớn 172/229 đơn vị, gồm các thuật ngữ
có trật tự kết hợp các tiếng cấu tạo ngược cú pháp tiếng Việt: phụ trước – chính sau
(đây là các danh từ Hán Việt) và thuận cú pháp tiếng Việt: chính trước – phụ sau.
Xét theo nguồn gốc của thuật ngữ là từ đơn tiết thì các từ Hán Việt gồm
16/73 đơn vị ( chiếm 21,9%). Từ thuần Việt có tỷ lệ áp đảo 43/73 thuật ngữ( chiếm
58,9 %) Còn lại là các từ vay mượn ngôn ngữ Ấn Âu 14/73 ( chiếm 19,2%).
Các thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đa tiết xét theo nguồn gốc thì
các thuật ngữ là từ thuần Việt chiếm đa số, với 187/229 đơn vị chiếm tỉ lệ 81,6%.
Còn lại là các thuật ngữ có nguồn gốc Ấn Âu gồm 27/229 thuật ngữ, chiếm tỷ lệ
11,9% và Hán Việt 15/229 chiếm tỉ lệ 6,5%. Số liệu thống kê nêu trên cho thấy rằng
tuyệt đại đa số thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt có cấu tạo cụm từ đều là đơn vị
định danh các tiểu loại của những loại lớn trong hệ thống thuật ngữ nguyên cấp định
danh các khái niệm, chi tiết, chủng loại và các đối tượng của ngành máy xây dựng.
Kết quả thống kê này cho phép khẳng định các thuật ngữ máy xây dựng nói
riêng, các thuật ngữ khoa học trong tiếng Việt nói chung, có cấu tạo là cụm từ đều
là những thuật ngữ thứ cấp, được tạo ra từ các thuật ngữ nguyên cấp bằng cách ghép
với các thuật ngữ nguyên cấp khác hoặc ghép với từ toàn dân biểu hiện đặc trưng
khu biệt để loại biệt hoá ý nghĩa của thuật ngữ nguyên cấp ấy.
Xét về mô hình cấu tạo thì có thể thấy các thuật ngữ 2 ngữ tố chỉ có 1 mô
hình duy nhất. Loại thuật ngữ gồm 3 ngữ tố có 4 mô hình cấu tạo. Loại thuật ngữ 4
ngữ tố có 7 mô hình cấu tạo. Loại thuật ngữ 5 ngữ tố có 6 mô hình cấu tạo.
Như vậy, tuyệt đại đa số thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt dù có cấu tạo là
từ đơn hay cụm từ đều được cấu tạo chủ yếu theo hai mô hình sau:
* Mô hình 1
48
Đây là mô hình duy nhất của loại thuật ngữ là từ ghép chính - phụ và loại
thuật ngữ là cụm từ có 2 ngữ tố, trong đó ngữ tố phụ đứng sau phụ nghĩa cho ngữ tố
chính đứng trước:
N1 N2
* Mô hình 2
Đây là mô hình 3.1 chiếm chủ yếu thuật ngữ máy xây dựng gồm 3 ngữ tố:
N 1 N 2 N3
Chính hai mô hình phổ biến này đã làm nên tính hệ thống trong cách cấu tạo
thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, thuật ngữ khoa học tiếng Việt nói chung.
Kết luận chương 2
Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt thuộc 2 loại - thuật
ngữ có cấu tạo là từ và thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ.
1. Thuật ngữ có cấu tạo là từ gồm 302/798 đơn vị, chiếm 37,8%. Trong đó số
thuật ngữ là từ đơn tiết là 73/302 chiếm 24,2 % và thuật ngữ là từ đa tiết 229/302
chiếm 75,8%. Các thuật ngữ là từ đơn tiết chủ yếu là từ thuần Việt. Các thuật ngữ
đa tiết gồm 3 tiểu loại: thuật ngữ là từ ghép chính phụ, thuật ngữ là từ ghép đẳng lập
và thuật ngữ là từ ghép ngẫu hợp. Trong đó thuật ngữ đa tiết là từ ghép chính phụ
có mô hình cấu tạo chủ yếu là chính trước phụ sau.
Về mặt từ loại, thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo chủ yếu là danh từ /
cụm danh từ và động từ /cụm động từ gọi tên loại máy, các chi tiết và các hoạt động
thi công trong ngành máy xây dựng.
Về nguồn gốc của thuật ngữ (đối với các trường hợp thuật ngữ là từ) và
nguồn gốc của đơn vị cấu tạo thuật ngữ tức ngữ tố (đối với các thuật ngữ là cụm từ),
có thể nhận thấy có sự tham gia của cả 3 loại đơn vị: thuần Việt, Hán Việt và Ấn
Âu. Trong đó, tuyệt đại đa số các thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ ghép/cụm
từ thuần được tạo ra bởi các ngữ tố thuần Việt, sau đó là loại ghép lai do các ngữ tố
thuần Việt và Hán Việt tạo thành theo quan hệ chính - phụ.
49
2. Các thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ gồm 496/798 đơn vị chiếm 62,2% .
Dựa trên số lượng ngữ tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, chúng được chia thành các
nhóm: thuật ngữ hai ngữ tố; thuật ngữ ba ngữ tố; thuật ngữ bốn ngữ tố; thuật ngữ
năm ngữ tố. Trong đó, thuật ngữ gồm hai ngữ tố và ba ngữ tố chiếm số lượng lớn
nhất, thuật ngữ gồm năm ngữ chiếm một số lượng rất hạn chế (17 đơn vị ).
Về mặt từ/ngữ loại, thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ chủ yếu là cụm danh từ
gồm 431/496 đơn vị, chiếm 86,9 %, cụm động từ chỉ có 65/496 đơn vị, chiếm 13,1
% và không có thuật ngữ có cấu tạo là cụm tính từ.
Về cách cấu tạo, thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ ghép hoặc cụm từ
đều được cấu tạo chủ yếu theo mô hình chính phụ: ngữ tố chính đứng trước, ngữ tố
hoặc tổ hợp ngữ tố phụ đứng sau. Chính mô hình cấu tạo phổ biến này đã làm nên
tính hệ thống về cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, thuật ngữ khoa học
tiếng Việt nói chung.
50
Chương 3
ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT
Để nghiên cứu đặc điểm định danh của một ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu đã
khảo sát các tên gọi theo ba thông số sau đây: nguồn gốc của tên gọi; kiểu ngữ
nghĩa của tên gọi; cách thức biểu thị của tên gọi.
Về kiểu ngữ nghĩa của tên gọi: Theo tham tố này, có thể phân biệt tên gọi trực
tiếp và tên gọi gián tiếp; tên gọi rộng và tên gọi hẹp [86, tr.233]. Về cách thức biểu
thị: V.G. Gak chỉ ra rằng, theo tham tố này, đặc điểm định danh có thể được xét
theo ba tiêu chí sau:
- Cách biểu thị tên gọi theo lối hoà kết hay phân tích
- Mức độ về tính rõ lí do của tên gọi
- Cách chọn đặc trưng của đối tượng để làm cơ sở định danh. [86, tr. 239]
Do tính quốc tế hóa của ngành máy xây dựng trong xu thế toàn cầu hóa hiện
nay, các thuật ngữ tiếng Việt trong ngành máy xây dựng chủ yếu được tạo ra bằng
cách sao phỏng các thuật ngữ Ấn – Âu (chủ yếu là tiếng Anh). Mặt khác, theo kết
quả nghiên cứu cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng được trình bày ở chương 2,
tuyệt đại đa số các thuật ngữ đều có cấu tạo là cụm từ được ghép theo quan hệ chính
phụ. Hệ quả là có thể dễ dàng nhận ra đặc điểm nổi bật của thuật ngữ máy xây dựng
tiếng Việt là chúng có cách biểu thị tên gọi chủ yếu theo lối phân tích và có mức độ
rất cao về tính rõ lí do của tên gọi. Do vậy, chúng tôi chỉ xem xét đặc điểm định
danh của ngành máy xây dựng theo các tham tố sau: nguồn gốc của thuật ngữ, nghĩa
là các con đường hình thành thuật ngữ và cách chọn đặc trưng khu biệt làm cơ sở
định danh của thuật ngữ.
3.1. CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG
VIỆT
3.1.1. Các nguyên tắc xây dựng thuật ngữ khoa học
Về mặt lí luận, thuật ngữ khoa học của bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới
cũng được xây dựng dựa trên hai nguyên tắc:
51
- Dựa vào ngôn ngữ bản ngữ
- Dựa vào ngôn ngữ nước ngoài.
Trong tiếng Việt, theo tổng kết của Hoàng Văn Hành (1983), thuật ngữ được
hình thành từ ba con đường: 1/ Thuật ngữ hóa từ thông thường; 2/ Tạo thuật ngữ
trên cơ sở ngữ liệu vốn có tương ứng với phương thức sao phỏng thuật ngữ nước
ngoài; 3/ Mượn thuật ngữ nước ngoài. Từ ba con đường này đã tạo nên ba lớp thuật
ngữ với những đặc trưng khác nhau cả về hình thái và ngữ nghĩa trong vốn thuật
ngữ của tiếng Việt: 1/lớp thuật ngữ thuần Việt; 2/ lớp thuật ngữ sao phỏng; 3/ lớp
thuật ngữ phiên âm [22, tr.78]. Như vậy, có thể thấy thực chất ba con đường hình
thành thuật ngữ tiếng Việt nói trên, trước hết cũng chính là xuất phát từ hai nguyên
tắc: đặt thuật ngữ trên cơ sở tiếng Việt và tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài. Tuy
nhiên, nếu đi vào chi tiết thì thấy việc xây dựng thuật ngữ tiếng Việt còn xuất phát
từ nguyên tắc vừa dựa trên cơ sở tiếng Việt vừa dựa vào tiếng nước ngoài (sao
phỏng và ghép lai).
3.1.2. Con đường hình thành thuật ngữ của một số ngành đã được nghiên cứu
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển xu hướng nghiên cứu thuật ngữ
của các chuyên ngành khoa học, việc tìm hiểu các con đường hình thành thuật ngữ
về mặt thực tiễn bắt đầu được chú ý. Cụ thể, con đường hình thành thuật ngữ của
một số chuyên ngành trong tiếng Việt đã được nghiên cứu sâu như quân sự, thương
mại, tin học-viễn thông, luật sở hữu trí tuệ, xây dựng… Trong những công trình
nghiên cứu này, các tác giả đã chỉ ra các con đường hình thành của thuật ngữ về cơ
bản cũng xuất phát từ những nguyên tắc trên. Tuy nhiên, ngoài các con đường
truyền thống mà lí luận đã tổng kết, các tác giả còn dẫn thêm 2 con đường hình
thành thuật ngữ: tiếp nhận thuật ngữ từ các ngành khoa học khác trong tiếng Việt
và cấu tạo mới ([31], [56], [76]) . Tuy nhiên, theo chúng tôi, điều đó đã làm cho các
con đường hình thành thuật ngữ bị chồng chéo, trùng lặp với nhau. Cho nên, sự
phân chia này chưa thực sự khoa học. Chẳng hạn, trong bài viết của Mai Thị Loan
về thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ (2011), các thuật ngữ bút danh, bản quyền vừa nằm
trong con đường thuật ngữ hóa từ thông thường vừa có mặt ở con đường tiếp nhận
52
thuật ngữ từ các ngành khoa học khác; thuật ngữ chương trình phát sóng, tác phẩm
văn học vừa nằm ở con đường tiếp nhận thuật ngữ từ các ngành khoa học khác
nhưng cũng vừa nằm ở con đường sao phỏng…[56, từ tr.25- tr.26].
Thứ nhất, các thuật ngữ được tiếp nhận từ các ngành khoa học khác xét cho
cùng cũng được tạo ra từ con đường như thuật ngữ hóa từ thông thường, sao phỏng,
phiên âm. Cho nên chúng sẽ phải ở cùng tiêu chí phạm trù phân lớp với các thuật
ngữ riêng của ngành khoa học đó. Đồng thời, khi đã phân chia thành lớp thuật ngữ
riêng của ngành đó với lớp thuật ngữ vay mượn từ các ngành khoa học khác thì phải
“đối xử" với chúng bình đẳng, ngang hàng nhau. Nghĩa là phải cùng xem xét các
con đường hình thuật ngữ ở cả hai lớp thuật ngữ này.
Thứ hai, cấu tạo mới chính là phương thức ghép các yếu tố với nhau để tạo
thành thuật ngữ. Trong khi sự hình thành thuật ngữ ở các con đường: thuật ngữ hóa từ
thông thường, sao phỏng và vay mượn chủ yếu nhờ vào phương thức kết hợp, ghép
các yếu tố với nhau. Cho nên, việc dẫn thêm phương thức này rõ ràng đã bị trùng lặp.
Ở đây chúng ta cần phân biệt rõ con đường hình thành thuật ngữ với các phương thức
cấu tạo thuật ngữ là hai vấn đề khác nhau. Vì vậy, việc phân chia các con đường hình
thành thuật ngữ phải bảo đảm được tính khoa học, phải dựa trên cùng một tiêu chí để
bao quát được toàn bộ hệ thống thuật ngữ và tránh bị chồng chéo.
3.1.3. Con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
Để xem xét các con đường hình thành thuật máy xây dựng tiếng Việt, luận văn
dựa trên sự tổng kết về mặt lí luận các con đường hình thành thuật ngữ nói chung
trong tiếng Việt. Vì thuật ngữ máy xây dựng cũng là một tiểu hệ thống của thuật
ngữ tiếng Việt nói chung, cho nên các con đường hình thành thuật ngữ máy xây
dựng được xây dựng dựa vào tiếng Việt, vay mượn thuật ngữ nước ngoài và đồng
thời vừa dựa trên cơ sở tiếng Việt vừa dựa vào tiếng nước ngoài.
3.1.3.1. Xây dựng thuật ngữ máy xây dựng dựa trên cơ sở tiếng Việt: Thuật
ngữ hóa từ thông thường
Thuật ngữ hóa từ thông thường là vấn đề đã được một số nhà nghiên cứu bàn
đến. Theo Hà Quang Năng, thuật ngữ hóa từ thông thường là “mặt biểu hiện (vỏ
53
ngữ âm) của từ và cái biểu vật giữ nguyên không thay đổi, còn ý nghĩa thì thay đổi”
[61]. Lê Quang Thiêm gọi đây là quá trình trí tuệ hóa các từ thông thường [81].
Trong số các tác giả nói trên, Hoàng Văn Hành [22, tr.26- tr.28] cho rằng
“thuật ngữ hóa từ thông thường thực chất là con đường dùng phép chuyển di ngữ
nghĩa của từ để tạo thuật ngữ” Quá trình chuyển di ngữ nghĩa này khá tinh tế, phức
tạp và chúng bao gồm hai dạng: chuyển di không dẫn đến chuyển nghĩa của từ và
chuyển di dẫn đến chuyển nghĩa của từ.
Hình thái chuyển di không dẫn đến chuyển nghĩa thường gặp ở những từ
thuộc vốn từ cơ bản. Ở hình thái này, ranh giới giữa nghĩa thông thường và nghĩa
thuật ngữ là không rõ ràng, bởi vì giữa nghĩa thông thường (nghĩa gốc) và nghĩa
thuật ngữ (cũng là nghĩa gốc) trùng nhau. Ở đây chỉ là sự chuyển di phạm vi ứng
dụng của một nghĩa và thường là nghĩa gốc của các từ thông thường sang lĩnh vực
chuyên môn. Trường hợp thứ hai, khi chuyển di phạm vi ứng dụng, nghĩa của chúng
đã được thu hẹp phạm vi biểu hiện để cấp cho từ đó một nghĩa thuật ngữ nhằm biểu
thị một khái niệm, sự vật,… của một lĩnh vực chuyên môn. Ví dụ, đường thẳng
trong cách hiểu thông thường là đường không lệch về bên trái hay bên phải, còn
trong toán học là đường (hay khoảng cách) ngắn nhất giữa hai điểm.
Tuy nhiên, tính quy tắc lại thể hiện rõ ở hình thái chuyển di dẫn đến chuyển
nghĩa. Cơ sở để chuyển di từ nghĩa thông thường sang nghĩa thuật ngữ chính là dựa
trên mối quan hệ tương đồng hoặc tương cận về các thuộc tính của sự vật hay quá
trình được phản ánh trong khái niệm do các từ ngữ biểu thị theo phương thức ẩn dụ
hóa và hoán dụ hóa. Khi sự chuyển di nghĩa dựa vào mối quan hệ tương đồng sẽ tạo
ra nghĩa thuật ngữ hình thành theo phép ẩn dụ hóa. Ví dụ: nghĩa của cánh trong
cánh quân, cánh tả, … Còn khi sự chuyển di nghĩa dựa vào mối quan hệ tương cận
sẽ tạo ra nghĩa thuật ngữ theo phép hoán dụ hóa. Ví dụ nghĩa của đầu người trong
bình quân thu nhập tính theo đầu người …
Kết quả khảo sát cho thấy, trong hệ thống thuật ngữ máy xây dựng có 29
thuật ngữ được tạo ra theo cả hai hình thái này, chiếm 9,6 % tổng số thuật ngữ
được khảo sát.
54
a/ Thuật ngữ hóa từ thông thường theo hướng thu hẹp nghĩa
Đó là các thuật ngữ như: Xúc, cắt, quay, số, đèn, còi, búa rung, bàn ủi, chân
cổng …Các thuật ngữ kiểu này được hình thành trên cơ sở những từ ngữ quen
thuộc trong đời sống hàng ngày. Khi là từ thông thường, chúng biểu thị những đặc
trưng chung nhất về sự vật, hiện tượng, còn khi được thuật ngữ hóa trở thành các
thuật ngữ mặc dù chúng vẫn biểu thị những đặc trưng của sự vật, hiện tượng đó
nhưng nghĩa của chúng đã được thu hẹp, cụ thể hơn. Chẳng hạn, từ số có nghĩa
thông thường là “ dấu dùng để đếm, để ghi thứ tự; số 1, số 2”, còn khi được thuật
ngữ hóa thì từ số có nghĩa thuật ngữ hẹp hơn, chỉ biểu thị một khái niệm “số tiến”
hay “số lùi” của máy xây dựng.
b/ Thuật ngữ hóa từ thông thường theo hướng mở rộng nghĩa
Đó là các thuật ngữ như: Gầm máy, thân máy, tay gầu, miệng gầu, mắt sàng,
mặt sàng, … Đây là các thuật ngữ được thuật ngữ hóa trên cơ sở sự mở rộng nghĩa
từ nghĩa thông thường sang nghĩa thuật ngữ. Chúng là các thuật ngữ được tạo ra từ
nghĩa phái sinh trên cơ sở từ nghĩa gốc, nghĩa ban đầu của từ ngữ thông thường. Khi
từ thông thường được thuật ngữ hóa theo hướng mở rộng thì nghĩa của từ đã
chuyển từ chỉ khái niệm chủng hay tiểu loại sang chỉ khái niệm loại.
Ví dụ: Gầm máy, từ gầm theo nghĩa thông thường là “ chỉ khoảng trống
ở dưới đồ đạc, ví dụ: chạn, tủ, giường”, còn khi được thuật ngữ hóa thì từ gầm
có nghĩa rộng hơn, biểu thị tất cả các chi tiết bộ phận thuộc về phía dưới của
máy xây dựng.
Chính con đường thuật ngữ hóa từ thông thường này đã góp phần tạo nên
hàng loạt thuật ngữ máy xây dựng và chúng là những thuật ngữ dễ nhớ, dễ hiểu và
gần gũi với ngôn ngữ đời sống hàng ngày.
3.1.3.2. Xây dựng thuật ngữ máy xây dựng dựa vào tiếng nước ngoài: Giữ
nguyên dạng hoặc Phiên âm
Vay mượn thuật ngữ nước ngoài là một trong những con đường rất quan
trọng trong việc xây dựng thuật ngữ mà trong tiếng Việt chưa có hoặc có nhưng
chưa biểu thị khái niệm khoa học một cách chính xác.
55
Việc vay mượn thuật ngữ nước ngoài có thể dưới hình thức: giữ nguyên dạng
hoặc phiên âm.
Phiên âm là ghi lại cách phát âm của tiếng nước ngoài bằng hệ thống chữ cái
của tiếng Việt [16, tr.233]. Khi phiên âm các thuật ngữ nước ngoài, hình thức của
chúng có thể bị thay đổi ít nhiều cho phù hợp với quy luật ngữ âm của tiếng Việt.
Về mặt lí luận, trước đây một số nhà nghiên cứu cho rằng vay mượn thuật ngữ bằng
cách phiên âm là thích hợp hơn so với để nguyên dạng bởi vì các thuật ngữ nước
ngoài khi được vay mượn, sử dụng và nhập vào ngôn ngữ bản địa thì chúng cần
phải có những thay đổi tùy theo hệ thống chữ viết và kết cấu ngữ âm của ngôn ngữ
nước đó. Đây cũng là quy luật chung về ngôn ngữ.
Quan sát kĩ hơn có thể thấy các thuật ngữ được vay mượn trước đây chủ yếu
là được vay mượn từ tiếng Pháp và hầu như đã được Việt hóa.
Theo Nguyễn Đức Tồn [88 tr.14] căn cứ vào tính quốc tế của thuật ngữ và xu
hướng toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế hiện nay, thuật ngữ chỉ được các nhà khoa học/
chuyên môn vốn có trình độ ngoại ngữ khá sử dụng trong phạm vi giao tiếp khoa
học/ chuyên môn với nhau, bởi vậy, trừ các thuật ngữ đã được vay mượn từ lâu, được
Việt hoá do phiên âm hoặc về cách viết, đã quen dùng, còn các thuật ngữ mới được
vay mượn hiện nay và trong tương lai thì nên mượn theo nguyên dạng thuật ngữ. Khi
đó chúng ta sẽ tránh được mọi phiền phức xảy ra do sự phiên âm thuật ngữ. Đối với
các thuật ngữ đã được phổ thông hoá và được toàn dân sử dụng trong giao tiếp
thường nhật và được phản ánh trên báo chí thì chúng vẫn được viết nguyên dạng, bên
cạnh có chú phiên âm cách đọc. Khi thuật ngữ đó đã trở nên quen thuộc thì bỏ việc
chú cách đọc này.
- Nếu thuật ngữ nguyên ngữ dùng chữ cái Latin, thì giữ nguyên dạng chữ viết
(kể cả các chữ cái F, J, Z, W) như trong nguyên ngữ. Ví dụ: monem, triolet (thơ
triolet), Kentum (ngôn ngữ Kentum), v.v...
- Nếu chữ viết nguyên ngữ dùng một hệ thống chữ cái khác chữ cái Latinh (chẳng
hạn như chữ Slavơ) thì áp dụng lối chuyển tự chính thức sang chữ cái Latin. Thí dụ: -
бepmen (bermen) - vertep (kịch múa rối ở Ukraina, Biêlôrutxia),...
56
- Nếu chữ viết nguyên ngữ không phải là chữ viết ghi âm bằng chữ cái (ghi từng
âm), thì dùng một cách phiên âm chính thức bằng chữ cái Latin (thường là cách
phiên âm đã có tính phổ biến trên thế giới).
Thí dụ: sumo, samurai, kimono,...
Do việc vay mượn nguyên dạng của thuật ngữ viết bằng chữ Latin nên sự có mặt
của các con chữ và một số kết hợp âm vị không có trong tiếng Việt làđiều đương nhiên.
Song không nên quan niệm "đó là sự chấp nhận vào bảng chữ cái tiếng Việt một số ít
chữ cái ngoại lai khi phiên thuật ngữ để cho thuật ngữ phiên gần với diện mạo quốc
tế mà không quá xa lạ với tiếng Việt". Theo Nguyễn Đức Tồn, đúng hơn nên quan niệm
đây chỉ là sự sử dụng một số thuật ngữ nước ngoài trong phạm vi giao tiếp đặc biệt
giữa các nhà khoa học Việt Nam và quốc tế. Cũng có thể coi đây là hiện tượng song ngữ
trong giao tiếp khoa học của các nhà trí thức.
Qua khảo sát, chúng tôi tìm được 29 thuật ngữ vay mượn theo lối để nguyên
dạng hoặc phiên âm. Trong đó 9 thuật ngữ là nguyên dạng, ví dụ: lazang, taluy,
logo, piston, modem, modun,…và 20 thuật ngữ là phiên âm, ví dụ: tăngđơ, cáp,
xéc- măng, bađờsốc...
Qua đó ta thấy rằng con đường xây dựng thuật ngữ máy xây dựng dựa vào
tiếng nước ngoài diễn ra phổ biến đặc biệt dưới hình thức phiên âm.
3.1.3.3. Xây dựng thuật ngữ máy xây dựng vừa dựa trên cơ sở tiếng Việt vừa
dựa vào tiếng nước ngoài: Sao phỏng và ghép lai
a/ Sao phỏng
Sao phỏng là con đường tạo thuật ngữ trong đó sử dụng các yếu tố và mô
hình cấu tạo từ của tiếng Việt để dịch các thuật ngữ tương ứng trong tiếng nước
ngoài. Nếu xét về mặt hình thức ngôn ngữ có thể coi đây là các thuật ngữ tạo mới
của tiếng Việt. Còn xét về mặt nội dung khái niệm khoa học do các thuật ngữ này
biểu thị thì chúng là thuật ngữ quốc tế. Vì vậy, các thuật ngữ tạo ra theo phương
thức sao phỏng thể hiện rõ nhất sự thống nhất giữa tính dân tộc và tính quốc tế của
thuật ngữ.
57
Sau này, trong các công trình lí luận về từ vựng học, Nguyễn Thiện Giáp có
sự phân biệt hai cách sao phỏng khá rõ: sao phỏng cấu tạo từ và sao phỏng ý nghĩa
[16 từ tr.233-tr.234]. Việc sử dụng yếu tố và phương thức cấu tạo từ vốn có trong
tiếng Việt để cấu tạo một đơn vị từ vựng dựa trên mô hình kết cấu của đơn vị tương
ứng trong tiếng nước ngoài được gọi là sao phỏng cấu tạo từ. Đây chính là cách
dịch từng thành tố cấu tạo hoặc từng từ trong thành phần cấu tạo thuật ngữ tiếng
nước ngoài ra tiếng Việt. Tuy nhiên, đối với các trường hợp tiếng mẹ đẻ không có
từ ngữ nào có ý nghĩa tương đương với từ nước ngoài cần dịch, thì người dịch phải
tạo ra một từ ngữ khác trong tiếng mẹ đẻ để diễn đạt ý nghĩa nghĩa tương ứng đó.
Trường hợp này được gọi là sao phỏng ý nghĩa.
Qua khảo sát, số lượng thuật ngữ được tạo ra theo con đường sao phỏng
chiếm tỉ lệ lớn , trong đó thuật ngữ được tạo ra chủ yếu dưới hình thức sao phỏng
cấu tạo từ: ví dụ: diesel pile driver: máy đóng cọc diesel, automobile crane : cần
cẩu đặt trên ôtô, asphalt compactor : máy lu đường nhựa átphan...Có thể nhận thấy
các thuật ngữ máy xây dựng được tạo ra theo hình thức sao phỏng cấu tạo từ đều là
thuật ngữ ngắn gọn về hình thức, chính xác về nội dung, hội tụ đầy đủ tính chất cần
và đủ của một thuật ngữ khoa học. Từ đó người sử dụng dễ hiểu và dễ nhớ thuật
ngữ. Việc sao phỏng thuật ngữ nước ngoài đòi hỏi người dịch không chỉ có sự hiểu
biết nhất định về tiếng Việt và tiếng nước ngoài mà còn phải có sự hiểu biết sâu về
chuyên môn máy móc thiết bị. Có như vậy, chúng ta mới có được các thuật ngữ sao
phỏng vừa chính xác về nội dung khái niệm vừa ngắn gọn về hình thức, bảo đảm
tính trong sáng của tiếng Việt, tránh dịch theo lối giải thích khái niệm hoặc dịch một
cách quá máy móc, câu nệ bám sát vào từng chữ mà không chú ý đến nội dung khái
niệm của thuật ngữ nước ngoài.
b/ Ghép lai
Ghép lai là con đường hình thành thuật ngữ trong đó “một phần hình thức là
bản ngữ, một phần là mượn, nhưng ý nghĩa là hoàn toàn mượn” [16, tr.234]
Về hình thức ngôn ngữ, ghép lai là con đường tạo thuật ngữ mới bằng việc
vừa sử dụng chất liệu tiếng Việt vừa sử dụng chất liệu tiếng nước ngoài rồi kết hợp
58
với nhau, trong đó yếu tố tiếng nước ngoài có thể là đã phiên âm hoặc được giữ
nguyên dạng. Vào những năm 60-70 của thế kỉ XX, cách đặt thuật ngữ này được
coi là một sự mới lạ, táo bạo, nhưng cần thiết vì đó cũng là một đòi hỏi phát triển
của ngôn ngữ [39, tr.38] . Hiện nay ghép lai đã trở thành một con đường hình thành
thuật ngữ khá phổ biến. Ghép lai được sử dụng khi trong tiếng Việt chưa tìm được
đầy đủ yếu tố thuật ngữ tương đương để dịch thuật ngữ của tiếng nước ngoài một
cách chính xác hoặc là các thuật ngữ nước ngoài khi được dịch sang tiếng Việt là
những cụm từ dài dòng hoặc mang tính giải thích khái niệm.
Thuật ngữ máy xây dựng được tạo thành theo con đường ghép lai chiếm tỉ lệ
không nhiều. Ví dụ: đèn xin nhan, băng tải, cáp thép, máy nén piston, mô tơ bốn
xilanh… Trong số này, có một số các thuật ngữ được tạo ra từ một vài yếu tố phiên
âm có khả năng phái sinh mạnh, chúng có thể kết hợp với yếu tố thuần Việt hoặc
Hán Việt khác nhau để tạo nên một loạt các thuật ngữ mang tính hệ thống cao.
Rõ ràng ghép lai góp phần làm tăng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Đây
là con đường xây dựng thuật ngữ phổ biến trong giai đoạn hiện nay và có chiều
hướng ngày càng gia tăng, góp phần làm giàu và phong phú thêm vốn thuật ngữ
máy xây dựng tiếng Việt. Dưới đây là sơ đồ tổng hợp các nguyên tắc và con đường
hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt.
Sơ đồ 3.1. Con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
Thuật Giữ Phiên Sao Ghép
ngữ hóa nguyên âm phỏng lai
từ thông dạng
thường
Dựa trên cơ sở
tiếng Việt
Dựa trên cơ sở tiếng
nước ngoài
Dựa trên cơ sở tiếng Việt
và tiếng nước ngoài
Con đường hình thành
thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
59
3.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG
TIẾNG VIỆT
3.2.1. Cơ sở lí thuyết
3.2.1.1. Khái niệm định danh
Theo cách hiểu thông thường, định danh là đặt tên gọi cho một sự vật, hiện
tượng [70]. Nhờ có tên gọi mà chúng ta phân biệt được sự vật này với sự vật khác
một cách dễ dàng. Trong các từ điển chuyên ngành và dưới góc nhìn của các nhà
nghiên cứu, định danh được hiểu với nghĩa rộng và sâu hơn. Chẳng hạn, trong từ
điển chuyên ngành, định danh là "sự cấu tạo các đơn vị ngôn ngữ có chức năng
dùng để gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực khách quan trên cơ sở đó hình
thành những khái niệm tương ứng về chúng dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ cú và
câu” [107, tr.89]. Tương tự, Kolshansky quan niệm: Định danh là “gắn cho một kí
hiệu ngôn ngữ một khái niệm-biểu niệm phản ánh những đặc trưng nhất định của
một biểu vật-các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá trình
thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những
yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn ngữ”. [Dẫn theo 19, tr.21] . Hà Quang Năng cho
rằng, định danh gắn liền với quá trình nhận thức: “Quá trình gọi tên liên hệ chặt chẽ
với quá trình nhận thức có cơ sở dựa trên sự đối chiếu so sánh giữa các đối tượng và
quan niệm về chúng để nhằm phát hiện các đặc tính và đặc điểm chung cũng như
riêng của chúng” [62, tr.10].
3.2.1.2. Quá trình định danh
Theo lí thuyết định danh, trong mỗi sự vật, hiện tượng thường bao hàm nhiều
đặc trưng khác nhau, nhưng để định danh người ta chỉ chọn một đặc trưng tiêu biểu,
nghĩa là đặc trưng đó dễ khu biệt với các sự vật, hiện tượng khác và đặc trưng này
đã có tên gọi trong ngôn ngữ. Thông thường, chúng ta thường chọn đặc trưng nào
đó “đập vào mắt” để lấy làm đại diện cho đối tượng. V.G. Gak cho rằng, quá trình
định danh gắn liền với hành vi phân loại: “Trong ngôn ngữ tự nhiên, quá trình gọi
tên tất yếu gắn với hành vi phân loại. Nếu như cần phải biểu thị một đối tượng X
nào đó mà trong ngôn ngữ chưa có tên gọi, thì trên cơ sở các đặc trưng đã được tách
60
ra trong đối tượng này, nó được quy vào khái niệm “A”hoặc “B” mà trong ngôn
ngữ đã có cách biểu thị riêng cho chúng và nhận tên gọi tương ứng. Nhưng đồng
thời cũng diễn ra sự “lắp ráp” bản thân các từ vào hiện thực, nghĩa là người ta có thể
bỏ đi hoặc thêm một cái gì đó vào sự hiểu biết ban đầu ấy”[Dẫn theo 19, từ tr.21-
tr.22].
Như vậy, quá trình định danh sự vật, hiện tượng gồm hai bước: quy loại khái
niệm và chọn đặc trưng khu biệt.
3.2.1.3. Các nguyên tắc định danh
Theo một số nhà nghiên cứu như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Tồn… khi định
danh có 2 nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ:
- Tên gọi (cái biểu hiện) phải có mối liên hệ nào đó với ý nghĩa của tên gọi
(cái được biểu hiện). Tên gọi phải khái quát, trừu tượng, phái mất khả năng gợi đến
những đặc điểm, thuộc tính riêng rẽ tạo thành đối tượng vì tên gọi là sản phẩm của
tư duy trừu tượng. Điều này cũng có nghĩa là tên gọi phải tách hẳn với những dấu
vết của giai đoạn cảm tính [9, tr.190].
- Tên gọi phải có sự phân biệt giữa sự vật, đối tượng này với sự vật, đối
tượng khác và sự phân biệt này bao gồm trong cùng một loại hay là phân biệt giữa
các loại nhỏ trong cùng một loại lớn. Mặc dù lí tưởng phải lựa chọn được đặc trưng
bản chất nghĩa là đặc trưng tiêu biểu để đặt tên nhưng với điều kiện đặc trưng đó
phải bảo đảm cả giá trị khu biệt. "Đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh miễn
sao có giá trị khu biệt sự vật ấy với sự vật khác" [86, tr.190].
3.2.2. Các đơn vị định danh trong thuật ngữ máy xây dựng
Trong thuật ngữ máy xây dựng có thể phân thành hai nhóm thuật ngữ tương
ứng với 2 loại đơn vị định danh dựa trên cả tiêu chí hình thức và ngữ nghĩa:
Nhóm 1 là các thuật ngữ có cấu tạo 1 ngữ tố, gọi tên các sự vật, hiện tượng,
quá trình, tính chất, chi tiết, hoạt động… Chúng tôi gọi đây là đơn vị định danh
gốc. Ví dụ: khoan, xúc, ủi, đầm, đèn, còi, sửa chữa, bảo dưỡng… Nhóm này có 302
đơn vị và đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra nhiều đơn vị thuật ngữ
phái sinh.
61
Nhóm 2 có 496 đơn vị là các thuật ngữ có cấu tạo từ 2 ngữ tố trở lên kết hợp
với nhau, gọi tên các sự vật, hiện tượng, quá trình, tính chất một cách chính xác, cụ
thể. Chúng tôi gọi đây là đơn vị định danh phái sinh. Qua nghiên cứu, hầu hết các
thuật ngữ được tạo thành nhờ phương thức cấu tạo ghép theo mô hình cấu trúc
chính phụ hay còn gọi là quan hệ phụ thuộc, trong đó ngữ tố chính thường đứng
trước mang tính khái quát, ngữ tố phụ đứng sau bổ sung ý nghĩa cho ngữ tố chính
nhằm cụ thể hóa hay khu biệt cho thuật ngữ đó. Còn thuật ngữ cấu tạo theo quan hệ
đẳng lập hoặc cấu tạo theo quan hệ chính phụ có trật tự ngữ tố ngược với cú pháp
Việt (phụ trước chính sau) chiếm tỉ lệ ít.
Như chúng ta đã biết, quá trình định danh sự vật, hiện tượng chính là quy
loại khái niệm và chọn đặc trưng khu biệt, nên chỉ có các đơn vị thuật ngữ phái
sinh mới có thể thấy rõ đầy đủ quá trình này, đồng thời nó chỉ diễn ra ở các thuật
ngữ được cấu tạo theo quan hệ chính phụ. Đây cũng chính là những đơn vị có thể
thấy rõ lí do, bởi vì dựa vào hình thái bên trong của chúng, tức là dựa vào ý nghĩa
các thành phần được tách ra trong tên gọi, chúng ta có thể giải thích được lí do của
tên gọi đó. Do vậy, đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng được xem xét
ở nhóm này. Ở phần này, chúng tôi sẽ tìm hiểu cả việc quy loại khái niệm và chọn
đặc trưng khu biệt trong quá trình định danh thuật ngữ máy xây dựng. Trước hết là
việc quy loại khái niệm tức các phạm trù ngữ nghĩa.
3.2.3. Các phạm trù ngữ nghĩa của thuật ngữ máy xây dựng
3.2.3.1. Cơ sở phân loại
Thuật ngữ phái sinh là các đơn vị có thể phân tách được các thành phần cấu
tạo của chúng và trong thành phần cấu tạo của chúng gồm có 2 thành phần: chính
(đứng trước, mang tính khái quát) và phụ (đứng sau, cụ thể hóa, khu biệt ý nghĩa
cho ngữ tố chính). Tương ứng với hai thành phần này về mặt ngữ nghĩa chính là
phần chỉ loại và phần chỉ các đặc trưng khu biệt.
Do đó, để xem xét việc quy loại khái niệm của thuật ngữ máy xây dựng,
chúng tôi dựa trên nội dung biểu đạt của thành phần chính trong mỗi thuật ngữ. Các
62
thuật ngữ có thành phần chính biểu thị cùng một nội dung khái niệm giống nhau thì
chúng sẽ được quy loại ở cùng một phạm trù.
3.2.3.2. Các phạm trù
Qua nghiên cứu các công trình [115], [116], [121], [122], [123], [124], [125],
[126], [128] chúng tôi đã xác định được 7 phạm trù nội dung ngữ nghĩa: hoạt động,
thiết bị, bộ phận, đặc tính kỹ thuật, thời gian, số liệu - chi phí, nhiên liệu - bôi trơn,
mát và đây cũng là các phạm trù ngữ nghĩa tiêu biểu, thể hiện rõ nhất các lĩnh vực
chuyên môn sâu của ngành kỹ thuật máy xây dựng.
Các thuật ngữ có thành tố chính biểu thị cùng một nội dung khái niệm sẽ tạo
thành một nhóm. Tạo sự khu biệt giữa các thuật ngữ trong nhóm là chức năng của
các thành tố phụ. Hay nói cách khác, thành tố phụ chuyển tải đặc trưng khu biệt
được lựa chọn làm cơ sở định danh cho mỗi thuật ngữ. Chúng tôi sẽ lần lượt phân
tích các đặc trưng khu biệt được lựa chọn để làm cơ sở định danh cho mỗi thuật
ngữ, từ đó xây dựng mô hình định danh của các thuật ngữ biểu đạt cùng một nội
dung khái niệm.
3.2.4. Các đặc trưng được lựa chọn làm cơ sở định danh thuật ngữ máy
xây dựng
3.2.4.1. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ hoạt động trong lĩnh vực máy xây dựng
Hoạt động trong lĩnh vực máy xây dựng bao gồm tháo lắp, sửa chữa, bảo dưỡng
cũng như các hoạt động lập kế hoạch, hoạt động của các thiết bị, cơ cấu có liên
quan đến máy xây dựng.
Nhóm này có 65 thuật ngữ và cùng chung mô hình:
Hoạt động + đặc trưng được chọn
Các đặc trưng được chọn để định danh nhóm thuật ngữ này gồm 5 loại đặc
trưng. Các thuật ngữ chỉ các hoạt động trong ngành máy xây dựng được tạo ra theo
các mô hình định danh sau:
Mô hình 1: Hoạt động + cách thức
Đặc trưng mô hình này có 32 thuật ngữ. Ví dụ: Truyền động bánh răng,
sàng sơ bộ, sửa chữa không lắp lẫn…
63
Mô hình 2: Hoạt động + tính chất
Mô hình này có 12 thuật ngữ. Ví dụ: sàng thô, sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ,
chẩn đoán chính xác, trộn tự động…
Mô hình 3: Hoạt động + thời gian
Mô hình này có 9 thuật ngữ. Ví dụ: làm việc theo chu kỳ, bảo dưỡng kỹ
thuật định kỳ, sửa chữa thường xuyên ,…
Mô hình 4: Hoạt động + đối tượng
Mô hình này có 7 thuật ngữ. Ví dụ: bốc xếp hàng hóa, bốc hơi nhiên liệu,
đo áp suất, sàng sản phẩm,…
Mô hình 5: Hoạt động + vị trí
Mô hình này có 5 thuật ngữ. Ví dụ: vận chuyển trên băng, di chuyển theo
phương ngang, vận chuyển trong ống kín…
3.2.4.2. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ các thiết bị
Thuật ngữ chỉ thiết bị có 87 đơn vị, chọn 8 loại đặc trưng để làm cơ sở định
danh. Trong đó, hình thức và chức năng là hai loại đặc trưng được sử dụng nhiều
nhất để làm cơ sở gọi tên các thiết bị.
Nhóm này có cùng một mô hình khái quát:
Thiết bị + đặc trưng được chọn
Các loại đặc trưng được chủ thể lựa chọn để định danh nhóm thuật ngữ này
theo các mô hình định danh sau:
Mô hình 1: Thiết bị + hình thức
Mô hình này có 24 thuật ngữ. Ví dụ: máy bơm dầu kiểu bánh răng, cần cẩu
tháp, máy bơm bê tông vòi voi, …
Mô hình 2: Thiết bị + chức năng
Mô hình này có 22 thuật ngữ. Ví dụ: máy ổn định nền móng, máy phun bê
tông, máy rải nhựa đường átphan, xe sửa chữa điện, máy trộn bê tông…
Mô hình 3: Thiết bị + tính chất
Mô hình này có 16 thuật ngữ. Ví dụ: Máy bơm bê tông đa năng, máy sàng
rung vô hướng, máy xúc gầu ngược, máy trộn cưỡng bức…
64
Mô hình 4: Thiết bị + năng lượng hoạt động
Mô hình này có 8 thuật ngữ. Ví dụ: máy nâng động cơ điện, máy nâng động
cơ điezen, máy đóng cọc điezen …
Mô hình 5: Thiết bị + nguyên lýhoạt động
Mô hình này có 6 thuật ngữ. Ví dụ: máy đầm nền rung, máy đầm dùi, máy lu
rung, máy sàng rung …
Mô hình 6: Thiết bị + cách thức
Mô hình này có 6 thuật ngữ. Ví dụ: máy xúc đào thủy lực, máy vét gầu
ngoạm, máy đóng ván cừ thủy lực, …
Mô hình 7: Thiết bị + vị trí
Mô hình này có 5 thuật ngữ. Ví dụ: máy đào thủy lực gắn trên giàn, máy đào
vét đặt trên cầu phao, cần cẩu đặt trên ô tô, …
Mô hình 8: Thiết bị + bộ phận cấu tạo
Mô hình này có 2 thuật ngữ. Ví dụ: máy lu ba quả lu, máy khoan hai cần.
3.2.4.3. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ các bộ phận
Nhóm này có số lượng thuật ngữ tương đối lớn với 216 đơn vị. Mô hình định
danh khái quát của nhóm này là :
Bộ phận + đặc trưng được chọn
Các đặc trưng được chủ thể lựa chọn để định danh nhóm thuật ngữ này theo
các mô hình định danh sau:
Mô hình 1: Bộ phận + chức năng
Mô hình này có số lượng thuật ngữ lớn với 51 đơn vị. Ví dụ: bộ cảm biến tốc
độ, van phân phối, van giới hạn áp suất, nắp đậy bảo vệ máy, mô tơ cánh quạt làm
mát két nước, bộ lọc áp suất nạp…
Mô hình 2: Bộ phận + tính chất
Đây là mô hình định danh của 29 thuật ngữ. Ví dụ: bánh cứng trơn, phanh
phụ, búa rung nối cứng, búa rung nối mềm, khớp nối bù, bánh đai chủ động, cầu
chủ động…
Mô hình 3: Bộ phận + đối tượng
65
Mô hình này có 26 thuật ngữ. Ví dụ: máng trượt xả bê tông, khung gá động
cơ, công tắc tắt nhiên liệu, ống dẫn xăng, lọc nhiên liệu…
Mô hình 4: Bộ phận + cách thức
Có 22 thuật ngữ được định danh theo mô hình này. Ví dụ: động cơ khí nén,
bơm thủy lực, kích thủy lực, động cơ tua bin khí, bơm nhiên liệu bằng điện…
Mô hình 5: Bộ phận + vị trí
Mô hình tạo ra 18 thuật ngữ. Ví dụ: động cơ kiểu xi lanh xếp nằm ngang,
bơm píttông hướng trục, ống dẫn nhiên liệu xuống thùng, gương chiếu hậu, động
cơ đặt phía trước, bộ vi sai trung tâm,…
Mô hình 6: Bộ phận + số lượng
Mô hình này có 17 thuật ngữ. Ví dụ: van bi một chiều, động cơ disel bốn kỳ,
hộp giảm tốc hai cấp, tời một tang, mô tơ bốn xi lanh, động cơ năm xi lanh, động
cơ piston đôi,…
Mô hình 7: Bộ phận + hình thức
Cũng có 17 thuật ngữ được định danh theo mô hình này. Ví dụ: động cơ đầu
chữ F, khớp nối chặt kiểu đĩa, ly hợp ma sát hình trụ, động cơ chữ V, bánh răng
hình nón, băng tải hình máng, …
Mô hình 8: Bộ phận + cấu tạo
Mô hình này có 15 thuật ngữ. Ví dụ: tời có tang ma sát, bơm có cánh bên
ngoài, lốp không gờ, lốp không xăm, bánh có vấu,…
Mô hình 9: Bộ phận + hoạt động
Mô hình này tạo ra 10 thuật ngữ. Ví dụ: động cơ dẫn động cơ cấu quay, van
thường đóng, bánh răng gài số, thiết bị tựa quay, tang căng băng, …
Mô hình 10: Bộ phận + cách thức hoạt động
Mô hình này có 9 thuật ngữ. Ví dụ: búa rung kết hợp với va đập, mô tơ
không thể thay đổi lưu lượng, bộ phận tách nhiên liệu, búa va rung, búa xung
kích, …
Mô hình 11: Bộ phận + vật liệu
Mô hình này có duy nhất 1 thuật ngữ: pa lăng cáp
66
3.2.4.4. Đặc trưng định danh thuật ngữ đặc tính kỹ thuật máy xây dựng
Nhóm này có số lượng thuật ngữ không nhiều, gồm 94 đơn vị. Mô hình định
danh khái quát của nhóm này là :
Đặc tính kỹ thuật + đặc trưng được chọn
Các đặc trưng được chủ thể lựa chọn để định danh nhóm thuật ngữ này theo
các mô hình định danh sau:
Mô hình 1: Đặc tính kỹ thuật + đối tượng
Đây là mô hình có số lượng thuật ngữ nhiều nhất: 47 thuật ngữ, như: kích
thước toàn bộ máy, thể tích xy lanh, dung tích gầu, đường kính piston, chiều cao
bàn ủi,…
Mô hình 2: Đặc tính kỹ thuật + hoạt động
Mô hình tạo ra 18 thuật ngữ. Ví dụ: lực điều khiển tốc độ, tốc độ nâng vật,
trọng lượng vận hành, xác suất sửa chữa, tải trọng nâng,…
Mô hình 3: Đặc tính kỹ thuật + tính chất
Đây là mô hình định danh của 13 thuật ngữ. Ví dụ: các thông số kỹ thuật
chính, mạch kín cơ bản, thông số cơ bản, hệ thống bảo dưỡng tự động…
Mô hình 4: Đặc tính kỹ thuật + vị trí
Mô hình này có 6 thuật ngữ. Ví dụ như: lực ép xuống, tiết diện ngang, áp
lực tiếp đất,…
Mô hình 5: Đặc tính kỹ thuật + mức độ
Mô hình này có 5 thuật ngữ. Ví dụ: lực kéo lớn nhất, mômem xoắn lớn nhất,
khoảng cách gầm nhỏ nhất, lượng năng lượng tiêu hao ít,…
Mô hình 6: Đặc tính kỹ thuật + cách thức
Mô hình này tạo ra 4 thuật ngữ. Ví dụ như: hệ thống điều khiển thủy lực, hệ
thống lái trợ lực, …
Mô hình 7: Đặc tính kỹ thuật + cấu tạo
Mô hình này duy nhất chỉ sản sinh ra 1 thuật ngữ là: sơ đồ mạch khép kín.
67
3.2.4.5. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ thời gian
Nhóm này có số lượng thuật ngữ khá ít, gồm 13 đơn vị. Mô hình định danh
khái quát của nhóm này là :
Thời gian + đặc trưng được chọn
Các đặc trưng được chủ thể lựa chọn để định danh nhóm thuật ngữ này theo
các mô hình định danh sau:
Mô hình 1: Thời gian + hoạt động
Mô hình này có lượng thuật ngữ chiếm đa số 9/13 đơn vị. Ví dụ như: chu kỳ
bảo dưỡng, thời gian vận chuyển, thời gian vận hành máy, thời gian thi công,…
Mô hình 2: Thời gian + hoạt động + tính chất
Có một vài thuật ngữ theo mô hình này như: chu kỳ bảo dưỡng kỹ thuật,
tổng thời gian bảo dưỡng kỹ thuật, thời gian vận hành liên tục, …
Mô hình 3: Thời gian + số lượng + hoạt động
Mô hình này có 3 thuật ngữ. Ví dụ: thời gian một lần sửa chữa, thời gian
một lần bảo dưỡng, tuổi thọ giữa hai lần sửa chữa,…
3.2.4.6. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ chi phí- số liệu
Nhóm này có số lượng thuật ngữ rất ít, gồm 8 đơn vị. Mô hình định danh
khái quát của nhóm này là :
Chi phí - số liệu + đặc trưng được chọn
Với số lượng ít và cũng chỉ lựa chọn hai đặc trưng để làm cơ sở định danh:
Mô hình 1: Chi phí - số liệu + hoạt động
Mô hình này có 4 thuật ngữ. Ví dụ : Tổng chi phí sửa chữa, tổng chi phí bảo
dưỡng, kinh phí dành cho sửa chữa, kinh phí dành cho bảo dưỡng.
Mô hình 2: Chi phí - số liệu + tính chất
Có 2 thuật ngữ theo mô hình này như: tổng chi phí sửa chữa nhỏ, tổng chi
phí sửa chữa lớn.
Mô hình 3: Chi phí - số liệu + thời gian
Có 2 thuật ngữ theo mô hình này như: tổng chi phí bảo dưỡng định kỳ, tổng
chi phí sửa chữa thường xuyên
68
3.2.4.7. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ nhiên liệu - bôi trơn, mát để cung cấp
cho máy xây dựng
Số lượng thuật ngữ thuộc nhóm này không nhiều, chỉ có 10 đơn vị. Mô hình
định danh khái quát của nhóm này là :
Nhiên liệu - bôi trơn, mát + đặc trưng được chọn
Mô hình 1: Nhiên liệu - bôi trơn, mát + đối tượng
Mô hình này sản sinh ra 4 thuật ngữ : dầu động cơ, dầu phanh, dầu hộp số,..
Mô hình 2: Nhiên liệu - bôi trơn, mát + mục đích
Mô hình này có 5 thuật ngữ. Ví dụ: dầu bôi trơn, nước làm mát động cơ,
nước rửa kính, dầu chạy rà máy,..
Mô hình 3: Nhiên liệu - bôi trơn, mát + tính chất
Mô hình này có 1 thuật ngữ: dầu mỡ phụ.
3.2.5. Nhận xét chung về đặc điểm định danh thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
a. Về phạm trù ngữ nghĩa
Về mặt phạm trù ngữ nghĩa, đáng chú ý nhất là các phạm trù chỉ bộ phận,
đặc tính kỹ thuật vì đây là các phạm trù có số lượng thuật ngữ vượt trội so với các
nhóm còn lại. Bảy phạm trù ngữ nghĩa trên đây đã phản ánh tương đối đầy đủ các
lĩnh vực chuyên sâu của ngành kĩ thuật máy xây dựng.
b. Về đặc trưng khu biệt
Để định danh thuật ngữ thuộc các phạm trù này trong lĩnh vực máy xây
dựng, có thể nhận thấy 16 loại đặc trưng khu biệt đã được lựa chọn và các loại đặc
trưng khu biệt này được sử dụng với mức độ phổ biến khác nhau. Đáng chú ý nhất
là loại đặc trưng về chức năng (145 lần ) được sử dụng nhiều nhất. Tiếp đó là các
loại đặc trưng về tính chất (98 lần ), cách thức (76 lần ) và hoạt động ( 43 lần )
được sử dụng tương đối nhiều. Chỉ 4 loại đặc trưng này đã xuất hiện ở gần một nửa
số lượng thuật ngữ máy xây dựng được khảo sát. Điều này cho thấy rằng, khi định
danh các khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực máy xây dựng, nên chú ý đến đặc
điểm sự hành chức của chúng. Ngược lại, các loại đặc trưng về số lượng ( 9 lần ),
vật liệu (6 lần ), mức độ (5 lần)… hầu như ít được chú ý khi định danh thuật khái
69
niệm, đối tượng trong lĩnh vực máy xây dựng, do đó số lượng thuật ngữ sử dụng các
loại đặc trưng khu biệt này hầu như không đáng kể.
3.2.6. So sánh đặc điểm định danh giữa thuật ngữ máy xây dựng với thuật ngữ
thuộc một số lĩnh vực khác: thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ và thuật ngữ Kĩ thuật
xây dựng tiếng Việt
Việc so sánh đặc điểm định danh giữa thuật ngữ Máy xây dựng với thuật ngữ
Luật sở hữu trí tuệ [56] và thuật ngữ tiếng Việt trong lĩnh vực Xây dựng [31] nhằm
mục đích tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa chúng. Trong việc nghiên cứu đặc
điểm định danh của thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ và thuật ngữ Kĩ thuật xây dựng, về
cơ bản các tác giả cũng đều xem xét trên các phạm trù ngữ nghĩa và các đặc trưng
khu biệt. Kết quả cho thấy, thuật ngữ Kĩ thuật xây dựng có 10 phạm trù ngữ nghĩa,
trong khi ở lĩnh vực Luật sở hữu trí tuệ con số này là 6 phạm trù, còn ở thuật ngữ
Máy xây dựng là 7 phạm trù. Để định danh các phạm trù ngữ nghĩa, ở lĩnh vực Kĩ
thuật xây dựng, chủ thể đã sử dụng một hệ thống khá nhiều các loại đặc trưng khu
biệt, gồm 30 loại đặc trưng. Còn ở Luật sở hữu trí tuệ chỉ có 8 loại đặc trưng, và ở
Máy xây dựng có 16 loại đặc trưng đã được dùng làm cơ sở định danh thuật ngữ.
Như vậy, giữa ba loại thuật ngữ tiếng Việt: Máy xây dựng, Luật sở hữu trí
tuệ và Kĩ thuật xây dựng có một sự khác biệt về đặc điểm định danh, trong đó thuật
ngữ Kĩ thuật xây dựng tiếng Việt là lĩnh vực có phạm vi hoạt động rộng nhất, còn
thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ và thuật ngữ Máy xây dựng là hai chuyên ngành hẹp
hơn. Sự khác biệt rõ nét nhất trong việc chọn đặc trưng làm cơ sở định danh của
thuật ngữ Máy xây dựng so với các ngành khác - đó là đặc trưng về chi tiết, kết cấu,
các bộ phận của máy xây dựng . Đây có thể coi là đặc trưng riêng, đặc thù của
ngành máy xây dựng.
Tuy nhiên, đặc trưng mang tính phổ quát được chọn nhiều nhất để định danh
trong lĩnh vực thuật ngữ Máy xây dựng, Luật sở hữu trí tuệ và Kĩ thuật xây dựng
đều là đặc trưng về chức năng hoạt động (ở Luật sở hữu trí tuệ tác giả gọi là lĩnh
vực hoạt động được phép nhưng có thể khái quát thành đặc trưng về chức năng hoạt
động). Đây là điểm tương đồng lớn nhất của cả ba hệ thống thuật ngữ này. Kết
70
quả này cung cấp thêm một chứng cớ khẳng định sự khác biệt giữa việc định danh
đối tượng thuộc lĩnh vực máy xây dựng nói riêng và trong các lĩnh vực khoa học,
chuyên môn nói chung với việc định danh các đối tượng thuộc đời sống thông
thường. So sánh với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Tồn [86, tr.203- tr.309] về
đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh của một số lớp từ vựng cơ bản trong tiếng
Việt (trường từ vựng chỉ bộ phận cơ thể người, động thực vật) có thể nhận thấy
rằng trong quá trình định danh các đối tượng thuộc về đời sống thông thường này,
đặc trưng về hình thức/ hình dạng lại là đặc trưng được chú ý nhiều nhất bởi vì “đó
là những đặc trưng dễ được tiếp nhận một cách rõ ràng nhất bằng thị giác, đúng
theo nghĩa đen của từ như đã nói “những đặc trưng “đập vào mắt mà tôi lấy làm đại
diện cho đối tượng” [86, tr.286]. Còn trong cách định danh sự vật, đối tượng thuộc
lĩnh vực máy xây dựng cũng như trong các lĩnh vực chuyên môn khác thì người ta
lại không quan tâm nhiều đến hình dáng bên ngoài của chúng. Điều mà họ quan tâm
nhất là sự hoạt động và chức năng của chúng.
Kết luận chương 3
Đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt được trình bày
trong chương này theo các phương diện: con đường hình thành thuật ngữ máy xây
dựng, đặc điểm định danh của các thuật ngữ - đơn vị định danh tổng hợp tính và đặc
điểm định danh của các thuật ngữ - đơn vị định danh miêu tả.
1. Dựa trên nguồn tư liệu thực tế và sự tổng kết về mặt lí luận, chúng tôi đã
xác định được có 5 con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt: 1.
Thuật ngữ hóa từ thông thường; 2. Vay mượn thuật ngữ nước ngoài (ngôn ngữ Ấn
Âu) bằng cách giữ nguyên dạng; 3. Vay mượn thuật ngữ nước ngoài bằng cách
phiên âm; 4. Sao phỏng thuật ngữ nước ngoài; 5. Ghép lai. Sao phỏng là con đường
chủ đạo trong việc xây dựng và làm giàu vốn thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt.
Còn số thuật ngữ máy xây dựng vay mượn theo lối giữ nguyên dạng và phiên âm
chỉ chiếm tỉ lệ thấp và đây chủ yếu là các thuật ngữ được vay mượn từ tiếng Pháp
và hầu như đã được Việt hóa.
71
2. Dựa theo nội dung các lĩnh vực chuyên môn sâu, luận văn phân loại thuật
ngữ máy xây dựng tiếng Việt thành 7 phạm trù tức 7 tiểu hệ thống lớn nhỏ khác
nhau và có những miêu tả, thống kê cần thiết ở mỗi tiểu hệ thống. Kết quả phân loại
đã phản ánh sự phong phú cũng như tính hệ thống cao của hệ thuật ngữ máy xây
dựng. Thông qua sự phân loại này, có thể thấy thuật ngữ máy xây dựng là những từ
ngữ chuyên môn phản ánh các khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực máy xây dựng.
3. Đặc điểm định danh thuật ngữ máy xây dựng là vấn đề trọng tâm của
chương ba và được chúng tôi xem xét thông qua: các đơn vị định danh, phạm trù
ngữ nghĩa và đặc trưng khu biệt. Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết thuật ngữ
máy xây dựng tiếng Việt là các đơn vị định danh phái sinh và đây cũng chính là các
đơn vị có thể phân tách được các thành phần cấu tạo, điều đó giúp ta thấy được rõ lí
do của tên gọi –thuật ngữ. Như vậy tính phân tích và rõ lí do là đặc trưng nổi bật
của thuật ngữ máy xây dựng. Như đã trình bày ở trên, các thuật ngữ máy xây dựng
thuộc 7 phạm trù ngữ nghĩa và lựa chọn 16 loại đặc trưng khu biệt để làm cơ sở
định danh. Trong số 16 loại đặc trưng khu biệt thì loại đặc trưng chức năng được
xuất hiện trong các thuật ngữ với số lượng lớn nhất. Qua kết quả trên có thể nhận
thấy thuật ngữ máy xây dựng có phạm trù ngữ nghĩa không rộng lắm, nhưng các
loại đặc trưng khu biệt đã được lựa chọn làm cơ sở định danh khi đặt thuật ngữ lại
khá phong phú. Đây cũng là điểm làm nên sự tương đồng và cả khác biệt giữa đặc
điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng so với việc định danh các sự vật, hiện
tượng thông thường trong đời sống cũng như so với đặc điểm định danh của một số
hệ thuật ngữ tiếng Việt khác như Luật sở hữu trí tuệ và Kĩ thuật xây dựng.
72
KẾT LUẬN
Ngành máy xây dựng của Việt Nam hiện nay có những thành tựu phát triển
mạnh mẽ, giải phóng đáng kể sức lao động cho con người, trong tương lai có thể đủ
sức cạnh tranh trong thị trường hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với sự tăng trưởng
mạnh mẽ đó thì hệ thống thuật ngữ máy xây dựng cũng có sự phát triển không
ngừng. Tuy nhiên, việc sử dụng các thuật ngữ này trong thực tế còn chưa được
thống nhất, khoa học. Do đó, chúng tôi đã đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu đặc điểm về cấu
tạo, định danh của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt để từ đó chỉ ra hiện trạng cụ
thể của chúng. Việc làm rõ các đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng sẽ góp phần
vào quá trình xây dựng, định hướng chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ này nói riêng và
hệ thống thuật ngữ tiếng Việt nói chung, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển
của một ngành khoa học công nghệ đầy tiềm năng trong quá trình hội nhập.
1. Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, chúng tôi đã hệ thống hóa, phân tích các
quan điểm về thuật ngữ, tiêu chuẩn của thuật ngữ, phân biệt thuật ngữ với các đơn
vị ngôn ngữ có liên quan: danh pháp, từ nghề nghiệp. Từ đó chúng tôi quan niệm
rằng: thuật ngữ là từ hoặc cụm từ biểu hiện khái niệm, thuộc tính, đối tượng, sự vật,
hiện tượng… thuộc một lĩnh vực khoa học hay chuyên môn . Thuật ngữ có các tiêu
chuẩn thuộc về bản thể, đó là: tính khoa học ( được hiểu là có tính chính xác, hệ
thống, ngắn gọn) và tính quốc tế; thuật ngữ cũng có những tiêu chuẩn không thuộc
về bản thể, đó là: tính dân tộc, tính đại chúng. Từ định nghĩa cùng với những tiêu
chuẩn này, có thể phân biệt được thuật ngữ với danh pháp và từ nghề nghiệp.
Cùng với cơ sở lý luận về thuật ngữ, chúng tôi đã xác định khái niệm thuật
ngữ máy xây dựng làm cơ sở cho việc nghiên cứu: Thuật ngữ máy xây dựng là
những từ ngữ gọi tên khái niệm, sự vật, hiện tượng, quá trình hoạt động, trạng thái,
chi tiết, quan hệ…trong lĩnh vực máy xây dựng.
2. Các thuật ngữ máy xây dựng có thể được hình thành qua những con đường
sau: thuật ngữ hóa từ thông thương (số lượng không nhiều), cấu tạo mới bằng cách
sao phỏng thuật ngữ nước ngoài. Sao phỏng thuật ngữ nước ngoài là con đường chủ
đạo trong việc xây dựng và làm giàu vốn thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Các
73
thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt có thể là những thuật ngữ được vay mượn từ
ngôn ngữ Ấn Âu theo lối phiên âm hoặc giữ nguyên dạng. Số lượng thuật ngữ loại
này chỉ chiếm tỉ lệ thấp và đây chủ yếu là các thuật ngữ được vay mượn từ tiếng
Pháp và hầu như đã được Việt hóa.
3. Trên cơ sở phân tích 798 thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, luận văn
miêu tả đặc điểm cấu tạo của chúng với 2 tiểu loại: thuật ngữ có cấu tạo là từ và
thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ.
Thuật ngữ có cấu tạo là từ chiếm 37,8% (302/798 thuật ngữ). Trong đó số
thuật ngữ là từ đơn tiết chiếm 24,2 % và thuật ngữ là từ đa tiết chiếm 75,8%. Các
thuật ngữ đơn tiết chủ yếu là thuần Việt. Các thuật ngữ đa tiết gồm 3 tiểu loại: thuật
ngữ là từ ghép chính phụ, thuật ngữ là từ ghép đẳng lập và thuật ngữ là từ ghép
ngẫu hợp. Trong đó 75% thuật ngữ đa tiết là từ ghép chính phụ có mô hình cấu tạo
chủ yếu là thành tố chính đứng trước, thành tố phụ đứng sau. Về mặt từ loại, thuật
ngữ máy xây dựng chủ yếu là danh từ /cụm danh từ và động từ/cụm động từ gọi tên
các chi tiết kết cấu, các loại máy móc và các hoạt động thi công, vận hành trong
ngành. Về nguồn gốc của thuật ngữ và các đơn vị cấu tạo thuật ngữ (tức ngữ tố), có
thể nhận thấy có sự tham gia của cả 3 loại đơn vị: thuần Việt, Hán Việt và Ấn Âu.
Trong đó, tuyệt đại đa số (81,6%) các thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ ghép
thuần chủ yếu được tạo ra bởi các ngữ tố thuần Việt, sau đó là loại ghép lai do các
ngữ tố thuần Việt và Hán Việt tạo thành theo quan hệ chính - phụ. Đây là đặc điểm
tương đối khác biệt của hệ thuật ngữ máy xây dựng so với một số hệ thuật ngữ
khác, chẳng hạn, thuật ngữ trong Luật sở hữu trí tuệ, thuật ngữ trong lĩnh vực Kĩ
thuật xây dựng...
Các thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ chiếm 62,2%. Dựa trên số
lượng ngữ tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, chúng được chia thành các nhóm: thuật
ngữ hai ngữ tố; thuật ngữ ba ngữ tố; thuật ngữ bốn ngữ tố; thuật ngữ năm ngữ tố.
Trong đó, thuật ngữ gồm hai hoặc ba ngữ tố chiếm số lượng lớn nhất. Thuật ngữ có
từ bốn ngữ tố trở lên chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ. Về mặt từ loại, thuật ngữ máy
xây dựng chủ yếu là danh từ hoặc cụm danh từ (86,9 %). Số thuật ngữ là động từ
hoặc cụm động từ chỉ chiếm 13,1 %, và không có thuật ngữ là cụm tính từ. Về
74
nguồn gốc của các ngữ tố cấu tạo thuật ngữ là cụm từ, thì được sử dụng nhiều nhất
vẫn là ngữ tố thuần Việt, sau đó là ngữ tố Hán Việt và cuối cùng là các ngữ tố Ấn
Âu. Sự kết hợp của các ngữ tố này rất phong phú. Bên cạnh các thuật ngữ được tạo
ra từ các ngữ tố cùng loại kết hợp với nhau (thuần Việt+thuần Việt, Hán Việt+Hán
Việt; Ấn Âu+Ấn Âu), còn có nhiều thuật ngữ máy xây dựng được tạo bởi ghép lai
bằng sự kết hợp của các ngữ tố khác nguồn gốc với các kiểu trật tự khác nhau:
thuần Việt + Hán Việt, thuần Việt +Ấn Âu, Hán Việt +thuần Việt, Hán Việt+Ấn
Âu, Ấn Âu + thuần Việt, Ấn Âu + Hán Việt, thuần Việt +Hán Việt + Ấn Âu, Hán
Việt + Ấn Âu+ thuần Việt, Ấn Âu + thuần Việt + Hán Việt, Ấn Âu+ Hán Việt +
thuần Việt.
Về cấu tạo, đa số thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ ghép hoặc cụm từ được
cấu tạo chủ yếu theo mô hình chính phụ: ngữ tố chính đứng trước, ngữ tố hoặc tổ
hợp ngữ tố phụ đứng sau. Chính mô hình cấu tạo phổ biến này đã làm nên tính hệ
thống về cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, thuật ngữ khoa học tiếng
Việt nói chung.
4. Trên cơ sở phân tích 798 thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, chúng tôi đã
xác định được 7 phạm trù nội dung ngữ nghĩa: hoạt động, thiết bị, bộ phận, đặc
tính kỹ thuật, thời gian, số liệu - chi phí, nhiên liệu - bôi trơn, mát, đây cũng là các
phạm trù ngữ nghĩa tiêu biểu, thể hiện rõ nhất các hoạt động của ngành kỹ thuật
máy xây dựng. Để định danh thuật ngữ thuộc các phạm trù này trong lĩnh vực máy
xây dựng, 16 loại đặc trưng khu biệt đã được lựa chọn và các loại đặc trưng khu
biệt này được sử dụng với mức độ phổ biến khác nhau, trong đó loại đặc trưng
chức năng được sử dụng nhiều nhất. Tiếp đó là các loại đặc trưng tính chất và
cách thức hoạt động cũng được sử dụng nhiều. Chỉ 3 loại đặc trưng này đã xuất
hiện ở gần một nửa số lượng thuật ngữ máy xây dựng được khảo sát. Điều này cho
thấy rằng, khi định danh các khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực máy xây dựng, nên
chú ý đến đặc điểm sự hành chức của chúng. Ngược lại, các loại đặc trưng về số
lượng, vật liệu và mức độ hầu như ít được chú ý khi định danh khái niệm, đối tượng
trong lĩnh vực máy xây dựng, do đó số lượng thuật ngữ sử dụng các loại đặc trưng
khu biệt này hầu như không đáng kể. Kết quả nghiên cứu nêu trên cho thấy thuật
75
ngữ máy xây dựng có phạm trù ngữ nghĩa không rộng lắm nhưng các loại đặc trưng
khu biệt được lựa chọn làm cơ sở định danh lại khá phong phú và đa dạng.
5. So sánh ba loại thuật ngữ tiếng Việt: Máy xây dựng, Luật sở hữu trí tuệ và
Kĩ thuật xây dựng có thể nhận thấy có một sự khác biệt về đặc điểm định danh,
trong đó thuật ngữ Kĩ thuật xây dựng tiếng Việt là lĩnh vực có phạm vi hoạt động
rộng nhất, còn thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ và thuật ngữ Máy xây dựng là hai
chuyên ngành hẹp hơn. Sự khác biệt rõ nét nhất trong việc chọn đặc trưng làm cơ sở
định danh của thuật ngữ máy xây dựng so với các ngành khác đó là đặc trưng về chi
tiết, kết cấu, các bộ phận của máy xây dựng. Đây có thể coi là đặc trưng riêng, đặc
thù của ngành máy xây dựng.
Tuy nhiên, đặc trưng mang tính phổ quát được chọn nhiều nhất để định danh
trong lĩnh vực thuật ngữ Máy xây dựng, Luật sở hữu trí tuệ và Kĩ thuật xây dựng đều
là loại đặc trưng chức năng hoạt động. Đây là điểm tương đồng lớn nhất của cả ba
hệ thống thuật ngữ này. Kết quả này cung cấp thêm một chứng cớ khẳng định sự
khác biệt giữa việc định danh đối tượng thuộc lĩnh vực máy xây dựng nói riêng và
trong các lĩnh vực khoa học, chuyên môn nói chung với việc định danh các đối
tượng thuộc đời sống thông thường: trong quá trình định danh các đối tượng thông
thường thuộc về đời sống, loại đặc trưng hình thức/ hình dạng được chú ý nhiều
nhất. Còn trong việc định danh sự vật, đối tượng thuộc lĩnh vực máy xây dựng cũng
như trong các lĩnh vực chuyên môn khác thì người ta lại không quan tâm nhiều đến
hình dáng bên ngoài của chúng. Cái được quan tâm nhất là chức năng của chúng.
Trên đây là những kết quả nghiên cứu mà chúng tôi đã đạt được. Tuy nhiên
vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ mà chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến như:
- Tác động của các nhân tố xã hội lên sự hình thành, phát triển của thuật
ngữ máy xây dựng tiếng Việt
- Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt trong thực tế sử dụng
- Chuẩn hóa các thuật ngữ máy xây dựng.
…
Chúng tôi hy vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu mở rộng trong các công trình
nghiên cứu trong tương lai.
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Belakhov L.Iu, Những vấn đề tiêu chuẩn hóa Nhà nước về thuật ngữ, Tài liệu
dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch)
2. Budagov R. A. (1976), Thuật ngữ học và kí hiệu học trong cuốn Con người
và ngôn ngữ của họ, Nxb. Trường Đại học tổng hợp Matxcơva, Bản dịch của
Viện Ngôn ngữ học, (Tuấn Tài dịch).
3. Nguyễn Thạc Cát (1980), Về vấn đề thuật ngữ khoa học tiếng Việt gốc Âu,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, H.
4. Nguyễn Tài Cẩn (2000), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán
Việt, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội, H.
5. Nguyễn Tài Cẩn (1981), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. ĐH & THCN, H.
6. Nguyễn Tài Cẩn (chủ biên) (1981), Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam,
Nxb. ĐH&THCN, H.
7. Chafe W.L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb. Giáo dục, H.
8. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H.
9. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb. Giáo dục, H.
10. Đỗ Hữu Châu (1997), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb. ĐH QGHN,
H.
11. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1997), Cơ sở ngôn ngữ
học và tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H.
12. Hồng Dân (1981), Về việc chuẩn hóa từ chuyên danh / Một số vấn đề ngôn
ngữ học Việt Nam, Nxb ĐH&THCN, H.
13. Danilenko V. P., Về biến thể ngắn của thuật ngữ (Vấn đề đồng nghĩa trong
thuật ngữ học), Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Lê Xuân Thại dịch).
14. Vũ Cao Đàm (2007), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học,
Nxb. Giáo dục, H.
15. Đinh Văn Đức (1980), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb. ĐH & THCN, H.
77
16. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục, H.
17. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H.
18. Nguyễn Thị Hà (2008), Tìm hiểu về cách sử dụng thuật ngữ trong các văn
bản pháp luật, Tài liệu Hội thảo tư vấn: Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới
và hội nhập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam – Hội Ngôn
ngữ học Việt Nam, H.
19. Nguyễn Thị Bích Hà (2000), So sánh cách cấu tạo thuật ngữ kinh tế thương
mại trong tiếng Nhật và tiếng Việt hiện đại, luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường
ĐH KHXH&NV, Đại học Quốc Gia Hà Nội, H.
20. Nguyễn Thị Bích Hà (2004), Đặc điểm cấu tạo thuật ngữ thương mại Nhật –
Việt, Nxb. KHXH, H.
21. Hoàng Xuân Hãn (1948), Danh từ khoa học (1.Toán, lý, hóa, cơ, thiên văn),
Khoa học tùng thư, Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn.
22. Hoàng Văn Hành (1983), Về sự hình thành và phát triển thuật ngữ tiếng Việt,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, H.
23. Hoàng Văn Hành (1988), Về cơ chế cấu tạo các đơn vị định danh bậc hai
trong các ngôn ngữ đơn lập / Những vấn đề ngôn ngữ các dân tộc ở Việt
Nam và khu vực Đông Nam Á, Nxb. KHXH, H.
24. Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1991), Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng,
Nxb. KHXH, H.
25. Vũ Quang Hào (1991), Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt, đặc điểm cấu tạo
thuật ngữ quân sự, luận án Phó Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội, H.
26. Vũ Quang Hào (1993), Thuật ngữ quân sự tiếng Việt, Nxb Quân đội nhân
dân, H.
27. Phạm Văn Hảo (2003), Nghiên cứu về từ ngữ nghề nghiệp tiếng Hải Phòng,
Những vấn đề ngôn ngữ học - Kỉ yếu Hội nghị khoa học Viện Ngôn ngữ
học, Nxb. KHXH, H.
78
28. Harris Z. S. (2001), Các phương pháp của ngôn ngữ học cấu trúc, Nxb. Giáo
dục, Tp HCM.
29. Trần Thị Hiền (2002), Sự thâm nhập giữa thuật ngữ chuyên môn và lớp từ
vựng của ngôn ngữ toàn dân / Những vấn đề ngôn ngữ học, Phòng Thông tin
ngôn ngữ học, H.
30. Nguyễn Văn Hiệp (2010), Câu đặc biệt trong tiếng Việt nhìn từ lí thuyết điển
mẫu (protopyte), Tạp chí Ngôn ngữ, số 6, H.
31. Vũ Thị Thu Huyền (2012), Thuật ngữ khoa học kĩ thuật xây dựng trong tiếng
Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện KHXH, H.
32. John Lyons (2009), Ngữ nghĩa học dẫn luận, Nxb. Giáo dục, H.
33. Đỗ Huy, Trường Lưu (1990), Bản sắc dân tộc của văn hóa, Viện Văn hóa.
34. Kandelaki T. L., Hệ thống khái niệm khoa học và hệ thống thuật ngữ, Bản
dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Dương Kỳ Đức dịch).
35. Kapanadze L. A. (1965), Về những khái niệm “thuật ngữ” và “hệ thống thuật
ngữ”, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Trần Thị Tuyên dịch)
36. Kasevich V. B. (1998), Những yếu tố cơ bản của Ngôn ngữ học đại cương,
Nxb. Giáo dục, H.
37. Lê Khả Kế (1967), Xây dựng hệ thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt / Tiếng
Việt và dạy đại học bằng tiếng Việt, Nxb. KHXH, H.
38. Lê Khả Kế (1975), Về một vài vấn đề trong việc xây dựng thuật ngữ khoa
học ở nước ta, Tạp chí Ngôn ngữ số 3, H.
39. Lê Khả Kế (1979), Về vấn đề thống nhất và chuẩn hóa thuật ngữ khoa học
tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 3+4 (41), H.
40. Lê Khả Kế (1984), Chuẩn hóa thuật ngữ khoa học tiếng Việt / Chuẩn hóa
chính tả và thuật ngữ, Nxb. Giáo dục, H.
41. Nguyễn Văn Khang (2000), Chuẩn hóa thuật ngữ nhìn từ bối cảnh xã hội,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, H.
42. Nguyễn Văn Khang (2000), Những vấn đề đặt ra đối với việc xử lí từ ngữ
nước ngoài trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, H.
79
43. Nguyễn Văn Khang (2008), Những vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ và chuẩn hóa
tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 12, H.
44. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H.
45. Nguyễn Thúy Khanh (2002), Ảnh hưởng của các nhân tố xã hội tới sự phát
triển và sự hành chức của các từ mới trong tiếng Việt / Những vấn đề ngôn
ngữ học, Phòng Thông tin Ngôn ngữ học, H.
46. Klimoviskij J. A. A., Thuật ngữ và tính chế ước của định nghĩa khái niệm
trong hệ thống, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch).
47. Kogotkova T. X. (1971), Lịch sử hình thành hệ thống thuật ngữ chính trị, xã
hội, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch, Tuấn Tài hiệu đính).
48. Kutina L.L., Những quá trình ngôn ngữ xuất hiện khi hình thành các thuật
ngữ khoa học, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học
49. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H.
50. Lưu Vân Lăng (1977), Vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học / Về vấn đề xây
dựng thuật ngữ khoa học, Nxb. KHXH, H.
51. Lưu Vân Lăng (1977), Thống nhất quan niệm về tiêu chuẩn của thuật ngữ
khoa học, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, H.
52. Lưu Vân Lăng, Như Ý (1977), Tình hình và xu hướng phát triển thuật ngữ
tiếng Việt trong mấy chục năm qua, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, H.
53. Lưu Vân Lăng (1998), Ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb. KHXH, H.
54. Hồ Lê (2003), Cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb. KHXH, H.
55. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam – Hội Ngôn ngữ học Việt
Nam (tháng 12/2008), Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hội nhập (Tài
liệu Hội thảo tư vấn), H.
56. Mai Thị Loan (2012), Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa thuật ngữ sở hữu trí tuệ
tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ, H.
57. Lotte D.S, Nguyên lí xây dựng hệ thuật ngữ khoa học kĩ thuật, Tài liệu dịch
của Viện Ngôn ngữ học, (Hoàng Lộc dịch)
80
58. Nguyễn Văn Lợi (2010), "Những vấn đề lí luận trong thuật ngữ học ở Liên
Bang Nga, Từ điển học & Bách khoa thư, (6), tr. 21-31.
59. Moixeev A.I., Về bản chất ngôn ngữ của thuật ngữ, Bản dịch của viện Ngôn
ngữ học
60. Moixeev A. I., Về việc định nghĩa thuật ngữ trong các loại từ điển, Bản dịch
của Viện Ngôn ngữ học
61. Hà Quang Năng (2009), Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nửa sau thế kỉ
XX, Nxb. KHXH, H.
62. Hà Quang Năng (2009), Đặc điểm của thuật ngữ tiếng Việt, Từ điển học và
Bách khoa thư, số 2, H.
63. Hà Quang Năng (chủ biên) (2012), Thuật ngữ học những vấn đề lí luận và
thực tiễn, Nxb. Từ điển Bách khoa, H.
64. Nhà xuất bản Đại học Huế (1958), Danh từ chuyên khoa trong thuật ngữ,
Huế.
65. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (1977), Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa
học, H.
66. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (1968), Về vấn đề dùng thuật ngữ khoa học
nước ngoài, H.
67. Nikiforov V. K., Về tính hệ thống của thuật ngữ, Bản dịch của Viện Ngôn
ngữ học, (Nguyễn Trọng Báu dịch).
68. Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn (1984),
Ngôn ngữ học: khuynh hướng – lĩnh vực – khái niệm (tập 1), Nxb. Khoa học
Xã hội, H.
69. Panfilov V.S (2008), Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
70. Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng
71. A.A.Reformaxki, Thế nào là thuật ngữ và hệ thuật ngữ, Bản dịch của Viện
ngôn ngữ học, Hồ Anh Dũng dịch; Phan Thị Nguyệt, Hồ Anh Dũng chỉnh lý.
72. F.de Saussure (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb. KHXH, H.
81
73. Superanskaja A. V., Thuật ngữ và danh pháp, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ
học, (Như Ý dịch).
74. Nguyễn Thị Tân (1981), Thay thế từ vay mượn trong thuật ngữ / Giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, t2, Nxb. KHXH, H.
75. Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu (2002), Tiếng Việt
trên đường phát triển, Nxb. KHXH, H.
76. Nguyễn Thị Kim Thanh (2005), Khảo sát hệ thuật ngữ tin học – viễn thông
tiếng Việt, luận án Tiến sĩ, H.
77. Nguyễn Tất Thắng (2009), Lí thuyết điển mẫu và nhóm động từ ngoại động,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 7, H.
78. Phạm Tất Thắng (2003), Từ nghề nghiệp và cách nhận diện chúng (Qua tư
liệu nghề làm muối ở xã An Hòa, Quỳnh Lưu, Nhệ An), Những vấn đề ngôn
ngữ học - Kỉ yếu Hội nghị khoa học Viện Ngôn ngữ học, Nxb. KHXH, H.
79. Lê Quang Thiêm (2004), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb.
ĐHQGHN, H.
80. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb. Giáo dục, H.
81. Lê Quang Thiêm (2006), Tầng nghĩa và kiểu nghĩa chức năng từ vựng, Tạp
chí Ngôn ngữ, số 3, H.
82. Lê Quang Thiêm (2011), “Về “kho báu” của hệ thống thuật ngữ ngôn ngữ
học”, Từ điển học &Bách khoa thư, (6), tr. 8-15.
83. Lê Văn Thới (1981), Về việc tiếp nhận và Việt hóa từ ngữ nước ngoài / Giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, t2, Nxb. KHXH, H.
84. Phạm Văn Tình (2008), Vấn đề tính thống nhất của một hệ thuật ngữ chuyên
ngành, Tài liệu Hội thảo tư vấn: Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hội
nhập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam – Hội Ngôn ngữ
học Việt Nam, H.
85. Nguyễn Cảnh Toàn (1983), Một số vấn đề xung quanh việc chuẩn hóa chính
tả và thuật ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, H.
82
86. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy, Nxb. KHXH, H.
87. Nguyễn Đức Tồn (2011), Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách khoa,
H.
88. Nguyễn Đức Tồn (2010), “ Các vấn đề khác của chuẩn hoá tiếng Việt”,
Những vấn đề thời sự của chuẩn hoá tiếng Việt, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Viện Ngôn ngữ học.
89. Nguyễn Đức Tồn (2011), Một số vấn đề nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa
thuật ngữ tiếng Việt trong thời kì hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 1, H.
90. Nguyễn Đức Tồn (2001), Cách nhận diện và phân biệt từ thuần Việt với từ
Hán Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, H.
91. Nguyễn Đức Tồn (2001), Làm thế nào để xác định được thành tố chính,
thành tố phụ trong từ ghép chính phụ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8, H.
92. Nguyễn Đức Tồn (2003), Cần phân biệt hai bình diện nhận thức và bản thể
trong nghiên cứu ngôn ngữ học, Tạp chí Ngôn ngữ, số 11, H.
93. Nguyễn Đức Tồn (2011), Về các phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt từ
góc độ nhận thức và bản thể (phần 1,2 ), Tạp chí Ngôn ngữ, số 8, 9, H.
94. Nguyễn Đức Tồn (2010), “Một số vấn đề về nghiên cứu, xây dựng và chuẩn
hoá thuật ngữ Tiếng Việt trong thời kì hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay”,
Ngôn ngữ, số 12, tr.1-9.
95. Nguyễn Đức Tồn (chủ nhiệm đề tài) (2012), Nghiên cứu, khảo sát thuật ngữ
tiếng Việt phục vụ cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam, Đề tài khoa
học cấp Bộ, Viện Ngôn ngữ học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
96. Tô Bá Trọng (2008), Xây dựng hệ thống thuật ngữ khoa học thống nhất – một
yêu cầu bức thiết, Tài liệu Hội thảo tư vấn: Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi
mới và hội nhập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam – Hội
Ngôn ngữ học Việt Nam, H.
97. Nguyễn Văn Tu (1960), Khái luận ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục, H.
83
98. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb. ĐH&THCN,
H.
99. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb. ĐH & THCN,
H.
100. Hoàng Mạnh Tuấn (1970), Về công tác tiêu chuẩn hóa thuật ngữ khoa học kĩ
thuật”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, H.
101. Hoàng Anh Tuấn (1973), Tiêu chuẩn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, H.
102. Hà Học Trạc (2010), Lịch sử lí luận và thực tiễn phiên chuyển các ngôn ngữ
trên thế giới, Nxb. Tri thức, H.
103. Vinokur.G.O (1939), “ Về một số hiện tượng cấu tạo từ trong hệ thuật ngữ kĩ
thuật Nga”, Những bài viết về ngôn ngữ học, Nxb, Viện Hàn lâm Khoa học
Liên xô, Moskva.
104. Viện Ngôn ngữ học (2000), Chính sách của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam trong lĩnh vực ngôn ngữ, H.
105. Xukhov N. K., Công tác có tính chất quốc tế trong lĩnh vực thuật ngữ khoa
học kĩ thuật, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch).
106. Nguyễn Như Ý (1992), Về phương thức cấu tạo thuật ngữ trong một số công
trình xuất bản tại Việt Nam thời kì 1954 – 1975, Tạp chí Khoa học Xã hội, số
14, H.
107. Nguyễn Như Ý(1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo
dục, H.
II. TIẾNG ANH
108. ISO 1087-1: 1920090, Terminology work -– Vocabulary - Part 1: Theory and
application)
(http://www.iso.org/iso/search.htm?qt=1087&searchSubmit=Search&sort=re
l&type=simple&published=on)
84
109. Maria Teresa Cabré, Juan C. Sager, Janet Ann DeCesaris (1999),
Terminology : theory, methods and applications, John Benjamins Publishing,
Amsterdam.
110. http://books.google.com.vn/books?id=GAqGD9Xtu0IC&printsec=frontcover
&dq=terminology.&source=bl&ots=coGewdLrYS&sig=7tIp3kMQdjl7lBjoC
Jj0vUAOtqY&hl=vi&ei=KbhkTPfGBYWivgOz9umdCg&sa=X&oi=book_r
esult&ct=result&resnum=2&ved=0CCkQ6AEwAQ#v=onepage&q&f=false
111. Bassey Edem Antia (2000), Terminology and Language Planning,
(http://www.google.com.vn/books?hl=vi&lr=&id=Zx-
1Txwzvt0C&oi=fnd&pg=PR13&dq=%22terminology+and+language+plann
ing%22&ots=LKsmZFrbdk&sig=Z4u_VBoprLMiuu1QC18QsZCqWDo&re
dir_esc=y)
112. Sager J.C (1990), Pratical course in terminology processing,
(http:books.google.com.vn/books/about/ Pratical course in terminology
processing.html?id=Be4nBVIfj0wC&redir_esc=y)
113. Wright S.E, Budin G. (2001), Handbook of Terminology Management, John
Benjamins Publishing, Amsterdam.
114. Temmerman R. (2000), Toward new ways of terminology description, John
Benjamins Publishing, Amsterdam/Philadelphia
III. DANH SÁCH DẪN LIỆU DÙNG TRONG LUẬN VĂN
115. Nguyễn Phước Bình (2004), Giáo trình Máy xây dựng, ĐHBK Đà Nẵng.
116. Nguyễn Hữu Cẩn, Dư Quốc Thịnh, Phạm Minh Thái, Lê Thị Vàng (1998), Lý
thuyết ôtô, máy kéo, Nxb Khoa học Và Kỹ thuật, H.
117. Nguyễn Minh Chánh (2005),Từ điển giảithích cácthuậtngữthông dụng vềhợp
đồng xây dựng và thi công công trình Anh - Việt, Nxb. Giao thông vận tải, H.
118. Nguyễn Huy Côn (2010), Từ điển bách khoa xây dựng, Nxb. Từ điển Bách
khoa, H.
119. Nguyễn Hạnh, Nguyễn Hải Linh (2003), Từ điển kỹ thuật tổng hợp Anh Việt
Nxb. Lao động xã hội, H.
85
120. Tống Phước Hằng, Tạ Văn Hùng (2004), Từ điển giải thích thuật ngữ cấu
trúc bê tông kim loại và kết cấu trong xây dựng Anh - Anh - Việt, Nxb. Giao
thông vận tải, H.
121. Đặng Thế Hiển (1991), Máy xây dựng, tập1, 2, Nxb KH và Kỹ thuật, H.
122. Nguyễn Trọng Hiệp (2006), Chi tiết máy, Nxb Giáo dục, H.
123. Nguyễn Văn Hùng (1998), Máy xây dựng, Nxb Khoa học và kỹ thuật, H.
124. Nguyễn Thị Tâm (1997), Máy xây dựng, Trường ĐH Giao thông vận tải, H.
125. Lưu Bá Thuận (2011), Giáo trình Máy xây dựng, Nxb Xây dựng, H.
126. Nguyễn Tất Tiến (2002), Nguyên lí động cơ đốt trong, Nxb Giáo dục, H.
127. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật (1977), Từ điển kỹ thuật tổng hợp Anh -
Việt, H.
128. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (1999), Từ điển khoa học tự nhiên và kỹ
thuật, H.

Luận Văn Nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng Tiếng Việt

  • 1.
    VIỆN HÀN LÂM KHOAHỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TIẾN DŨNG NGHIÊN CỨU THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT TẢI TÀI LIỆU 0936.885.877 VIẾT THUÊ LUẬN VĂN LUANVANTRIHUC.COM Chuyên ngành: Ngônngữ học Mã số 60 22 02 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Đức Tồn HÀ NỘI, 2016
  • 2.
    LỜI CAM ĐOAN Tôicam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Tiến Dũng
  • 3.
    Lêi C¶m ¬N Emxin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đối với GS .TS Nguyễn Đức Tồn đã nhiệt tình, tận tâm và chu đáo hướng dẫn em thực hiện luận văn này. Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, Phòng Quản lý đào tạo, Khoa Ngôn ngữ học - Học viện Khoa học Xã hội, Viện Ngôn ngữ học cùng các thầy cô giáo đã giúp đỡ em hoàn thành khóa học. Tác giả luận văn cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Hà Nội, tháng 8 năm 2016 Tác giả Nguyễn Tiến Dũng
  • 4.
    MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................................1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN....6 1.1. Những vấn đề của thuật ngữ.............................................................................6 1.2. Một số cơ sở lí luận về thuật ngữ......................................................................9 1.3. Thuật ngữ máy xây dựng tiếng việt..................................................................24 Kết luận chương 1 ................................................................................................................26 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT..........................................................................................................................28 2.1. Dẫn nhập.................................................................................................................28 2.2. Đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ....................................30 2.3. Đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ...........................34 2.4. Nhận xét chung về đặc điểm mô hình cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt.........................................................................................................................46 Kết luận chương 2 ................................................................................................................48 Chương 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT..........................................................................................................................50 3.1. Con đườnghình thành thuật ngữ máyxây dựng tiếngViệt ..................................50 3.2. Đặc điểm định danh thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt.............................59 Kết luận chương 3 ................................................................................................................70 KẾT LUẬN.............................................................................................................................72 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................76
  • 5.
    DANH MỤC VIẾTTẮT ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ĐHQG Đại học Quốc gia H Hà Nội KHXH Khoa học xã hội LSHTT Luật sở hữu trí tuệ Nxb Nhà xuất bản THCN Trung học chuyên nghiệp TN Thuật ngữ MXD Máy xây dựng N Ngữ tố KS Kỹ sư BK Bách khoa Tr Trang
  • 6.
    DANH MỤC BẢNGBIỂU Bảng 2.1. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo cấu tạo 29 Bảng 2.2. Bảng 2.3. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo từ loại Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo nguồn gốc 29 30 Bảng 2.4. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo từ loại 31 Bảng 2.5. Bảng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đa tiết xét theo cấu tạo 31 Bảng 2.6. Bảng nguồn gốc ngữ tố của thuật ngữ máy xây dựng là từ đa tiết. 32 Sơ đồ 3.1. Con đường hình thành TN máy xây dựng tiếng Việt 58
  • 7.
    1 MỞ ĐẦU 1. Tínhcấp thiết của đề tài Máy móc dùng trong xây dựng đóng vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng công trình, đẩy nhanh tiến độ thi công, nâng cao năng suất, đem lại hiệu quả kinh tế và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Không thể hiện đại hóa nền công nghiệp xây dựng nếu không quan tâm đầu tư về máy móc. Trong những năm gần đây, nước ta đã nhập khẩu và lắp ráp nhiều máy xây dựng, thiết bị chỉ để phục vụ cho các công trình xây dựng mà còn góp phần vào công cuộc hội nhập khoa học và kinh tế thế giới. Đồng thời với sự phát triển đó là việc xuất hiện những từ ngữ biểu thị những khái niệm, đối tượng trong ngành máy xây dựng, nhờ đó đã hình thành hệ thống thuật ngữ ngành máy xây dựng. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu các đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng là vô cùng cần thiết: Trước tiên là phục vụ thiết thực cho quá trình dạy, học ở các trường kỹ thuật và giúp cho cán bộ, kỹ sư, công nhân Việt Nam dễ dàng tiếp cận, sử dụng các thiết bị, máy xây dựng nhập ngoại, sau đó dựa vào hệ thống thuật ngữ này giúp các nhà sáng chế mở ra hướng nghiên cứu mới , chế tạo ra các máy xây dựng hiện đại, phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong nước và tiến tới xuất ra thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, việc quan tâm nghiên cứu, đánh giá, chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt trong giới Việt ngữ học cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ, chưa được quan tâm nghiên cứu, hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào đặt vấn đề tìm hiểu thuật ngữ máy xây dựng. Đây cũng chính là lý do khiến chúng tôi lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt” cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, vấn đề thuật ngữ khoa học tiếng Việt hầu như còn chưa được chú ý. Cho đến đầu thế kỷ XX, mới có thể thấy xuất hiện lẻ tẻ một số ít thuật ngữ tiếng Việt. Đặc biệt là trong hơn nửa thế kỉ qua, việc nghiên cứu thuật ngữ học đã phát triển mạnh mẽ. Sau một loạt hội thảo toàn
  • 8.
    2 quốc về thuậtngữ được tổ chức vào những năm 70 của thế kỉ XX, một loạt công trình khoa học và luận án tiến sĩ đã và đang tiếp tục được thực hiện, đặc biệt từ những năm đầu thế kỉ XXI đến nay. Có thể nêu một số công trình lí luận thuật ngữ học:[22], [41], [58], [62], [82], [94], [95]… bàn về vấn đề xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt. Ngoài ra còn có một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ trong một số lĩnh vực chuyên ngành [19], [25], [31], [56], 76], … Khi nghiên cứu về thuật ngữ ở Việt Nam, các nhà Việt ngữ học đã tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau đây: a) Xác định khái niệm thuật ngữ là gì; b) Các tiêu chuẩn cần thiết của thuật ngữ; c) Các phương thức đặt thuật ngữ; d) Việc vay mượn thuật ngữ nước ngoài nên như thế nào - phiên âm, chuyển tự hay giữ nguyên dạng…; e) Có nên chấp nhận hay không một số chữ cái ngoại lai: W, J, F, Z ; hay các tổ hợp phụ âm đầu: br, cr, fr, v.v...,; một số vần ngược như ab, ad, af, v.v... khi phiên thuật ngữ để cho thuật ngữ phiên gần với diện mạo quốc tế mà không quá xa lạ với tiếng Việt. Ở nước ngoài thuật ngữ cũng được quan tâm đặc biệt [35], [46], [47], [57], [59], [60], [71], [73]…Ngoài các công trình lí thuyết , còn có nhiều cuốn từ điển thuật ngữ đã được xuất bản, chẳng hạn: Từ điển xây dựng Nga -Việt (1989), Từ điển thuật ngữ xây dựng (1994), Từ điển bách khoa xây dựng (2010), Từ điển thuật ngữ…Tuy nhiên trong lĩnh vực máy xây dựng chưa có cuốn từ điển chuyên ngành nào, mà chỉ có một số tài liệu, giáo trình chuyên ngành máy xây dựng [115], [121], [122], [123], [124]. Từ đó có thể thấy được rằng thuật ngữ đã được nghiên cứu, trải rộng trên các lĩnh vực, đa dạng về quan điểm nghiên cứu, tuy nhiên vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Đó là lý do khiến chúng tôi chọn đề tài này. Và hướng nghiên cứu của chúng tôi là
  • 9.
    3 chỉ ra đặcđiểm về cấu tạo cũng như đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Thông qua việc khảo sát hệ thuật ngữ máy xây dựng, luận văn làm sáng tỏ đặc điểm về mặt cấu tạo, định danh của hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, từ đó đề xuất một số phương hướng mang tính kiến nghị với các cơ quan hữu quan để xây dựng và chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ chuyên ngành máy xây dựng tiếng Việt, giúp cho việc sử dụng, nghiên cứu, giảng dạy và học tập các tài liệu thuộc chuyên ngành máy xây dựng. Để đạt được mục đích trên, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể: - Hệ thống hóa các quan điểm lí luận về thuật ngữ khoa học trên thế giới và ở Việt Nam để xác lập cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu; - Miêu tả, phân tích các đặc điểm cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng thông qua các tham tố về số lượng, nguồn gốc, phương thức cấu tạo và từ loại của của yếu tố cấu tạo và của thuật ngữ máy xây dựng; - Tìm hiểu đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng; - Luận văn cũng so sánh với một số hệ thống thuật ngữ khác về đặc điểm cấu tạo, đặc điểm định danh nhằm làm nổi bật các đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, tức là các thuật ngữ biểu đạt các khái niệm và các đối tượng chuyên môn được sử dụng ngành máy xây dựng. - Phạm vi nghiên cứu bao gồm các phương diện về cấu tạo và định danh của hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt và vấn đề chuẩn hóa chúng. Phạm vi thu thập tư liệu gồm các cuốn từ điển về thuật ngữ kỹ thuật, bách khoa xây dựng đã xuất bản; các thuật ngữ trong các tài liệu, chương trình, giáo trình chuyên ngành máy xây dựng đang được sử dụng giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng kỹ thuật.
  • 10.
    4 5. Phương phápluận và phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp miêu tả : Được sử dụng để miêu tả đặc điểm cấu tạo của từng thuật ngữ: mỗi thuật ngữ gồm có những thành tố nào tạo nên? Đặc điểm nguồn gốc và từ loại của các đơn vị cơ sở cấu tạo nên thuật ngữ? Các mô hình kết hợp cụ thể các thành tố để tạo nên thuật ngữ? Nhờ sử dụng phương pháp này có thể chỉ ra một cách cụ thể và đầy đủ đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng trong tiếng Việt về cấu tạo, định danh, những vấn đề còn tồn tại và cách chỉnh lý cũng như định hướng cấu tạo thuật ngữ mới. - Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp : Được sử dụng để phân tích đặc điểm cấu tạo của một thuật ngữ máy xây dựng xét theo thành tố trực tiếp. Áp dụng phương pháp này, mỗi thuật ngữ được phân tích ra hai thành tố trực tiếp, sau đó nếu còn có thể thì mỗi thành tố trực tiếp này lại được phân đôi ra thành hai thành tố trực tiếp nhỏ hơn tạo nên... Nhờ vậy, có thể chỉ ra được thuật ngữ này được cấu tạo theo mô hình mấy bậc, mối quan hệ giữa các thành tố trực tiếp thuộc mỗi bậc cũng như mối quan hệ giữa các đại thành tố trực tiếp tạo nên thuật ngữ. - Thủ pháp thống kê, phân loại: Thủ pháp này được sử dụng để thu thập tư liệu từ các nguồn khác nhau, trên cơ sở đó, luận văn tiến hành hệ thống hóa, phân loại tư liệu và tính tỉ lệ các chỉ số về đặc điểm cấu tạo, đặc trưng và mô hình định danh thuật ngữ máy xây dựng. - Thủ pháp mô hình hoá: Thủ pháp này được sử dụng trong chương 2, chương 3 của luận văn. Nhờ sử dụng thủ pháp này, luận văn sẽ tạo được các mô hình cụ thể, rõ nét, đầy đủ đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng về cấu tạo, định danh, và những định hướng tạo thuật ngữ này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lí luận: Với việc làm rõ đặc điểm cấu tạo và đặc trưng định danh của thuật ngữ máy xây dựng, luận văn cung cấp cơ sở khoa học khách quan cho việc xây dựng mới và chuẩn hóa hệ thuật ngữ máy xây dựng. Đồng thời luận văn góp phần làm phong phú thêm hệ thống lí luận về Thuật ngữ học tiếng Việt.
  • 11.
    5 - Về thựctiễn: Các kết quả nghiên cứu sẽ giúp ích rất nhiều cho sự xây dựng và phát triển thuật ngữ máy xây dựng chưa có trong tiếng Việt, đồng thời là cơ sở biên soạn từ điển thuật kỹ thuật nói chung và thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, phục vụ hữu ích cho việc viết chương trình khung, giáo trình giảng dạy và tài liệu học tập của sinh viên các trường nghề trong ngành xây dựng. Xa hơn nữa, kết quả nghiên cứu còn hữu ích cho các nhà sáng chế Việt Nam trong lĩnh vực chế tạo ra những máy xây dựng hiện đại hơn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận Chương 2. Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt Chương 3. Đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
  • 12.
    6 Chương 1 TỔNG QUANTÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN Chương này, tập trung vào trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu một số vấn đề liên quan, bao gồm: tình hình nghiên cứu thuật ngữ nói chung, thuật ngữ máy xây dựng nói riêng; nêu một số vấn đề lí thuyết quan trọng về thuật ngữ và một số vấn đề liên quan đến thuật ngữ máy xây dựng để làm tiền đề lí luận cho việc nghiên cứu của luận văn. 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA THUẬT NGỮ Hiện nay, không chỉ trên thế giới mà còn ở Việt Nam, vấn đề thuật ngữ luôn được các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa về thuật ngữ được tất cả mọi người đều thống nhất thừa nhận. Sở dĩ có nhiều định nghĩa thuật ngữ khác nhau là do cách nhìn của các nhà nghiên cứu có những sự khác nhau. Có tác giả cho rằng thuật ngữ xác định khái niệm, nhưng có tác giả lại cho rằng thuật ngữ không chỉ xác định khái niệm và còn biểu hiện khái niệm. D.S. Lotte cho rằng, về bản chất thuật ngữ là những từ đặc biệt [57]. Còn G.O.Vinokur thì lại phủ nhận điều đó. Ông khẳng định rằng, thuật ngữ không phải là từ đặc biệt, mà chỉ là từ có chức năng đặc biệt, bất cứ từ nào cũng có cấu tạo để có vai trò là một thuật ngữ [103]. O.S. Akhmanova lại định nghĩa : “ Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ của ngôn ngữ chuyên môn ( ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ kỹ thuật, v.v.) được sáng tạo ra ( được tiếp nhận, được vay mượn, v.v.) để biểu hiện chính xác các khái niệm chuyên môn và biểu thị các đối tượng chuyên môn” [ dẫn theo 94, tr.3]. A.S. Gerd thì định nghĩa: “ Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng – ngữ nghĩa có chức năng định nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt bởi các đặc trưng như tính hệ thống, tính đơn nghĩa; ở thuật ngữ không có hiện tượng đồng nghĩa hay đồng âm trong phạm vi của một khoa học hoặc một lĩnh vực tri thức cụ thể ”[ dẫn theo 76, tr.19]. Các nhà ngôn ngữ Việt Nam đồng tình với định nghĩa thuật ngữ gắn với khái niệm như: Nguyễn Văn Tu [97, tr. 176], [98, tr. 114 ]; Lưu Vân Lăng; Nguyễn Như
  • 13.
    7 Ý[52, tr. 44];Đỗ Hữu Châu [8, tr. 241]; Hoàng Văn Hành [23, tr. 26]; Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn [68, tr. 64]; Nguyễn Thiện Giáp[17, tr. 270]… Theo các nhà nghiên cứu này, “Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người. Ví dụ các thuật ngữ: đạo hàm, tích phân, vi phân… trong toán học; tư bản, tích lũy, giá trị thặng dư… trong kinh tế học; bộ tộc, bộ lạc, huyết thống… trong sử học; âm vị, âm tiết, hình vị… trong ngôn ngữ học…”[17, tr. 270]. Cụ thể hơn, thì “Thuật ngữ không chỉ biểu thị khái niệm khoa học mà còn chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học nhất định, thuật ngữ là những từ chuyên môn được sử dụng trong phạm vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kĩ thuật nào đấy… Đặc tính của những từ này là phải cố gắng chỉ có một nghĩa, biểu thị một khái niệm hay chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học, kĩ thuật nhất định” [8, tr. 167]. Bên cạnh đó, nhiều tác giả nổi tiếng trên thế giới như G.O. Vinokur, V. K. Nikiforov, V.V.Vinôgrađốp, L.A.Kapatnadze, X.M.Burđin, A.G Acnexôp, N.A. Baxkacôp, V.Zơvêginxep[dẫn theo26,tr.12]thìđịnh nghĩa thuật ngữ gắn với chức năng. Tiêu biểu là G.O. Vinokur cho rằng: “Thuật ngữ - đó không phải là một từ đặc biệt mà chỉ là từ có chức năng đặc biệt”. “Chức năng đặc biệt mà từ với tư cách là thuật ngữ đảm nhiệm đó là chức năng gọi tên” [103]. Đa số các tác giả tán đồng quan điểm này. V. K. Nikiforov còn nhấn mạnh rằng: “Chức năng định danh ở thuật ngữ được thừa nhận là chức năng cơ bản và duy nhất” [67]. Quan niệm của viện sĩ V.V.Vinôgrađốp về thuật ngữ vốn được giới thuật ngữ học Xô viết coi là một trong những tư tưởng khá cơ bản và tin cậy. Ông viết “Mọi người đều biết trước hết từ thực hiện chức năng định danh, nghĩa là hoặc nó là phương tiện biểu thị, lúc đó nó chỉ là một kí hiệu giản đơn, hoặc nó là phương tiện của định nghĩa logic, lúc đó nó là thuật ngữ khoa học” [dẫn theo 31, tr.8]. Dựa vào quan điểm này, L.A.Kapatnadze đã phát triển tư tưởng về vai trò đặc biệt của thuật ngữ: “Thuật ngữ không gọi tên khái niệm như từ thông thường
  • 14.
    8 mà là kháiniệm được gán cho nó, dường như là gắn kèm theo nó cùng với định nghĩa”. “Ý nghĩa của thuật ngữ … đó là định nghĩa khái niệm, là cái định nghĩa được gán cho thuật ngữ” [35]. Các tác giả A.G Acnexôp, N.A. Baxkacôp, V.A.Zơvêginxep và một số người khác nêu bật chức năng biểu hiện của thuật ngữ với tư cách là đặc điểm nổi bật của nó [dẫn theo 26, tr.12-tr.18]. Trong công trình “Nghiên cứu, khảo sát thuật ngữ tiếng Việt phục vụ cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam” [95], tác giả Nguyễn Đức Tồn cho rằng: khi định nghĩa thuật ngữ thì phải và chỉ cần chỉ ra được những đặc trưng bản chất nhất thuộc bản thể của nó, làm nó khác biệt với các từ ngữ không phải là thuật ngữ (như từ thông thường, từ nghề nghiệp, tiếng lóng…). Những phẩm chất thứ yếu không đủ để khu biệt thuật ngữ với các đơn vị phi thuật ngữ hoặc những phẩm chất không thuộc về bản thể của thuật ngữ mà do sự nhận thức chủ quan, do người sử dụng áp đặt cho thuật ngữ thì nhất định không được đưa vào nội dung định nghĩa của thuật ngữ. Và tác giả của công trình này đã đưa ra định nghĩa: Thuật ngữ là từ ngữ biểu hiện khái niệm hoặc biểu thị đối tượng trong phạm vi một lĩnh vực khoa học, công nghệ hoặc chuyên môn. Định nghĩa trên đã chỉ ra những đặc trưng bản chất nhất của thuật ngữ: 1) Về hình thức: Thuật ngữ là từ hoặc ngữ cố định. Hình thức lí tưởng nhất của thuật ngữ là có dạng từ (từ đơn hoặc từ ghép chính phụ) bởi thuật ngữ sẽ rất ngắn gọn, cấu trúc chặt chẽ và cố định. 2) Về nội dung: Thuật ngữ biểu thị khái niệm khoa học/chuyên môn. Đó là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu khoa học hoặc hoạt động chuyên môn, phản ánh những đặc trưng bản chất và mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng vốn là ngoại diên của những khái niệm ấy. Giữa lĩnh vực chuyên môn và lĩnh vực phi chuyên môn có sự khác nhau: trong lĩnh vực chuyên môn người ta sử dụng thuật ngữ, còn lĩnh vực phi chuyên môn sử dụng từ ngữ phi thuật ngữ. Hai lĩnh vực này còn có sự khác nhau cơ bản ở tính quốc tế và tính dân tộc. Khái niệm được sử dụng trong lĩnh vực chuyên môn dù có hình thức thuật ngữ biểu hiện có thể khác nhau nhưng phải có tính quốc tế nghĩa
  • 15.
    9 là các nhàhoạt động trong cùng một lĩnh vực chuyên môn này ở các dân tộc khác nhau đều hiểu giống nhau. Còn ở lĩnh vực phi chuyên môn thì các khái niệm có thể được hiểu khác nhau tùy mỗi ngôn ngữ, mỗi dân tộc, thậm chí có những từ / khái niệm chỉ có trong ngôn ngữ/dân tộc này mà không có trong ngôn ngữ / dân tộc kia [95, tr.371-tr.373]. Như vậy, có nhiều cách tiếp cận thuật ngữ, nhưng dù từ hướng tiếp cận nào các tác giả trên đều đề cập tới hai vấn đề: - Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ - Biểu thị khái niệm, thuộc tính, đối tượng, sự vật, hiện tượng… thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ hoặc chuyên môn. Đó cũng chính là cách hiểu của chúng tôi về khái niệm thuật ngữ và lấy đó làm cơ sở để nghiên cứu trong luận văn này. 1.2. MỘT SỐ CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ THUẬT NGỮ 1.2.1. Vị trí thuật ngữ trong hệ thống ngôn ngữ 1.2.1.1. Thuật ngữ - bộ phận lớn nhất của từ vựng ngôn ngữ và vốn từ văn hóa Thuật ngữ là những từ ngữ đặc biệt chủ yếu do con người tạo ra một cách có ý thức, là sản phẩm của lao động trí tuệ bởi vì thuật ngữ ra đời cùng với với sự lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức. “Thuật ngữ không chỉ hiểu đơn giản là từ và ngữ chuyên môn dùng trong khoa học kĩ thuật, công nghệ, dịch vụ mà đó là hệ thống khái niệm, phạm trù khoa học, là tri thức khoa học công nghệ, là trí tuệ dân tộc và nhân loại được chung đúc qua hình thức ngôn ngữ” [82, tr. 8]. Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ và đội ngũ trí thức, thuật ngữ ngày càng phát triển. Thuật ngữ hiện nay được nhìn nhận không phải chỉ là một lớp từ giống lớp từ địa phương, từ nghề nghiệp…như quan niệm trước kia, bởi vì so với các lớp từ này, thuật ngữ là bộ phận từ vựng rất lớn trong hệ thống ngôn ngữ. Theo tổng kết của một số nhà nghiên cứu, hầu hết các từ ngữ mới xuất hiện trong từ điển đều là thuật ngữ. Chẳng hạn, theo thống kê của nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc Sokhora.X. có đến 90% từ mới thuộc hệ thống thuật ngữ khoa học và kĩ thuật. [Dẫn theo 35, tr.1]. Tương tự, Budagov R.A. (1976) nhận định “Số lượng thuật ngữ trong
  • 16.
    10 mỗi ngành khoahọc đang phát triển quả thật không phải từng ngày mà là từng giờ” [2, tr. 44]. Như vậy, khi khoa học càng phát triển thì thuật ngữ cũng càng được phát triển không ngừng, đồng thời khi hệ thống thuật ngữ càng phát triển và được hoàn thiện, chuẩn hóa đến lượt nó sẽ tác động và thúc đẩy sự phát triển của chính ngành khoa học đó. 1.2.1.2. Thuật ngữ - đối tượng nghiên cứu của thuật ngữ học Thuật ngữ hiện nay rất phát triển và đã trở thành đối tượng nghiên cứu của thuật ngữ học. Mặc dù hiện nay còn có những tranh luận, nhưng nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài khẳng định “Thuật ngữ học là chuyên ngành độc lập, ra đời và phát triển từ ngôn ngữ học trong thế kỷ XX, gồm 2 lĩnh vực chính: thuật ngữ học lí thuyết và thuật ngữ học ứng dụng. Trong đó, đối tượng của thuật ngữ học là thuật ngữ với các lớp, loại khác nhau và hệ thống thuật ngữ hiểu theo nghĩa rộng” [Dẫn theo 58, tr. 23). Theo Leichik (1986), trong thực tế thuật ngữ có thể được hình thành theo tự phát, tự nhiên hoặc được tạo ra một cách có ý thức. Thuật ngữ được hình thành theo con đường tự phát thường phản ánh không hoàn toàn đầy đủ, chi tiết và hệ thống các khái niệm chuyên ngành. [Dẫn theo 58, tr.23]. 1.2.1.3. Thuật ngữ - thành phần chủ yếu của ngôn ngữ khoa học Thuật ngữ được xem là bộ phận quan trọng nhất của ngôn ngữ khoa học. Đó là ngôn ngữ chuyên dùng trong phạm vi của các ngành khoa khoa học và trong các lĩnh vực chuyên môn. Chức năng cơ bản của ngôn ngữ khoa học không chỉ là thông báo các sự kiện mà điều quan trọng là phải giải thích, chứng minh tính chân thực của thông báo nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa của chúng với tư cách là cơ sở cho một luận điểm hay một quan niệm lí thuyết nhất định [Dẫn theo 31, tr. 22]. Như vậy, thông báo-chứng minh là chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ khoa học, trong đó “chứng minh được coi là đặc trưng khu biệt của phong cách khoa học, làm cho nó không giống với các phong cách khác” [Dẫn theo 49, tr. 83]. Ngôn ngữ khoa học có vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống của con người, chúng phục vụ cho quá
  • 17.
    11 trình nghiên cứuvà truyền bá tri thức khoa học, kĩ thuật, công nghệ của con người để duy trì cuộc sống và phát triển xã hội [Dẫn theo 31, tr. 22]. Ngôn ngữ khoa học có những đặc điểm nổi bật đã được thừa nhận như là tính trừu tượng- khái quát cao, tính logic nghiêm ngặt, tính chính xác-khách quan. Bên cạnh những đặc trưng nổi bật này, ngôn ngữ khoa học còn có một số đặc điểm đáng chú ý về mặt phong cách, cú pháp, từ ngữ… Cụ thể, ngôn ngữ khoa học thuộc về phong cách viết và đó là phong cách gọt rũa. Về mặt cú pháp, ngôn ngữ khoa học chủ yếu sử dụng các câu tường thuật, giải thích và câu hỏi chính danh. Đặc biệt ngôn ngữ khoa học sử dụng nhiều các loại câu ghép, câu mở rộng thành phần phụ như bổ ngữ, trạng ngữ…Về mặt từ ngữ, trong ba thành phần của từ ngữ ngôn ngữ khoa học: thuật ngữ, từ ngữ khoa học chung và lớp từ ngữ đa phong cách, thì thuật ngữ được coi là thành phần quan trọng nhất và chủ yếu của ngôn ngữ khoa học, đó là những từ, ngữ dùng để biểu đạt các khái niệm khoa học. 1.2.2. Quan niệm về thuật ngữ Cho đến nay, hầu như mỗi nhà nghiên cứu tiếp cận thuật ngữ từ góc nhìn riêng khác nhau. Vì vậy, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ. Chẳng hạn, trong bài báo năm 1970, Golovin B.N. đã đưa ra 7 định nghĩa khác nhau; năm 1977 trong cuốn sách của mình, Danilenko V.P. đưa ra 19 định nghĩa và nói rằng chưa hết, còn có thể kể thêm nữa [13]. Thậm chí Reformatxki A.A. khẳng định có thể viết hẳn một cuốn sách về vấn đề thế nào là thuật ngữ [71]. Lí do của điều này Superanskaja (2007) cho rằng, vì khi đó bộ môn thuật ngữ học chưa hình thành và vì thuật ngữ là đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau nên mỗi ngành khoa học thường nhấn mạnh một đặc điểm, hoặc có những cách tiếp cận khác nhau với thuật ngữ[73]. 1.2.2.1. Thuật ngữ theo quan niệm truyền thống (từ góc độ ngôn ngữ học) Toàn bộ các quan niệm về thuật ngữ của các nhà nghiên cứu theo quan niệm truyền thống có thể tổng kết thành ba xu hướng chính sau: a. Thuật ngữ được định nghĩa trong sự phân biệt với từ thông thường
  • 18.
    12 Một số nhàngôn ngữ định nghĩa thuật ngữ chỉ ra sự khác biệt giữa thuật ngữ với từ thông thường. Theo Kuz'kin N.P. (1962) "Nếu như từ thông thường, từ phi chuyên môn tương ứng với đối tượng thông dụng, thì từ của vốn thuật ngữ lại tương ứng với đối tượng chuyên môn mà chỉ có một số lượng hạn hẹp các chuyên gia biết đến" [Dẫn theo 19, tr.10]. Tương tự, Moiseev A.I. (1970) khẳng định :"Chính biên giới giữa thuật ngữ và phi thuật ngữ không nằm giữa các loại từ và cụm từ khác nhau mà nằm trong nội bộ mỗi từ và cụm từ định danh" [Dẫn theo 19, tr. 10]. Kapanadze L.A. cũng nhấn mạnh:"Thuật ngữ không gọi tên khái niệm như từ thông thường mà là khái niệm được gán cho nó dường như là gắn kèm theo nó cùng với định nghĩa" [35]. b. Thuật ngữ được định nghĩa gắn với chức năng Bên cạnh đó, số đông các nhà nghiên cứu khi định nghĩa thuật ngữ gắn chức năng mà thuật ngữ đảm nhiệm. Tiêu biểu là G.O. Vinokur (1939): "Thuật ngữ - đấy không phải là những từ đặc biệt, mà chỉ là những từ có chức năng đặc biệt” và đó là “chức năng gọi tên” [Dẫn theo 35, tr.4]. Đồng thời ông cho rằng bất cứ từ nào cũng được cấu tạo để có vai trò là một thuật ngữ. Quan niệm của G.O. Vinokur cho thấy nền tảng của thuật ngữ chính là ngôn ngữ, cụ thể là các đơn vị từ vựng. Bên cạnh đó, V.V.Vinôgrađốp (1947) còn chỉ rõ thuật ngữ không chỉ có chức năng gọi tên mà còn có chức năng định nghĩa: “Trước hết từ thực hiện chức năng định danh, nghĩa là hoặc nó là phương tiện biểu thị, lúc đó nó chỉ là một kí hiệu đơn giản, hoặc nó là phương tiện của định nghĩa logich, lúc đó nó là thuật ngữ khoa học” [Dẫn theo 19, tr.14]. Tương tự, Gerd A.X. (1968) trong định nghĩa của mình cũng nhấn mạnh chức năng định nghĩa của thuật ngữ:"Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng ngữ nghĩa có chức năng định nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt bởi các đặc trưng như tính hệ thống, tính đơn nghĩa" [Dẫn theo 76, tr.19]. c. Thuật ngữ được định nghĩa gắn với khái niệm Phần lớn các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khi định nghĩa thuật ngữ đã tập trung vào việc xác định thuật ngữ trong mối quan hệ với khái niệm. Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Tu (1960), Đỗ Hữu Châu (1962) là những nhà ngôn ngữ học đầu
  • 19.
    13 tiên đưa rađịnh nghĩa về thuật ngữ, trong đó các tác giả chỉ rõ thuật ngữ không chỉ biểu thị khái niệm khoa học mà thuật ngữ còn chỉ tên cả sự vật, hiện tượng khoa học. Sau này, nhiều nhà nghiên cứu khác ([17], [22], [39], [52], …) cũng đưa ra các định nghĩa về thuật ngữ. Nhìn chung các định nghĩa đều nhấn mạnh đến tính chính xác của khái niệm và đối tượng chuyên môn mà thuật ngữ biểu thị: "Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác của các khái niệm và các đối tượng thuộc lĩnh vực chuyên môn của con người" [17, tr.270]. 1.2.2.2. Thuật ngữ theo quan niệm mới (từ góc độ của thuật ngữ học) Hiện nay, thuật ngữ đã trở thành đối tượng nghiên cứu của thuật ngữ học. Các nhà nghiên cứu theo quan điểm thuật ngữ học xác định, đối tượng của thuật ngữ học không chỉ là thuật ngữ như là đơn vị từ vựng có mục đích chuyên biệt, mà là hệ thống thuật ngữ, vốn nghĩa không hoàn toàn là một phạm trù ngôn ngữ học. Vì vậy, khái niệm thuật ngữ được xác định theo quan điểm của thuật ngữ học rất được chú ý. Trong số này, định nghĩa thuật ngữ do Leitchik mang tính toàn diện nhất: Thuật ngữ là một sản phẩm kết hợp đa tầng, gồm tầng nền là ngôn ngữ tự nhiên và tầng thượng thuộc về logic. Trong đó, tầng thượng (superstratum) ở trên và tầng nền (substratum) ở dưới, bao bọc hạt nhân thuật ngữ, gồm cấu trúc hình thức, cấu trúc chức năng, cấu trúc khái niệm chuyên ngành. Ba cấu trúc này tác động qua lại với tầng nền ngôn ngữ và tầng thượng logic [Dẫn theo 58, tr.23]. Nói về tầng nền ngôn ngữ tự nhiên, Leichik chỉ rõ, xét về mặt ngôn ngữ học, thuật ngữ là từ hay tổ hợp từ của một ngôn ngữ tự nhiên nào đó [Dẫn theo 58, tr. 25]. Tương tự, nói về vai trò của tầng nền ngôn ngữ tự nhiên, Superanskaja cho rằng, vì thuật ngữ là ở dạng đơn vị từ vựng, đơn vị ngôn ngữ, cho nên có thể khẳng định đơn vị từ vựng của ngôn ngữ tự nhiên là tầng nền ngôn ngữ tự nhiên của thuật ngữ. Thuật ngữ trưởng thành lên từ đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ tự nhiên nhất định. Từ đó, Superanskaja cũng đi đến kết luận rằng, thuật ngữ là một đơn vị từ vựng tam cấp phức tạp của một ngôn ngữ dùng cho những mục đích chuyên biệt nhất định. Tác giả khẳng định, với quan niệm như trên về các phương diện ngôn
  • 20.
    14 ngữ của thuậtngữ chúng ta mới giải quyết được nhiều vấn đề về phương pháp luận của thuật ngữ, trước hết là vấn đề truyền thống về bản chất ngôn ngữ của thuật ngữ, hay vấn đề đặc thù của thuật ngữ… Bởi vì nếu chỉ đứng trong khuôn khổ thuần túy của ngôn ngữ học thì không thể phát lộ ra các nét đặc trưng, cơ bản của thuật ngữ phân biệt với các đơn vị từ vựng khác, vốn thường tập hợp dưới tên gọi phi thuật ngữ [73]. Như vậy, định nghĩa thuật ngữ theo quan niệm của thuật ngữ học giúp chúng ta có một cái nhìn bao quát, toàn diện về bản chất của thuật ngữ. Thuật ngữ không chỉ là phạm trù của ngôn ngữ học mà nó còn là phạm trù của logic học và khoa học liên ngành. Còn định nghĩa thuật ngữ theo quan niệm truyền thống lại giúp chúng ta có một cái nhìn cụ thể về thuật ngữ: về hình thức, thuật ngữ là những từ và cụm từ; về nội dung, thuật ngữ biểu thị các khái niệm hoặc đối tượng chuyên môn. Luận văn này là công trình nghiên cứu theo hướng tiếp cận từ đặc điểm cấu tạo và định danh của thuật ngữ máy xây dựng, nghĩa là chủ yếu xem xét thuật ngữ máy xây dựng trên phương diện ngôn ngữ học, cho nên luận văn vẫn hiểu thuật ngữ theo quan niệm truyền thống (từ góc độ của ngôn ngữ học) là chính: “Thuật ngữ là từ ngữ biểu hiện một khái niệm hoặc một đối tượng trong phạm vi một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn”. Đây là định nghĩa do Nguyễn Đức Tồn nêu ra và được phân tích khá kĩ [88]. Vì vậy, chúng tôi sẽ lấy định nghĩa thuật ngữ trên làm cơ sở nghiên cứu của luận văn, đồng thời coi đây như là tiêu chí để xác định thuật ngữ trong sự phân biệt với các đơn vị liên quan. 1.2.3. Phân biệt thuật ngữ và một số đơn vị liên quan Khi đã nhận diện được thuật ngữ cả về bản chất khái niệm, chức năng, nội dung… chúng ta cần phân biệt thuật ngữ với các loại đơn vị có quan hệ gần gũi trong hệ thống từ vựng như danh pháp, từ nghề nghiệp… 1.2.3.1. Phân biệt thuật ngữ với danh pháp khoa học G.O. Vinokur là người đầu tiên đặt ra vấn đề phân biệt thuật ngữ với danh pháp. Ông cho rằng “không nên lẫn lộn thuật ngữ là tên gọi đối tượng của tư duy với tên riêng và tín hiệu danh pháp” [103].
  • 21.
    15 Thuật ngữ gắnvới hệ thống khái niệm của một ngành khoa học nhất định, gồm những từ, cụm từ biểu thị chính xác các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người. Danh pháp là toàn bộ tên gọi được dùng trong một ngành chuyên môn nào đó. Danh pháp không gắn với hệ thống khái niệm của ngành chuyên môn này mà chỉ dùng để gọi tên các sự vật trong ngành mà thôi. Ví dụ: trong các loại máy xây dựng, các từ: máy xúc, cần trục… là thuật ngữ, còn các từ chỉ tên các loại máy xúc, cần trục… cụ thể như cần trục Krup, máy xúc Solar, máy xúc Komasu… là danh pháp. G.O. Vinokur đã định nghĩa danh pháp: “là một hệ thống các phù hiệu hoàn toàn trừu tượng và ước lệ, mà mục đích duy nhất là ở chỗ cấp cho ta cái phương tiện thuận lợi nhất về mặt thực tiễn để gọi tên các đồ vật, các đối tượng không quan hệ trực tiếp với những đòi hỏi của tư duy lí luận hoạt động với những sự vật này” [103]. Danh pháp là hệ thống tên gọi được đặt có hệ thống. Có nhiều quan điểm trong việc đặt tên. Có khi tên gọi chỉ được coi là cái nhãn để phân biệt, chẳng cần đòi hỏi gì hơn, có khi lại cần đặt tên một cách có ý nghĩa và thích hợp với đối tượng. Trong các lĩnh vực như toán, vật lí, kí hiệu thường được dùng để thay thế lời nói hay chữ viết. Có lĩnh vực lại sử dụng con số, dùng từ… Không phải lĩnh vực khoa học nào cũng có tiêu chuẩn đặt danh pháp giống nhau, mỗi ngành có nhu cầu riêng. Ngành khoa học thực nghiệm sẽ có nhu cầu khác với các ngành khoa học lí thuyết. Tính khái niệm là đặc trưng quan trọng nhất của thuật ngữ. Danh pháp, mặc dù có gắn với khái niệm nhưng nó hướng đến sự vật nhiều hơn. Cái quan trọng đối với danh pháp là tính đối tượng của nó, tùy thuộc vào đặc trưng của đối tượng được gọi tên. Như vậy, thuật ngữ được nhấn mạnh về chức năng định nghĩa còn danh pháp thì chủ yếu mang chức năng gọi tên. Nội dung của thuật ngữ tương ứng với các từ tạo nên chúng còn danh pháp có thể được quan niệm là một chuỗi kế tiếp nhau của
  • 22.
    16 các chữ cái,là một chuỗi các con số hay bất kì cách gọi tên võ đoán nào [17, tr.270]. Số lượng của danh pháp là vô kể. Thuật ngữ của mỗi ngành khoa học lại là một số lượng hữu hạn và nhất thiết phải liên hệ với các khái niệm của khoa học ấy vì phản ánh hệ khái niệm của khoa học ấy bằng phương tiện từ ngữ. Tuy nhiên cũng phải nói đến hiện tượng: trong quá trình phát triển của nhiều ngành khoa học, các danh pháp riêng lẻ có thể trở thành thuật ngữ, từ chỗ chỉ đơn thuần là đơn vị định danh chúng đã trở thành các yếu tố của giao tiếp logic, tức là trở thành thuật ngữ. 1.2.3.2. Phân biệt thuật ngữ với từ nghề nghiệp Từ nghề nghiệp là lớp từ ngữ được dùng hạn chế về mặt xã hội. Trong hệ thống từ vựng, nó nằm ở một vị trí rất khiêm tốn cả về số lượng và phạm vi sử dụng. Các nhà nghiên cứu cũng chưa có sự thống nhất trong việc xác định khái niệm này. Chẳng hạn, trong Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, từ nghề nghiệp được định nghĩa là “các từ ngữ đặc trưng cho ngôn ngữ của các nhóm người thuộc cùng một nghề nghiệp hoặc cùng một lĩnh vực hoạt động nào đó”[107]. Hoặc theo Nguyễn Văn Khang thì “Từ nghề nghiệp có thể coi đây là một “hệ mã” ghi nhận thành quả tri thức và thành quả thực tế của con người trong một lĩnh vực nhất định” [43]. Với tác giả Đỗ Hữu Châu thì “Từ vựng nghề nghiệp bao gồm những đơn vị từ vựng được sử dụng để phục vụ các hoạt động sản xuất và hành nghề của các ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và các ngành lao động trí óc (nghề thuốc, văn thư…)[8, tr.253]. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp: “Từ nghề nghiệp là những từ ngữ biểu thị những công cụ, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất của một nghề nào đó trong xã hội. Những từ này thường được những người trong ngành nghề đó biết và sử dụng. Những người không làm nghề ấy tuy ít nhiều cũng có thể biết nhiều từ ngữ
  • 23.
    17 nghề nghiệp nhưngít hoặc hầu như không sử dụng chúng. Do đó, từ ngữ nghề nghiệp cũng là một lớp từ vựng được dùng hạn chế về mặt xã hội”[17, tr.265]. Tác giả Phạm Tất Thắng đưa ra các đặc trưng cơ bản của từ nghề nghiệp: - Đó là lớp từ ngữ dùng để gọi tên những phương tiện, công cụ sản xuất, nguyên vật liệu, sản phẩm lao động và quá trình sản xuất… của nghề thủ công truyền thống. - Chúng mang phong cách địa phương và ít nhiều có sắc thái biểu cảm - Chúng được những người làm trong một nghề hiểu và sử dụng chủ yếu trong giao tiếp hội thoại [78, tr.143]. Trong bài viết “Nghiên cứu từ ngữ nghề nghiệp tiếng Hải Phòng", tác giả Phạm Văn Hảo nhận định: Từ nghề nghiệp là những từ và ngữ được sử dụng: - Trong phạm vi của một ngành nghề cụ thể và phổ biến trong những người cùng làm ngành nghề cụ thể ấy (cộng đồng liên thông - đơn) - Ở một địa phương cụ thể (không có tính liên khu vực) và chịu sự chi phối của tiếng địa phương tại khu vực ấy - Trong trạng thái phi chuẩn mực hóa, tức là mang tính khẩu ngữ cao, tính định danh “vô tư” và tính cố định yếu, nhất là do yếu tố tác động có tính chất “ngoại sinh” như ngày nay[27, tr.59]. Điểm qua quan niệm của một số tác giả như trên, chúng tôi nhận thấy, hầu như tất cả đều có chung nhận định: từ nghề nghiệp là những từ ngữ được sử dụng trong phạm vi một ngành nghề nào đó. Và mỗi người, đứng từ các góc độ khác nhau, lại đưa ra những đặc điểm khác nhau của từ nghề nghiệp. Phải nói rằng, nếu chỉ dừng lại ở nhận định “từ nghề nghiệp là những từ ngữ được sử dụng trong phạm vi một ngành nghề nào đó” (như một số quan niệm) thì sẽ rất khó phân biệt từ nghề nghiệp với các lớp từ khác. Chẳng hạn, muốn phân biệt từ nghề nghiệp của những người làm nghiên cứu khoa học của ngành vật lý với thuật ngữ khoa học vật lý thì dùng tiêu chí gì, chẳng lẽ từ ngữ sử dụng trong giao tiếp hàng ngày (khẩu ngữ) là từ nghề nghiệp còn từ ngữ sử dụng trong nghiên cứu (phong cách viết) là thuật ngữ khoa học sao?
  • 24.
    18 Theo chúng tôi,từ nghề nghiệp là lớp từ mang các đặc trưng sau: - Sử dụng trong phạm vi một ngành nghề thủ công truyền thống - Ở một địa phương cụ thể, mang đặc trưng địa phương - Ít nhiều có sắc thái biểu cảm - Từ ngữ có tính chất lịch sử, chủ yếu có nguồn gốc là tiếng Việt - Mang phong cách khẩu ngữ - Số lượng không nhiều Sở dĩ ở đây, nói về khái niệm “thuật ngữ khoa học”, chúng tôi lại đề cập đến khái niệm “từ nghề nghiệp” bởi cần phải xác định giới hạn của hai lớp từ này cũng như mối quan hệ của chúng một cách rõ ràng trong khi khá nhiều tác giả cho rằng chúng có quan hệ gần gũi một cách chung chung . Trở lại từ nghề nghiệp với các đặc trưng trên, một lần nữa chúng tôi khẳng định từ nghề nghiệp không phải là từ ngữ phục vụ cho công việc hàng ngày giữa những người cùng ngành nghề chuyên môn. Chẳng hạn, ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của những người nghiên cứu toán học, xã hội học hay ngôn ngữ học… không phải là từ nghề nghiệp bởi không thể nói rằng cùng một lớp từ, khi ở phong cách nói là từ nghề nghiệp, còn ở phong cách viết là thuật ngữ khoa học. Từ nghề nghiệp là khái niệm chỉ dùng để gọi tên những từ ngữ được sử dụng trong phạm vi một ngành nghề thủ công truyền thống ở một địa phương cụ thể, mang đặc trưng của địa phương đó. Vậy từ nghề nghiệp khác thuật ngữ ở chỗ: Từ nghề nghiệp có đặc điểm như đã nêu trên, còn thuật ngữ biểu thị các khái niệm khoa học, mang tính hệ thống, chuẩn mực của cả quốc gia, quốc tế và được tất cả các nhà khoa học trên thế giới hiểu giống nhau. 1.2.4. Các tiêu chuẩn để xây dựng thuật ngữ Việc xây dựng, thống nhất thuật ngữ khoa học liên quan chặt chẽ tới việc xác định các tiêu chuẩn của thuật ngữ. Vì vậy, đây là một trong những vấn đề được các nhà nghiên cứu rất quan tâm.
  • 25.
    19 Có thể thấy,các nhà nghiên cứu đưa ra khá nhiều tiêu chuẩn cho thuật ngữ. Nhưng có thể khái quát chúng lại thành các tiêu chuẩn: tính khoa học, tính quốc tế, tính dân tộc, tính đại chúng. Trong đó, tính khoa học được tất cả các nhà nghiên cứu từ trước đến nay coi đó là tiêu chuẩn quan trọng bậc nhất. Còn các tiêu chuẩn tính quốc tế, tính dân tộc, tính đại chúng không được các nhà nghiên cứu chú trọng như nhau. Nhìn chung, quan niệm của các nhà nghiên thời kì đầu (những năm 60- 70), ngoài tính khoa học họ rất quan tâm đến tính dân tộc và tính đại chúng, còn tính quốc tế thì chưa được chú ý và ít được đề cập đến. Trong giai đoạn hiện nay, hầu như tất cả các nhà nghiên cứu đều khẳng định, tính quốc tế là một trong những phẩm chất bắt buộc của thuật ngữ, bên cạnh tính khoa học. Tuy nhiên, tính dân tộc và tính đại chúng thì lại không được chú ý nhiều. Chúng tôi đồng ý với quan điểm của một số tác giả như Đỗ Hữu Châu (1981), Nguyễn Thiện Giáp (1985), Nguyễn Đức Tồn (2010)… cho rằng, ở đây cần phân biệt những tính chất với tư cách là những đặc trưng phân biệt thuật ngữ với những lớp từ vựng khác và những yêu cầu khi xây dựng thuật ngữ. Cụ thể, tính khoa học và tính quốc tế là những đặc trưng riêng mà thuật ngữ ở bất kì ngôn ngữ nào cũng có. Nhưng khi xây dựng thuật ngữ tiếng Việt, đặc biệt là thuật ngữ báo chí tiếng Việt, không những phải bảo đảm được tính chất riêng của thuật ngữ mà cần phải chú ý cả tính chất chung của thuật ngữ với những lớp từ vựng khác, đó là tính dân tộc và tính đại chúng. 1.2.4.1. Tính khoa học Thuật ngữ có tính khoa học nghĩa là thuật ngữ phải mang tính chính xác, tính hệ thống và tính ngắn gọn. a. Tính chính xác Tính chính xác được tất cả các nhà khoa học trong và ngoài nước từ trước đến nay thừa nhận là một yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với thuật ngữ. Tính chính xác đòi hỏi phải biểu hiện đúng khái niệm một cách rõ ràng, không gây hiểu lầm sai lệch. Lotte quan niệm, một thuật ngữ chính xác nếu thuật ngữ đó chứa đựng những đặc trưng bản chất của khái niệm do nó biểu đạt [Dẫn theo 51, tr.3]. Tương
  • 26.
    20 tự, Lê KhảKế cũng chỉ rõ “lí tưởng nhất là thuật ngữ phản ánh được đặc trưng cơ bản, nội dung bản chất của khái niệm” [39, tr.33]. Tính chính xác đòi hỏi thuật ngữ phải có tính một nghĩa, tức là trong cùng một ngành khoa học hoặc một lĩnh vực chuyên môn mỗi khái niệm chỉ có một thuật ngữ. Nói cách khác, mỗi thuật ngữ chỉ biểu đạt một khái niệm. Về vấn đề này, Đỗ Hữu Châu nhấn mạnh, trong thực tế, “có những thuật ngữ gọi tên khái niệm đúng, có những thuật ngữ gọi tên khái niệm sai lầm. Điều quan trọng là ở chỗ các thuật ngữ phải biểu thị cho đúng các khái niệm (đúng hoặc sai) mà chúng gọi tên. Một thuật ngữ chính xác là một thuật ngữ khi nói ra, viết ra, người nghe, người đọc hiểu một và chỉ một khái niệm khoa học (đúng hoặc sai) ứng với nó mà thôi [8, tr.243]. Như vậy, để đảm bảo tính một nghĩa của thuật ngữ đòi hỏi phải loại bỏ hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa trong hệ thống thuật ngữ của cùng một ngành khoa học. Trong thuật ngữ máy xây dựng, hầu hết các thuật ngữ đều đảm bảo tính chính xác: mỗi khái niệm chỉ có một thuật ngữ. Tuy nhiên, theo thống kê của chúng tôi vẫn còn khoảng 10 % thuật ngữ đồng nghĩa. Các thuật ngữ này rất cần được chuẩn hóa để đảm bảo tính chính xác của thuật ngữ. b. Tính hệ thống Đây cũng là một tiêu chuẩn cần thiết đối với thuật ngữ. Mỗi ngành khoa học đều có một hệ thống các khái niệm được thể hiện bằng hệ thống các thuật ngữ, trong đó mỗi thuật ngữ bao giờ cũng là yếu tố của hệ thống thuật ngữ và chiếm một vị trí trong hệ thống thuật ngữ nhất định nào đó [17, tr.312]. Trong khoa học, hệ thống khái niệm được thể hiện ở chỗ “các khái niệm được tổ chức thành hệ thống, có tầng, có lớp, có bậc hẳn hoi, có khái niệm hạt nhân làm trung tâm tập hợp nhiều khái niệm khác thành từng trường khái niệm, thành từng nhóm, từng cụm. Mỗi trường khái niệm có thể là một hệ thống con. Mỗi hệ thống nhỏ có một khái niệm hạt nhân” [51, từ tr.5-tr.6]. Hầu hết các tác giả đều cho rằng tính hệ thống của thuật ngữ cần phải được chú ý trên cả hai mặt, đó là hệ thống khái niệm (mặt nội dung) và hệ thống kí hiệu (mặt hình thức). Lưu Vân Lăng [51, từ tr.5-tr.6] là người phân tích khá kĩ tính hệ
  • 27.
    21 thống của thuậtngữ. Theo ông, khi xây dựng hệ thống thuật ngữ, cần phải xác định được hệ thống khái niệm trước khi đặt hệ thống kí hiệu cho chúng. Thậm chí nhiều khi nội dung khái niệm phải đặt lên hàng đầu. Vì vậy, khi đặt thuật ngữ không thể tách rời từng khái niệm mà phải xác định vị trí của thuật ngữ đó trong toàn bộ hệ thống khái niệm. Tính hệ thống kí hiệu thường được thể hiện ở mối quan hệ liên tưởng (nghĩa là thay thế theo trục dọc) và mối quan hệ ngữ đoạn (nghĩa là nối tiếp theo trục ngang) của các tín hiệu ngôn ngữ. Để đảm bảo được hệ thống về mặt kí hiệu, cần phải dựa vào thế đối lập giữa các tín hiệu trong hệ thống. Bởi vì mỗi thuật ngữ có một giá trị nhất định về nội dung chính là do sự đối lập tín hiệu này với tín hiệu khác trong cùng một hệ thống [51, tr.6]. Như vậy, nhờ vào tính hệ thống chúng ta thấy được khả năng phái sinh của thuật ngữ là rất lớn. c. Tính ngắn gọn Tính chính xác về mặt ngữ nghĩa của thuật ngữ còn đòi hỏi về mặt hình thức của thuật ngữ phải ngắn gọn, chặt chẽ. Nghĩa là, các yếu tố hợp thành phải phù hợp tối đa với khái niệm được biểu thị, không có yếu tố dư thừa dễ gây hiểu lầm dù sự hiện diện của các yếu tố này làm cho thuật ngữ có vẻ phù hợp với các quy luật cấu tạo của ngôn ngữ hơn [8, tr.244]. Quan điểm của các nhà Việt ngữ học trên hoàn toàn phù hợp với quan điểm của các nhà nghiên cứu Nga: “Tính ngắn gọn của thuật ngữ cần được hiểu là, trong thành phần cấu tạo thuật ngữ, chỉ cần chứa một số lượng đặc trưng tối thiểu cần thiết, nhưng vẫn đủ để đồng nhất hóa và khu biệt hóa các khái niệm được phản ánh bằng thuật ngữ đó” [1, từ tr.331- tr.224]. Đây cũng là điều hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc định danh thuật ngữ, đó là chỉ lựa chọn những đặc trưng đủ để khu biệt sự vật, khái niệm này với các sự vật, khái niệm khác, chứ không thể đưa tất cả đặc trưng của đối tượng cần định danh vào bên trong tên gọi của nó. Xét ở khía cạnh này tính ngắn gọn không mâu thuẫn với tính chính xác của thuật ngữ. Mặt khác tính ngắn gọn của thuật ngữ cũng rất phù hợp với quy luật tiết kiệm trong ngôn ngữ.
  • 28.
    22 Liên quan đếntính ngắn gọn của thuật ngữ, một số nhà nghiên cứu còn đưa ra tiêu chuẩn cụ thể về số lượng yếu tố cấu tạo thuật ngữ. Chẳng hạn, A.A. Reformatxki cho rằng đối với thuật ngữ là từ ghép hay cụm từ chỉ có thể gồm hai, ba hoặc tối đa là bốn yếu tố bởi vì nếu thuật ngữ quá dài sẽ không được chấp nhận trong thực tế [71, từ tr.253 - tr.271)]. Tuy nhiên, gần đây một số nhà nghiên cứu Nga đưa ra tiêu chuẩn về độ dài tối ưu của thuật ngữ [Dẫn theo 76, tr.17]. Điểu cốt lõi của khái niệm này là sự phù hợp giữa cấu trúc hình thức với các đặc trưng của khái niệm mà không giới hạn thuật ngữ chỉ gồm bao nhiêu yếu tố. Theo chúng tôi đây là khái niệm khá phù hợp với thời đại ngày nay, bởi vì do tính chất chuyên sâu trong khoa học ngày càng cao, nên thuật ngữ có thể bao gồm một tập hợp các đặc trưng của khái niệm. Vì vậy, phải cần đến khá nhiều yếu tố để thể hiện các đặc trưng của khái niệm đó. Cho nên, sẽ có những thuật ngữ gồm nhiều yếu tố nhưng vẫn được coi là chuẩn. 1.2.4.2. Tính quốc tế Tính quốc tế là một yêu cầu tất yếu bởi vì thuật ngữ là những từ, ngữ biểu thị các khái niệm mà khái niệm khoa học được coi là thành tựu chung của trí tuệ, tri thức nhân loại. Nhưng khi biểu thị những khái niệm khoa học chung đó, mỗi dân tộc sử dụng các yếu tố và phương thức cấu tạo từ vốn có trong mỗi ngôn ngữ khác nhau. Vì vậy, thuật ngữ vừa mang tính quốc tế vừa mang tính dân tộc. Tính quốc tế thực ra không mâu thuẫn với tính dân tộc bởi vì khi nói đến tính quốc tế là người ta nhấn mạnh đến mặt nội dung của thuật ngữ, còn nói đến tính dân tộc là người ta chú ý đến mặt hình thức của thuật ngữ. Đi vào cụ thể, tính quốc tế về mặt nội dung của thuật ngữ thường được nhấn mạnh ở hai khía cạnh. Thứ nhất, các khái niệm của thuật ngữ mặc dù được thể hiện bằng các ngôn ngữ khác nhau nhưng những người hoạt động trong cùng một lĩnh vực chuyên môn ở các nước, các dân tộc khác nhau đều hiểu nội hàm các khái niệm chuyên môn đó giống nhau [88 tr.207]. Thứ hai, cùng một sự vật hiện tượng hay khái niệm khoa học nhưng các ngôn ngữ khác nhau cùng chọn một đặc trưng nào đó để làm cơ sở định danh cho việc đặt thuật ngữ [19]. Như vậy, xét về nội dung của
  • 29.
    23 thuật ngữ thìrõ ràng tính quốc tế là một đặc trưng quan trọng, là một tính chất cơ bản của thuật ngữ vì chúng biểu hiện những khái niệm chung cho toàn nhân loại, trong khi các lớp từ ngữ khác chỉ mạng đặc trưng của dân tộc. 1.2.4.3. Tính dân tộc Khi nói đến tính dân tộc của thuật ngữ là nói đến mặt hình thức của thuật ngữ. Thuật ngữ ở bất kì nước nào trước hết vẫn phải là một bộ phận ngôn ngữ của dân tộc, vì vậy thuật ngữ phải mang những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ dân tộc. Theo Lê Khả Kế [39 tr.103], tính dân tộc, được thể hiện ở nhiều mặt: từ vựng (yếu tố cấu tạo thuật ngữ thường là những yếu tố thuần Việt hoặc đã được Việt hóa), ngữ pháp (trật tự ghép các yếu tố tạo nên thuật ngữ theo cú pháp tiếng Việt), ngữ âm và chữ viết: phù hợp với đặc điểm tiếng nói, chữ viết của dân tộc như dễ hiểu, dễ viết, dễ đọc. Tuy nhiên, cũng theo Lê Khả Kế, thực tế cho thấy tính dân tộc của thuật ngữ có thể đạt được đối với bộ phận thuật ngữ được tạo ra trên cơ sở chất liệu tiếng Việt và đó thường là các thuật ngữ khoa học xã hội. Nhưng còn một bộ phận không nhỏ các thuật ngữ của một số ngành khoa học tự nhiên phải phiên âm từ các ngôn ngữ Ấn Âu hầu như không thể đòi hỏi được tính dân tộc. Vì vậy, đòi hỏi thuật ngữ phải có hình thức dân tộc là không thể thực hiện được một cách đầy đủ đối với toàn bộ hệ thống thuật ngữ [39 tr.103]. Theo chúng tôi, thực ra phiên âm ở chừng mực nào đó vẫn thể hiện được tính dân tộc. Khi phiên âm các thuật ngữ nước ngoài sang tiếng Việt, chúng ta chỉ vay mượn một phần hình thức ngôn ngữ bởi vì thực chất chúng ta vẫn dùng hệ thống chữ viết của chính tiếng Việt và sau đó biến đổi một phần hình thức ngữ âm nhằm phù hợp với ngôn ngữ tiếng Việt để ghi lại cách phát âm của thuật ngữ nước ngoài. Cho nên, trừ con đường giữ nguyên dạng, còn dịch nghĩa, phiên âm thuật ngữ nước ngoài vào tiếng Việt đều ít nhiều thể hiện được tính dân tộc thông qua việc thể hiện bằng tiếng Việt và tuân theo quy luật ngữ âm, chữ viết của tiếng Việt.
  • 30.
    24 1.2.4.4. Tính đạichúng Tính đại chúng của thuật ngữ cũng được thể hiện ở mặt hình thức, nghĩa là đòi hỏi thuật ngữ phải dễ hiểu, dễ nhớ đối với những người làm công tác chuyên môn và dễ nói, dễ đọc, dễ viết đối với quần chúng. Mặc dù đây không phải là tiêu chuẩn bắt buộc của thuật ngữ nhưng rõ ràng nếu thuật ngữ vừa bảo đảm được độ chính xác mà vừa dễ hiểu, dễ nhớ thì vẫn tốt hơn. Ngay cả đối với những người làm công tác chuyên môn và đang học môn khoa học chắc chắn cũng rất cần điều đó. Chẳng hạn các thuật ngữ như calxi, màu xanh da trời...chắc chắn sẽ dễ hiểu, dễ nhớ hơn thuật ngữ đề nguyên dạng tiếng Pháp calxium, hoặc tiếng Hán màu thanh thiên... Như vậy, trong một số trường hợp chúng ta vẫn nên lựa chọn các thuật ngữ dễ hiểu, dễ nhớ nếu như chúng không vi phạm đến tính khoa học của thuật ngữ. 1.3. THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT 1.3.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt Lĩnh vực máy xây dựng ở Việt Nam là một ngành khoa học kĩ thuật còn rất non trẻ. Hệ thống thuật ngữ về máy xây dựng hầu như chưa được nghiên cứu. Thuật ngữ máy xây dựng chỉ xuất hiện đan xen trong các cuốn từ điển thuật ngữ khoa học kỹ thuật nói chung. Đầu tiên có lẽ phải kể đến những cuốn từ điển thuật ngữ khoa học kỹ thuật: Từ điển kỹ thuật tổng hợp Nga Việt, Từ điển kỹ thuật tổng hợp Anh – Việt, Từ điển khoa học tự nhiên và kỹ thuật, Từ điển xây dựng Việt – Anh, Từ điển bách khoa xây dựng, kiến trúc, Từ điển bách khoa xây dựng … Chi tiết hơn nữa và gần đây nhất là các cuốn từ điển song ngữ về từng chuyên ngành của xây dựng: Từ điển Việt – Anh – Pháp về xây dựng nhà và công trình công cộng, Từ điển giải thích thuật ngữ hoàn thiện các hạng mục công trình trong xây dựng Anh - Anh - Việt, Từ điển giải thích thuật ngữ vật liệu nội thất, hệ thống kết cấu và vận chuyển trong xây dựng Anh - Anh - Việt, Từ điển giải thích thuật ngữ cấu trúc bê tông kim loại và kết cấu trong xây dựng Anh - Anh - Việt , Từ điển giải thích thuật ngữ vật liệu nội thất, hệ thống kết cấu và vận chuyển trong xây
  • 31.
    25 dựng Anh -Anh - Việt, Từ điển giải thích các thuật ngữ thông dụng về hợp đồng xây dựng và thi công công trình Anh - Việt … Chúng tôi đã hệ thống hóa và thấy rằng hiện chưa có công trình lí luận nào nghiên cứu sâu về đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. 1.3.2. Về hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt Máy xây dựng là tên gọi chung chỉ tất cả các loại máy và thiết bị phục vụ cho công tác xây dựng cơ bản: dân dụng, công nghiệp, giao thông vận tải, cảng, thuỷ lợi…Do vậy, máy xây dựng có rất nhiều chủng loại và cũng rất đa dạng. Để hiểu về hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, cần dựa vào sự phân loại của các nhà chuyên môn đối với máy xây dựng theo tính chất công việc hay công dụng thành các nhóm sau: + Tổ máy phát lực: Để cung cấp động lực cho các máy khác làm việc, thường là những tổ máy Diesel, Điện, Nén khí…Các tổ máy này lại do động cơ đốt trong hoặc động cơ điện cung cấp năng lượng. + Máy vận chuyển: Để vận chuyển vật liệu và hàng hoá, lại dược phân ra - Máy vận chuyển ngang: hướng vận chuyển song song với mặt đất, di chuyển trên đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, đường không. - Máy vận chuyển theo phương đứng hay lên cao gọi là máy nâng chuyển: kích, tời, palăng, thang tải, cần trục, cổng trục… - Máy vận chuyển liên tục: hướng vận chuyển có thể ngang, nghiêng, thẳng đứng, nhưng có đặc điểm là được vận chuyển thành một dòng liên tục: băng tải, gầu tải, vít tải… + Máy làm đất: gồm các loại máy phục vụ trong công việc thi công, khai thác đất, đá, than, quặng như: máy đào đất, máy đào- chuyển, máy đầm đất… + Máy gia công đá: phục vụ cho việc nghiền, sàng phân loại và rửa đá, sỏi, quặng, cát… + Máy phục vụ cho công tác bêtông và bê tông cốt thép: phục vụ việc trộn, vận chuyển bê tông và đầm bê tông + Máy gia công sắt thép: phục vụ cho việc cắt, uốn, kéo, hàn cốt thép
  • 32.
    26 + Máy giacông nền móng: gồm các loại máy đóng cọc, ép cọc, khoan cọc nhồi, cắm bấc thấm… + Các máy và thiết bị chuyên dùng cho công tác thi công đường bộ, đường sắt, và công trình cầu: như máy đặt ray, máy rải thảm, máy thi công lao lắp cầu… + Máy và thiết bị chuyên dùng cho từng ngành: như máy hoàn thiện, máy cắt mối bê tông, máy sản xuất gạch, ngói, máy cán tôn… Dựa trên cơ sở lý thuyết về thuật ngữ và nội dung khái quát của ngành khoa học kĩ thuật máy xây dựng, chúng tôi xác định: Thuật ngữ máy xây dựng là những từ ngữ gọi tên khái niệm, sự vật, hiện tượng, quá trình hoạt động, trạng thái, chi tiết, quan hệ… dựa trên các hệ thống cơ bản của máy xây dựng: Thiết bị động lực, hệ thống truyền động, cơ cấu công tác, hệ thống di chuyển, cơ cấu quay, hệ thống điều khiển, khung và vỏ máy, các thiết bị phụ. Kết luận chương 1 Trong chương 1, chúng tôi đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận sau: 1. Về các vấn đề chung của thuật ngữ: luận văn hệ thống hóa, phân tích các quan điểm về thuật ngữ, tiêu chuẩn của thuật ngữ, phân biệt thuật ngữ với các loại đơn vị từ vựng liên quan: danh pháp, từ nghề nghiệp. Trên cơ sở đó, chúng tôi hiểu rằng: thuật ngữ là từ hoặc cụm từ biểu đạt khái niệm, thuộc tính, đối tượng, sự vật, hiện tượng… thuộc một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn. Thuật ngữ có các tiêu chuẩn thuộc về bản thể, đó là: tính khoa học (bao gồm tính chính xác, tính hệ thống, tính ngắn gọn), tính quốc tế; thuật ngữ cũng có những tiêu chuẩn không thuộc về bản thể, đó là: tính dân tộc, tính dễ sử dụng. Từ khái niệm cùng với những tiêu chuẩn này, thuật ngữ được phân biệt với danh pháp, từ nghề nghiệp. 2. Hệ thống thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt Các nội dung cơ bản của ngành máy xây dựng được trình bày khái quát từ qua việc phân chia theo lĩnh vực làm việc và đặc biệt là tính chất công việc. Trên cơ sở đó, cùng với cơ sở lý luận về thuật ngữ, chúng tôi đã xác định khái niệm thuật ngữ máy xây dựng làm cơ sở nghiên cứu trong luận văn này: Thuật ngữ máy xây
  • 33.
    27 dựng là nhữngtừ ngữ gọi tên khái niệm, sự vật, hiện tượng, quá trình hoạt động, trạng thái, chi tiết, quan hệ… dựa trên các hệ thống cơ bản của máy xây dựng: Thiết bị động lực, hệ thống truyền động, cơ cấu công tác, hệ thống di chuyển, cơ cấu quay, hệ thống điều khiển, khung và vỏ máy, các thiết bị phụ.
  • 34.
    28 Chương 2 ĐẶC ĐIỂMCẤU TẠO CỦA THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT 2.1. DẪN NHẬP Như chúng ta đã biết, thuật ngữ nói chung có thể có cấu tạo là một từ hoặc một cụm từ. Thuật ngữ là một từ thì nó mang tính chất định danh thực sự và có cấu tạo ngắn gọn, chặt chẽ. Còn thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ thì chúng thường dài dòng và nhiều khi có tính chất miêu tả đối tượng được định danh hơn là có tính chất định danh đối tượng. Trong chương này chúng tôi sẽ nghiên cứu và chỉ ra đặc điểm mô hình cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng. Để phân tích thành phần cấu tạo của các thuật ngữ máy xây dựng, chúng tôi sử dụng khái niệm ngữ tố [94], được hiểu là "yếu tố cơ sở để cấu tạo thuật ngữ". Đây là thành tố cấu tạo trực tiếp của một thuật ngữ. Ngữ tố có hình thức cấu tạo là hình vị (thường trùng với âm tiết, còn được gọi là tiếng) nếu thuật ngữ là từ. Chẳng hạn, các hình vị hay tiếng trong các thuật ngữ ngôn ngữ học sau: ngữ / vị, âm / tiết, nguyên / âm,v.v… “Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa”, còn về hình thức thì “Hình vị là đơn vị nhỏ nhất, đơn giản nhất về mặt tổ chức mà lại có giá trị về mặt ngữ pháp” [5, tr.9]. Ví dụ: từ xe đạp được cấu tạo từ hai hình vị xe và đạp, từ nhà cửa được cấu tạo từ hai hình vị nhà và cửa. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, hình thức ngữ âm của hình vị đại bộ phận trùng với âm tiết, chỉ một số rất ít hình vị vay mượn có cấu tạo hơn một âm tiết. Vì vậy, xét một cách khái quát thì ranh giới hình vị trùng với ranh giới âm tiết. Hay nói cách khác, đơn vị cấu tạo từ tiếng Việt là tiếng. Ngữ tố có thể có hình thức cấu tạo là từ nếu thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ. Về nội dung ý nghĩa, ngữ tố có thể biểu hiện khái niệm loại, khái niệm bộ phận hay đặc trưng của khái niệm được thuật ngữ định danh. Chẳng hạn, thuật ngữ bảo dưỡng kỹ thuật sẽ có 2 đơn vị cơ sở - 2 ngữ tố là: bảo dưỡng, kỹ thuật. Khi phân tích cấu tạo thuật ngữ, tác giả Nguyễn Đức Tồn dừng sự phân tích chỉ ở đơn vị ngữ tố có cấu tạo là từ.
  • 35.
    29 Chúng tôi đãtiến hành khảo sát 798 thuật ngữ máy xây dựng trong tiếng Việt. Trong đó, có 302 thuật ngữ có cấu tạo là từ (gồm từ đơn hoặc từ ghép, chiếm 37,8 %. Có thể coi đó là các thuật ngữ nguyên cấp, hay là thuật ngữ gốc. Còn lại, 496 thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ (62,2 %). Có thể coi chúng là các thuật ngữ thứ cấp, được tạo ra từ các thuật ngữ nguyên cấp bằng cách ghép với các thuật ngữ nguyên cấp khác hoặc ghép với từ toàn dân biểu thị đặc trưng khu biệt để loại biệt hoá ý nghĩa của một thuật ngữ nguyên cấp. Về mặt từ loại, số lượng thuật ngữ là danh từ và cụm danh từ chiếm số lượng áp đảo. Thuật ngữ là động từ và cụm động từ chiếm số lượng ít. Về mặt nguồn gốc, chúng được cấu tạo từ các đơn vị có nguồn gốc khác nhau: thuần Việt, vay mượn nước ngoài (Hán Việt, Ấn Âu) với nhiều cách kết hợp khác nhau. Bảng 2.1: Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo cấu tạo Thuật ngữ Số lượng Tỷ lệ % Thuật ngữ là từ 302 37,8 Thuật ngữ là cụm từ 496 62,2 Tổng số 798 100 Bảng 2.2: Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt xét theo từ loại Thuật ngữ Từ loại Số lượng Tỷ lệ % Từ Danh từ 233 29,2 Động từ 69 8,6 Cụm từ Cụm danh từ 431 54,1 Cụm động từ 65 8,1 Tổng số 798 100 Sau đây chúng tôi sẽ lần lượt phân tích đặc điểm cụ thể của các thuật ngữ có cấu tạo là từ và thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ về các phương diện từ loại, nguồn gốc và mô hình cấu tạo thuật ngữ.
  • 36.
    30 2.2. ĐẶC ĐIỂMCỦA THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG CÓ CẤU TẠO LÀ TỪ Lấy đơn vị cơ sở là tiếng để phân tích thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ [8], chúng tôi nhận thấy: có những thuật ngữ chỉ được cấu tạo bởi một tiếng nhưng cũng có thuật ngữ được cấu tạo bởi nhiều tiếng. Chúng tôi đã dựa trên sơ sở số lượng tiếng tham gia cấu tạo thuật ngữ để phân loại: thuật ngữ đơn tiết và thuật ngữ đa tiết. Với mỗi loại, chúng tôi sẽ phân tích mô hình cấu tạo, số lượng và tỉ lệ các tiếng tham gia cấu tạo thuật ngữ xét theo nguồn gốc. Sau đó, chúng tôi sẽ thống kê về mặt từ loại của các thuật ngữ này. 2.2.1. Thuật ngữ máy xây dựng là từ đơn tiết Trong số 302 thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ thì có 73/302 thuật ngữ là từ đơn tiết. Ví dụ: lu, ủi, tang, gầm, còi, đèn, … chiếm tỉ lệ : 24,2 %. Xét về nguồn gốc, có 41 thuật ngữ là từ thuần Việt. Có 19 từ có nguồn gốc ngoại lai. Đó là các từ: cáp, cam, côn, ga, tang, tời… (mượn Ấn Âu) và có 16 nguồn gốc Hán Việt: san, xúc, cẩu … Như vậy, các thuật ngữ này đa số có nguồn gốc thuần Việt (58,9 %). Số lượng thống kê này được hệ thống trong bảng sau: Bảng 2.3: Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo nguồn gốc Thuật ngữ - từ đơn tiết Số lượng Tỷ lệ % Thuần Việt 43 58,9 Hán Việt 16 21,9 Mượn Ấn Âu 14 19,2 Tổng số 73 100 Về mặt từ loại, có 24 thuật ngữ đơn tiết là danh từ, có 52 thuật ngữ là động từ (cẩu, đầm, đục, xúc, ủi, nâng, ...).
  • 37.
    31 Bảng 2.4: Thuậtngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đơn tiết xét theo từ loại Thuật ngữ - từ đơn tiết Số lượng Tỷ lệ % Danh từ 21 28,8 Động từ 52 71.2 Tổng số 73 100 Như vậy, thuật ngữ đơn tiết là động từ chiếm đasố (71,2 %), thuật ngữ đơn tiết là danh từ chiếm 28,8 % . Không có thuật ngữ đơn tiết làtính từ hay các từ loại khác. Kết quả này cho ta thấy các thuật ngữ máy xây dựng chủ yếu chỉ các chi tiết, kết cấu của máy xây dựng và các hoạt động tiến hành thi công, do đó các thuật ngữ máy xây dựng cũng chủ yếu là động từ và danh từ. 2.2.2. Thuật ngữ máy xây dựng là từ đa tiết Thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ đa tiết có số lượng lớn: 229/302 đơn vị (chiếm 75,8 %). Ví dụ: sửa chữa, bảo dưỡng, tốc độ, tổng thành, vi sai, công suất, … Và đại đa số thuật ngữ kiểu này chỉ có hai tiếng hay còn gọi là song tiết, trừ một số ít thuật ngữ có cấu tạo ba tiếng trở lên. Thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ đa tiết có 3 tiểu loại : từ ghép đẳng lập, từ ghép chính phụ và từ ghép ngẫu hợp [5]. Trong đó, thuật ngữ là từ ghép chính phụ chiếm tỉ lệ lớn nhất 172 đơn vị. Đứng ở vị trí thứ 2 là thuật ngữ - từ ghép ngẫu hợp: 32 thuật ngữ . Thuật ngữ là từ ghép đẳng lập là 25 đơn vị. Có thể nhìn tổng quát các tiểu loại thuật ngữ là từ đa tiết ở bảng 2.5 dưới đây. Bảng 2.5: Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đa tiết xét theo cấu tạo Thuật ngữ là từ đa tiết Số lượng Tỉ lệ % Ghép chính phụ 172 75 Ghép đẳng lập 25 10,9 Ghép ngẫu hợp 32 14,1 Tổng số 229 100 Xem xét nguồn gốc các tiếng tham gia cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng là từ đa tiết, chúng tôi nhận thấy: tỉ lệ số tiếng có nguồn gốc Ấn Âu tham gia cấu tạo
  • 38.
    32 thuật ngữ là:27; số tiếng có nguồn gốc Hán Việt là 15. Còn lại 187 tiếng thuần Việt tham gia cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ đa tiết . Bảng 2.6: Nguồn gốc ngữ tố của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đa tiết Tiếng Số lượng Tỷ lệ % Thuần Việt 187 81,6 Hán Việt 15 6,5 Ấn Âu 27 11,9 Tổng số 229 100 Các đơn vị cấutạo có nguồn gốc khác nhau có sự kết hợp với nhau rất đa dạng. Sau đây là đặc điểm cụ thể của từng tiểu loại thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ đa tiết. 2.2.2.1. Thuật ngữ là từ ghép chính phụ Thuật ngữ là từ ghép chính phụ có số lượng là: 172 đơn vị.Thuật ngữ có trật tự kết hợp các tiếng cấu tạo ngược cú pháp tiếng Việt: phụ trước - chính sau: áp suất, công suất, hiệu suất … Các thuật ngữ loại này đều là danh từ Hán Việt Mô hình của các thuật ngữ xây dựng có cấu tạo là từ ghép chính phụ theo trật tự ngược cú pháp tiếng Việt như sau, trong đó N là ngữ tố tức là tiếng. N1 N2 Ví dụ: Công suất Thuật ngữ có trật tự kết hợp các tiếng cấu tạo thuận cú pháp tiếng Việt: chính trước - phụ sau chiếm đa số. Các thuật ngữ này đều là các từ thuần Việt. Chúng được cấu tạo theo mô hình:
  • 39.
    33 N1 N2 Ví dụ:Băng phẳng Máy xúc Bàn ủi Xem xét nguồn gốc của tiếng tham gia cấu tạo thuật ngữ là từ ghép chính phụ, chúng tôi nhận thấy có cả tiếng có nguồn gốc thuần Việt và tiếng có nguồn gốc ngoại lai (Hán Việt, Ấn Âu). Thuật ngữ là từ ghép chính phụ được cấu tạo từ 2 tiếng có nguồn gốc thuần Việt chiếm số lượng nhiều nhất: 187 đơn vị. Đó là các thuật ngữ kiểu: Bánh răng, máy ủi , máy đào,… Thuật ngữ là từ ghép chính phụ được cấu tạo từ 2 tiếng có nguồn gốc Hán Việt có số lượng ít: 15 đơn vị. Đó là các thuật ngữ: bảo dưỡng, trọng lực, tốc độ, mã lực… Ngoài ra còn rất nhiều thuật ngữ là từ ghép chính phụ được cấu tạo từ 2 tiếng có nguồn gốc khác nhau. Có một vài thuật ngữ có cấu tạo gồm một tiếng có nguồn gốc thuần Việt và một tiếng có nguồn gốc Ấn Âu. Chẳng hạn: đèn xinhan, dầm côngxôn, dây xích, dải xích… gồm yếu tố thuần Việt + Ấn Âu (in đậm). Có 27 thuật ngữ có cấu tạo có nguồn gốc Ấn Âu: Tắc te, Taluy, Tăngđơ, Vô lăng, Xéc măng, Xupáp … Xét về từ loại, có 7 thuật ngữ - từ ghép chính phụ là động từ ( ép cọc, sang số, tăng ga, về số, gài số…), 172 thuật ngữ là danh từ chiếm đa số ( răng gầu, quai búa, phanh chân, máy nâng, … ) 2.2.2.2. Thuật ngữ là từ ghép đẳng lập Có 8 thuật ngữ là từ ghép đẳng lập là động từ : Bảo dưỡng, chà xát, lắp ráp, sửa chữa... Có 17 thuật ngữ là danh từ là từ ghép đẳng lập: cấu kiện, cơ cấu, ly hợp…
  • 40.
    34 2.2.2.3. Thuật ngữlà từ ghép ngẫu hợp Có 32 thuật ngữ là từ ghép ngẫu hợp . Đó là các thuật ngữ có nguồn gốc Ấn Âu, được mượn vào tiếng Việt dưới hình thức phiên âm hoặc để nguyên dạng như: rơ le, mô tơ, diesel , piston, xu páp, công tơ mét, xéc măng, ta luy… Tất cả các thuật ngữ này đều thuộc từ loại danh từ. 2.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG CÓ CẤU TẠO LÀ CỤM TỪ Như chúng ta đã biết, các thuật ngữ nguyên cấp hay thuật ngữ gốc, là những thuật ngữ có cấu tạo là từ. Còn thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ gồm có 496/798 đơn vị (62,2 %), kiểu như sửa chữa thường xuyên, bảo dưỡng kỹ thuật… Đây là các thuật ngữ thứ cấp, được tạo ra từ các thuật ngữ nguyên cấp bằng cách ghép với các thuật ngữ nguyên cấp khác hoặc ghép với từ toàn dân biểu thị đặc trưng khu biệt để loại biệt hoá ý nghĩa của một thuật ngữ nguyên cấp. Kết quả phân tích cho thấy rằng trong số 496 thuật ngữ máy xây dựng nói trên thì tuyệt đại đa số đều là những cụm từ chính phụ có từ hai ngữ tố trở lên: một ngữ tố trung tâm đứng làm nòng cốt, các ngữ tố khác được ghép vào với vai trò thứ yếu, bổ sung cho trung tâm. Thuật ngữ máy xây dựng là cụm từ có thể có từ 2 đến 8 ngữ tố. Tuy nhiên, thực tế phân tích cho thấy chỉ các thuật ngữ có cấu tạo từ 2 đến 5 ngữ tố thì mới được cấu tạo theo những mô hình nhất định, nghĩa là chúng ta mới xác định được những mô hình cấu tạo phổ biến của chúng. Các thuật ngữ có cấu tạo từ 6 ngữ tố trở lên thường mang tính chất cụm từ kết hợp tự do nên rất đa dạng, khó quy chúng vào mô hình cấu tạo nhất định. Do vậy, chúng tôi sẽ chỉ trình bày các mô hình cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng là cụm từ có từ 2 đến 5 ngữ tố. 2.3.1. Cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 2 ngữ tố Có 240 thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ gồm 2 ngữ tố. a. Xét về từ loại, số lượng thuạt ngữ có cấu tạo cụm danh từ gồm 210 đơn vị, chiếm đa số (87,5 %), sau đó là thuật ngữ có cấu tạo cụm động từ gồm 30 đơn vị (12,5 %) . Như vậy, những thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ gồm 2 ngữ tố chủ yếu gọi tên sự vật, hiện tượng.
  • 41.
    35 b. Xét vềnguồn gốc, các thuật ngữ là cụm từ gồm hai ngữ tố được cấu tạo từ các từ có nguồn gốc khác nhau: thuần Việt, ngoại lai (Hán Việt, Ấn Âu). Có 63 thuật ngữ có ngữ tố cấu tạo thuộc nguồn gốc thuần Việt: con lăn đỡ, khớp nối bù, máy đầm bàn, máy đầm dùi, máy đào móng… Thuật ngữ là cụm từ được ghép từ các ngữ tố có nguồn gốc ngoại lai: 177 đơn vị, trong đó gồm thuật ngữ ghép các đơn vị mượn Ấn Âu: Pa lăng cáp, tang căng băng, tang cuốn cáp …; thuật ngữ ghép các ngữ tố Hán Việt: kỹ thuật thi công, bảo dưỡng kỹ thuật, điều khiển nguyên liệu, chi phí bảo dưỡng… Thuật ngữ ghép ngữ tố thuần Việt và ngữ tố Hán Việt: khoang động cơ, bánh chủ động… Thuật ngữ ghép ngữ tố Hán Việt và ngữ tố Ấn Âu: dung tích xylanh, thể tích xylanh, … Thuật ngữ ghép ngữ tố Ấn Âu và ngữ tố Hán Việt: kích thủy lực, mô tơ điện, model động cơ, pa lăng đơn, pa lăng kép… Thuật ngữ ghép ngữ tố thuần Việt và ngữ tố Ấn Âu: truyền động cáp, xe tải ben, máy nén piston, máy đóng cọc diesel … Thuật ngữ ghép ngữ tố Ấn Âu và ngữ tố thuần Việt: băng tải hình máng, kích thanh răng, mô đun ăn khớp, … c. Mô hình cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng – cụm từ 2 ngữ tố Các thuật ngữ máy xây dựng – cụm từ 2 ngữ tố đều là các tổ hợp chính phụ với trật tự chính trước – phụ sau. N1 N2 (N: ngữ tố) Ví dụ: Máy xúc lật Bảo dưỡng ca Pa lăng cáp Chẳng hạn, phân tích thuật ngữ Máy xúc lật: Máy xúc là danh từ giữ vai trò chính, lật là động từ phụ cho danh từ máy xúc.
  • 42.
    36 2.3.2. Cấu tạocủa thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 3 ngữ tố Có 151 thuật ngữ là cụm từ có cấu tạo gồm ba ngữ tố. Ví dụ: Cu roa bơm chịu lực, động cơ năm xilanh, chi phí bảo dưỡng kỹ thuật … a. Xét về từ loại, những thuật ngữ loại này chủ yếu là cụm danh từ: 132 đơn vị, chiếm 87,5 %. Thuật ngữ là cụm động từ ít hơn, chỉ có 19 đơn vị (12,5 %). b. Xét về nguồn gốc, có thể phân loại các thuật ngữ này như sau: Có 41 thuật ngữ có cấu tạo gồm các ngữ tố thuần Việt:, máy khoan hai cần, máy đào gầu ngược, … Có 30 thuật ngữ có cấu tạo gồm các ngữ tố Hán Việt: lực điều khiển tốc độ, hệ thống điều khiển thủy lực, bộ cảm biến tốc độ, các thông số kỹ thuật… Không có thuật ngữ sử dụng hoàn toàn các ngữ tố mượn Ấn Âu. Còn 80 thuật ngữ gồm các ngữ tố có nguồn gốc thuần Việt kết hợp với ngữ tố mượn Ấn Âu: (cần cẩu bánh xích, tời nhiều tang, …) hoặc thuật ngữ được tạo bởi sự kết hợp ngữ tố Hán Việt và ngữ tố mượn Ấn Âu, hay hỗn hợp ngữ tố thuần Việt, Hán Việt và mượn Ấn Âu: (Tời điện đảo chiều, tời xích điện, momen xoắn lớn nhất…). Ngoài ra còn có sự kết hợp giữa ngữ tố thuần Việt và ngữ tố Hán Việt ( truyền động bằng ăn khớp, hệ số thời gian sửa chữa… c. Mô hình cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 3 ngữ tố Thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 3 ngữ tố được cấu tạo theo các mô hình khác nhau. * Mô hình 3.1: Đây là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: N2 và N3 phụ cho N1. Bậc 2: N3 phụ cho N2. Theo mô hình này cósố lượng thuật ngữ chiếm trên 80 %. N 1 N 2 N 3 Ví dụ: Kết cấu dạng giàn Máy xúc đào thủy lực Máy đào gầu ngoạm Phễu xả bê tông
  • 43.
    37 Chẳng hạn, trongthuật ngữ Kết cấu dạng giàn, ở bậc 1, ngữ tố dạng giàn phụ nghĩa cho ngữ tố kết cấu. Ở bậc 2 , trong ngữ tố dạng giàn thì ngữ tố giàn phụ nghĩa cho ngữ tố dạng. * Mô hình 3.2. Đây là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: N2 và N3 phụ cho N1. Bậc 2: N2 phụ cho N3. N 1 N 2 N 3 Ví dụ: Lốp không gờ Lốp không xăm Có một số thuật ngữ cấu tạo theo mô hình này. Chẳng hạn, thuật ngữ lốp không xăm được tạo bởi 3 ngữ tố: lốp, không, xăm với hai bậc quan hệ. Bậc 1: trong ngữ tố không xăm phụ nghĩa cho ngữ tố lốp. Bậc 2: trong ngữ tố không xăm thì ngữ tố không phụ cho ngữ tố xăm. * Mô hình 3.3: Đây là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: N3 phụ cho N1 và N2. Bậc 2: N2 phụ cho N1. N 1 N 2 N 3 Ví dụ: Bánh răng vi sai nhánh Bảo dưỡng kỹ thuật định kỳ Có tương đối nhiều thuật ngữ có cấu tạo theo mô hình này. Ví dụ: Trong thuật ngữ bánh răng vi sai nhánh, 3 ngữ tố: bánh răng, vi sai, nhánh có 2 bậc quan hệ. Bậc 1: ngữ tố nhánh phụ cho ngữ tố bánh răng vi sai. Bậc 2: ngữ tố bánh răng vi sai trong đó ngữ tố vi sai phụ cho ngữ tố bánh răng.
  • 44.
    38 * Mô hình3.4: Là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: cả N2 và N3 phụ cho N1. Bậc 2: N2 và N3 có quan hệ đẳng lập N 1 N 2 N 3 Ví dụ: Máy rải bê tông át phan Mô tơ bơm nước hút cát Có một số ít thuật ngữ cấu tạo theo mô hình hai bậc kiểu này. Ví dụ: thuật ngữ Mô tơ bơm nước hút cát . Ở bậc 1, ngữ tố bơm nước, hút cát phụ cho ngữ tố mô tơ. Mô tơ là ngữ tố giữ vai trò nòng cốt. Ở bậc 2, ngữ tố bơm nước và ngữ tố hút cát là quan hệ đẳng lập. Nhìn chung, thuật ngữ là cụm từ gồm 3 ngữ tố chủ yếu được cấu tạo theo mô hình 3.1, và các mô hình còn lại có số lượng ít thuật ngữ. 2.3.3. Cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 4 ngữ tố Có 88 thuật ngữ có cấu tạo bốn ngữ tố. Đó là các thuật ngữ kiểu: Tỉ lệ tiêu hao dầu động cơ, Hệ thống phân phối nhiên liệu linh hoạt, Cơ cấu khoá vi sai tự động, Phanh má điện thủy lực… a. Xét về từ loại, các thuật ngữ này không có cấu tạo là cụm tính từ, có 12 thuật ngữ có cấu tạo là cụm động từ (Kiểm tra mực dầu động cơ, bảo dưỡng kỹ thuật trong vận chuyển…), còn lại là 76 thuật ngữ có cấu tạo là cụm danh từ. b. Xét về nguồn gốc Có 23 thuật ngữ có cấu tạo là các ngữ tố thuần Việt (Số răng của bàn cuốc, Máy khoan có gầu xoay tròn…) Có 6 thuật ngữ được tạo bởi sự kết hợp của cả ngữ tố thuần Việt, Hán Việt và Ấn Âu (Bơm nhiên liệu bằng diesel, Tời xích vận hành tay, Van an toàn bơm nạp, Mômen quay của động cơ…). Có 10 thuật ngữ gồm các ngữ tố cấu tạo có nguồn gốc thuần Việt và Ấn Âu (Cần cẩu đặt trên ô tô, Xe tải kéo chở moóc… ).
  • 45.
    39 Và còn lại49 thuật ngữ cấu tạo bằng cách kết hợp ngữ tố thuần Việt và ngữ tố Hán Việt (Bảo dưỡng kỹ thuật trong bảo quản, Máy tạo các mối nối thi công…) c. Mô hình cấu tạo thuật ngữ xây dựng – cụm từ 4 ngữ tố Có 88 thuật ngữ - cụm từ 4 ngữ tố được cấu tạo theo các mô hình sau: * Mô hình 4.1: Đây là mô hình thuật ngữ - cụm từ 4 ngữ tố. Mô hình này có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: cả N3 và N4 phụ cho N1 và N2. Bậc 2: N2 phụ cho N1, N4 phụ cho N3. N 1 N 2 N 3 N 4 Ví dụ: Biểu đồ kế hoạch bảo dưỡng kỹ thuật Cảm biến nhiệt độ làm mát động cơ Cụm trợ lực phanh thuỷ lực Có 20 thuật ngữ có cấu tạo theo mô hình này. Ví dụ: thuật ngữ Cụm trợ lực phanh thuỷ lực ở bậc 1: ngữ tố phanh thủy lực phụ cho ngữ tố cụm trợ lực tạo thành thuật ngữ cụm trợ lực phanh thủy lực. Ở bậc 2 bao gồm ngữ tố trợ lực phụ cho ngữ tố cụm tạo thành ngữ tố cụm trợ lực, ngữ tố thủy lực phụ cho ngữ tố phanh tạo thành ngữ tố phanh thủy lực. * Mô hình 4.2: Đây là mô hình có cấu trúc 3 bậc. Có 5 thuật ngữ theo mô hình này. Bậc 1: cả N2, N3, N4 phụ cho N1. Bậc 2: cả N3 và N4 phụ cho N2. Bậc 3: N4 phụ cho N3 N 1 N 2 N 3 N 4 Ví dụ: Bơm có cánh bên ngoài Máy khoan có gầu xoay tròn Tời có tang ma sát
  • 46.
    40 Chẳng hạn: Bơmcó cánh bên ngoài là thuật ngữ có cấu tạo 3 bậc. Ở bậc 1: ngữ tố có cánh bên ngoài phụ cho bơm tạo thành thuật ngữ bơm có cánh bên ngoài. Bơm là ngữ tố giữ vai trò nòng cốt. Ở bậc 2: ngữ tố cánh bên ngoài phụ cho ngữ tố có tạo thành ngữ tố có cánh bên ngoài. Ở bậc 3: ngữ tố bên ngoài phụ cho ngữ tố cánh tạo thành ngữ tố cánh bên ngoài * Mô hình 4.3: Là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: cả N3 và N4 phụ cho N1 và N2. Bậc 2: N2 phụ cho N1, N3 phụ cho N4. N 1 N 2 N 3 N 4 Ví dụ: Bơm nhiên liệu bằng điện Bơm nhiên liệu bằng diesel Có 22 thuật ngữ được tạo thành theo mô hình này. Ví dụ: cấu tạo của thuật ngữ Bơm nhiên liệu bằng điện có: Ở bậc 1: Ngữ tố bằng điện phụ cho ngữ tố bơm nhiên liệu tạo thành thuật ngữ bơm nhiên liệu bằng điện. Ở bậc 2: ngữ tố nhiên liệu phụ cho ngữ tố bơm tạo thành ngữ tố bơm nhiên liệu, ngữ tố bằng phụ cho ngữ tố điện tạo thành ngữ tố bằng điện. * Mô hình 4.4: Đây là mô hình có cấu trúc 3 bậc của 9 thuật ngữ . Bậc 1: N4 phụ cho cả N1, N2 và N3. Bậc 2: cả N2 và N3 phụ cho N1. Bậc 3: N3 phụ cho N2. N 1 N 2 N 3 N 4 Ví dụ: Bộ phun xăng điện tử Cảm biến phân phối nhiên liệu linh hoạt Chi phí bảo dưỡng kỹ thuật bình quân Cơ cấu khóa vi sai tự động Hệ thống phân phối nhiên liệu linh hoạt
  • 47.
    41 Chẳng hạn, thuậtngữ hệ thống phân phối nhiên liệu linh hoạt. Ở bậc 1: ngữ tố linh hoạt phụ cho ngữ tố hệ thống phân phối nhiên liệu tạo thành thuật ngữ hệ thống phân phối nhiên liệu linh hoạt. Ở bậc 2: ngữ tố phân phối nhiên liệu phụ cho ngữ tố hệ thống tạo thành ngữ tố hệ thống phân phối nhiên liệu. Ở bậc 3: ngữ tố nhiên liệu phụ cho ngữ tố phân phối tạo thành ngữ tố phân phối nhiên liệu. * Mô hình 4.5: Đây là mô hình có cấu trúc 3 bậc, có 8 thuật ngữ theo mô hình này. Bậc 1: N4 phụ cho cả N1, N2 và N3. Bậc 2: cả N2 và N3 phụ cho N1. Bậc 3: N2 phụ cho N3. N 1 N 2 N 3 N 4 Ví dụ: Môtơ có thể thay đổi lưu lượng Van một chiều hệ thống Chẳng hạn, thuật ngữ Van một chiều hệ thống có quan hệ 3 bậc. Ở bậc 1: ngữ tố hệ thống phụ cho ngữ tố van một chiều tạo thành thuật ngữ van một chiều hệ thống. Ở bậc 2: ngữ tố một chiều phụ cho ngữ tố van tạo thành ngữ tố van một chiều. Ở bậc 3: ngữ tố một phụ cho ngữ tố chiều tạo thành ngữ tố một chiều. * Mô hình 4.6: Cấu tạo theo mô hình này có 5 thuật ngữ . Đây là mô hình cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: cả N2, N3 và N4 phụ cho N1. Bậc 2 : N2 và N4 có quan hệ đẳng lập, N3 kết nối N2 và N4. N1 N2 N3 N4 Ví dụ: Máy khoan nhồi và neo Máy san phẳng và hoàn thiện Phanh má điện và thủy lực Phanh má điện và từ
  • 48.
    42 Chẳng hạn, thuậtngữ Máy khoan nhồi và neo có cấu tạo hai bậc theo mô hình này. Ở bậc 1: ngữ tố nhồi và neo phụ cho ngữ tố máy khoan tạo thành thuật ngữ máy khoan nhồi và neo. Ở bậc 2: ngữ tố nhồi , ngữ tố neo có quan hệ đẳng lập được kết nối bằng và tạo thành ngữ tố nhồi và neo. * Mô hình 4.7: Cấu tạo theo mô hình này có 19 thuật ngữ . Đây là mô hình cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: cả N2, N3 và N4 phụ cho N1. Bậc 2: N3 và N4 phụ cho N2. Bậc 3: N3 phụ cho N4 N1 N2 N3 N4 Ví dụ: Cần cẩu đặt trên ô tô Cần cẩu di chuyển trên ray Mômen quay của động cơ Ví dụ: cấu tạo của thuật ngữ Cần cẩu đặt trên ô tô. Ở bậc 1: ngữ tố đặt trên ô tô phụ cho ngữ tố cần cẩu thành thuật ngữ cần cẩu đặt trên ô tô. Ở bậc 2: ngữ tố trên ô tô phụ cho ngữ tố đặt tạo thành ngữ tố đặt trên ô tô . Ở bậc 3: ngữ tố trên phụ cho ngữ tố ôtô tạo thành ngữ tố trên ô tô. Về cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng là cụm từ gồm bốn ngữ tố, mô hình 4.1, 4.3 và mô hình 4.7 sản sinh ra nhiều thuật ngữ hơn cả. Các kiểu mô hình còn lại chiếm tỉ lệ ít. 2.3.4. Cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng - cụm từ 5 ngữ tố Có 17 thuật ngữ có cấu tạo từ cụm từ gồm năm ngữ tố. a. Xét về từ loại, 4 thuật ngữ là cụm động từ (Hao phí lao động một lần sửa chữa, Điều khiểu lưu lượng bằng tín hiệu điện… còn lại 13 thuật ngữ là cụm danh từ (Búa rung kết hợp với va đập, Hệ thống bướm ga phun nhiên liệu…) b. Xét về nguồn gốc Có 3 thuật ngữ có các ngữ tố cấu tạo thuần Việt ( Máy đào vét đặt trên cầu phao, Máy xúc một gầu dùng hơi nước).,
  • 49.
    43 Có 4 thuậtngữ được tạo từ sự kết hợp của ngữ tố thuần Việt, Hán Việt và Ấn Âu (Động cơ có xi lanh bố trí thẳng hàng, Động cơ có hành trình piston dài…) Và 10 thuật ngữ được tạo bởi sự kết hợp của ngữ tố thuần Việt và ngữ tố Hán Việt (Chi phí cho một lần sửa chữa, Điều khiển lưu lượng bằng tín hiệu điện…). c. Mô hình cấu tạo thuật ngữ xây dựng – cụm từ 5 ngữ tố Có 17 thuật ngữ là cụm từ có 5 ngữ tố được cấu tạo theo các mô hình sau: * Mô hình 5.1: Đây là mô hình phổ biến nhất trong số các mô hình cấu tạo của các thuật ngữ có 5 ngữ tố, nhưng cũng chỉ sản sinh được 3 thuật ngữ. Các ngữ tố trong mô hình này có quan hệ 3 bậc: Bậc 1: cả N3, N4 và N5 phụ cho N1 và N2 . Bậc 2: N3 phụ cho cả N4 và N5. Bậc 3: N2 phụ cho N1, N5 phụ cho N4. N 1 N 2 N 3 N 4 N 5 Ví dụ: Điều khiển nguyên liệu bằng tín hiệu điện Điều khiển nguyên liệu bằng hệ thống thủy lực Hao phí lao động một lần sửa chữa Thuật ngữ điều khiển nguyên liệu bằng hệ thống thủy lực là một thuật ngữ có cấu tạo theo mô hình 3 bậc này. Ở bậc 1: ngữ tố bằng hệ thống thủy lực phụ cho ngữ tố điều khiển nguyên liệu tạo thành thuật ngữ điều khiển nguyên liệu bằng hệ thống thủy lực. Ở bậc 2: ngữ tố bằng phụ cho ngữ tố hệ thống thủy lực tạo thành ngữ tố bằng hệ thống thủy lực. Bậc 3: ngữ tố nguyên liệu phụ cho ngữ tố điều khiển tạo thành ngữ tố điều khiển nguyên liệu, ngữ tố thủy lực phụ cho ngữ tố hệ thống tạo thành ngữ tố hệ thống thủy lực. * Mô hình 5.2: Là mô hình có cấu trúc 4 bậc. Bậc 1: cả N2, N3, N4 và N5 phụ cho N1. Bậc 2: cả N3, N4 và N5 phụ cho N 2. Bậc 3: N4 và N5 phụ cho N3. Bậc 4: N5 phụ cho N4.
  • 50.
    44 N 1 N2 N 3 N 4 N 5 Ví dụ: Động cơ có hành trình piston dài Động cơ có xi lanh bố trí thẳng hàng Động cơ kiểu xi lanh xếp nằm ngang Có 3 thuật ngữ được cấu tạo theo kiểu mô hình này. Ví dụ: thuật ngữ động cơ có hành trình piston dài, trong đó ở bậc 1: ngữ tố có hành trình piston dài phụ cho ngữ tố động cơ tạo thành thuật ngữ động cơ có hành trình piston dài. Ở bậc 2 : ngữ tố hành trình piston dài phụ cho ngữ tố có tạo thành ngữ tố có hành trình piston dài. Ở bậc 3: ngữ tố piston dài phụ cho ngữ tố hành trình tạo thành ngữ tố hành trình piston dài. Ở bậc 4: ngữ tố dài phụ cho ngữ tố piston tạo thành ngữ tố piston dài. * Mô hình 5.3: Là mô hình có cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: cả N3, N4 và N5 phụ cho N1 và N2. Bậc 2: cảN4 và N5 phụ cho N3. Bậc 3: N2 phụ cho N1, N4 phụ cho N5 N 1 N 2 N3 N 4 N 5 Ví dụ: Máy đào thuỷ lực gắn trên giàn Máy đào vét đặt trên cầu phao Hộp giảm tốc bánh răng ba cấp Búa rung kết hợp với va đập Có 4 thuật ngữ theo kiểu mô hình này . Ví dụ: thuật ngữ máy đào thủy lực gắn trên giàn là thuật ngữ điển hình cho kiểu cấu tạo này. Ở bậc 1: ngữ tố gắn trên giàn phụ
  • 51.
    45 cho ngữ tốmáy đào thủy lực tạo thành thuật ngữ máy đào thủy lực gắn trên giàn. Ở bậc 2: ngữ tố trên giàn phụ cho ngữ tố gắn tạo thành ngữ tố gắn trên giàn . Ở bậc 3: ngữ tố trên phụ cho ngữ tố trên giàn tạo thành ngữ tố trên giàn, ngữ tố thủy lực phụ cho ngữ tố máy đào tạo thành ngữ tố máy đào thủy lực. * Mô hình 5.4: Là mô hình có cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: cảN4 vàN5 phụcho N1, N2 và N3. Bậc 2: cảN2 và N3 phụ cho N1. Bậc 3: N3 phụ cho N2, N5 phụ cho N4. N 1 N 2 N 3 N 4 N 5 Ví dụ: Máy trộn bê tông kiểu trọng lực Tổng hao phí lao động bảo dưỡng kỹ thuật Có 4 thuật ngữ được cấu tạo theo mô hình này. Chẳng hạn, các ngữ tố tạo thành thuật ngữ Máy trộn bê tông kiểu trọng lực có 3 bậc quan hệ. Trong đó, ở bậc 1: ngữ tố kiểu trọng lực phụ cho ngữ tố máy trộn bê tông tạo thành thuật ngữ máy trộn bê tông kiểu trọng lực; Ở bậc 2: Ngữ tố trộn bê tông phụ cho ngữ tố máy tạo thành ngữ tố máy trộn bê tông; Ở bậc 3: ngữ tố bê tông phụ cho ngữ tố trộn tạo thành ngữ tố trộn bê tông; * Mô hình 5.5: Là mô hình có cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: cảN4 vàN5 phụcho N1, N2 và N3. Bậc 2: cả N2 và N3 phụ cho N1. Bậc 3: N5 phụ cho N4, N2 phụ cho N3. N 1 N 2 N 3 N 4 N 5 Ví dụ: Máy xúc một gàu dùng hơi nước Cũng chỉ có 1 thuật ngữ cấu tạo theo mô hình này: máy xúc một gàu dùng hơi nước. Có thể phân tích mô hình cấu tạo của thuật ngữ máy xúc một gàu dùng hơi
  • 52.
    46 nước: Ở bậc1: ngữ tố dùng hơi nước phụ cho ngữ tố máy xúc một gàu tạo thành thuật ngữ máy xúc một gàu dùng hơi nước. bậc 2: ngữ tố một gầu phụ cho ngữ tố máy xúc tạo thành ngữ tố máy xúc một gàu; Ở bậc 3: ngữ tố một phụ cho ngữ tố gầu tạo thành ngữ tố một gầu, ngữ tố hơi nước phụ cho ngữ tố dùng tạo thành ngữ tố dùng hơi nước; * Mô hình 5.6: Là mô hình có cấu trúc 4 bậc. Bậc 1: tất cả N2, N3, N4 và N5 phụ cho N1. Bậc 2: N2 phụ cho cả N3, N4 và N5. Bậc 3: N3 phụ cho N4 và N5. Bậc 4: N5 phụ cho N4. N 1 N 2 N 3 N 4 N 5 Ví dụ: Chi phí cho một lần sửa chữa Tuổi thọ giữa hai lần sửa chữa Có 2 thuật ngữ được cấu tạo theo quan hệ 4 bậc này: Trong thuật ngữ Tuổi thọ giữa hai lần sửa chữa: Ở bậc 1: ngữ tố giữa hai lần sửa chữa phụ cho ngữ tố tuổi thọ tạo thành thuật ngữ Tuổi thọ giữa hai lần sửa chữa; Tuổi thọ là đơn vị nòng cốt. Ở bậc 2: Ngữ tố giữa phụ cho ngữ tố hai lần sửa chữa tạo thành ngữ tố giữa hai lần sửa chữa; Ở bậc 3: Ngữ tố hai phụ cho ngữ tố lần sửa chữa tạo thành ngữ tố hai lần sửa chữa; Ở bậc 4: Ngữ tố sửa chữa phụ cho ngữ tố lần tạo thành ngữ tố lần sửa chữa; Tóm lại, sự chênh lệch giữa các mô hình là không lớn lắm, chỉ có mô hình 5.5 chiếm tỉ lệ ít nhất, chỉ có 1 thuật ngữ theo mô hình này. 2.4. NHẬN XÉT CHUNG VỀ ĐẶC ĐIỂM MÔ HÌNH CẤU TẠO THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT Kết quả phân tích 798 thuật ngữ máy xây dựng trong tiếng Việt cho phép rút ra một số nhận xét chung về đặc điểm mô hình cấu tạo của chúng như sau:
  • 53.
    47 Có 302 /798 thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ (chiếm 37,8%), trong đó có 73/302 thuật ngữ là từ đơn tiết (chiếm 24,2 %). Thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là từ đa tiết chiếm số lượng lớn: 229/302 đơn vị (chiếm 75,8 %). Trong đó thuật ngữ là từ ghép chính phụ có số lượng lớn 172/229 đơn vị, gồm các thuật ngữ có trật tự kết hợp các tiếng cấu tạo ngược cú pháp tiếng Việt: phụ trước – chính sau (đây là các danh từ Hán Việt) và thuận cú pháp tiếng Việt: chính trước – phụ sau. Xét theo nguồn gốc của thuật ngữ là từ đơn tiết thì các từ Hán Việt gồm 16/73 đơn vị ( chiếm 21,9%). Từ thuần Việt có tỷ lệ áp đảo 43/73 thuật ngữ( chiếm 58,9 %) Còn lại là các từ vay mượn ngôn ngữ Ấn Âu 14/73 ( chiếm 19,2%). Các thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ đa tiết xét theo nguồn gốc thì các thuật ngữ là từ thuần Việt chiếm đa số, với 187/229 đơn vị chiếm tỉ lệ 81,6%. Còn lại là các thuật ngữ có nguồn gốc Ấn Âu gồm 27/229 thuật ngữ, chiếm tỷ lệ 11,9% và Hán Việt 15/229 chiếm tỉ lệ 6,5%. Số liệu thống kê nêu trên cho thấy rằng tuyệt đại đa số thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt có cấu tạo cụm từ đều là đơn vị định danh các tiểu loại của những loại lớn trong hệ thống thuật ngữ nguyên cấp định danh các khái niệm, chi tiết, chủng loại và các đối tượng của ngành máy xây dựng. Kết quả thống kê này cho phép khẳng định các thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, các thuật ngữ khoa học trong tiếng Việt nói chung, có cấu tạo là cụm từ đều là những thuật ngữ thứ cấp, được tạo ra từ các thuật ngữ nguyên cấp bằng cách ghép với các thuật ngữ nguyên cấp khác hoặc ghép với từ toàn dân biểu hiện đặc trưng khu biệt để loại biệt hoá ý nghĩa của thuật ngữ nguyên cấp ấy. Xét về mô hình cấu tạo thì có thể thấy các thuật ngữ 2 ngữ tố chỉ có 1 mô hình duy nhất. Loại thuật ngữ gồm 3 ngữ tố có 4 mô hình cấu tạo. Loại thuật ngữ 4 ngữ tố có 7 mô hình cấu tạo. Loại thuật ngữ 5 ngữ tố có 6 mô hình cấu tạo. Như vậy, tuyệt đại đa số thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt dù có cấu tạo là từ đơn hay cụm từ đều được cấu tạo chủ yếu theo hai mô hình sau: * Mô hình 1
  • 54.
    48 Đây là môhình duy nhất của loại thuật ngữ là từ ghép chính - phụ và loại thuật ngữ là cụm từ có 2 ngữ tố, trong đó ngữ tố phụ đứng sau phụ nghĩa cho ngữ tố chính đứng trước: N1 N2 * Mô hình 2 Đây là mô hình 3.1 chiếm chủ yếu thuật ngữ máy xây dựng gồm 3 ngữ tố: N 1 N 2 N3 Chính hai mô hình phổ biến này đã làm nên tính hệ thống trong cách cấu tạo thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, thuật ngữ khoa học tiếng Việt nói chung. Kết luận chương 2 Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt thuộc 2 loại - thuật ngữ có cấu tạo là từ và thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ. 1. Thuật ngữ có cấu tạo là từ gồm 302/798 đơn vị, chiếm 37,8%. Trong đó số thuật ngữ là từ đơn tiết là 73/302 chiếm 24,2 % và thuật ngữ là từ đa tiết 229/302 chiếm 75,8%. Các thuật ngữ là từ đơn tiết chủ yếu là từ thuần Việt. Các thuật ngữ đa tiết gồm 3 tiểu loại: thuật ngữ là từ ghép chính phụ, thuật ngữ là từ ghép đẳng lập và thuật ngữ là từ ghép ngẫu hợp. Trong đó thuật ngữ đa tiết là từ ghép chính phụ có mô hình cấu tạo chủ yếu là chính trước phụ sau. Về mặt từ loại, thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo chủ yếu là danh từ / cụm danh từ và động từ /cụm động từ gọi tên loại máy, các chi tiết và các hoạt động thi công trong ngành máy xây dựng. Về nguồn gốc của thuật ngữ (đối với các trường hợp thuật ngữ là từ) và nguồn gốc của đơn vị cấu tạo thuật ngữ tức ngữ tố (đối với các thuật ngữ là cụm từ), có thể nhận thấy có sự tham gia của cả 3 loại đơn vị: thuần Việt, Hán Việt và Ấn Âu. Trong đó, tuyệt đại đa số các thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ ghép/cụm từ thuần được tạo ra bởi các ngữ tố thuần Việt, sau đó là loại ghép lai do các ngữ tố thuần Việt và Hán Việt tạo thành theo quan hệ chính - phụ.
  • 55.
    49 2. Các thuậtngữ có cấu tạo là cụm từ gồm 496/798 đơn vị chiếm 62,2% . Dựa trên số lượng ngữ tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, chúng được chia thành các nhóm: thuật ngữ hai ngữ tố; thuật ngữ ba ngữ tố; thuật ngữ bốn ngữ tố; thuật ngữ năm ngữ tố. Trong đó, thuật ngữ gồm hai ngữ tố và ba ngữ tố chiếm số lượng lớn nhất, thuật ngữ gồm năm ngữ chiếm một số lượng rất hạn chế (17 đơn vị ). Về mặt từ/ngữ loại, thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ chủ yếu là cụm danh từ gồm 431/496 đơn vị, chiếm 86,9 %, cụm động từ chỉ có 65/496 đơn vị, chiếm 13,1 % và không có thuật ngữ có cấu tạo là cụm tính từ. Về cách cấu tạo, thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ ghép hoặc cụm từ đều được cấu tạo chủ yếu theo mô hình chính phụ: ngữ tố chính đứng trước, ngữ tố hoặc tổ hợp ngữ tố phụ đứng sau. Chính mô hình cấu tạo phổ biến này đã làm nên tính hệ thống về cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, thuật ngữ khoa học tiếng Việt nói chung.
  • 56.
    50 Chương 3 ĐẶC ĐIỂMĐỊNH DANH THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT Để nghiên cứu đặc điểm định danh của một ngôn ngữ, các nhà nghiên cứu đã khảo sát các tên gọi theo ba thông số sau đây: nguồn gốc của tên gọi; kiểu ngữ nghĩa của tên gọi; cách thức biểu thị của tên gọi. Về kiểu ngữ nghĩa của tên gọi: Theo tham tố này, có thể phân biệt tên gọi trực tiếp và tên gọi gián tiếp; tên gọi rộng và tên gọi hẹp [86, tr.233]. Về cách thức biểu thị: V.G. Gak chỉ ra rằng, theo tham tố này, đặc điểm định danh có thể được xét theo ba tiêu chí sau: - Cách biểu thị tên gọi theo lối hoà kết hay phân tích - Mức độ về tính rõ lí do của tên gọi - Cách chọn đặc trưng của đối tượng để làm cơ sở định danh. [86, tr. 239] Do tính quốc tế hóa của ngành máy xây dựng trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các thuật ngữ tiếng Việt trong ngành máy xây dựng chủ yếu được tạo ra bằng cách sao phỏng các thuật ngữ Ấn – Âu (chủ yếu là tiếng Anh). Mặt khác, theo kết quả nghiên cứu cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng được trình bày ở chương 2, tuyệt đại đa số các thuật ngữ đều có cấu tạo là cụm từ được ghép theo quan hệ chính phụ. Hệ quả là có thể dễ dàng nhận ra đặc điểm nổi bật của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là chúng có cách biểu thị tên gọi chủ yếu theo lối phân tích và có mức độ rất cao về tính rõ lí do của tên gọi. Do vậy, chúng tôi chỉ xem xét đặc điểm định danh của ngành máy xây dựng theo các tham tố sau: nguồn gốc của thuật ngữ, nghĩa là các con đường hình thành thuật ngữ và cách chọn đặc trưng khu biệt làm cơ sở định danh của thuật ngữ. 3.1. CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT 3.1.1. Các nguyên tắc xây dựng thuật ngữ khoa học Về mặt lí luận, thuật ngữ khoa học của bất kì ngôn ngữ nào trên thế giới cũng được xây dựng dựa trên hai nguyên tắc:
  • 57.
    51 - Dựa vàongôn ngữ bản ngữ - Dựa vào ngôn ngữ nước ngoài. Trong tiếng Việt, theo tổng kết của Hoàng Văn Hành (1983), thuật ngữ được hình thành từ ba con đường: 1/ Thuật ngữ hóa từ thông thường; 2/ Tạo thuật ngữ trên cơ sở ngữ liệu vốn có tương ứng với phương thức sao phỏng thuật ngữ nước ngoài; 3/ Mượn thuật ngữ nước ngoài. Từ ba con đường này đã tạo nên ba lớp thuật ngữ với những đặc trưng khác nhau cả về hình thái và ngữ nghĩa trong vốn thuật ngữ của tiếng Việt: 1/lớp thuật ngữ thuần Việt; 2/ lớp thuật ngữ sao phỏng; 3/ lớp thuật ngữ phiên âm [22, tr.78]. Như vậy, có thể thấy thực chất ba con đường hình thành thuật ngữ tiếng Việt nói trên, trước hết cũng chính là xuất phát từ hai nguyên tắc: đặt thuật ngữ trên cơ sở tiếng Việt và tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài. Tuy nhiên, nếu đi vào chi tiết thì thấy việc xây dựng thuật ngữ tiếng Việt còn xuất phát từ nguyên tắc vừa dựa trên cơ sở tiếng Việt vừa dựa vào tiếng nước ngoài (sao phỏng và ghép lai). 3.1.2. Con đường hình thành thuật ngữ của một số ngành đã được nghiên cứu Những năm gần đây, cùng với sự phát triển xu hướng nghiên cứu thuật ngữ của các chuyên ngành khoa học, việc tìm hiểu các con đường hình thành thuật ngữ về mặt thực tiễn bắt đầu được chú ý. Cụ thể, con đường hình thành thuật ngữ của một số chuyên ngành trong tiếng Việt đã được nghiên cứu sâu như quân sự, thương mại, tin học-viễn thông, luật sở hữu trí tuệ, xây dựng… Trong những công trình nghiên cứu này, các tác giả đã chỉ ra các con đường hình thành của thuật ngữ về cơ bản cũng xuất phát từ những nguyên tắc trên. Tuy nhiên, ngoài các con đường truyền thống mà lí luận đã tổng kết, các tác giả còn dẫn thêm 2 con đường hình thành thuật ngữ: tiếp nhận thuật ngữ từ các ngành khoa học khác trong tiếng Việt và cấu tạo mới ([31], [56], [76]) . Tuy nhiên, theo chúng tôi, điều đó đã làm cho các con đường hình thành thuật ngữ bị chồng chéo, trùng lặp với nhau. Cho nên, sự phân chia này chưa thực sự khoa học. Chẳng hạn, trong bài viết của Mai Thị Loan về thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ (2011), các thuật ngữ bút danh, bản quyền vừa nằm trong con đường thuật ngữ hóa từ thông thường vừa có mặt ở con đường tiếp nhận
  • 58.
    52 thuật ngữ từcác ngành khoa học khác; thuật ngữ chương trình phát sóng, tác phẩm văn học vừa nằm ở con đường tiếp nhận thuật ngữ từ các ngành khoa học khác nhưng cũng vừa nằm ở con đường sao phỏng…[56, từ tr.25- tr.26]. Thứ nhất, các thuật ngữ được tiếp nhận từ các ngành khoa học khác xét cho cùng cũng được tạo ra từ con đường như thuật ngữ hóa từ thông thường, sao phỏng, phiên âm. Cho nên chúng sẽ phải ở cùng tiêu chí phạm trù phân lớp với các thuật ngữ riêng của ngành khoa học đó. Đồng thời, khi đã phân chia thành lớp thuật ngữ riêng của ngành đó với lớp thuật ngữ vay mượn từ các ngành khoa học khác thì phải “đối xử" với chúng bình đẳng, ngang hàng nhau. Nghĩa là phải cùng xem xét các con đường hình thuật ngữ ở cả hai lớp thuật ngữ này. Thứ hai, cấu tạo mới chính là phương thức ghép các yếu tố với nhau để tạo thành thuật ngữ. Trong khi sự hình thành thuật ngữ ở các con đường: thuật ngữ hóa từ thông thường, sao phỏng và vay mượn chủ yếu nhờ vào phương thức kết hợp, ghép các yếu tố với nhau. Cho nên, việc dẫn thêm phương thức này rõ ràng đã bị trùng lặp. Ở đây chúng ta cần phân biệt rõ con đường hình thành thuật ngữ với các phương thức cấu tạo thuật ngữ là hai vấn đề khác nhau. Vì vậy, việc phân chia các con đường hình thành thuật ngữ phải bảo đảm được tính khoa học, phải dựa trên cùng một tiêu chí để bao quát được toàn bộ hệ thống thuật ngữ và tránh bị chồng chéo. 3.1.3. Con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt Để xem xét các con đường hình thành thuật máy xây dựng tiếng Việt, luận văn dựa trên sự tổng kết về mặt lí luận các con đường hình thành thuật ngữ nói chung trong tiếng Việt. Vì thuật ngữ máy xây dựng cũng là một tiểu hệ thống của thuật ngữ tiếng Việt nói chung, cho nên các con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng được xây dựng dựa vào tiếng Việt, vay mượn thuật ngữ nước ngoài và đồng thời vừa dựa trên cơ sở tiếng Việt vừa dựa vào tiếng nước ngoài. 3.1.3.1. Xây dựng thuật ngữ máy xây dựng dựa trên cơ sở tiếng Việt: Thuật ngữ hóa từ thông thường Thuật ngữ hóa từ thông thường là vấn đề đã được một số nhà nghiên cứu bàn đến. Theo Hà Quang Năng, thuật ngữ hóa từ thông thường là “mặt biểu hiện (vỏ
  • 59.
    53 ngữ âm) củatừ và cái biểu vật giữ nguyên không thay đổi, còn ý nghĩa thì thay đổi” [61]. Lê Quang Thiêm gọi đây là quá trình trí tuệ hóa các từ thông thường [81]. Trong số các tác giả nói trên, Hoàng Văn Hành [22, tr.26- tr.28] cho rằng “thuật ngữ hóa từ thông thường thực chất là con đường dùng phép chuyển di ngữ nghĩa của từ để tạo thuật ngữ” Quá trình chuyển di ngữ nghĩa này khá tinh tế, phức tạp và chúng bao gồm hai dạng: chuyển di không dẫn đến chuyển nghĩa của từ và chuyển di dẫn đến chuyển nghĩa của từ. Hình thái chuyển di không dẫn đến chuyển nghĩa thường gặp ở những từ thuộc vốn từ cơ bản. Ở hình thái này, ranh giới giữa nghĩa thông thường và nghĩa thuật ngữ là không rõ ràng, bởi vì giữa nghĩa thông thường (nghĩa gốc) và nghĩa thuật ngữ (cũng là nghĩa gốc) trùng nhau. Ở đây chỉ là sự chuyển di phạm vi ứng dụng của một nghĩa và thường là nghĩa gốc của các từ thông thường sang lĩnh vực chuyên môn. Trường hợp thứ hai, khi chuyển di phạm vi ứng dụng, nghĩa của chúng đã được thu hẹp phạm vi biểu hiện để cấp cho từ đó một nghĩa thuật ngữ nhằm biểu thị một khái niệm, sự vật,… của một lĩnh vực chuyên môn. Ví dụ, đường thẳng trong cách hiểu thông thường là đường không lệch về bên trái hay bên phải, còn trong toán học là đường (hay khoảng cách) ngắn nhất giữa hai điểm. Tuy nhiên, tính quy tắc lại thể hiện rõ ở hình thái chuyển di dẫn đến chuyển nghĩa. Cơ sở để chuyển di từ nghĩa thông thường sang nghĩa thuật ngữ chính là dựa trên mối quan hệ tương đồng hoặc tương cận về các thuộc tính của sự vật hay quá trình được phản ánh trong khái niệm do các từ ngữ biểu thị theo phương thức ẩn dụ hóa và hoán dụ hóa. Khi sự chuyển di nghĩa dựa vào mối quan hệ tương đồng sẽ tạo ra nghĩa thuật ngữ hình thành theo phép ẩn dụ hóa. Ví dụ: nghĩa của cánh trong cánh quân, cánh tả, … Còn khi sự chuyển di nghĩa dựa vào mối quan hệ tương cận sẽ tạo ra nghĩa thuật ngữ theo phép hoán dụ hóa. Ví dụ nghĩa của đầu người trong bình quân thu nhập tính theo đầu người … Kết quả khảo sát cho thấy, trong hệ thống thuật ngữ máy xây dựng có 29 thuật ngữ được tạo ra theo cả hai hình thái này, chiếm 9,6 % tổng số thuật ngữ được khảo sát.
  • 60.
    54 a/ Thuật ngữhóa từ thông thường theo hướng thu hẹp nghĩa Đó là các thuật ngữ như: Xúc, cắt, quay, số, đèn, còi, búa rung, bàn ủi, chân cổng …Các thuật ngữ kiểu này được hình thành trên cơ sở những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Khi là từ thông thường, chúng biểu thị những đặc trưng chung nhất về sự vật, hiện tượng, còn khi được thuật ngữ hóa trở thành các thuật ngữ mặc dù chúng vẫn biểu thị những đặc trưng của sự vật, hiện tượng đó nhưng nghĩa của chúng đã được thu hẹp, cụ thể hơn. Chẳng hạn, từ số có nghĩa thông thường là “ dấu dùng để đếm, để ghi thứ tự; số 1, số 2”, còn khi được thuật ngữ hóa thì từ số có nghĩa thuật ngữ hẹp hơn, chỉ biểu thị một khái niệm “số tiến” hay “số lùi” của máy xây dựng. b/ Thuật ngữ hóa từ thông thường theo hướng mở rộng nghĩa Đó là các thuật ngữ như: Gầm máy, thân máy, tay gầu, miệng gầu, mắt sàng, mặt sàng, … Đây là các thuật ngữ được thuật ngữ hóa trên cơ sở sự mở rộng nghĩa từ nghĩa thông thường sang nghĩa thuật ngữ. Chúng là các thuật ngữ được tạo ra từ nghĩa phái sinh trên cơ sở từ nghĩa gốc, nghĩa ban đầu của từ ngữ thông thường. Khi từ thông thường được thuật ngữ hóa theo hướng mở rộng thì nghĩa của từ đã chuyển từ chỉ khái niệm chủng hay tiểu loại sang chỉ khái niệm loại. Ví dụ: Gầm máy, từ gầm theo nghĩa thông thường là “ chỉ khoảng trống ở dưới đồ đạc, ví dụ: chạn, tủ, giường”, còn khi được thuật ngữ hóa thì từ gầm có nghĩa rộng hơn, biểu thị tất cả các chi tiết bộ phận thuộc về phía dưới của máy xây dựng. Chính con đường thuật ngữ hóa từ thông thường này đã góp phần tạo nên hàng loạt thuật ngữ máy xây dựng và chúng là những thuật ngữ dễ nhớ, dễ hiểu và gần gũi với ngôn ngữ đời sống hàng ngày. 3.1.3.2. Xây dựng thuật ngữ máy xây dựng dựa vào tiếng nước ngoài: Giữ nguyên dạng hoặc Phiên âm Vay mượn thuật ngữ nước ngoài là một trong những con đường rất quan trọng trong việc xây dựng thuật ngữ mà trong tiếng Việt chưa có hoặc có nhưng chưa biểu thị khái niệm khoa học một cách chính xác.
  • 61.
    55 Việc vay mượnthuật ngữ nước ngoài có thể dưới hình thức: giữ nguyên dạng hoặc phiên âm. Phiên âm là ghi lại cách phát âm của tiếng nước ngoài bằng hệ thống chữ cái của tiếng Việt [16, tr.233]. Khi phiên âm các thuật ngữ nước ngoài, hình thức của chúng có thể bị thay đổi ít nhiều cho phù hợp với quy luật ngữ âm của tiếng Việt. Về mặt lí luận, trước đây một số nhà nghiên cứu cho rằng vay mượn thuật ngữ bằng cách phiên âm là thích hợp hơn so với để nguyên dạng bởi vì các thuật ngữ nước ngoài khi được vay mượn, sử dụng và nhập vào ngôn ngữ bản địa thì chúng cần phải có những thay đổi tùy theo hệ thống chữ viết và kết cấu ngữ âm của ngôn ngữ nước đó. Đây cũng là quy luật chung về ngôn ngữ. Quan sát kĩ hơn có thể thấy các thuật ngữ được vay mượn trước đây chủ yếu là được vay mượn từ tiếng Pháp và hầu như đã được Việt hóa. Theo Nguyễn Đức Tồn [88 tr.14] căn cứ vào tính quốc tế của thuật ngữ và xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế hiện nay, thuật ngữ chỉ được các nhà khoa học/ chuyên môn vốn có trình độ ngoại ngữ khá sử dụng trong phạm vi giao tiếp khoa học/ chuyên môn với nhau, bởi vậy, trừ các thuật ngữ đã được vay mượn từ lâu, được Việt hoá do phiên âm hoặc về cách viết, đã quen dùng, còn các thuật ngữ mới được vay mượn hiện nay và trong tương lai thì nên mượn theo nguyên dạng thuật ngữ. Khi đó chúng ta sẽ tránh được mọi phiền phức xảy ra do sự phiên âm thuật ngữ. Đối với các thuật ngữ đã được phổ thông hoá và được toàn dân sử dụng trong giao tiếp thường nhật và được phản ánh trên báo chí thì chúng vẫn được viết nguyên dạng, bên cạnh có chú phiên âm cách đọc. Khi thuật ngữ đó đã trở nên quen thuộc thì bỏ việc chú cách đọc này. - Nếu thuật ngữ nguyên ngữ dùng chữ cái Latin, thì giữ nguyên dạng chữ viết (kể cả các chữ cái F, J, Z, W) như trong nguyên ngữ. Ví dụ: monem, triolet (thơ triolet), Kentum (ngôn ngữ Kentum), v.v... - Nếu chữ viết nguyên ngữ dùng một hệ thống chữ cái khác chữ cái Latinh (chẳng hạn như chữ Slavơ) thì áp dụng lối chuyển tự chính thức sang chữ cái Latin. Thí dụ: - бepmen (bermen) - vertep (kịch múa rối ở Ukraina, Biêlôrutxia),...
  • 62.
    56 - Nếu chữviết nguyên ngữ không phải là chữ viết ghi âm bằng chữ cái (ghi từng âm), thì dùng một cách phiên âm chính thức bằng chữ cái Latin (thường là cách phiên âm đã có tính phổ biến trên thế giới). Thí dụ: sumo, samurai, kimono,... Do việc vay mượn nguyên dạng của thuật ngữ viết bằng chữ Latin nên sự có mặt của các con chữ và một số kết hợp âm vị không có trong tiếng Việt làđiều đương nhiên. Song không nên quan niệm "đó là sự chấp nhận vào bảng chữ cái tiếng Việt một số ít chữ cái ngoại lai khi phiên thuật ngữ để cho thuật ngữ phiên gần với diện mạo quốc tế mà không quá xa lạ với tiếng Việt". Theo Nguyễn Đức Tồn, đúng hơn nên quan niệm đây chỉ là sự sử dụng một số thuật ngữ nước ngoài trong phạm vi giao tiếp đặc biệt giữa các nhà khoa học Việt Nam và quốc tế. Cũng có thể coi đây là hiện tượng song ngữ trong giao tiếp khoa học của các nhà trí thức. Qua khảo sát, chúng tôi tìm được 29 thuật ngữ vay mượn theo lối để nguyên dạng hoặc phiên âm. Trong đó 9 thuật ngữ là nguyên dạng, ví dụ: lazang, taluy, logo, piston, modem, modun,…và 20 thuật ngữ là phiên âm, ví dụ: tăngđơ, cáp, xéc- măng, bađờsốc... Qua đó ta thấy rằng con đường xây dựng thuật ngữ máy xây dựng dựa vào tiếng nước ngoài diễn ra phổ biến đặc biệt dưới hình thức phiên âm. 3.1.3.3. Xây dựng thuật ngữ máy xây dựng vừa dựa trên cơ sở tiếng Việt vừa dựa vào tiếng nước ngoài: Sao phỏng và ghép lai a/ Sao phỏng Sao phỏng là con đường tạo thuật ngữ trong đó sử dụng các yếu tố và mô hình cấu tạo từ của tiếng Việt để dịch các thuật ngữ tương ứng trong tiếng nước ngoài. Nếu xét về mặt hình thức ngôn ngữ có thể coi đây là các thuật ngữ tạo mới của tiếng Việt. Còn xét về mặt nội dung khái niệm khoa học do các thuật ngữ này biểu thị thì chúng là thuật ngữ quốc tế. Vì vậy, các thuật ngữ tạo ra theo phương thức sao phỏng thể hiện rõ nhất sự thống nhất giữa tính dân tộc và tính quốc tế của thuật ngữ.
  • 63.
    57 Sau này, trongcác công trình lí luận về từ vựng học, Nguyễn Thiện Giáp có sự phân biệt hai cách sao phỏng khá rõ: sao phỏng cấu tạo từ và sao phỏng ý nghĩa [16 từ tr.233-tr.234]. Việc sử dụng yếu tố và phương thức cấu tạo từ vốn có trong tiếng Việt để cấu tạo một đơn vị từ vựng dựa trên mô hình kết cấu của đơn vị tương ứng trong tiếng nước ngoài được gọi là sao phỏng cấu tạo từ. Đây chính là cách dịch từng thành tố cấu tạo hoặc từng từ trong thành phần cấu tạo thuật ngữ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt. Tuy nhiên, đối với các trường hợp tiếng mẹ đẻ không có từ ngữ nào có ý nghĩa tương đương với từ nước ngoài cần dịch, thì người dịch phải tạo ra một từ ngữ khác trong tiếng mẹ đẻ để diễn đạt ý nghĩa nghĩa tương ứng đó. Trường hợp này được gọi là sao phỏng ý nghĩa. Qua khảo sát, số lượng thuật ngữ được tạo ra theo con đường sao phỏng chiếm tỉ lệ lớn , trong đó thuật ngữ được tạo ra chủ yếu dưới hình thức sao phỏng cấu tạo từ: ví dụ: diesel pile driver: máy đóng cọc diesel, automobile crane : cần cẩu đặt trên ôtô, asphalt compactor : máy lu đường nhựa átphan...Có thể nhận thấy các thuật ngữ máy xây dựng được tạo ra theo hình thức sao phỏng cấu tạo từ đều là thuật ngữ ngắn gọn về hình thức, chính xác về nội dung, hội tụ đầy đủ tính chất cần và đủ của một thuật ngữ khoa học. Từ đó người sử dụng dễ hiểu và dễ nhớ thuật ngữ. Việc sao phỏng thuật ngữ nước ngoài đòi hỏi người dịch không chỉ có sự hiểu biết nhất định về tiếng Việt và tiếng nước ngoài mà còn phải có sự hiểu biết sâu về chuyên môn máy móc thiết bị. Có như vậy, chúng ta mới có được các thuật ngữ sao phỏng vừa chính xác về nội dung khái niệm vừa ngắn gọn về hình thức, bảo đảm tính trong sáng của tiếng Việt, tránh dịch theo lối giải thích khái niệm hoặc dịch một cách quá máy móc, câu nệ bám sát vào từng chữ mà không chú ý đến nội dung khái niệm của thuật ngữ nước ngoài. b/ Ghép lai Ghép lai là con đường hình thành thuật ngữ trong đó “một phần hình thức là bản ngữ, một phần là mượn, nhưng ý nghĩa là hoàn toàn mượn” [16, tr.234] Về hình thức ngôn ngữ, ghép lai là con đường tạo thuật ngữ mới bằng việc vừa sử dụng chất liệu tiếng Việt vừa sử dụng chất liệu tiếng nước ngoài rồi kết hợp
  • 64.
    58 với nhau, trongđó yếu tố tiếng nước ngoài có thể là đã phiên âm hoặc được giữ nguyên dạng. Vào những năm 60-70 của thế kỉ XX, cách đặt thuật ngữ này được coi là một sự mới lạ, táo bạo, nhưng cần thiết vì đó cũng là một đòi hỏi phát triển của ngôn ngữ [39, tr.38] . Hiện nay ghép lai đã trở thành một con đường hình thành thuật ngữ khá phổ biến. Ghép lai được sử dụng khi trong tiếng Việt chưa tìm được đầy đủ yếu tố thuật ngữ tương đương để dịch thuật ngữ của tiếng nước ngoài một cách chính xác hoặc là các thuật ngữ nước ngoài khi được dịch sang tiếng Việt là những cụm từ dài dòng hoặc mang tính giải thích khái niệm. Thuật ngữ máy xây dựng được tạo thành theo con đường ghép lai chiếm tỉ lệ không nhiều. Ví dụ: đèn xin nhan, băng tải, cáp thép, máy nén piston, mô tơ bốn xilanh… Trong số này, có một số các thuật ngữ được tạo ra từ một vài yếu tố phiên âm có khả năng phái sinh mạnh, chúng có thể kết hợp với yếu tố thuần Việt hoặc Hán Việt khác nhau để tạo nên một loạt các thuật ngữ mang tính hệ thống cao. Rõ ràng ghép lai góp phần làm tăng thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Đây là con đường xây dựng thuật ngữ phổ biến trong giai đoạn hiện nay và có chiều hướng ngày càng gia tăng, góp phần làm giàu và phong phú thêm vốn thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Dưới đây là sơ đồ tổng hợp các nguyên tắc và con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Sơ đồ 3.1. Con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt Thuật Giữ Phiên Sao Ghép ngữ hóa nguyên âm phỏng lai từ thông dạng thường Dựa trên cơ sở tiếng Việt Dựa trên cơ sở tiếng nước ngoài Dựa trên cơ sở tiếng Việt và tiếng nước ngoài Con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt
  • 65.
    59 3.2. ĐẶC ĐIỂMĐỊNH DANH THUẬT NGỮ MÁY XÂY DỰNG TIẾNG VIỆT 3.2.1. Cơ sở lí thuyết 3.2.1.1. Khái niệm định danh Theo cách hiểu thông thường, định danh là đặt tên gọi cho một sự vật, hiện tượng [70]. Nhờ có tên gọi mà chúng ta phân biệt được sự vật này với sự vật khác một cách dễ dàng. Trong các từ điển chuyên ngành và dưới góc nhìn của các nhà nghiên cứu, định danh được hiểu với nghĩa rộng và sâu hơn. Chẳng hạn, trong từ điển chuyên ngành, định danh là "sự cấu tạo các đơn vị ngôn ngữ có chức năng dùng để gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực khách quan trên cơ sở đó hình thành những khái niệm tương ứng về chúng dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ cú và câu” [107, tr.89]. Tương tự, Kolshansky quan niệm: Định danh là “gắn cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm-biểu niệm phản ánh những đặc trưng nhất định của một biểu vật-các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu tố nội dung của giao tiếp ngôn ngữ”. [Dẫn theo 19, tr.21] . Hà Quang Năng cho rằng, định danh gắn liền với quá trình nhận thức: “Quá trình gọi tên liên hệ chặt chẽ với quá trình nhận thức có cơ sở dựa trên sự đối chiếu so sánh giữa các đối tượng và quan niệm về chúng để nhằm phát hiện các đặc tính và đặc điểm chung cũng như riêng của chúng” [62, tr.10]. 3.2.1.2. Quá trình định danh Theo lí thuyết định danh, trong mỗi sự vật, hiện tượng thường bao hàm nhiều đặc trưng khác nhau, nhưng để định danh người ta chỉ chọn một đặc trưng tiêu biểu, nghĩa là đặc trưng đó dễ khu biệt với các sự vật, hiện tượng khác và đặc trưng này đã có tên gọi trong ngôn ngữ. Thông thường, chúng ta thường chọn đặc trưng nào đó “đập vào mắt” để lấy làm đại diện cho đối tượng. V.G. Gak cho rằng, quá trình định danh gắn liền với hành vi phân loại: “Trong ngôn ngữ tự nhiên, quá trình gọi tên tất yếu gắn với hành vi phân loại. Nếu như cần phải biểu thị một đối tượng X nào đó mà trong ngôn ngữ chưa có tên gọi, thì trên cơ sở các đặc trưng đã được tách
  • 66.
    60 ra trong đốitượng này, nó được quy vào khái niệm “A”hoặc “B” mà trong ngôn ngữ đã có cách biểu thị riêng cho chúng và nhận tên gọi tương ứng. Nhưng đồng thời cũng diễn ra sự “lắp ráp” bản thân các từ vào hiện thực, nghĩa là người ta có thể bỏ đi hoặc thêm một cái gì đó vào sự hiểu biết ban đầu ấy”[Dẫn theo 19, từ tr.21- tr.22]. Như vậy, quá trình định danh sự vật, hiện tượng gồm hai bước: quy loại khái niệm và chọn đặc trưng khu biệt. 3.2.1.3. Các nguyên tắc định danh Theo một số nhà nghiên cứu như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Tồn… khi định danh có 2 nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ: - Tên gọi (cái biểu hiện) phải có mối liên hệ nào đó với ý nghĩa của tên gọi (cái được biểu hiện). Tên gọi phải khái quát, trừu tượng, phái mất khả năng gợi đến những đặc điểm, thuộc tính riêng rẽ tạo thành đối tượng vì tên gọi là sản phẩm của tư duy trừu tượng. Điều này cũng có nghĩa là tên gọi phải tách hẳn với những dấu vết của giai đoạn cảm tính [9, tr.190]. - Tên gọi phải có sự phân biệt giữa sự vật, đối tượng này với sự vật, đối tượng khác và sự phân biệt này bao gồm trong cùng một loại hay là phân biệt giữa các loại nhỏ trong cùng một loại lớn. Mặc dù lí tưởng phải lựa chọn được đặc trưng bản chất nghĩa là đặc trưng tiêu biểu để đặt tên nhưng với điều kiện đặc trưng đó phải bảo đảm cả giá trị khu biệt. "Đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh miễn sao có giá trị khu biệt sự vật ấy với sự vật khác" [86, tr.190]. 3.2.2. Các đơn vị định danh trong thuật ngữ máy xây dựng Trong thuật ngữ máy xây dựng có thể phân thành hai nhóm thuật ngữ tương ứng với 2 loại đơn vị định danh dựa trên cả tiêu chí hình thức và ngữ nghĩa: Nhóm 1 là các thuật ngữ có cấu tạo 1 ngữ tố, gọi tên các sự vật, hiện tượng, quá trình, tính chất, chi tiết, hoạt động… Chúng tôi gọi đây là đơn vị định danh gốc. Ví dụ: khoan, xúc, ủi, đầm, đèn, còi, sửa chữa, bảo dưỡng… Nhóm này có 302 đơn vị và đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra nhiều đơn vị thuật ngữ phái sinh.
  • 67.
    61 Nhóm 2 có496 đơn vị là các thuật ngữ có cấu tạo từ 2 ngữ tố trở lên kết hợp với nhau, gọi tên các sự vật, hiện tượng, quá trình, tính chất một cách chính xác, cụ thể. Chúng tôi gọi đây là đơn vị định danh phái sinh. Qua nghiên cứu, hầu hết các thuật ngữ được tạo thành nhờ phương thức cấu tạo ghép theo mô hình cấu trúc chính phụ hay còn gọi là quan hệ phụ thuộc, trong đó ngữ tố chính thường đứng trước mang tính khái quát, ngữ tố phụ đứng sau bổ sung ý nghĩa cho ngữ tố chính nhằm cụ thể hóa hay khu biệt cho thuật ngữ đó. Còn thuật ngữ cấu tạo theo quan hệ đẳng lập hoặc cấu tạo theo quan hệ chính phụ có trật tự ngữ tố ngược với cú pháp Việt (phụ trước chính sau) chiếm tỉ lệ ít. Như chúng ta đã biết, quá trình định danh sự vật, hiện tượng chính là quy loại khái niệm và chọn đặc trưng khu biệt, nên chỉ có các đơn vị thuật ngữ phái sinh mới có thể thấy rõ đầy đủ quá trình này, đồng thời nó chỉ diễn ra ở các thuật ngữ được cấu tạo theo quan hệ chính phụ. Đây cũng chính là những đơn vị có thể thấy rõ lí do, bởi vì dựa vào hình thái bên trong của chúng, tức là dựa vào ý nghĩa các thành phần được tách ra trong tên gọi, chúng ta có thể giải thích được lí do của tên gọi đó. Do vậy, đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng được xem xét ở nhóm này. Ở phần này, chúng tôi sẽ tìm hiểu cả việc quy loại khái niệm và chọn đặc trưng khu biệt trong quá trình định danh thuật ngữ máy xây dựng. Trước hết là việc quy loại khái niệm tức các phạm trù ngữ nghĩa. 3.2.3. Các phạm trù ngữ nghĩa của thuật ngữ máy xây dựng 3.2.3.1. Cơ sở phân loại Thuật ngữ phái sinh là các đơn vị có thể phân tách được các thành phần cấu tạo của chúng và trong thành phần cấu tạo của chúng gồm có 2 thành phần: chính (đứng trước, mang tính khái quát) và phụ (đứng sau, cụ thể hóa, khu biệt ý nghĩa cho ngữ tố chính). Tương ứng với hai thành phần này về mặt ngữ nghĩa chính là phần chỉ loại và phần chỉ các đặc trưng khu biệt. Do đó, để xem xét việc quy loại khái niệm của thuật ngữ máy xây dựng, chúng tôi dựa trên nội dung biểu đạt của thành phần chính trong mỗi thuật ngữ. Các
  • 68.
    62 thuật ngữ cóthành phần chính biểu thị cùng một nội dung khái niệm giống nhau thì chúng sẽ được quy loại ở cùng một phạm trù. 3.2.3.2. Các phạm trù Qua nghiên cứu các công trình [115], [116], [121], [122], [123], [124], [125], [126], [128] chúng tôi đã xác định được 7 phạm trù nội dung ngữ nghĩa: hoạt động, thiết bị, bộ phận, đặc tính kỹ thuật, thời gian, số liệu - chi phí, nhiên liệu - bôi trơn, mát và đây cũng là các phạm trù ngữ nghĩa tiêu biểu, thể hiện rõ nhất các lĩnh vực chuyên môn sâu của ngành kỹ thuật máy xây dựng. Các thuật ngữ có thành tố chính biểu thị cùng một nội dung khái niệm sẽ tạo thành một nhóm. Tạo sự khu biệt giữa các thuật ngữ trong nhóm là chức năng của các thành tố phụ. Hay nói cách khác, thành tố phụ chuyển tải đặc trưng khu biệt được lựa chọn làm cơ sở định danh cho mỗi thuật ngữ. Chúng tôi sẽ lần lượt phân tích các đặc trưng khu biệt được lựa chọn để làm cơ sở định danh cho mỗi thuật ngữ, từ đó xây dựng mô hình định danh của các thuật ngữ biểu đạt cùng một nội dung khái niệm. 3.2.4. Các đặc trưng được lựa chọn làm cơ sở định danh thuật ngữ máy xây dựng 3.2.4.1. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ hoạt động trong lĩnh vực máy xây dựng Hoạt động trong lĩnh vực máy xây dựng bao gồm tháo lắp, sửa chữa, bảo dưỡng cũng như các hoạt động lập kế hoạch, hoạt động của các thiết bị, cơ cấu có liên quan đến máy xây dựng. Nhóm này có 65 thuật ngữ và cùng chung mô hình: Hoạt động + đặc trưng được chọn Các đặc trưng được chọn để định danh nhóm thuật ngữ này gồm 5 loại đặc trưng. Các thuật ngữ chỉ các hoạt động trong ngành máy xây dựng được tạo ra theo các mô hình định danh sau: Mô hình 1: Hoạt động + cách thức Đặc trưng mô hình này có 32 thuật ngữ. Ví dụ: Truyền động bánh răng, sàng sơ bộ, sửa chữa không lắp lẫn…
  • 69.
    63 Mô hình 2:Hoạt động + tính chất Mô hình này có 12 thuật ngữ. Ví dụ: sàng thô, sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ, chẩn đoán chính xác, trộn tự động… Mô hình 3: Hoạt động + thời gian Mô hình này có 9 thuật ngữ. Ví dụ: làm việc theo chu kỳ, bảo dưỡng kỹ thuật định kỳ, sửa chữa thường xuyên ,… Mô hình 4: Hoạt động + đối tượng Mô hình này có 7 thuật ngữ. Ví dụ: bốc xếp hàng hóa, bốc hơi nhiên liệu, đo áp suất, sàng sản phẩm,… Mô hình 5: Hoạt động + vị trí Mô hình này có 5 thuật ngữ. Ví dụ: vận chuyển trên băng, di chuyển theo phương ngang, vận chuyển trong ống kín… 3.2.4.2. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ các thiết bị Thuật ngữ chỉ thiết bị có 87 đơn vị, chọn 8 loại đặc trưng để làm cơ sở định danh. Trong đó, hình thức và chức năng là hai loại đặc trưng được sử dụng nhiều nhất để làm cơ sở gọi tên các thiết bị. Nhóm này có cùng một mô hình khái quát: Thiết bị + đặc trưng được chọn Các loại đặc trưng được chủ thể lựa chọn để định danh nhóm thuật ngữ này theo các mô hình định danh sau: Mô hình 1: Thiết bị + hình thức Mô hình này có 24 thuật ngữ. Ví dụ: máy bơm dầu kiểu bánh răng, cần cẩu tháp, máy bơm bê tông vòi voi, … Mô hình 2: Thiết bị + chức năng Mô hình này có 22 thuật ngữ. Ví dụ: máy ổn định nền móng, máy phun bê tông, máy rải nhựa đường átphan, xe sửa chữa điện, máy trộn bê tông… Mô hình 3: Thiết bị + tính chất Mô hình này có 16 thuật ngữ. Ví dụ: Máy bơm bê tông đa năng, máy sàng rung vô hướng, máy xúc gầu ngược, máy trộn cưỡng bức…
  • 70.
    64 Mô hình 4:Thiết bị + năng lượng hoạt động Mô hình này có 8 thuật ngữ. Ví dụ: máy nâng động cơ điện, máy nâng động cơ điezen, máy đóng cọc điezen … Mô hình 5: Thiết bị + nguyên lýhoạt động Mô hình này có 6 thuật ngữ. Ví dụ: máy đầm nền rung, máy đầm dùi, máy lu rung, máy sàng rung … Mô hình 6: Thiết bị + cách thức Mô hình này có 6 thuật ngữ. Ví dụ: máy xúc đào thủy lực, máy vét gầu ngoạm, máy đóng ván cừ thủy lực, … Mô hình 7: Thiết bị + vị trí Mô hình này có 5 thuật ngữ. Ví dụ: máy đào thủy lực gắn trên giàn, máy đào vét đặt trên cầu phao, cần cẩu đặt trên ô tô, … Mô hình 8: Thiết bị + bộ phận cấu tạo Mô hình này có 2 thuật ngữ. Ví dụ: máy lu ba quả lu, máy khoan hai cần. 3.2.4.3. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ các bộ phận Nhóm này có số lượng thuật ngữ tương đối lớn với 216 đơn vị. Mô hình định danh khái quát của nhóm này là : Bộ phận + đặc trưng được chọn Các đặc trưng được chủ thể lựa chọn để định danh nhóm thuật ngữ này theo các mô hình định danh sau: Mô hình 1: Bộ phận + chức năng Mô hình này có số lượng thuật ngữ lớn với 51 đơn vị. Ví dụ: bộ cảm biến tốc độ, van phân phối, van giới hạn áp suất, nắp đậy bảo vệ máy, mô tơ cánh quạt làm mát két nước, bộ lọc áp suất nạp… Mô hình 2: Bộ phận + tính chất Đây là mô hình định danh của 29 thuật ngữ. Ví dụ: bánh cứng trơn, phanh phụ, búa rung nối cứng, búa rung nối mềm, khớp nối bù, bánh đai chủ động, cầu chủ động… Mô hình 3: Bộ phận + đối tượng
  • 71.
    65 Mô hình nàycó 26 thuật ngữ. Ví dụ: máng trượt xả bê tông, khung gá động cơ, công tắc tắt nhiên liệu, ống dẫn xăng, lọc nhiên liệu… Mô hình 4: Bộ phận + cách thức Có 22 thuật ngữ được định danh theo mô hình này. Ví dụ: động cơ khí nén, bơm thủy lực, kích thủy lực, động cơ tua bin khí, bơm nhiên liệu bằng điện… Mô hình 5: Bộ phận + vị trí Mô hình tạo ra 18 thuật ngữ. Ví dụ: động cơ kiểu xi lanh xếp nằm ngang, bơm píttông hướng trục, ống dẫn nhiên liệu xuống thùng, gương chiếu hậu, động cơ đặt phía trước, bộ vi sai trung tâm,… Mô hình 6: Bộ phận + số lượng Mô hình này có 17 thuật ngữ. Ví dụ: van bi một chiều, động cơ disel bốn kỳ, hộp giảm tốc hai cấp, tời một tang, mô tơ bốn xi lanh, động cơ năm xi lanh, động cơ piston đôi,… Mô hình 7: Bộ phận + hình thức Cũng có 17 thuật ngữ được định danh theo mô hình này. Ví dụ: động cơ đầu chữ F, khớp nối chặt kiểu đĩa, ly hợp ma sát hình trụ, động cơ chữ V, bánh răng hình nón, băng tải hình máng, … Mô hình 8: Bộ phận + cấu tạo Mô hình này có 15 thuật ngữ. Ví dụ: tời có tang ma sát, bơm có cánh bên ngoài, lốp không gờ, lốp không xăm, bánh có vấu,… Mô hình 9: Bộ phận + hoạt động Mô hình này tạo ra 10 thuật ngữ. Ví dụ: động cơ dẫn động cơ cấu quay, van thường đóng, bánh răng gài số, thiết bị tựa quay, tang căng băng, … Mô hình 10: Bộ phận + cách thức hoạt động Mô hình này có 9 thuật ngữ. Ví dụ: búa rung kết hợp với va đập, mô tơ không thể thay đổi lưu lượng, bộ phận tách nhiên liệu, búa va rung, búa xung kích, … Mô hình 11: Bộ phận + vật liệu Mô hình này có duy nhất 1 thuật ngữ: pa lăng cáp
  • 72.
    66 3.2.4.4. Đặc trưngđịnh danh thuật ngữ đặc tính kỹ thuật máy xây dựng Nhóm này có số lượng thuật ngữ không nhiều, gồm 94 đơn vị. Mô hình định danh khái quát của nhóm này là : Đặc tính kỹ thuật + đặc trưng được chọn Các đặc trưng được chủ thể lựa chọn để định danh nhóm thuật ngữ này theo các mô hình định danh sau: Mô hình 1: Đặc tính kỹ thuật + đối tượng Đây là mô hình có số lượng thuật ngữ nhiều nhất: 47 thuật ngữ, như: kích thước toàn bộ máy, thể tích xy lanh, dung tích gầu, đường kính piston, chiều cao bàn ủi,… Mô hình 2: Đặc tính kỹ thuật + hoạt động Mô hình tạo ra 18 thuật ngữ. Ví dụ: lực điều khiển tốc độ, tốc độ nâng vật, trọng lượng vận hành, xác suất sửa chữa, tải trọng nâng,… Mô hình 3: Đặc tính kỹ thuật + tính chất Đây là mô hình định danh của 13 thuật ngữ. Ví dụ: các thông số kỹ thuật chính, mạch kín cơ bản, thông số cơ bản, hệ thống bảo dưỡng tự động… Mô hình 4: Đặc tính kỹ thuật + vị trí Mô hình này có 6 thuật ngữ. Ví dụ như: lực ép xuống, tiết diện ngang, áp lực tiếp đất,… Mô hình 5: Đặc tính kỹ thuật + mức độ Mô hình này có 5 thuật ngữ. Ví dụ: lực kéo lớn nhất, mômem xoắn lớn nhất, khoảng cách gầm nhỏ nhất, lượng năng lượng tiêu hao ít,… Mô hình 6: Đặc tính kỹ thuật + cách thức Mô hình này tạo ra 4 thuật ngữ. Ví dụ như: hệ thống điều khiển thủy lực, hệ thống lái trợ lực, … Mô hình 7: Đặc tính kỹ thuật + cấu tạo Mô hình này duy nhất chỉ sản sinh ra 1 thuật ngữ là: sơ đồ mạch khép kín.
  • 73.
    67 3.2.4.5. Đặc trưngđịnh danh thuật ngữ chỉ thời gian Nhóm này có số lượng thuật ngữ khá ít, gồm 13 đơn vị. Mô hình định danh khái quát của nhóm này là : Thời gian + đặc trưng được chọn Các đặc trưng được chủ thể lựa chọn để định danh nhóm thuật ngữ này theo các mô hình định danh sau: Mô hình 1: Thời gian + hoạt động Mô hình này có lượng thuật ngữ chiếm đa số 9/13 đơn vị. Ví dụ như: chu kỳ bảo dưỡng, thời gian vận chuyển, thời gian vận hành máy, thời gian thi công,… Mô hình 2: Thời gian + hoạt động + tính chất Có một vài thuật ngữ theo mô hình này như: chu kỳ bảo dưỡng kỹ thuật, tổng thời gian bảo dưỡng kỹ thuật, thời gian vận hành liên tục, … Mô hình 3: Thời gian + số lượng + hoạt động Mô hình này có 3 thuật ngữ. Ví dụ: thời gian một lần sửa chữa, thời gian một lần bảo dưỡng, tuổi thọ giữa hai lần sửa chữa,… 3.2.4.6. Đặc trưng định danh thuật ngữ chỉ chi phí- số liệu Nhóm này có số lượng thuật ngữ rất ít, gồm 8 đơn vị. Mô hình định danh khái quát của nhóm này là : Chi phí - số liệu + đặc trưng được chọn Với số lượng ít và cũng chỉ lựa chọn hai đặc trưng để làm cơ sở định danh: Mô hình 1: Chi phí - số liệu + hoạt động Mô hình này có 4 thuật ngữ. Ví dụ : Tổng chi phí sửa chữa, tổng chi phí bảo dưỡng, kinh phí dành cho sửa chữa, kinh phí dành cho bảo dưỡng. Mô hình 2: Chi phí - số liệu + tính chất Có 2 thuật ngữ theo mô hình này như: tổng chi phí sửa chữa nhỏ, tổng chi phí sửa chữa lớn. Mô hình 3: Chi phí - số liệu + thời gian Có 2 thuật ngữ theo mô hình này như: tổng chi phí bảo dưỡng định kỳ, tổng chi phí sửa chữa thường xuyên
  • 74.
    68 3.2.4.7. Đặc trưngđịnh danh thuật ngữ chỉ nhiên liệu - bôi trơn, mát để cung cấp cho máy xây dựng Số lượng thuật ngữ thuộc nhóm này không nhiều, chỉ có 10 đơn vị. Mô hình định danh khái quát của nhóm này là : Nhiên liệu - bôi trơn, mát + đặc trưng được chọn Mô hình 1: Nhiên liệu - bôi trơn, mát + đối tượng Mô hình này sản sinh ra 4 thuật ngữ : dầu động cơ, dầu phanh, dầu hộp số,.. Mô hình 2: Nhiên liệu - bôi trơn, mát + mục đích Mô hình này có 5 thuật ngữ. Ví dụ: dầu bôi trơn, nước làm mát động cơ, nước rửa kính, dầu chạy rà máy,.. Mô hình 3: Nhiên liệu - bôi trơn, mát + tính chất Mô hình này có 1 thuật ngữ: dầu mỡ phụ. 3.2.5. Nhận xét chung về đặc điểm định danh thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt a. Về phạm trù ngữ nghĩa Về mặt phạm trù ngữ nghĩa, đáng chú ý nhất là các phạm trù chỉ bộ phận, đặc tính kỹ thuật vì đây là các phạm trù có số lượng thuật ngữ vượt trội so với các nhóm còn lại. Bảy phạm trù ngữ nghĩa trên đây đã phản ánh tương đối đầy đủ các lĩnh vực chuyên sâu của ngành kĩ thuật máy xây dựng. b. Về đặc trưng khu biệt Để định danh thuật ngữ thuộc các phạm trù này trong lĩnh vực máy xây dựng, có thể nhận thấy 16 loại đặc trưng khu biệt đã được lựa chọn và các loại đặc trưng khu biệt này được sử dụng với mức độ phổ biến khác nhau. Đáng chú ý nhất là loại đặc trưng về chức năng (145 lần ) được sử dụng nhiều nhất. Tiếp đó là các loại đặc trưng về tính chất (98 lần ), cách thức (76 lần ) và hoạt động ( 43 lần ) được sử dụng tương đối nhiều. Chỉ 4 loại đặc trưng này đã xuất hiện ở gần một nửa số lượng thuật ngữ máy xây dựng được khảo sát. Điều này cho thấy rằng, khi định danh các khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực máy xây dựng, nên chú ý đến đặc điểm sự hành chức của chúng. Ngược lại, các loại đặc trưng về số lượng ( 9 lần ), vật liệu (6 lần ), mức độ (5 lần)… hầu như ít được chú ý khi định danh thuật khái
  • 75.
    69 niệm, đối tượngtrong lĩnh vực máy xây dựng, do đó số lượng thuật ngữ sử dụng các loại đặc trưng khu biệt này hầu như không đáng kể. 3.2.6. So sánh đặc điểm định danh giữa thuật ngữ máy xây dựng với thuật ngữ thuộc một số lĩnh vực khác: thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ và thuật ngữ Kĩ thuật xây dựng tiếng Việt Việc so sánh đặc điểm định danh giữa thuật ngữ Máy xây dựng với thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ [56] và thuật ngữ tiếng Việt trong lĩnh vực Xây dựng [31] nhằm mục đích tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa chúng. Trong việc nghiên cứu đặc điểm định danh của thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ và thuật ngữ Kĩ thuật xây dựng, về cơ bản các tác giả cũng đều xem xét trên các phạm trù ngữ nghĩa và các đặc trưng khu biệt. Kết quả cho thấy, thuật ngữ Kĩ thuật xây dựng có 10 phạm trù ngữ nghĩa, trong khi ở lĩnh vực Luật sở hữu trí tuệ con số này là 6 phạm trù, còn ở thuật ngữ Máy xây dựng là 7 phạm trù. Để định danh các phạm trù ngữ nghĩa, ở lĩnh vực Kĩ thuật xây dựng, chủ thể đã sử dụng một hệ thống khá nhiều các loại đặc trưng khu biệt, gồm 30 loại đặc trưng. Còn ở Luật sở hữu trí tuệ chỉ có 8 loại đặc trưng, và ở Máy xây dựng có 16 loại đặc trưng đã được dùng làm cơ sở định danh thuật ngữ. Như vậy, giữa ba loại thuật ngữ tiếng Việt: Máy xây dựng, Luật sở hữu trí tuệ và Kĩ thuật xây dựng có một sự khác biệt về đặc điểm định danh, trong đó thuật ngữ Kĩ thuật xây dựng tiếng Việt là lĩnh vực có phạm vi hoạt động rộng nhất, còn thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ và thuật ngữ Máy xây dựng là hai chuyên ngành hẹp hơn. Sự khác biệt rõ nét nhất trong việc chọn đặc trưng làm cơ sở định danh của thuật ngữ Máy xây dựng so với các ngành khác - đó là đặc trưng về chi tiết, kết cấu, các bộ phận của máy xây dựng . Đây có thể coi là đặc trưng riêng, đặc thù của ngành máy xây dựng. Tuy nhiên, đặc trưng mang tính phổ quát được chọn nhiều nhất để định danh trong lĩnh vực thuật ngữ Máy xây dựng, Luật sở hữu trí tuệ và Kĩ thuật xây dựng đều là đặc trưng về chức năng hoạt động (ở Luật sở hữu trí tuệ tác giả gọi là lĩnh vực hoạt động được phép nhưng có thể khái quát thành đặc trưng về chức năng hoạt động). Đây là điểm tương đồng lớn nhất của cả ba hệ thống thuật ngữ này. Kết
  • 76.
    70 quả này cungcấp thêm một chứng cớ khẳng định sự khác biệt giữa việc định danh đối tượng thuộc lĩnh vực máy xây dựng nói riêng và trong các lĩnh vực khoa học, chuyên môn nói chung với việc định danh các đối tượng thuộc đời sống thông thường. So sánh với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Tồn [86, tr.203- tr.309] về đặc trưng được chọn làm cơ sở định danh của một số lớp từ vựng cơ bản trong tiếng Việt (trường từ vựng chỉ bộ phận cơ thể người, động thực vật) có thể nhận thấy rằng trong quá trình định danh các đối tượng thuộc về đời sống thông thường này, đặc trưng về hình thức/ hình dạng lại là đặc trưng được chú ý nhiều nhất bởi vì “đó là những đặc trưng dễ được tiếp nhận một cách rõ ràng nhất bằng thị giác, đúng theo nghĩa đen của từ như đã nói “những đặc trưng “đập vào mắt mà tôi lấy làm đại diện cho đối tượng” [86, tr.286]. Còn trong cách định danh sự vật, đối tượng thuộc lĩnh vực máy xây dựng cũng như trong các lĩnh vực chuyên môn khác thì người ta lại không quan tâm nhiều đến hình dáng bên ngoài của chúng. Điều mà họ quan tâm nhất là sự hoạt động và chức năng của chúng. Kết luận chương 3 Đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt được trình bày trong chương này theo các phương diện: con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng, đặc điểm định danh của các thuật ngữ - đơn vị định danh tổng hợp tính và đặc điểm định danh của các thuật ngữ - đơn vị định danh miêu tả. 1. Dựa trên nguồn tư liệu thực tế và sự tổng kết về mặt lí luận, chúng tôi đã xác định được có 5 con đường hình thành thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt: 1. Thuật ngữ hóa từ thông thường; 2. Vay mượn thuật ngữ nước ngoài (ngôn ngữ Ấn Âu) bằng cách giữ nguyên dạng; 3. Vay mượn thuật ngữ nước ngoài bằng cách phiên âm; 4. Sao phỏng thuật ngữ nước ngoài; 5. Ghép lai. Sao phỏng là con đường chủ đạo trong việc xây dựng và làm giàu vốn thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Còn số thuật ngữ máy xây dựng vay mượn theo lối giữ nguyên dạng và phiên âm chỉ chiếm tỉ lệ thấp và đây chủ yếu là các thuật ngữ được vay mượn từ tiếng Pháp và hầu như đã được Việt hóa.
  • 77.
    71 2. Dựa theonội dung các lĩnh vực chuyên môn sâu, luận văn phân loại thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt thành 7 phạm trù tức 7 tiểu hệ thống lớn nhỏ khác nhau và có những miêu tả, thống kê cần thiết ở mỗi tiểu hệ thống. Kết quả phân loại đã phản ánh sự phong phú cũng như tính hệ thống cao của hệ thuật ngữ máy xây dựng. Thông qua sự phân loại này, có thể thấy thuật ngữ máy xây dựng là những từ ngữ chuyên môn phản ánh các khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực máy xây dựng. 3. Đặc điểm định danh thuật ngữ máy xây dựng là vấn đề trọng tâm của chương ba và được chúng tôi xem xét thông qua: các đơn vị định danh, phạm trù ngữ nghĩa và đặc trưng khu biệt. Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là các đơn vị định danh phái sinh và đây cũng chính là các đơn vị có thể phân tách được các thành phần cấu tạo, điều đó giúp ta thấy được rõ lí do của tên gọi –thuật ngữ. Như vậy tính phân tích và rõ lí do là đặc trưng nổi bật của thuật ngữ máy xây dựng. Như đã trình bày ở trên, các thuật ngữ máy xây dựng thuộc 7 phạm trù ngữ nghĩa và lựa chọn 16 loại đặc trưng khu biệt để làm cơ sở định danh. Trong số 16 loại đặc trưng khu biệt thì loại đặc trưng chức năng được xuất hiện trong các thuật ngữ với số lượng lớn nhất. Qua kết quả trên có thể nhận thấy thuật ngữ máy xây dựng có phạm trù ngữ nghĩa không rộng lắm, nhưng các loại đặc trưng khu biệt đã được lựa chọn làm cơ sở định danh khi đặt thuật ngữ lại khá phong phú. Đây cũng là điểm làm nên sự tương đồng và cả khác biệt giữa đặc điểm định danh của thuật ngữ máy xây dựng so với việc định danh các sự vật, hiện tượng thông thường trong đời sống cũng như so với đặc điểm định danh của một số hệ thuật ngữ tiếng Việt khác như Luật sở hữu trí tuệ và Kĩ thuật xây dựng.
  • 78.
    72 KẾT LUẬN Ngành máyxây dựng của Việt Nam hiện nay có những thành tựu phát triển mạnh mẽ, giải phóng đáng kể sức lao động cho con người, trong tương lai có thể đủ sức cạnh tranh trong thị trường hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ đó thì hệ thống thuật ngữ máy xây dựng cũng có sự phát triển không ngừng. Tuy nhiên, việc sử dụng các thuật ngữ này trong thực tế còn chưa được thống nhất, khoa học. Do đó, chúng tôi đã đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu đặc điểm về cấu tạo, định danh của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt để từ đó chỉ ra hiện trạng cụ thể của chúng. Việc làm rõ các đặc điểm của thuật ngữ máy xây dựng sẽ góp phần vào quá trình xây dựng, định hướng chuẩn hóa hệ thống thuật ngữ này nói riêng và hệ thống thuật ngữ tiếng Việt nói chung, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của một ngành khoa học công nghệ đầy tiềm năng trong quá trình hội nhập. 1. Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, chúng tôi đã hệ thống hóa, phân tích các quan điểm về thuật ngữ, tiêu chuẩn của thuật ngữ, phân biệt thuật ngữ với các đơn vị ngôn ngữ có liên quan: danh pháp, từ nghề nghiệp. Từ đó chúng tôi quan niệm rằng: thuật ngữ là từ hoặc cụm từ biểu hiện khái niệm, thuộc tính, đối tượng, sự vật, hiện tượng… thuộc một lĩnh vực khoa học hay chuyên môn . Thuật ngữ có các tiêu chuẩn thuộc về bản thể, đó là: tính khoa học ( được hiểu là có tính chính xác, hệ thống, ngắn gọn) và tính quốc tế; thuật ngữ cũng có những tiêu chuẩn không thuộc về bản thể, đó là: tính dân tộc, tính đại chúng. Từ định nghĩa cùng với những tiêu chuẩn này, có thể phân biệt được thuật ngữ với danh pháp và từ nghề nghiệp. Cùng với cơ sở lý luận về thuật ngữ, chúng tôi đã xác định khái niệm thuật ngữ máy xây dựng làm cơ sở cho việc nghiên cứu: Thuật ngữ máy xây dựng là những từ ngữ gọi tên khái niệm, sự vật, hiện tượng, quá trình hoạt động, trạng thái, chi tiết, quan hệ…trong lĩnh vực máy xây dựng. 2. Các thuật ngữ máy xây dựng có thể được hình thành qua những con đường sau: thuật ngữ hóa từ thông thương (số lượng không nhiều), cấu tạo mới bằng cách sao phỏng thuật ngữ nước ngoài. Sao phỏng thuật ngữ nước ngoài là con đường chủ đạo trong việc xây dựng và làm giàu vốn thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt. Các
  • 79.
    73 thuật ngữ máyxây dựng tiếng Việt có thể là những thuật ngữ được vay mượn từ ngôn ngữ Ấn Âu theo lối phiên âm hoặc giữ nguyên dạng. Số lượng thuật ngữ loại này chỉ chiếm tỉ lệ thấp và đây chủ yếu là các thuật ngữ được vay mượn từ tiếng Pháp và hầu như đã được Việt hóa. 3. Trên cơ sở phân tích 798 thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, luận văn miêu tả đặc điểm cấu tạo của chúng với 2 tiểu loại: thuật ngữ có cấu tạo là từ và thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ. Thuật ngữ có cấu tạo là từ chiếm 37,8% (302/798 thuật ngữ). Trong đó số thuật ngữ là từ đơn tiết chiếm 24,2 % và thuật ngữ là từ đa tiết chiếm 75,8%. Các thuật ngữ đơn tiết chủ yếu là thuần Việt. Các thuật ngữ đa tiết gồm 3 tiểu loại: thuật ngữ là từ ghép chính phụ, thuật ngữ là từ ghép đẳng lập và thuật ngữ là từ ghép ngẫu hợp. Trong đó 75% thuật ngữ đa tiết là từ ghép chính phụ có mô hình cấu tạo chủ yếu là thành tố chính đứng trước, thành tố phụ đứng sau. Về mặt từ loại, thuật ngữ máy xây dựng chủ yếu là danh từ /cụm danh từ và động từ/cụm động từ gọi tên các chi tiết kết cấu, các loại máy móc và các hoạt động thi công, vận hành trong ngành. Về nguồn gốc của thuật ngữ và các đơn vị cấu tạo thuật ngữ (tức ngữ tố), có thể nhận thấy có sự tham gia của cả 3 loại đơn vị: thuần Việt, Hán Việt và Ấn Âu. Trong đó, tuyệt đại đa số (81,6%) các thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ ghép thuần chủ yếu được tạo ra bởi các ngữ tố thuần Việt, sau đó là loại ghép lai do các ngữ tố thuần Việt và Hán Việt tạo thành theo quan hệ chính - phụ. Đây là đặc điểm tương đối khác biệt của hệ thuật ngữ máy xây dựng so với một số hệ thuật ngữ khác, chẳng hạn, thuật ngữ trong Luật sở hữu trí tuệ, thuật ngữ trong lĩnh vực Kĩ thuật xây dựng... Các thuật ngữ máy xây dựng có cấu tạo là cụm từ chiếm 62,2%. Dựa trên số lượng ngữ tố tham gia cấu tạo thuật ngữ, chúng được chia thành các nhóm: thuật ngữ hai ngữ tố; thuật ngữ ba ngữ tố; thuật ngữ bốn ngữ tố; thuật ngữ năm ngữ tố. Trong đó, thuật ngữ gồm hai hoặc ba ngữ tố chiếm số lượng lớn nhất. Thuật ngữ có từ bốn ngữ tố trở lên chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ. Về mặt từ loại, thuật ngữ máy xây dựng chủ yếu là danh từ hoặc cụm danh từ (86,9 %). Số thuật ngữ là động từ hoặc cụm động từ chỉ chiếm 13,1 %, và không có thuật ngữ là cụm tính từ. Về
  • 80.
    74 nguồn gốc củacác ngữ tố cấu tạo thuật ngữ là cụm từ, thì được sử dụng nhiều nhất vẫn là ngữ tố thuần Việt, sau đó là ngữ tố Hán Việt và cuối cùng là các ngữ tố Ấn Âu. Sự kết hợp của các ngữ tố này rất phong phú. Bên cạnh các thuật ngữ được tạo ra từ các ngữ tố cùng loại kết hợp với nhau (thuần Việt+thuần Việt, Hán Việt+Hán Việt; Ấn Âu+Ấn Âu), còn có nhiều thuật ngữ máy xây dựng được tạo bởi ghép lai bằng sự kết hợp của các ngữ tố khác nguồn gốc với các kiểu trật tự khác nhau: thuần Việt + Hán Việt, thuần Việt +Ấn Âu, Hán Việt +thuần Việt, Hán Việt+Ấn Âu, Ấn Âu + thuần Việt, Ấn Âu + Hán Việt, thuần Việt +Hán Việt + Ấn Âu, Hán Việt + Ấn Âu+ thuần Việt, Ấn Âu + thuần Việt + Hán Việt, Ấn Âu+ Hán Việt + thuần Việt. Về cấu tạo, đa số thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt là từ ghép hoặc cụm từ được cấu tạo chủ yếu theo mô hình chính phụ: ngữ tố chính đứng trước, ngữ tố hoặc tổ hợp ngữ tố phụ đứng sau. Chính mô hình cấu tạo phổ biến này đã làm nên tính hệ thống về cấu tạo của thuật ngữ máy xây dựng nói riêng, thuật ngữ khoa học tiếng Việt nói chung. 4. Trên cơ sở phân tích 798 thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt, chúng tôi đã xác định được 7 phạm trù nội dung ngữ nghĩa: hoạt động, thiết bị, bộ phận, đặc tính kỹ thuật, thời gian, số liệu - chi phí, nhiên liệu - bôi trơn, mát, đây cũng là các phạm trù ngữ nghĩa tiêu biểu, thể hiện rõ nhất các hoạt động của ngành kỹ thuật máy xây dựng. Để định danh thuật ngữ thuộc các phạm trù này trong lĩnh vực máy xây dựng, 16 loại đặc trưng khu biệt đã được lựa chọn và các loại đặc trưng khu biệt này được sử dụng với mức độ phổ biến khác nhau, trong đó loại đặc trưng chức năng được sử dụng nhiều nhất. Tiếp đó là các loại đặc trưng tính chất và cách thức hoạt động cũng được sử dụng nhiều. Chỉ 3 loại đặc trưng này đã xuất hiện ở gần một nửa số lượng thuật ngữ máy xây dựng được khảo sát. Điều này cho thấy rằng, khi định danh các khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực máy xây dựng, nên chú ý đến đặc điểm sự hành chức của chúng. Ngược lại, các loại đặc trưng về số lượng, vật liệu và mức độ hầu như ít được chú ý khi định danh khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực máy xây dựng, do đó số lượng thuật ngữ sử dụng các loại đặc trưng khu biệt này hầu như không đáng kể. Kết quả nghiên cứu nêu trên cho thấy thuật
  • 81.
    75 ngữ máy xâydựng có phạm trù ngữ nghĩa không rộng lắm nhưng các loại đặc trưng khu biệt được lựa chọn làm cơ sở định danh lại khá phong phú và đa dạng. 5. So sánh ba loại thuật ngữ tiếng Việt: Máy xây dựng, Luật sở hữu trí tuệ và Kĩ thuật xây dựng có thể nhận thấy có một sự khác biệt về đặc điểm định danh, trong đó thuật ngữ Kĩ thuật xây dựng tiếng Việt là lĩnh vực có phạm vi hoạt động rộng nhất, còn thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ và thuật ngữ Máy xây dựng là hai chuyên ngành hẹp hơn. Sự khác biệt rõ nét nhất trong việc chọn đặc trưng làm cơ sở định danh của thuật ngữ máy xây dựng so với các ngành khác đó là đặc trưng về chi tiết, kết cấu, các bộ phận của máy xây dựng. Đây có thể coi là đặc trưng riêng, đặc thù của ngành máy xây dựng. Tuy nhiên, đặc trưng mang tính phổ quát được chọn nhiều nhất để định danh trong lĩnh vực thuật ngữ Máy xây dựng, Luật sở hữu trí tuệ và Kĩ thuật xây dựng đều là loại đặc trưng chức năng hoạt động. Đây là điểm tương đồng lớn nhất của cả ba hệ thống thuật ngữ này. Kết quả này cung cấp thêm một chứng cớ khẳng định sự khác biệt giữa việc định danh đối tượng thuộc lĩnh vực máy xây dựng nói riêng và trong các lĩnh vực khoa học, chuyên môn nói chung với việc định danh các đối tượng thuộc đời sống thông thường: trong quá trình định danh các đối tượng thông thường thuộc về đời sống, loại đặc trưng hình thức/ hình dạng được chú ý nhiều nhất. Còn trong việc định danh sự vật, đối tượng thuộc lĩnh vực máy xây dựng cũng như trong các lĩnh vực chuyên môn khác thì người ta lại không quan tâm nhiều đến hình dáng bên ngoài của chúng. Cái được quan tâm nhất là chức năng của chúng. Trên đây là những kết quả nghiên cứu mà chúng tôi đã đạt được. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ mà chúng tôi chưa có điều kiện đề cập đến như: - Tác động của các nhân tố xã hội lên sự hình thành, phát triển của thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt - Thuật ngữ máy xây dựng tiếng Việt trong thực tế sử dụng - Chuẩn hóa các thuật ngữ máy xây dựng. … Chúng tôi hy vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu mở rộng trong các công trình nghiên cứu trong tương lai.
  • 82.
    76 TÀI LIỆU THAMKHẢO I. TIẾNG VIỆT 1. Belakhov L.Iu, Những vấn đề tiêu chuẩn hóa Nhà nước về thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch) 2. Budagov R. A. (1976), Thuật ngữ học và kí hiệu học trong cuốn Con người và ngôn ngữ của họ, Nxb. Trường Đại học tổng hợp Matxcơva, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Tuấn Tài dịch). 3. Nguyễn Thạc Cát (1980), Về vấn đề thuật ngữ khoa học tiếng Việt gốc Âu, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, H. 4. Nguyễn Tài Cẩn (2000), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nội, H. 5. Nguyễn Tài Cẩn (1981), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. ĐH & THCN, H. 6. Nguyễn Tài Cẩn (chủ biên) (1981), Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam, Nxb. ĐH&THCN, H. 7. Chafe W.L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb. Giáo dục, H. 8. Đỗ Hữu Châu (1996), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H. 9. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb. Giáo dục, H. 10. Đỗ Hữu Châu (1997), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb. ĐH QGHN, H. 11. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1997), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H. 12. Hồng Dân (1981), Về việc chuẩn hóa từ chuyên danh / Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam, Nxb ĐH&THCN, H. 13. Danilenko V. P., Về biến thể ngắn của thuật ngữ (Vấn đề đồng nghĩa trong thuật ngữ học), Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Lê Xuân Thại dịch). 14. Vũ Cao Đàm (2007), Giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. Giáo dục, H. 15. Đinh Văn Đức (1980), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb. ĐH & THCN, H.
  • 83.
    77 16. Nguyễn ThiệnGiáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục, H. 17. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H. 18. Nguyễn Thị Hà (2008), Tìm hiểu về cách sử dụng thuật ngữ trong các văn bản pháp luật, Tài liệu Hội thảo tư vấn: Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hội nhập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam – Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, H. 19. Nguyễn Thị Bích Hà (2000), So sánh cách cấu tạo thuật ngữ kinh tế thương mại trong tiếng Nhật và tiếng Việt hiện đại, luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐH KHXH&NV, Đại học Quốc Gia Hà Nội, H. 20. Nguyễn Thị Bích Hà (2004), Đặc điểm cấu tạo thuật ngữ thương mại Nhật – Việt, Nxb. KHXH, H. 21. Hoàng Xuân Hãn (1948), Danh từ khoa học (1.Toán, lý, hóa, cơ, thiên văn), Khoa học tùng thư, Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn. 22. Hoàng Văn Hành (1983), Về sự hình thành và phát triển thuật ngữ tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, H. 23. Hoàng Văn Hành (1988), Về cơ chế cấu tạo các đơn vị định danh bậc hai trong các ngôn ngữ đơn lập / Những vấn đề ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, Nxb. KHXH, H. 24. Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1991), Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng, Nxb. KHXH, H. 25. Vũ Quang Hào (1991), Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt, đặc điểm cấu tạo thuật ngữ quân sự, luận án Phó Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, H. 26. Vũ Quang Hào (1993), Thuật ngữ quân sự tiếng Việt, Nxb Quân đội nhân dân, H. 27. Phạm Văn Hảo (2003), Nghiên cứu về từ ngữ nghề nghiệp tiếng Hải Phòng, Những vấn đề ngôn ngữ học - Kỉ yếu Hội nghị khoa học Viện Ngôn ngữ học, Nxb. KHXH, H.
  • 84.
    78 28. Harris Z.S. (2001), Các phương pháp của ngôn ngữ học cấu trúc, Nxb. Giáo dục, Tp HCM. 29. Trần Thị Hiền (2002), Sự thâm nhập giữa thuật ngữ chuyên môn và lớp từ vựng của ngôn ngữ toàn dân / Những vấn đề ngôn ngữ học, Phòng Thông tin ngôn ngữ học, H. 30. Nguyễn Văn Hiệp (2010), Câu đặc biệt trong tiếng Việt nhìn từ lí thuyết điển mẫu (protopyte), Tạp chí Ngôn ngữ, số 6, H. 31. Vũ Thị Thu Huyền (2012), Thuật ngữ khoa học kĩ thuật xây dựng trong tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện KHXH, H. 32. John Lyons (2009), Ngữ nghĩa học dẫn luận, Nxb. Giáo dục, H. 33. Đỗ Huy, Trường Lưu (1990), Bản sắc dân tộc của văn hóa, Viện Văn hóa. 34. Kandelaki T. L., Hệ thống khái niệm khoa học và hệ thống thuật ngữ, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Dương Kỳ Đức dịch). 35. Kapanadze L. A. (1965), Về những khái niệm “thuật ngữ” và “hệ thống thuật ngữ”, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Trần Thị Tuyên dịch) 36. Kasevich V. B. (1998), Những yếu tố cơ bản của Ngôn ngữ học đại cương, Nxb. Giáo dục, H. 37. Lê Khả Kế (1967), Xây dựng hệ thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt / Tiếng Việt và dạy đại học bằng tiếng Việt, Nxb. KHXH, H. 38. Lê Khả Kế (1975), Về một vài vấn đề trong việc xây dựng thuật ngữ khoa học ở nước ta, Tạp chí Ngôn ngữ số 3, H. 39. Lê Khả Kế (1979), Về vấn đề thống nhất và chuẩn hóa thuật ngữ khoa học tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 3+4 (41), H. 40. Lê Khả Kế (1984), Chuẩn hóa thuật ngữ khoa học tiếng Việt / Chuẩn hóa chính tả và thuật ngữ, Nxb. Giáo dục, H. 41. Nguyễn Văn Khang (2000), Chuẩn hóa thuật ngữ nhìn từ bối cảnh xã hội, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, H. 42. Nguyễn Văn Khang (2000), Những vấn đề đặt ra đối với việc xử lí từ ngữ nước ngoài trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, H.
  • 85.
    79 43. Nguyễn VănKhang (2008), Những vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ và chuẩn hóa tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 12, H. 44. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H. 45. Nguyễn Thúy Khanh (2002), Ảnh hưởng của các nhân tố xã hội tới sự phát triển và sự hành chức của các từ mới trong tiếng Việt / Những vấn đề ngôn ngữ học, Phòng Thông tin Ngôn ngữ học, H. 46. Klimoviskij J. A. A., Thuật ngữ và tính chế ước của định nghĩa khái niệm trong hệ thống, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch). 47. Kogotkova T. X. (1971), Lịch sử hình thành hệ thống thuật ngữ chính trị, xã hội, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch, Tuấn Tài hiệu đính). 48. Kutina L.L., Những quá trình ngôn ngữ xuất hiện khi hình thành các thuật ngữ khoa học, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học 49. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, H. 50. Lưu Vân Lăng (1977), Vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học / Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học, Nxb. KHXH, H. 51. Lưu Vân Lăng (1977), Thống nhất quan niệm về tiêu chuẩn của thuật ngữ khoa học, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, H. 52. Lưu Vân Lăng, Như Ý (1977), Tình hình và xu hướng phát triển thuật ngữ tiếng Việt trong mấy chục năm qua, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, H. 53. Lưu Vân Lăng (1998), Ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb. KHXH, H. 54. Hồ Lê (2003), Cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb. KHXH, H. 55. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam – Hội Ngôn ngữ học Việt Nam (tháng 12/2008), Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hội nhập (Tài liệu Hội thảo tư vấn), H. 56. Mai Thị Loan (2012), Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa thuật ngữ sở hữu trí tuệ tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ, H. 57. Lotte D.S, Nguyên lí xây dựng hệ thuật ngữ khoa học kĩ thuật, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Hoàng Lộc dịch)
  • 86.
    80 58. Nguyễn VănLợi (2010), "Những vấn đề lí luận trong thuật ngữ học ở Liên Bang Nga, Từ điển học & Bách khoa thư, (6), tr. 21-31. 59. Moixeev A.I., Về bản chất ngôn ngữ của thuật ngữ, Bản dịch của viện Ngôn ngữ học 60. Moixeev A. I., Về việc định nghĩa thuật ngữ trong các loại từ điển, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học 61. Hà Quang Năng (2009), Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nửa sau thế kỉ XX, Nxb. KHXH, H. 62. Hà Quang Năng (2009), Đặc điểm của thuật ngữ tiếng Việt, Từ điển học và Bách khoa thư, số 2, H. 63. Hà Quang Năng (chủ biên) (2012), Thuật ngữ học những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 64. Nhà xuất bản Đại học Huế (1958), Danh từ chuyên khoa trong thuật ngữ, Huế. 65. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (1977), Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học, H. 66. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (1968), Về vấn đề dùng thuật ngữ khoa học nước ngoài, H. 67. Nikiforov V. K., Về tính hệ thống của thuật ngữ, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Nguyễn Trọng Báu dịch). 68. Đái Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn (1984), Ngôn ngữ học: khuynh hướng – lĩnh vực – khái niệm (tập 1), Nxb. Khoa học Xã hội, H. 69. Panfilov V.S (2008), Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H. 70. Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng 71. A.A.Reformaxki, Thế nào là thuật ngữ và hệ thuật ngữ, Bản dịch của Viện ngôn ngữ học, Hồ Anh Dũng dịch; Phan Thị Nguyệt, Hồ Anh Dũng chỉnh lý. 72. F.de Saussure (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb. KHXH, H.
  • 87.
    81 73. Superanskaja A.V., Thuật ngữ và danh pháp, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch). 74. Nguyễn Thị Tân (1981), Thay thế từ vay mượn trong thuật ngữ / Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, t2, Nxb. KHXH, H. 75. Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu (2002), Tiếng Việt trên đường phát triển, Nxb. KHXH, H. 76. Nguyễn Thị Kim Thanh (2005), Khảo sát hệ thuật ngữ tin học – viễn thông tiếng Việt, luận án Tiến sĩ, H. 77. Nguyễn Tất Thắng (2009), Lí thuyết điển mẫu và nhóm động từ ngoại động, Tạp chí Ngôn ngữ, số 7, H. 78. Phạm Tất Thắng (2003), Từ nghề nghiệp và cách nhận diện chúng (Qua tư liệu nghề làm muối ở xã An Hòa, Quỳnh Lưu, Nhệ An), Những vấn đề ngôn ngữ học - Kỉ yếu Hội nghị khoa học Viện Ngôn ngữ học, Nxb. KHXH, H. 79. Lê Quang Thiêm (2004), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb. ĐHQGHN, H. 80. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb. Giáo dục, H. 81. Lê Quang Thiêm (2006), Tầng nghĩa và kiểu nghĩa chức năng từ vựng, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, H. 82. Lê Quang Thiêm (2011), “Về “kho báu” của hệ thống thuật ngữ ngôn ngữ học”, Từ điển học &Bách khoa thư, (6), tr. 8-15. 83. Lê Văn Thới (1981), Về việc tiếp nhận và Việt hóa từ ngữ nước ngoài / Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ, t2, Nxb. KHXH, H. 84. Phạm Văn Tình (2008), Vấn đề tính thống nhất của một hệ thuật ngữ chuyên ngành, Tài liệu Hội thảo tư vấn: Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hội nhập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam – Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, H. 85. Nguyễn Cảnh Toàn (1983), Một số vấn đề xung quanh việc chuẩn hóa chính tả và thuật ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, H.
  • 88.
    82 86. Nguyễn ĐứcTồn (2008), Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb. KHXH, H. 87. Nguyễn Đức Tồn (2011), Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 88. Nguyễn Đức Tồn (2010), “ Các vấn đề khác của chuẩn hoá tiếng Việt”, Những vấn đề thời sự của chuẩn hoá tiếng Việt, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Ngôn ngữ học. 89. Nguyễn Đức Tồn (2011), Một số vấn đề nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt trong thời kì hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, H. 90. Nguyễn Đức Tồn (2001), Cách nhận diện và phân biệt từ thuần Việt với từ Hán Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, H. 91. Nguyễn Đức Tồn (2001), Làm thế nào để xác định được thành tố chính, thành tố phụ trong từ ghép chính phụ, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8, H. 92. Nguyễn Đức Tồn (2003), Cần phân biệt hai bình diện nhận thức và bản thể trong nghiên cứu ngôn ngữ học, Tạp chí Ngôn ngữ, số 11, H. 93. Nguyễn Đức Tồn (2011), Về các phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt từ góc độ nhận thức và bản thể (phần 1,2 ), Tạp chí Ngôn ngữ, số 8, 9, H. 94. Nguyễn Đức Tồn (2010), “Một số vấn đề về nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hoá thuật ngữ Tiếng Việt trong thời kì hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay”, Ngôn ngữ, số 12, tr.1-9. 95. Nguyễn Đức Tồn (chủ nhiệm đề tài) (2012), Nghiên cứu, khảo sát thuật ngữ tiếng Việt phục vụ cho việc xây dựng Luật ngôn ngữ ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Ngôn ngữ học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 96. Tô Bá Trọng (2008), Xây dựng hệ thống thuật ngữ khoa học thống nhất – một yêu cầu bức thiết, Tài liệu Hội thảo tư vấn: Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hội nhập, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam – Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, H. 97. Nguyễn Văn Tu (1960), Khái luận ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục, H.
  • 89.
    83 98. Nguyễn VănTu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb. ĐH&THCN, H. 99. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb. ĐH & THCN, H. 100. Hoàng Mạnh Tuấn (1970), Về công tác tiêu chuẩn hóa thuật ngữ khoa học kĩ thuật”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, H. 101. Hoàng Anh Tuấn (1973), Tiêu chuẩn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, H. 102. Hà Học Trạc (2010), Lịch sử lí luận và thực tiễn phiên chuyển các ngôn ngữ trên thế giới, Nxb. Tri thức, H. 103. Vinokur.G.O (1939), “ Về một số hiện tượng cấu tạo từ trong hệ thuật ngữ kĩ thuật Nga”, Những bài viết về ngôn ngữ học, Nxb, Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô, Moskva. 104. Viện Ngôn ngữ học (2000), Chính sách của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong lĩnh vực ngôn ngữ, H. 105. Xukhov N. K., Công tác có tính chất quốc tế trong lĩnh vực thuật ngữ khoa học kĩ thuật, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch). 106. Nguyễn Như Ý (1992), Về phương thức cấu tạo thuật ngữ trong một số công trình xuất bản tại Việt Nam thời kì 1954 – 1975, Tạp chí Khoa học Xã hội, số 14, H. 107. Nguyễn Như Ý(1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục, H. II. TIẾNG ANH 108. ISO 1087-1: 1920090, Terminology work -– Vocabulary - Part 1: Theory and application) (http://www.iso.org/iso/search.htm?qt=1087&searchSubmit=Search&sort=re l&type=simple&published=on)
  • 90.
    84 109. Maria TeresaCabré, Juan C. Sager, Janet Ann DeCesaris (1999), Terminology : theory, methods and applications, John Benjamins Publishing, Amsterdam. 110. http://books.google.com.vn/books?id=GAqGD9Xtu0IC&printsec=frontcover &dq=terminology.&source=bl&ots=coGewdLrYS&sig=7tIp3kMQdjl7lBjoC Jj0vUAOtqY&hl=vi&ei=KbhkTPfGBYWivgOz9umdCg&sa=X&oi=book_r esult&ct=result&resnum=2&ved=0CCkQ6AEwAQ#v=onepage&q&f=false 111. Bassey Edem Antia (2000), Terminology and Language Planning, (http://www.google.com.vn/books?hl=vi&lr=&id=Zx- 1Txwzvt0C&oi=fnd&pg=PR13&dq=%22terminology+and+language+plann ing%22&ots=LKsmZFrbdk&sig=Z4u_VBoprLMiuu1QC18QsZCqWDo&re dir_esc=y) 112. Sager J.C (1990), Pratical course in terminology processing, (http:books.google.com.vn/books/about/ Pratical course in terminology processing.html?id=Be4nBVIfj0wC&redir_esc=y) 113. Wright S.E, Budin G. (2001), Handbook of Terminology Management, John Benjamins Publishing, Amsterdam. 114. Temmerman R. (2000), Toward new ways of terminology description, John Benjamins Publishing, Amsterdam/Philadelphia III. DANH SÁCH DẪN LIỆU DÙNG TRONG LUẬN VĂN 115. Nguyễn Phước Bình (2004), Giáo trình Máy xây dựng, ĐHBK Đà Nẵng. 116. Nguyễn Hữu Cẩn, Dư Quốc Thịnh, Phạm Minh Thái, Lê Thị Vàng (1998), Lý thuyết ôtô, máy kéo, Nxb Khoa học Và Kỹ thuật, H. 117. Nguyễn Minh Chánh (2005),Từ điển giảithích cácthuậtngữthông dụng vềhợp đồng xây dựng và thi công công trình Anh - Việt, Nxb. Giao thông vận tải, H. 118. Nguyễn Huy Côn (2010), Từ điển bách khoa xây dựng, Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 119. Nguyễn Hạnh, Nguyễn Hải Linh (2003), Từ điển kỹ thuật tổng hợp Anh Việt Nxb. Lao động xã hội, H.
  • 91.
    85 120. Tống PhướcHằng, Tạ Văn Hùng (2004), Từ điển giải thích thuật ngữ cấu trúc bê tông kim loại và kết cấu trong xây dựng Anh - Anh - Việt, Nxb. Giao thông vận tải, H. 121. Đặng Thế Hiển (1991), Máy xây dựng, tập1, 2, Nxb KH và Kỹ thuật, H. 122. Nguyễn Trọng Hiệp (2006), Chi tiết máy, Nxb Giáo dục, H. 123. Nguyễn Văn Hùng (1998), Máy xây dựng, Nxb Khoa học và kỹ thuật, H. 124. Nguyễn Thị Tâm (1997), Máy xây dựng, Trường ĐH Giao thông vận tải, H. 125. Lưu Bá Thuận (2011), Giáo trình Máy xây dựng, Nxb Xây dựng, H. 126. Nguyễn Tất Tiến (2002), Nguyên lí động cơ đốt trong, Nxb Giáo dục, H. 127. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật (1977), Từ điển kỹ thuật tổng hợp Anh - Việt, H. 128. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (1999), Từ điển khoa học tự nhiên và kỹ thuật, H.